Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 11 tháng 4, 2018

vở kịch "Chén thuốc độc" (1921), và ông chủ nhà sách Tân Dân trên phố Hàng Bông



Đó là cụ Vũ Đình Long. Một kịch tác gia lớp đầu ở Việt Nam, từ 1920s và 1930s đã nổi tiếng với vở kịch nói Chén thuốc độc. Mà đáng nhớ nhất trong gia tài của ông chính là nhà xuất bản Tân Dân. Người duy nhất ở Hà Thành lúc đó đủ sức chọi lại với ông Nhất Linh và các anh em.

Vừa rồi, du lãng khu Hàng Gà với khu Hàng Cót ở Hà Nội, gặp câu chuyện về Chén thuốc độc. Khá nhiều thú vị về những thứ tư liệu gốc gác như vậy. Một bà chủ nhà bảo: lâu lắm rồi, tới cả mấy chục năm, mới lại gặp người tới hỏi như vậy đấy. 

Sau khoảng 100 năm, người Hà Nội bây giờ hình như lại đang nhấp từng chút một Chén thuốc độc. Cứ từ từ, từng chén một, từng chén một, đều là thuốc độc.





Dưới là một vài mẩu nho nhỏ.

----


.

Kịch tác gia và ông chủ xuất bản Vũ Đình Long


08:44 | 06/10/2014

Nói đến Vũ Đình Long (1896 - 1960), tôi muốn nhấn mạnh 2 đóng góp lớn của ông cho tiến trình hiện đại hóa. Đó là tác gia kịch nói đầu tiên trong lịch sử sân khấu Việt Nam, và người góp công lớn tổ chức nên thị trường văn chương, trong tư cách ông chủ báo, chủ xuất bản.


Ở tuổi 25, Vũ Đình Long đã xuất hiện như một gương mặt tác gia sáng giá với hai vở kịch nói: Chén thuốc độc (in trên Hữu thanh, 8.1921, diễn lần đầu tại Nhà hát Lớn Hà Nội, 22.10.1921) và Tòa án lương tâm (Nghiêm Hàm xuất bản, 1923). Hai vở kịch đã làm nên cuộc cách tân quan trọng, đưa sân khấu dân tộc chuyển vào con đường kịch nói, với diện mạo mới, theo mô hình phương Tây, để từ nay, bên tuồng cổ lại có thêm kịch kim.
Đây là hai vở kịch nói Việt Nam đầu tiên được công diễn; trước đó, ở Nhà hát Lớn Hà Nội chỉ diễn một số vở kịch Tây như Bệnh tưởng, Trưởng giả học làm sang của Molière, với dàn diễn viên là các trí thức ở đẳng cấp cao như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Huy Lục... Cũng cần nói thêm, việc diễn kịch là nhằm làm việc thiện, như quyên góp giúp dân bị lụt, giúp trẻ mồ côi, chứ không phải là hoạt động có tính chuyên nghiệp.
Cố nhiên, do là kịch bản của tác giả Việt Nam, lấy đề tài trong sinh hoạt thành thị Việt Nam, viết bằng lời văn Việt Nam, nên xét trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật, hai vở kịch của Vũ Đình Long vẫn chưa thoát ra khỏi các dấu ấn giao thời. Về nội dung, vẫn là sự phê phán lối sống tư sản hóa trên lập trường đạo đức cũ. Về nghệ thuật, vẫn phải mượn các sự cố ngẫu nhiên để giải quyết các tình huống kịch; và nhân vật còn thiếu sự sống tâm lý và thiếu các nét dáng chân thực trong tính cách và số phận.
Thế nhưng tên tuổi Vũ Đình Long không chỉ gắn với hai vở kịch chắc chắn đã có ngôi vị trong văn học sử. Từ giữa những năm 1920, khi còn là công chức của Nha học chính Đông Dương, Vũ Đình Long đã quan tâm đến hoạt động in ấn và xuất bản. Năm 1925, Vũ Đình Long mở hiệu sách và lập nhà in Tân Dân ở 93 Hàng Bông, Hà Nội. Đến 1930 nhà in Tân Dân chính thức khánh thành với số vốn ban đầu chỉ 800 đồng Đông Dương và trên dưới 30 công nhân. Đến 1936, Vũ Đình Long thôi hẳn công việc ở Nha học chính Đông Dương để trở thành ông chủ Tân Dân. Lần lượt và xen kẽ, ông cho ra đời nhiều tờ báo lớn có khả năng lấn át và bóp chết nhiều loại báo đàn em. Đó là Tiểu thuyết thứ bảy (1934 - 1942) ra hàng tuần, 60 trang, giá 5 xu - Nguyễn Công Hoan sợ không bán được nhưng hóa ra rất chạy; Ích hữu (1937 - 1938) cũng ra hàng tuần, là tờ chuyên văn học, gồm nhiều mục hấp dẫn và nhiều minh họa; tạp chí Tao đàn (1939), ra hàng tháng, giá 25 xu; Tủ sách Truyền bá cho thiếu nhi (1941 - 1943) 30 trang, 30 xu... Không kể ông còn cho ra không đều kỳ các loại: Sách học, Quốc âm dẫn giải, Những tác phẩm hay... Ấn phẩm gồm sách, báo của Vũ Đình Long có đại lý ở khắp Đông Dương, với tỷ lệ hoa hồng từ 8 - 10%, quan hệ giữa chủ và các đại lý hòa thuận, sức tiêu thụ các sản phẩm khá nhanh.
Nguồn: hanoimoi.com.vn
Là ông chủ, Vũ Đình Long rất khôn ngoan chiêu mộ và tập hợp lực lượng viết văn tự do đã trở nên đông vào những năm ba mươi của thế kỷ XX. Lực lượng viết và dịch chữ Hán gồm: Mai Đăng Đệ, Doãn Kế Thiện, Nguyễn Can Mộng, Nhượng Tống, Phan Khôi, Tản Đà, Trúc Khê, Nguyễn Đỗ Mục, Phùng Tất Đắc... Lực lượng làm báo, viết văn Quốc ngữ thuộc nhiều xu hướng: Nguyễn Công Hoan, Lan Khai, Vũ Bằng, Lê Văn Trương, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Triệu Luật, Phan Trần Chúc, Leiba, Tchya, Thanh Châu, Ngọc Giao, Nguyễn Tuân, Lưu Trọng Lư, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân... Với lực lượng hùng hậu và đa tài đó, Vũ Đình Long đủ sức nuôi sống cùng lúc nhiều tờ báo lớn do ông chủ trương, cạnh tranh ngang ngửa với Tự lực văn đoàn - nhóm văn học được tiếng hùng mạnh và tỏ ra có nhiều ưu thế và uy thế lúc đó. Tự lực văn đoàn với ông chủ Nhất Linh, người quản lý tài chính là Hoàng Đạo, hoạt động chung quanh hai tờ Phong hóa, Ngày nay, và Nhà xuất bản Đời nay, quả là lực lượng đáng sợ. Thế nhưng những biếm họa trên Ngày nay của Tô Tử (tức Tô Ngọc Vân) về Vũ Đình Long Tiên ông, lỗ mũi phun kiếm và tiền tuôn chảy vào hai ống tay áo thụng của Tiên ông; còn các Tiên bà, Tiên nữ, Tiên đồng ở động Tân Dân thỏa sức đưa rổ rá ra mà hốt bạc, lại chẳng gây phản ứng tức tối gì cho ông chủ họ Vũ; mặt khác, lại nói được sự thật về khả năng kinh doanh sinh lợi của Vũ Đình Long.
Có thể nói, ngoài “thất tinh”, hoặc “bát tú” của Tự lực văn đoàn, cùng một số tên tuổi chịu ảnh hưởng của họ khoảng trên chục cây bút, thì gần như số lớn nhà văn tự do hồi 1930 - 1945 đều tự nguyện tập hợp hoặc tìm đến ông chủ Tân Dân. Kể cả những người không thuộc nhóm nào như Trương Tửu, Nguyễn Vỹ... cũng không ác cảm với Tân Dân. Tân Dân không phải là một “văn phái”, vì các xu hướng viết ở đây rất khác nhau; một số cây bút cao giá không chỉ viết cho Tân Dân mà còn viết cho các báo khác, mặc dầu đó là điều Vũ Đình Long không muốn và vẫn tìm cách ngăn cản. Có sức tập hợp đó vì ông chủ họ Vũ đã biết phát huy những mặt mạnh trong khả năng tổ chức và trong quan hệ ứng xử. Khá nhạy bén trong việc phát hiện các nhu cầu của thời cuộc và khả năng đáp ứng thời cuộc, ông đưa ra được các giải pháp kịp thời, mẫu mã thích hợp. Trong mặt thuận, mặt tích cực của nó, những người viết văn như một lực lượng lao động tự do đã có chỗ làm, có nhiều việc làm trên các tờ báo và các đầu sách do ông chủ nhà Tân Dân chủ trương. Bao giờ mà chẳng thế, người viết cần viết và được kích thích viết khi có chỗ in, để kiếm sống hoặc để kiếm danh! Và cố nhiên, mặt trái, mặt tiêu cực của nó, đó là khả năng khai thác, kén chọn của thị trường lao động chất xám để có thể kiếm lãi và làm giàu. Có điều trong các tài liệu được đọc, tôi chưa thấy nhà văn nào nói về lòng tham và sự bóc lột quá đáng của Vũ Đình Long. Chỉ thấy nói đến cách ông trả nhuận bút khá sòng phẳng; cách ông xử sự khá lịch thiệp, rộng rãi với người viết mà ông tin cậy; cách ông không thất tín với người viết, với các đại lý và với các công nhân.
Dẫu vậy, câu chuyện về cuộc “biểu tình” hòa bình của một nhóm nhà văn gồm Trương Tửu, Lan Khai, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Tuân, Ngọc Giao và Vũ Trọng Phụng - lúc này đã rất yếu và vào thời kỳ cuối của bệnh lao - xuất phát từ nhà Trương Tửu ở phố Tiên Sinh (nay là phố Hàng Gà) kéo lên phố Hàng Bông để đòi tăng nhuận bút từ tám hào lên một đồng hai, cho một trang bản thảo gồm 32 dòng, mỗi dòng 14 chữ... lại cho thấy cái hiện tượng khó có thể nói khác hơn là sự bóc lột, vì có bóc lột thì có đấu tranh. Thế nhưng không khí đấu tranh xem ra không quá căng, ông chủ đã dễ dàng nhượng bộ, và người “biểu tình” ra về vui vẻ.
Cố nhiên, những người viết văn ở xứ ta, số lớn đều nghèo, nên ai cũng không khó khăn nhận ra và chấp nhận cách thức đối phó của một người có giác quan khá nhạy bén trong trường cạnh tranh làm giàu. Chẳng hạn ai đã đến với Vũ Đình Long thì không được viết cho các báo khác; nhưng sự thật thì nhiều người vẫn viết cho nhiều tờ. Sự trả công của ông là tùy mặt; ai có tiếng và được khách thì ông trả cao; có người ông trả ít, có người ông không cần phải trả bởi được ông in cho đã là vui rồi. Nguyên tắc ai giao thiệp với ông thì chỉ người ấy biết, còn họ không phải biết gì về nhau. Là ông chủ có cái nhìn xa, ông biết cách chiêu mộ và trọng đãi người tài, ngay cả khi họ chưa nổi danh; biết cách tích trữ bản thảo để luôn luôn có vốn bản thảo tung ra thị trường khi khan hiếm, khi cần đến hoặc khi có dịp; biết cách sử dụng lao động trong nhiều dạng loại (làm công ăn lương trong “biên chế” tòa soạn như Ngọc Giao, nhận thầu như Vũ Bằng, hoặc định kỳ mua bản thảo cho số đông người viết có tên tuổi) và biết cách trả công theo giá trị của sản phẩm để sao cho việc chi ít có thể đem lại thu nhiều. Trong quan hệ với các nhà văn, ông có những cách chơi riêng. Chẳng hạn với Nguyễn Công Hoan, thuộc số cộng sự ông tin cậy và nể trọng, người mà số lớn đầu sách quan trọng như Tắt lửa lòng, Lá ngọc cành vàng, Kép Tư Bền, Cô giáo Minh...đều được đăng liên tiếp trên Tiểu thuyết thứ bảy hoặc Phổ thông bán nguyệt san, đã có lần bị ông dụ vào việc ký hợp đồng, để suốt đời ràng buộc với ông. Cố nhiên, Nguyễn Công Hoan đã không khó khăn tránh được cái bẫy ấy. Thế nhưng việc nhà văn hỏi vay tiền thì ông không bao giờ từ chối; thậm chí ông còn hào phóng nhận trả góp cho nhà văn món nợ 1000 đồng; món tiền lớn này cho mãi đến sau 1945, Nguyễn Công Hoan vẫn mới chỉ trả được hơn một nửa; và đã được Vũ Đình Long bằng lòng xóa nợ sau 1954.
Qua giới thiệu của Nguyễn Công Hoan, ông biết “chọn mặt gửi vàng” nơi Tô Hoài, để có Con Dế Mèn và tiếp đó là Dế Mèn phiêu lưu ký; và sau khi Tô Hoài đã quen biết và biết cách “viết như chạy thi”, đã có sự tin cậy để hàng tháng đến Tân Dân nhận tiền và giao bản thảo, ông biết đón cả Nam Cao - thường đi kèm Tô Hoài, lúc này đang là cây bút mới, còn rất rụt rè...
Không chỉ làm báo, in tiểu thuyết, Vũ Đình Long còn mạnh dạn mở rộng sự kinh doanh sang địa hạt phê bình. Bộ sách Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan gồm 4 quyển, 5 tập, trên 1.500 trang cũng được in ở nhà Tân Dân ròng rã ngót 4 năm theo sự tính toán rất thực tế của Vũ Đình Long, và tất nhiên với sự thỏa thuận của tác giả.
Trong công việc kinh doanh, Vũ Đình Long cũng không quên mở rộng quy mô nhà in và trang bị mới kỹ thuật in ấn. Từ 1937 ông phá nhà in cũ, xây nhà in mới, mua chữ mới, máy mới ở Pháp để phát triển sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh và lấn át nhiều nhà in đương thời như T.B Cay (Hoa kiều) ở Sinh Từ, Minh Sang ở Bờ Hồ, Ngô Tử Hạ ở Nhà Thờ, Văn Hồng Thịnh và Lê Văn Tân ở Hàng Bông... Số công nhân làm việc ở Tân Dân từ ba chục có lúc lên đến vài trăm người. Mô hình Vũ Đình Long theo đuổi là Editions Flammarion và Librairie Hachette ở Pháp. Từ số vốn ban đầu 800 đồng cho đến khi phát triển thành ông chủ, Vũ Đình Long đã có tài sản lớn, chỉ riêng máy móc đã có giá 1 triệu 20 vạn đồng.
Nếu biết rằng, trước 1930, việc in sách thường do tác giả tự lo, trong tư cách nhà xuất bản tư nhân, thì mới thấy trên 10 năm hoạt động, ở tư cách chủ bút, chủ xuất bản, Vũ Đình Long đã làm nên sự nghiệp lớn - góp công tổ chức nên thị trường văn chương sôi động vào những năm ba mươi của thế kỷ XX; đã cho ra đời khối lượng khổng lồ tác phẩm gồm nhiều loại, với nhiều khuynh hướng sáng tác và với nhiều thang bậc giá trị. Tất nhiên, đây là thời của xã hội thuộc địa, trong khuôn khổ của một nền báo chí và xuất bản rất có giới hạn, những hoạt động ở tư cách ông chủ của Vũ Đình Long gồm cả hai mặt, nhưng mặt tích cực vẫn là căn bản.
Gs Phong Lê
http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=78&NewsId=329154

.

Bàn “Chén thuốc độc”, nghĩ về Vũ Đình Long
VĂN HÓA | 06:57 Chủ Nhật ngày 28/08/2011

(HNM) - Một cuộc hội thảo về tác gia sân khấu, nghiệp chủ báo chí Vũ Đình Long mang tên "Vũ Đình Long - Cuộc đời và sự nghiệp" vừa diễn ra tại Cao Dương, Thanh Oai, do Hội Nhà văn Hà Nội và quê hương Cao Dương tổ chức. Nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà quản lý đã tham gia. 


Hànộimới xin ghi lại những ý kiến tham luận góp phần làm nổi bật thân thế và sự nghiệp Vũ Đình Long, trong đó có những điều mà nhiều người trong chúng ta chưa biết tới.
Vũ Đình Long - “Người kéo màn” cho sân khấu Việt Nam hiện đại. Ảnh: Nguyễn Mạnh Hùng

Giai đoạn đầu thế kỷ XX chứng kiến sự giao hòa nhộn nhịp giữa các dòng chảy văn hóa, trong đó có sân khấu. Các ông Nguyễn Quang Oánh, Nguyễn Văn Ngọc (hai anh em), Đỗ Thận chung tiền, mời cổ đông lập ra rạp hát Sán Nhiên Đài ở phố Đào Duy Từ, lần đầu tiên đem chèo từ chiếu sân đình vào "sân khấu hộp". Đến ngày 22-10-1921, tại Nhà hát Lớn, "Chén thuốc độc", vở kịch nói đầu tiên của Việt Nam công diễn. Mới đây, nhân 90 năm sự kiện này, ông Phạm Quang Long, Giám đốc Sở VH,TT&DL cho biết sẽ tạo điều kiện để vở diễn trên được tái xuất.


Tác giả "Chén thuốc độc" là ông Vũ Đình Long (1896-1960), quê Cao Dương, Thanh Oai. Sau thời kỳ dạy học, làm thuốc và hoạt động sân khấu, ông trở thành nghiệp chủ báo chí lớn, với nhà in Tân Dân, các tờ "Tiểu thuyết thứ bảy", "Phổ thông bán nguyệt san", "Tao đàn"… "Tập đoàn truyền thông" của Vũ Đình Long góp phần làm nên nhiều tên tuổi văn chương, cạnh tranh với báo "Phong hóa" của anh em Nhất Linh, làm nên một cuộc huyên náo trong đời sống văn hóa đô thị.

Cuộc hội thảo mới đây của Hội Nhà văn Hà Nội và xã Cao Dương quê hương ông cho thấy nhiều điều mới mẻ. GS Phong Lê cho rằng trước khi công diễn "Chén thuốc độc" của Vũ Đình Long ở Nhà hát Lớn, Hà Nội mới chỉ thấy diễn một số vở kịch Tây như "Bệnh tưởng", "Trưởng giả học làm sang" của Moliere, với dàn diễn viên là trí thức ở đẳng cấp cao như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Huy Lục… Cũng cần nói thêm, việc diễn kịch là nhằm làm việc thiện, như quyên góp giúp dân bị lụt, giúp trẻ mồ côi, chứ không phải là hoạt động có tính chuyên nghiệp… Sau "Chén thuốc độc" của Vũ Đình Long, kéo dài suốt những năm ba mươi của thế kỷ XX, cuộc hành trình của nền sân khấu mới cũng chỉ lác đác dăm ba người hành nghề theo lối nghiệp dư… Một số vở của Vi Huyền Đắc, kể từ "Uyên ương" (1927), "Hoàng Mộng Điệp" (1928), qua "Kinh Kha" (1935) cho đến "Kim Tiền", "Ông Ký Cóp" (1938), rồi của Đoàn Phú Tứ như "Những bức thư tình" (1937), "Mơ hoa", "Ghen", "Ngã ba" (1941-1943) tuy có tiếng vang nhất định trong một số ít công chúng, nhưng xem ra hoạt động của họ vẫn chưa ra khỏi một cuộc chơi tài tử, gắn với các ban kịch tài tử…. Trong cuộc cạnh tranh, chen vai với toàn bộ các loại hình sân khấu truyền thống, sân khấu kịch nói đã giành được đất sống không phải bằng một cuộc chiến để thủ tiêu nhau mà là một cuộc tranh đua để cùng nhau tồn tại. Và sự chung sống bên nhau đó đã kéo dài suốt thế kỷ, cho đến nay, trong khi số lớn thể thơ cũ và lối văn cũ đều đã yên vị trong các bảo tàng.

Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên đặt vấn đề kịch nghệ mới này khác với kịch nghệ cũ ở chỗ nào? Ông Dương Nhữ Tiếp, Hội trưởng Hội đồng diễn kịch, trong lời phát biểu trước buổi công diễn "Chén thuốc độc" đã nói rõ: "Chúng tôi vốn cảm nhiễm cái văn hóa mới nước Pháp thường nhiệt tâm về việc cải lương hý kịch ở nước ta ngày nay, trông thấy các hý trường từng diễn theo một lối hát cổ của tiền nhân ta để lại, cái cách diễn chẳng qua là đem những điển cố xưa mà phác họa ra trên sân khấu, không có một chút gì là tả chân được các cảnh tượng thiên nhiên thích hợp với thời đại phong tục. Cái lối diễn kịch cổ ấy, không phải là không hay, song nó hay một cách mập mờ, không đúng với sự thực". Cho nên "Chén thuốc độc" là bước thí nghiệm thứ nhất, "một bản tuồng tả phong tục An Nam diễn theo đúng thể cách An Nam". Như vậy, kịch nghệ mới xét về nội dung là nói người và việc của hiện tại, của đời sống thực. Đứng ở tính chất bộ môn nghệ thuật thì kịch nghệ mới là kịch nói.

Với góc nhìn khác, dịch giả Cao Việt Dũng nêu: Cũng trong thời gian tản cư xa Hà thành (1943), Vũ Đình Long đặc biệt tập trung "Việt Nam hóa" các vở kịch của Pháp. Ông nói về chủ trương của mình: "Nguyên tắc Việt Nam hóa của chúng tôi là dịch sát nguyên văn hay dịch tự do tùy tiện, cố gắng giữ lấy thật nhiều cái đẹp, cái hay của nguyên tác, thêm bớt, thay đổi, cắt xén… biến vở kịch nước ngoài thành vở kịch Việt Nam. Một vở kịch Việt Nam hóa như thế có khuyết điểm, nhưng theo chủ quan của chúng tôi, thì cũng có một số ưu điểm đáng kể, là gần ta hơn, dễ thông cảm hơn, truyền cảm hơn, sâu sắc hơn và dễ diễn xuất hơn là kịch dịch thẳng theo nguyên bản… Nếu thể hiện không đúng, nếu màu mè điệu bộ cử chỉ dáng dấp… của nghệ sĩ diễn viên còn có chỗ lai căng, thì sẽ làm trò cười cho khán giả ngoại quốc".

Và theo TS. Phan Trọng Thưởng thì vào năm 1958, trước khi mất 2 năm, theo di bút của tác giả, ngày Đại hội liên hoan Anh hùng chiến sĩ thi đua Công - Nông - Binh toàn quốc cũng là ngày Vũ Đình Long khởi thảo vở kịch 4 hồi "Ép duyên" hay là "Trên đường cải tạo". Có lẽ đây là nỗ lực sáng tạo cuối cùng xác nhận thái độ của ông đối với công cuộc cải tạo XHCN được tiến hành vào thời điểm này. Mâu thuẫn kịch tuy không gay gắt quyết liệt, nhưng nó lại phản ánh được phần nào hoàn cảnh, những tâm trạng khá thực trong đời sống đất nước, đặc biệt là của tầng lớp tiểu tư sản thành thị vốn là đối tượng chủ yếu của công cuộc cải tạo thời kỳ này.
Hoàng Định (lược thuật)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: