Các chuyên gia đồng ý rằng mối đe dọa từ hành vi của Trung Quốc trên Biển Đông không chỉ nằm ở thương mại, Bắc Kinh còn có thể làm suy yếu trật tự thế giới dựa trên luật lệ.
Hội thảo Biển Đông thường niên lần thứ 9 diễn ra ngày 24/7 tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington D.C., Mỹ, đúng thời điểm Việt Nam vừa lên tiếng yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hành vi vi phạm Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) và thềm lục địa Việt Nam.
Việt Nam lần đầu tiên phản đối hành động của nhóm tàu Hải Dương 8 vào ngày 19/7, và lặp lại phản đối vào ngày 25/7.
Trong khi đó, giới quan sát nhận định hành vi của Trung Quốc lần này nhất quán với tham vọng và tuyên bố chủ quyền phi lý của Bắc Kinh ở Biển Đông.
"Các diễn giả của chúng tôi miêu tả một sự đồng thuận đang tăng lên từ các quốc gia của họ về việc các hành động của Trung Quốc, bao gồm hành vi ở Biển Đông, đe dọa những phần cơ bản trong trật tự thế giới dựa trên luật lệ", Gregory Poling, Giám đốc chương trình Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á (AMTI) tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington, Mỹ, nói với Zing.vn.
"Nhưng đúng là họ không thể tìm được sự đồng thuận trong các nước, hoặc trong chính quốc gia của họ, về việc làm thế nào ứng phó mạnh mẽ trước các hành động của Trung Quốc, hay việc họ phải chấp nhận bao nhiêu rủi ro để làm việc đó".
Ý đồ của Trung Quốc
Ian Storey, chuyên gia về Biển Đông tại Viện ISEAS Yusof Ishak (thuộc Đại học Quốc gia Singapore), nói rằng việc đàm phán Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông (COC) giữa ASEAN và Trung Quốc tiến triển có một mặt trái là nó hỗ trợ cho hai diễn ngôn mà Trung Quốc muốn tạo ra trên Biển Đông: Thứ nhất là nó tạo ra cảm giác "mọi thứ vẫn bình yên", thứ hai là các vấn đề của châu Á nên được giải quyết chỉ bởi các nước châu Á.
Các bên liên quan đạt được Văn bản Dự thảo Đàm phán vào tháng 8/2018, dài 19,5 trang A4 và gồm tất cả điều khoản mà các nước tham gia muốn bỏ vào. Văn bản này không được công khai, chỉ bị rò rỉ sau đó, theo ông Storey.
Theo văn bản do giới truyền thông và các chuyên gia tiếp cận được, các bên bất đồng trong nhiều điểm.
Việt Nam muốn yêu cầu các nước ngưng hoạt động xây đảo nhân tạo và quân sự hóa các cơ sở. Việt Nam cũng muốn các nước cam kết không tuyên bố Vùng Nhận diện Phòng không (AIDZ) như Trung Quốc từng làm ở Biển Hoa Đông.
Việt Nam muốn các bên tranh chấp làm rõ tuyên bố của họ dựa trên UNCLOS. Cùng với Indonesia, Việt Nam kêu gọi các nước tôn trọng các khu vực hàng hải của các quốc gia có bờ biển, bao gồm EEZ 200 hải lý, một thách thức trực tiếp đến Đường 9 Đoạn của Trung Quốc, vốn xâm phạm vào EEZ của Việt Nam, Philippines, Brunei, Malaysia và Indonesia và đã bị Tòa Trọng tài tuyên là đi ngược lại UNCLOS.
Trong khi đó, Trung Quốc muốn giới hạn quyền tiến hành các dự án chung chỉ cho Trung Quốc và các quốc gia ASEAN, loại ra các tập đoàn năng lượng nước ngoài.
Tương tự, Bắc Kinh khuyến khích các cuộc tập trận chung giữa Trung Quốc và các nước ASEAN nhưng không bao gồm các hoạt động chung của 11 nước trong COC và bất kỳ quốc gia bên ngoài nào, nếu không có sự đồng thuận từ trước của 10 nước còn lại.
Điều này về bản chất sẽ trao cho Trung Quốc quyền phủ quyết mọi hoạt động quân sự giữa Đông Nam Á với Mỹ, Nhật hay Australia.
"Gộp tất cả những điểm này lại, chúng ta thấy rằng Trung Quốc không xem họ là một thế lực bên ngoài tại ASEAN, nhưng lại muốn biến mọi nước khác thành thế lực bên ngoài", ông Storey nói. "Phần lớn quốc gia Đông Nam Á sẽ thấy các điều khoản này không thể chấp nhận được, vì nó xâm phạm đến quyền lợi được bảo đảm trong UNCLOS của họ".
Đồng quan điểm, Prashanth Parameswaran, biên tập viên chuyên san Diplomat, nói rằng các nước ở Biển Đông đang đi trên một con đường hai chiều. Một mặt họ có các biện pháp xây dựng lòng tin như đàm phán COC, có UNCLOS và các cơ chế khác... Ở mặt kia, nhiều hành động "làm xói mòn lòng tin" vẫn diễn ra liên tục ở Biển Đông trong cùng thời điểm.
"Nguy cơ đối với các biện pháp xây dựng lòng tin trong dài hạn và đặc biệt nguy hiểm đối với Biển Đông là nếu quá trình song song này tiếp diễn, các biện pháp xây dựng lòng tin (như đàm phán COC, UNCLOS) có thể biến thành công cụ làm xói mòn lòng tin", ông nhận định.
"Mỹ và các nước nên đi xa hơn"
Các chuyên gia phần lớn đồng ý rằng mối đe dọa đến từ hành vi của Trung Quốc trên Biển Đông không chỉ nằm ở thương mại, và nó biến các nước ngoài khu vực đều trở thành bên có lợi ích, không chỉ lợi ích kinh tế mà còn lợi ích nhờ vào một trật tự dựa trên luật lệ.
Jay Batongbacal, Viện Các vấn đề Hàng hải và Luật biển thuộc Đại học Philippines và là một diễn giả tại hội thảo, nói với Zing.vn rằng hành vi xâm phạm của tàu Trung Quốc và EEZ và thềm lục địa Việt Nam của tàu Trung Quốc gần đây là "rất nghiêm trọng, thậm chí nghiêm trọng hơn sự kiện giàn khoan Hải Dương-981 năm 2014".
Theo ông, trong ngắn hạn, vụ việc của tàu Hải Dương 8 sẽ chưa có ảnh hưởng đến tuyến đường hàng hải tại Biển Đông. Tuy nhiên, trong dài hạn, nó cho thấy việc Bắc Kinh sẵn lòng lờ đi các luật lệ quốc tế, biến bản thân họ trở thành mối đe dọa tiềm tàng cho mọi hoạt động hàng hải.
Toshihiro Nakayama, giáo sư tại Đại học Keio, nói rằng Nhật Bản hoàn toàn phụ thuộc vào thương mại, và Biển Đông là một "huyết mạch" quan trọng của Nhật Bản. Nếu hàng hóa của Nhật Bản bị tắc lại khi đi qua EEZ của các nước, họ sẽ bị tổn thương.
"Dù Nhật Bản không có các chiến dịch tuần tra tự do hàng hải (FONOP), chúng tôi có tham gia các cuộc tập trận chung. Theo tôi biết thì Mỹ chưa mời Nhật Bản cùng tham gia FONOP, nó sẽ tạo ra một vài cuộc thảo luận nội bộ tại Nhật Bản, nhưng chúng tôi, khá là rõ ràng, đã ủng hộ các hoạt động FONOP của Mỹ", ông nói.
"Nhưng có một sự chần chừ, dè xẻn và thoái lui từ Mỹ, và nó làm dịch chuyển cân bằng vốn có. Nhật Bản rất lo lắng về điều đó".
Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 20/7 đã lên án việc Trung Quốc can thiệp vào “các hoạt động thăm dò và khai thác từ lâu của Việt Nam” trên Biển Đông.
“Trung Quốc nên dừng ngay các hành động bắt nạt và không thực hiện các hành vi khiêu khích, gây bất ổn”, người đại diện Bộ Ngoại giao Mỹ nhấn mạnh.
Trả lời Zing.vn, giáo sư Carl Thayer của Học viện Quốc phòng Australianói rằng, Mỹ và các nước nên đi xa hơn, thúc đẩy hợp tác giữa lực lượng cảnh sát biển, cơ quan thực thi pháp luật trên biển giữa các nước có tranh chấp và các cường quốc bên ngoài, phát triển năng lực bảo vệ chủ quyền quốc gia, quyền chủ quyền và quyền tài phán ở EEZ của mỗi bên.
Vấn đề không chỉ là tự do thương mại
Sarah Kirchberger, nhà nghiên cứu tại Trung Tâm An ninh và Chiến lược châu Á - Thái Bình Dương thuộc Đại học Kiel (Đức), nói rằng cho đến gần đây, người châu Âu ít khi quan tâm đến Biển Đông, nhưng nhiều nước châu Âu lại dựa vào xuất khẩu, và sử dụng đường biển này. Tuy nhiên, quan trọng hơn, các nhà nghiên cứu châu Âu nhìn vấn đề Biển Đông trong xu hướng lớn hơn, và các hành động quân sự hóa, bắt nạt của Trung Quốc trên Biển Đông báo hiệu những xu thế đáng lo ngại.
Bà Kirchberger liên hệ những cơ sở đang được Trung Quốc xây dựng trái phép trên Biển Đông với căn cứ tàu ngầm chiến lược ở Hải Nam.
"Việc này không phải để dọa dẫm một vài ngư dân".
"Nếu bạn gộp tất cả những chi tiết lại, câu trả lời là có một lợi ích lớn đằng sau khoản đầu tư khổng lồ, và ý tưởng có thể là xây dựng một hệ thống phục vụ chiến tranh du kích dưới mặt nước", chuyên gia Đức nhận định.
Về phía châu Âu, bà Kirchberger nói rằng "việc chúng tôi có thể làm là theo dõi sự việc sát sao hơn, đưa ra một vài hỗ trợ mang tính biểu tượng để đề cao luật pháp quốc tế".
"Tôi nghĩ Pháp là nước có vị thế thuận lợi nhất trong khối để tham gia vào các chiến dịch FONOP, họ là một quốc gia Thái Bình Dương, có hiện diện quân sự đáng kể ở Thái Bình Dương, họ có kinh nghiệm, có hải quân tốt nhất. Nếu có một cơ chế đa phương diễn ra, tôi nghĩ nó nên đặt dưới sự lãnh đạo của Pháp vì họ thường xuyên ở trong khu vực đó".
Bec Strating, giảng viên ngành Chính trị học tại Đại học La Trobe, nói rằng mối quan tâm đầu tiên của Australia đối với Biển Đông là sự ổn định khu vực, tuy nhiên nước này cũng đứng trước ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc.
Theo bà, 2/3 hàng hóa xuất khẩu của Australia đi ngang qua Biển Đông. Ở mặt khác, con số này gây tranh cãi chính bên trong Australia rằng hàng hóa thường đi và đến chủ yếu Trung Quốc, nên Trung Quốc sẽ không làm tổn hại tuyến đường này vì lợi ích của chính họ.
Australia cũng có quan ngại Trung Quốc sẽ dùng các lợi thế kinh tế (về hàng hóa, khách du lịch, du học sinh) để trừng phạt Australia nếu nước này có lập trường không hợp ý Bắc Kinh trong vấn đề Biển Đông.
Tuy nhiên, đó là cái nhìn ngắn hạn, trong dài hạn, Australia, cũng như Ấn Độ, hưởng các lợi ích kinh tế nhờ vào việc duy trì tự do hàng hải, đặc biệt ở các tuyến đường huyết mạch.
"Tôi tin rằng lợi ích quan trọng nhất của Australila phải nằm ở một trật tự dựa trên luật pháp, và các diễn ngôn về quan hệ đối ngoại của Australia thật sự nhấn mạnh ý này. Vì vậy, Biển Đông là một phần nhỏ hơn trong quan ngại lớn hơn về sự thay đổi cán cân quyền lực trong khu vực, cũng như vai trò tiếp tục của Mỹ, và đây cũng là một phần trong ý tưởng về Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Australia", bà nói.
"Câu hỏi thật sự là sự xói mòn luật lệ hàng hải có hạ thấp tính chính danh của UNCLOS hay không?".
Ông Batongbacal nói rằng đối với sự kiện tàu Hải Dương 8, bên cạnh các tuyên bố ngoại giao, các nước có thể cân nhắc sử dụng trừng phạt thương mại và kinh tế, "nhưng để cách này có hiệu quả, cần có một liên minh các quốc gia có cùng chính kiến".
"Nếu không, Trung Quốc sẽ đơn giản sử dụng chiến thuật chia và trị, vô hiệu hóa các lệnh trừng phạt và tiếp tục các hành vi trái phép".
Vy Xuân / Zing
|
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét