Giáo sư Tiến sĩ Trần Đình Sử. Ảnh: FB Trần Đình Sử.
Chu Mộng Long
Tôi gọi là thi pháp học Trần Đình Sử như tôi đã từng viết, rằng thi pháp học thế giới khi được truyền bá vào Việt Nam đã “Trần Đình Sử hóa” một cách sâu sắc. Đến lượt những người kế thừa, ảnh hưởng thi pháp học Trần Đình Sử đã sử dụng toàn bộ lý thuyết của ông làm công cụ cho một cuộc đổi mới căn bản nghiên cứu, phê bình văn học tại Việt Nam.
Công bằng mà nói, trước và cùng thời Trần Đình Sử, không phải không có người biết đến thi pháp học. Ở miền Nam trước 1975, thậm chí ngoài Bắc trước và trong thời đổi mới cũng đã có người tiếp cận lý thuyết và ứng dụng thi pháp học. Nhưng thi pháp học vẫn là một cái gì mơ hồ trong khái niệm, trong hệ thống thuật ngữ và phương pháp luận. Ở miền Nam, thi pháp học nép mình trong các lý thuyết lớn khác như Cấu trúc luận, Hiện sinh luận, Phân tâm học…; trong khi ngoài Bắc, thi pháp học như là phái sinh của ngôn ngữ học, kí hiệu học, phong cách học. Không phủ nhận những công trình này có những thành tựu không nhỏ trong nghiên cứu phê bình văn học tại Việt Nam.
Tuy nhiên, những thành tựu ấy không đủ năng lượng cho một sự bùng nổ để làm đổi mới căn bản nghiên cứu phê bình văn học đang thống trị: nghiên cứu, phê bình xã hội học dung tục. Phải bắt đầu từ Trần Đình Sử với cả loạt công trình: Thi pháp thơ Tố Hữu(1987), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam (1989), Thi pháp Truyện Kiều (2002), Dẫn luận thi pháp học (1998, 2004)…, khuynh hướng nghiên cứu, phê bình xã hội học dung tục mới thực sự bị đẩy ra bên lề cho những người phê bình không chuyên.
Thi pháp học Trần Đình Sử không phủ định các khuynh hướng nghiên cứu, phê bình văn học khác, nhưng có giá trị đả kích mạnh mẽ vào khuynh hướng nghiên cứu, phê bình xã hội học dung tục, bởi chính khuynh hướng này là thủ phạm cưỡng hiếp và giết chết văn học, từ sáng tạo đến dạy học và đọc văn.
Tuyên truyền cho một cuộc cách mạng về nghiên cứu phê bình văn học ở Việt Nam không chỉ có Trần Đình Sử, nhưng sức ảnh hưởng mạnh mẽ từ thi pháp học Trần Đình Sử là điều không thể phủ nhận. Một sự thật hiển nhiên, sức ảnh hưởng ấy một phần nhờ lợi thế của nhà sư phạm – Trần Đình Sử đưa lý thuyết của mình vào giảng đường đại học, đào tạo sinh viên, cao học, nghiên cứu sinh với hàng triệu sản phẩm. Nhưng điều quan trọng hơn, những gì phức tạp của thi pháp học thế giới, những gì mơ hồ và hạn hữu của thi pháp học từng truyền bá ở Việt Nam đã được ông tổng hợp, tháo gỡ, tường giải và phát triển (theo quan điểm của ông) trong một hệ thống nhất quán, khoa học, đến mức ai cũng có thể tiếp thu và áp dụng trong việc nghiên cứu, phê bình văn học.
Tất nhiên, việc áp dụng tùy tiện làm méo mó thi pháp học lại là chuyện khác. Sự thật, áp dụng thi pháp học không dễ dãi như trước đó những người không cần học văn vẫn viết nghiên cứu phê bình văn học. Thi pháp học thể hiện một trình độ khác hẳn với nghiên cứu, phê bình “tay ngang”.
Tôi nhấn mạnh điều tôi đã nói: hệ thống các vấn đề của thi pháp học được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam là của Trần Đình Sử trong sự kế thừa thi pháp học thế giới nhưng cũng đầy sáng tạo với hệ thống và cách kiến giải riêng. Từ giáo trình và những công trình đầu tiên với hệ thống: Quan niệm nghệ thuật về con người, Không gian nghệ thuật, Thời gian nghệ thuật, Thi pháp chi tiết nghệ thuật, thi pháp cốt truyện, Thi pháp kết cấu, Thi pháp lời văn, sau khi được phổ biến gần như đã được sử dụng đến quen thuộc trong các luận văn, luận án và các công trình khác nhau. Đến lần tái bản này, Trần Đình Sử bổ sung thêm, điều chỉnh và sáp nhập với một số tên gọi chương mục mới: Tác giả và kiểu tác giả, Tính cấu trúc và cấu trúc thể loại, Cấu trúc và tính nội dung của truyện kể, Tổ chức chủ thể của văn bản, Ngôn từ nghệ thuật. Lần đầu tiên tại Việt Nam, thi pháp học được diễn dịch một cách hệ thống với phương pháp luận và thao tác ứng dụng hiển minh. Việc sử dụng cả hệ thống vấn đề hay một vấn đề nào đó của thi pháp học Trần Đình Sử là hiển nhiên, nhưng copy của ông thành của mình rồi phủ nhận ông là trò láu cá trong học thuật.
Thật thú vị là những người lên tiếng chê Trần Đình Sử và “trường phái” Trần Đình Sử, nhưng vẫn sử dụng ông một cách vụng trộm, dù là sử dụng ở cấp độ nào đó.
Vì sự nhiễu nhương của học thuật, lần tái bản này, Trần Đình Sử buộc phải nói rõ quan điểm và đóng góp của mình: “Tôi quan niệm thi pháp học nghiên cứu văn học như những thế giới nghệ thuật mà tương ứng với nó là các ý thức nghệ thuật. Nó khám phá các nguyên tắc tạo nên các thế giới nghệ thuật phân biệt với thực tại, bắt đầu từ quan niệm nghệ thuật, tiếp theo là các hình thức nhân vật, không gian, thời gian, kiểu sự kiện, cốt truyện và cuối cùng là cấu trúc, văn bản với các hình thức ngôn từ. Hình thức ngôn từ mang toàn bộ cái nhìn của nhà văn và các phương diện nêu trên của thế giới nghệ thuật” [tr.441]. Quan niệm này có kế thừa nhưng không hoàn toàn sao chép từ thi pháp học thế giới, khác nhiều so với thi pháp học của từng trường phái như Hình thức luận, Phê bình mới, Cấu trúc luận, Ký hiệu học, Hiện tượng luận, thậm chí Hậu cấu trúc luận.
Trần Đình Sử không tự cho thi pháp học của mình là tất cả. Thi pháp học không là cả vũ trụ ôm trùm mọi nghiên cứu, phê bình văn học, nhưng cũng không là con đường hẹp và đi vào ngõ cụt. Thi pháp học là chân trời mở, muốn hay không muốn, nghiên cứu văn học và nghệ thuật nói chung đến lúc phải đoạn tuyệt với sự suy diễn chủ quan và căn bệnh xã hội học dung tục. Nghệ thuật phải bắt đầu bằng hình thức, sống bằng hình thức (Hegel). Tổ chức hình thức tự nó mang nội dung mà ông gọi là “hình thức của quan niệm”. Ông nhìn thấy sự copy Nga hay phương Tây, kể cả sự copy chính ông, đã không tránh khỏi đẩy thi pháp học vào sự thô thiển máy móc. Ông đề cao sự sáng tạo: “Tôi cho rằng bất cứ lý thuyết nào cũng có thể bị vận dụng thô thiển, không riêng gì thi pháp học, vấn đề là bản lĩnh của người nghiên cứu chứ không phải bản thân lý thuyết. Cho rằng thi pháp học đã lỗi thời là do không hiểu thi pháp học. Với thế giới nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật của hình thức, thi pháp học là một lý luận và thao tác mở, có khả năng thu nạp các lý thuyết khác vào quỹ đạo tìm tòi các nguyên tắc, phương thức, phương tiện nghệ thuật. Ngay trong lý luận hiện tại, biết vận dụng thì thi pháp học vẫn có thể nêu ra nhận thức mới về một thế giới nghệ thuật nhất định.” [tr.447]. Ông cũng nhìn ra hạn chế của thi pháp học ở Việt Nam, trong đó có thi pháp học của ông, rằng “thi pháp học, phong cách học Việt Nam vẫn đi theo phương hướng chủ yếu của lý thuyết cấu trúc, hệ thống, chưa bước sang giai đoạn giải cấu trúc và hậu hiện đại. Mặc dù ở phương Tây đã có tiếng hô lên “tác giả đã chết”, song thi pháp học Việt Nam, tác giả vẫn còn ở vị trí trung tâm”. [tr.446]. Nhìn thấy để chính tác giả tự cải chính, tự phát triển hoặc gợi ý cho sự phát triển cũng là công lao của ông. Thì đấy, trong các công trình vận dụng thi pháp học tại Việt Nam, tác giả vẫn giữ ngôi thống trị khi người ta mượn tác phẩm để ngợi ca tác giả như nịnh thần xưa ngợi ca ông vua của mình. Trong khi tác giả, về bản chất, những gì thuộc về con người không xa lạ với anh ta.
Thật ngô nghê khi nhiều luận văn, luận án, công trình tách hai phần nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật, trong đó, phần hình thức nghệ thuật lại vận dụng thi pháp học để kiến giải ngược lại nội dung, mà lại không thoát ra khỏi nội dung xã hội học dung tục. Cách làm đó tưởng là dung hòa hai cực đối lập, song thực chất là râu ông nọ cắm cằm bà kia làm méo mó thi pháp học đúng nghĩa.
Cuối cùng, Trần Đình Sử trăn trở làm thế nào để thi pháp học tiếp tục phát triển chứ không phải bị thay thế. Theo tôi, thi pháp học hiện đại không là hiện tượng đột biến mà có từ thời cổ đại khi các nhà mỹ học đã biết rõ nghệ thuật sống ở hình thức và tự thân hình thức mang nội dung của nó. Chỉ vì trong một thời gian dù không dài, từ khi xuất hiện tư tưởng nội dung quyết định hình thức, thậm chí cực đoan đến mức phủ định hình thức, người ta đã sát hại cách hiểu nghệ thuật đúng đắn đó. Cái gì đúng sẽ luôn được kế thừa và phát triển theo nhu cầu thời đại. Ở phương Tây, khi chủ nghĩa hình thức, lý thuyết cấu trúc – kí hiệu bị phản biện, thi pháp học vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Giải cấu trúc (Deconstruction) tự nó đang là một thi pháp học mới. Giải cấu trúc bắt đầu từ văn bản và ký hiệu của văn bản, nhưng bằng các thao tác phá hủy sự cố kết giả tạo của cấu trúc – hình thức do tác giả làm ra để đi đến tái tạo một cấu trúc – hình thức mới trên tinh thần sáng tạo của bạn đọc. Nó giải các trung tâm, trong đó có huyền thoại tác giả đang thống trị dai dẳng trong đời sống văn học. Nó hiện thực hóa một lối đọc hiểu văn bản theo nguyên lý differance – mỗi diễn giải luôn gắn liền với một không – thời gian khác biệt. Nó xác định cấu trúc – hình thức không là hệ thống khép kín, tự trị lệ thuộc duy nhất vào ý thức chủ quan của tác giả. Văn bản nghệ thuật là một hệ thống kí hiệu đặc thù, không tồn tại một cách diễn giải mà vô số cách diễn giải thông qua các tương tác đa chiều, trong bản thân văn bản và giữa các văn bản, trong ý đồ của tác giả và những gì ngoài ý đồ – giữa bạn đọc với bạn đọc. Nó là hệ thống mở phi tâm, bên dưới ý thức chủ quan của tác giả là vô thức của các cá nhân và vô thức của cả cộng đồng với tất cả sự đa dạng, sinh động của tinh thần. Thi pháp học giải cấu trúc, do đó, dung nạp cả phân tâm học, hiện tượng học, chú giải học để làm giàu cho nghiên cứu, phê bình thi pháp.
Sự giới hạn của Trần Đình Sử với tiêu đề Dẫn luận Thi pháp học văn học tưởng đóng khung ở nghệ thuật ngôn từ, nhưng thực chất đang gợi ý về một sự mở rộng cho các loại hình nghệ thuật khác trong nghiên cứu phê bình thi pháp. Thi pháp học đã vươn đếntính liên văn bản (Intertextiality), không chỉ giới hạn liên văn bản trong lĩnh vực nghệ thuật ngôn từ mà còn liên văn bản với các hình thức nghệ thuật và các hình thức văn hóa khác nhau. Chính cái nhìn đó, giải cấu trúc phát hiện ra hình thức nghệ thuật là một trò chơi ảo của ký hiệu, biểu trưng, và quan trọng hơn, nó tìm cách đánh vỡ trò chơi ảo ấy để đi tìm sự thật bị giấu kín sau tầng tầng lớp lớp văn hóa che phủ theo thời gian. Giữa văn hóa và tự nhiên, giữa cấm kỵ và tự do, giữa kiểm duyệt và chống kiểm duyệt được đặt trong thế tương tác mạnh mẽ để giải triệt để các huyền thoại như một trò chơi của quyền lực đang thống trị.
Quy Nhơn, tháng 4 năm 2018
CML
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét