Truyện ngắn trong tập "Bánh xe hạnh phúc" XB HNV 2013
Hồng Giang
Có
lúc tôi băn khăn về giống chim này. Sao con mái lại không mang vẻ đẹp thường
thì dành cho phái yếu? Con đực có cái mào rất lạ, màu đỏ cờ trông xa
như một cục than đỏ,
nhấp nhánh như khi bén lửa. Sải lông đuôi của nó rực rỡ, mỗi chiếc lông như có
con mắt nhìn rộng ra xung quanh. Cái dải đuôi dịu dàng ấy nhún nhảy, rung động
như chiếc quạt hoa trong tay người
đẹp. Ngày trước mẹ
tôi bảo: "Nem công, chả phượng là
món tiến vua.".Nghe thì biết vậy
thôi. Thịt công như thế nào tôi chỉ hình dung trong đầu. Tạng người như tôi làm
sao có được? Tôi không ngờ lại có ngày được ăn thịt chim công, ăn theo kiểu đơn
sơ của người H’Mông.
Mấy hôm trước ông Giàng Chu nhắn tôi
lên gấp, tôi dặn ông nếu thấy công đực
báo cho tôi một tiếng. Anh bạn tôi nuôi một con công cái mấy năm nay mà chưa tìm ra con đực. Thành thử con mái
của anh vẫn đơn chiếc. Dù vậy nó vẫn phải làm bổn phận mà trời phân công cho
con mái,đẻ ra cái ổ làm bằng rơm nếp những quả trứng tròn. Ban đầu cũng được ấp
thử, mãi mà không thấy công con tách vỏ ra đời. Thì ra giống công cao sang là
vậy, vẫn phải tuân theo luật của muôn loài. Không thể không theo âm dương
chuyển dịch, một cách tự nhiên. Thôi đành phải ăn! Anh bạn tôi bảo: "Trứng
công ăn rất thơm. Vị thơm của nó đặc biệt, nửa như mùi hồi, nửa như mùi
quế". "Nhưng ăn trứng công thì tiếc lắm!" Tôi bảo thế anh gượng
cười: “Biết làm sao được? Không có sống, trứng công chỉ có giá trị hơn trứng gà
một chút!” Tôi nói: “sao anh không nhờ người ta sinh sản vô tính?" Anh
bảo: " Tốn kém lắm, ngành khoa học này tỉnh ta chưa có. Nơi có, chưa chắc
người ta đã nhận lời. Giá của nhân bản vô tính đâu phải chuyện đùa!". Nhìn
những quả trứng công hồng hồng, cái cằm của anh hơi xệ xuống. Mãi về sau anh
mới biết thêm đặc tính riêng biệt của loài chim này. Nó thường đẻ trứng vào tổ
của các loài chim khác, nhờ ấp hộ. Như kiểu nhà giàu thuê vú em. Bao giờ chim
con biết bay chuyền, bố mẹ chim mới bay đến đưa về. Đó
là lý do vì sao
giống chim này mỗi ngày một hiếm. Gần đây mới có người nghiên cứu về tính cách
này của nó và nhờ có máy ấp trứng công nghiệp, việc nhân giống
mới thành khả quan.
Nhưng dù sao vẫn phải có trống có mái, trứng mới nở ra công con được.
Nếu
trời không mưa tôi đã đi ngay hôm đó. Đường lên Khuổi Đào đi, về gói gém trong
một ngày. Kể cả việc uống rượu, nghe khèn ở nhà ông Giàng Chu.
Sau
những ngày nắng hạn kéo dài, mưa rừng như đổ nước. Mưa cứ như thác ở trên trời
tràn lên mặt đất. Thôi thì đá lở, đất vùi đi bộ còn khó, nói gì xe. Chiếc Min
Khơ địa hình của tôi cũng đành che manh chiếu. Đất đỏ bám chặt hai bánh, chẳng
nhìn thấy nan hoa đâu cả. Nó trở thành cục sắt trơn nhuồi nhuội. Cái bô bỏng
giãy muốn đỏ lên, lỡ chạm chân vào khác nào cục sắt nung. Bỏng hàng tháng mới
khỏi. Ý mghĩ muốn nhân giống chim công cứ nung nấu, khiến tôi quên cả mệt. Biết
đâu có con đực giống chim này sẽ sinh sôi nảy nở! Mở đầu cho một nghề làm ăn
độc đáo, nhiều thú vị? Nghe nói ở miền trung người ta đã nuôi thành công giống
đà điểu, đã nhân giống bán rộng ra thành một sự kinh doanh đầy triển vọng.
Giống chim công cũng có quyền được phát triển, nó thanh tao, còn lịch lãm nữa
cơ mà? Nếu con công của bạn tôi có trống, sau đấy ấp nở giống chim này, nhiều
điều không tính trước được. Việc cho nó ăn, uống cũng bình thường, không quá
cầu kì. Tôi chủ quan nghĩ rằng đó là điều thực tế có thể làm được, không viển
vông.
Vào Khuổi Đào phải đi qua con đường hàng
tỉnh, người ta còn chưa hoàn thiện. Có chỗ mới đổ đá, có chỗ đã láng nhựa. Cuối
năm nay nó sẽ được hoàn thành. Những người làm quy hoạch đã hình dung ra
những biến động có
tính hai mặt của nó về môi sinh, môi trường. Nhưng thôi, nó là công việc cuả
những người quản lý. Còn chúng tôi sống ở
rừng, nhiều năm
nay thấy rừng sa sút. Các loài thú hiếm thưa
thớt dần. Gấu, hổ không còn . Tắc kè im tiếng rúc trên vách đá. Những trận mưa
như hôm vừa rồi, không thấy cua núi bò ra.
Tin ông Giàng Chu bắt được công làm tôi rất
mừng. Tôi gửi xe ở nhà trưởng thôn người Tày ngoài chợ Kiến Thiết. Ông cho tôi
mượn con ngựa để vào Khuổi Đào nhưng vẫn hỏi: "Biết cưỡi không đấy?"
Tôi nói "Chơi tốt". Lại hỏi: "Mà mày mệnh gì?" Tôi
bảo:" mệnh kim". Ông cười hề hề, hai bên đuôi mắt co tít lại:"
Thế thì được. Con xám này mệnh thuỷ. Thuỷ sinh kim, không sao".
Thấy
tôi tần ngần chưa hiểu, ông bảo: "Dùng ngựa là phải biết khớp mệnh của nó
với mình. Nếu không tai vạ đấy. Bữa trước có tay kiểm lâm vào đây hỏi, tao cho
mượn. Tay này mệnh hoả, nên nó bị văng vào bụi nứa, đứt mất một bên tai
đấy." Tôi vừa
sợ lại vừa buồn cười. Lại nghĩ mấy anh kiểm lâm chỉ quen đi xe máy, sao không
tập cưỡi ngựa nhỉ? Ở rừng có phải chỗ nào cũng đi xe máy được đâu?
Đường vào Khuổi Đào không khó, ô tô có thể
chạy được. Nhưng đó là những ngày nắng ráo còn mưa thì rất phiền. Xe chỉ được
vài chuyến là đường xẻ thành hào. Nước ngập đầy những khe rãnh chẳng biết đâu
là nông sâu. Nhưng đi ngựa chẳng việc gì phải ngại. Vừa nãy ông Phương sẹo cứ
nghĩ tôi lên hỏi về việc cây khèn. Có lần tôi nhờ ông kiếm hộ, ông bảo: “Việc
mày nhờ tao hôm nọ hơi khó đấy, tao có hỏi, nhưng chưa ai nhận lời. Mày cũng
nên biết văn hoá
không phải thứ mua
được bằng tiền, phải dùng tình cảm thôi. Bây giờ mày vào Khuổi Đào là được gặp
thằng Thào Mìn đấy.
Nó biết làm, nhưng nó bảo nó không bán. Có ai lại đi bán nỗi buồn vui của
mình?”
Tôi
nói: “ Tôi lên Khuổi Đào vì một chuyện khác. Còn việc cây khèn để dịp
sau". Ông phương cũng không hỏi
thêm việc gì. Người Tày ở đây có thói quen không tọc mạch vào chuyện người
khác. Ai kể gì thì nghe, nhập tâm nhưng không bắt bẻ, vặn vẹo. Ông thắng yên
ngựa cho tôi. đấy là bộ yên cương còn tốt, làm bằng da thật. Những móc khoá
bằng đồng vẫn còn vàng choé, kêu roong reng. Tôi túm lấy sợi dây cương, con
ngựa lùi lại mấy bước. Hai chân nó hất hất ra đằng sau, đầu ngỏng lên, mũi xì
xì có ý doạ dẫm. Tôi quát nó: Trò hề, mày diễn thế nào được?" Ông Phương
mắng tôi: " Mày phải nói tiếng thổ, tiếng kinh nó không biết nghe
đâu!". Tôi cố nhớ vốn tiêng Tày ít
ỏi của mình: “ Hừm, pây liều...pố pây hát công, noọng à!” Chẳng hiểu có phải tôi nói và phát âm có chuẩn
không, con ngựa cứ hì hà hăng hơn trước. Tôi bực mình tóm sát dây cương tận mặt
nó, cầm đoạn dây còn lại quất mấy cái vào mặt. Con ngựa có ý sợ, đầu cúi xuống,
thôi không vẫy đuôi loạn xạ nữa. Ông Phương phuổi tay bảo: “Mày chơi được.
Giống ngựa cần phải thế. Nhút nhát nó bắt nạt.” Tôi thả nước kiệu, con xám biết thân phận
ngoan ngoãn đi. Tôi kẹp hai đầu gối vào sườn nó, chân đặt vào bàn đạp, người
hơi cúi về phía trước. Ở tư thế này, con
ngựa có dở chứng cũng không làm gì được.
Đúng ngày phiên chợ, các cô gái người
HMông, Người Dao ăn mặc sặc sỡ đi ngược chiều với tôi, nom xa như một vạt hoa
rừng. Những anh con trai quần áo chàm đen, bên sườn đeo cái bi đông lủng
lẳng. Họ đi rất
nhanh nhưng không hấp tấp, cái lưng thẳng, hai tay vung dài. Tuyệt nhiên không
thấy anh
nào có dáng đi lao
đầu về trước. Tôi thầm yêu cái dáng vẻ tự tin ấy của họ, có người bảo: "
Đỉnh núi cao nào cũng nằm dưới chân người HMông". Điều ấy không sai.
Tôi quen ông Giàng Chu ở hội diễn văn nghệ
quần chúng của huyện. Trước hết vì tiếng khèn của ông. Vì cái khèn đen bóng, có
sáu ống hơi vàng rộm, buộc dây lúc nào cũng đeo trước ngực. Ông còn là một thầy
mo. Không một đám tang nào của người H’mông ông vắng mặt. Ông vừa thổi khèn,
vừa hát những bài thơ cổ. Những bài hát giảng giải cho cái ma trước lúc về
trời. Về nơi mà cuối cùng, làm người đều phải có mặt, có tên. Cũng chính ông
bắn phát súng cuối cùng tiễn biệt linh hồn. Để hồn nhớ đường ngay lối thẳng mà
đi, cho tới nơi cực lạc. Chớ có quay về nhũng nhiễu người thân, làng bản. Bấy
nhiêu công việc quan trọng mà đồ đoàn của ông cũng thật là đơn giản. Một cái
trống con to bằng cái vung nồi ba, một cây khèn, cái vòng lập lắc và mấy mảnh
xin âm dương làm bằng sừng trâu đực thay tư.
Hôm
đó ở hội diễn về, ông uống rượu hơi nhiều. Thấy tôi cứ mân mê cái khèn, ông lắc
lư cười hỏi: " Biết thổi không?"
Tôi lắc đầu. Ông định cất đi. Tôi bảo:" Cho xem", rồi tôi
khen: " Đẹp quá". Chẳng biết
ông đùa với tôi, hay chọc mấy cô gái cùng đoàn văn nghệ của ông: “ Đẹp cái gì?
Mày có thấy nó tròn tròn mũm mũm giống cái gì không?” Mấy cô gái đỏ mặt, mím
miệng lại mà cười. Con gái người H’Mông hay nén tình cảm của mình, ít nói,
nhưng cái duyên lại lên rất lạ, chẳng giống con gái của bất kì dân tộc nào. Ông
Giàng chu lảng sang chuyện khác, về những huyền thoại của dân tộc mình. Tôi hỏi
ông: “Cây khèn có điển tích gì
không?" Ông
bảo: "dài lắm". Rồi như sắp xếp ý nghĩ trong đầu, lát sau ông bảo:
“Mày có biết bài hát làm
dâu" của con gái mèo không? Nó là câu chuyện của
cái khèn này đấy. Con gái mèo lấy chồng là hết cả một đời, sống làm dâu, chết
làm ma nhà người. Nếu không may chồng chết phải ở với em trai của chồng. Lại
chết nữa thì ở với người tiếp theo...." Tay ông Giàng Chu nâng cây khèn
lên ngang mặt, ngắm nghía như nó là vật lạ không phải của mình. Ông bảo: "
Khèn có sáu ống dài ngắn khác nhau là ý nghĩa đó". Tôi hỏi:" bác có biết làm khèn không?
" Ông đáp:" Tao chỉ thổi được thôi, trên bản có thằng Thào Mìn nó
biết làm. Không phải ai cũng làm được đâu nhé. Thần linh ứng vào bàn tay nào,
người đó mới làm được đấy". Tôi nhìn thấy cũng đơn giản. Bầu khèn bằng gỗ,
các ống bằng tre. Toàn là vật liệu dễ kiếm trong rừng. Tôi nói với ông: "
nếu có mẫu như thế này, thợ mộc khéo tay có thể làm được chứ? Ông tròn mắt nhìn
tôi bảo: " Không được đâu, mày có biết làm bằng gỗ gì không?”. Tôi thấy vân gỗ mịn như gỗ dâu, như là gỗ
dổi, nhưng không dám chắc là gỗ gì. Tôi đành lắc đầu cái nữa. Để tôi ngớ ra một
lúc, ông mới bảo: “Gỗ này bây giờ hiếm lắm. nó chỉ có ở rừng đại ngàn. Cây nó
mọc trên mỏm đá cao, chỗ có nhiều gió".
Tôi hỏi tên. Ông nói một câu tiếng H’Mông. Tôi không hiểu. Anh con trai
đi cùng đoàn bảo: " Tiếng phổ thông gọi là kim giao". Tôi giật mình!. Tôi đã được nghe về loại gỗ
này. Ngày xưa vua chúa thường dùng làm đũa ăn cơm, để phòng bị đánh độc. Nếu
trong thức ăn có độc thì đầu đũa sẽ đen tím lại. Không ngờ cây khèn được chế ra
từ loai gỗ này. Ông Giàng Chu xoay xoay rồi rút ra một đoạn ống. Ở đoạn ống nằm
trong bầu khèn có mảnh đồng bạch, màu sáng trắng. Ông chu bảo: “Thứ đồng bình
thường nó chẳng “nổ" được đâu. Thứ
này bây giờ khó tìm. Hơi
người đi qua, cuốn
cái lưỡi này nó mới “nổ" được”!. Ông còn bảo khèn thổi càng lâu nó càng
hay, mà còn
vang xa vì cái lưỡi
bạch kim kia lúc ấy ấm dần lên. Tôi nghĩ bụng : “gọi là gỗ kim giao có nghĩa là
thế chăng?” Nhưng lại sợ không trúng nên lại hỏi: “còn ống này bằng tre gì mà
đốt nó dài vậy?". Ông xua xua bàn tay to bè, xần xùi (Tôi lấy làm lạ, sao
hai bàn tay này lại khiến được chiếc kèn taì tình vậy?) "Tre này ở đây
cũng không có đâu. Mãi trên Mèo Vạc mới có. Nó gọi là tre ngoong, tiếng kinh
gọi là cây giang mà” .Cây giang thì tôi
biết, trên Nà Hang, Chiêm hoá thiếu gì? Nhưng không muốn ông phật ý. Men rượu
làm ông đang hứng. Cứ để ông nói, dễ gì được nghe những câu chuyện này. Nhưng
tự dưng ông không nói gì nữa. Có thể là ông chợt nhớ đến bài ca buồn của dân
tộc mình, những bái ca làm day dứt suốt
cuộc đời du cư trên những miền núi cao. Nó là bạn đồng hành với người H’Mông cả
ngàn năm rồi. Không biết nó bắt nguồn từ đâu? Đến đâu thì kết thúc?
Ngày trước ông Giàng Chu ở trên Mèo Vạc. Ông
về đây do biến cố biên giới phía bắc. Ông vẫn giữ nếp sinh hoạt cũ. Xã có làm
cho ông ngôi nhà gọi là nhà Đoàn kết ở khu trung tâm. Ông không thích nên vào mãi
Khuổi Đào làm ngôi nhà tường chình bằng đất. Thứ đất tổ mối mịn, không nứt nẻ.
Mái nhà lợp phên nứa. Những thanh nan phần cuối cong lên trên như lông nhím.
Kiểu nhà này tiện cho hai mùa nóng, lạnh. Mát và ấm. Ai bảo người H’Mông ăn ở
sơ sài?.
Sau buổi
làm quen ấy, tôi và ông Giàng Chu là chỗ thân tình. Người H’Mông hay rượu. Ông
Giàng Chu rượu càng hay. Rượu không uống chén mà chơi bằng bát. Năm bát rượu
với ông chẳng là gì. Tôi có cái
bi đông tàu to ngoại
cỡ. Thứ này mang từ biên giới phía Tây Nam về để nhớ ngày trọi nhau với Pôn
Pốt.
Nó to dềnh dàng
nhưng lên chơi với ông Giàng Chu lại được việc. Ông Chu bảo: “Ở Khuổi Đào chim
trĩ, gà lôi thì có nhưng công thì ít gặp”
Tôi nói: “Ít gặp nghĩa là vẫn còn"
Ông ngần ngại: "Chẳng biết có còn không, để xem đã". Người H’Mông tính vốn thế, Chắc chắn lắm.
Không tiện miệng hứa suông bao giờ. Chuyến đi này tôi lên Khuổi Đào một công
đôi việc. Có khi được chim quý mà cả khèn cũng nên. Anh bạn có phòng tranh ở Hà
Nội cứ hẹn mãi, nhờ tôi tìm cho một chiếc. Tôi chưa kiếm được vẫn lấy làm áy
náy. Mấy lần nhờ ông Phương sẹo mà vẫn chưa thành.
Gần trưa tôi mới tới được nhà ông Giàng Chu.
Tôi buộc con ngựa dưới gốc cây bứa trước nhà, vứt vội cho nó vài đọt lau non.
Con ngựa dáng chừng đói, nhai ngấu nghiến. Từ trong nhà ông Chu nhìn thấy, vội
chạy ra nói lớn:"Thế này không được đâu. Mày không biết thương con ngựa
rồi. Nó cõng mày cũng mỏi chân lắm chứ. Để tao cho nó cái này..” Ông chạy trở vào trong nhà xách ra một ít
ngô hạt đựng trong cái xô cũ, con ngựa mừng rỡ hí vang. Trong nhà có mấy anh
con trai đang làm gì tíu tít, vội lắm. Mùi thịt nướng thơm lựng. Tôi đoán họ
đang nướng gà ăn. Chắc là thịt gà rừng, mùi rất thơm. Tôi hỏi ông:"Nhà có
việc à?" Ông Giàng Chu chẹp miệng:
" Việc gì đâu, uống rượi vui thôi mà"
Lại hỏi: "Sao bây giờ mới lên?". Tôi nói: "Mưa quá cháu không đi được.
Bắt được con công to không bác?"
Ông bảo: "Hơn ba cân" Tôi mừng quá:"Vậy thì tốt rồi, bác
cho xem luôn rồi uống rượi sau".
Ông ngẩn người "Tốt cái gì? Mày lên chậm rồi. Nó gãy một chân, xưng
to, đen tím lại. Tao sợ mày không lên nó chết mất. Vừa cho bọn nó thịt
xong". Tôi choáng cả người. Lặn
lội lên đây thế là công toi rồi! Thấy tôi thần người
ra ông Chu bảo:
"Thôi để hôm nào tao tìm cho con khác". Tôi biết ông nói vậy , nhưng tìm không dễ.
Công chứ đâu phải gà rừng. Gà rừng bây giờ cũng đâu dễ tìm. Rừng kiệt rồi. Ông
Giàng Chu bảo: "Vẫn còn một đôi. Mấy ngày nay tao thấy nó múa ở bãi trống
gần Bát Xứ. Chỗ ấy ba bề bốn bên có rừng, yên tĩnh lắm. Giống này a, hơi động
một tí là nó đi ngay. Bây giờ lỡ rồi, ở đây uống rượu với tao. Thịt công ngon
lắm, mày ăn chưa?" Phải như lúc
khác thì hay, dễ gì được nếm chút thịt công? Món mà chỉ vua chúa mới được ngự
thiện? Nhưng lúc này tôi không thấy thú vị gì, vì tôi đang cầu một con công
đực. Nhưng lỡ rồi, không thể để ông Giàng Chu mất vui. Lại hi vọng ở lần sau
vậy. Con người ta nhiều hi vọng lắm, chỉ khi nhắm mắt mới thôi!
Con công được nướng trên than củi để nguyên
cả con. Tôi không được nhìn ngắm nó lúc còn sống. Chẳng biết nó xinh đẹp thế
nào. Bây giờ nó đen xạm lại, đôi cánh và đôi chân co quắp. Cái cổ nó nghẹo sang
một bên, hai con mắt nó lồi ra đen xì. Dáng hình nó xấu xí hơn cả con gà quay.
Mới biết mỗi loài đẹp mỗi cách. Con gà luộc mỏ ngậm bông hoa làm lễ tơ hồng đẹp
hơn con gà thả ngoài vườn. Con công đẹp theo kiểu khác, khi nó lượn trên vạt
cỏ. Nó đâu phải con thịt ? Tôi chắc bọn người ca tụng: “Nem công chả phượng
" là một lũ tục nhân, sống lấy cái ăn làm đầu. Bao nhiêu khí huyết của
rừng mới tạo ra được nó. Bao nhiêu hương sắc của trời mới làm nên bộ lông óng ả
nhường kia. Bây giờ bộ lông óng ả ấy tơi tả bên bếp lửa. Mấy con chó con đang
nghịch vày, lấy cái mõm đen hôi hám vảy tứ tung.
Tôi
nhặt mấy cái lông còn sót lại như một niềm an ủi, thơ thẩn cả người, quay lại
bàn uống nước. Ông Giàng Chu trải chiếu ngồi xuống đất, thu cái bi
đông rượu vào lòng.
Mấy đứa con ông lạch cạch bát đĩa.
Mọi
khi tôi lên hay bắt chuyện với Hoa, con gái lớn của ông. Cô có đôi mắt sáng,
môi hồng chúm chím , hỏi cái gì cũng "chi pâu, chi pâu "( không biết
) . Hôm nay Hoa không vui. Cô thương con chim xấu số hay vì lẽ gì tôi không
biết mà đôi mắt đỏ hoe, lặng lẽ kéo váy ngồi mép chiếu, rót rượu ra mấy cái
bát.
Từ
cô tỏa ra mùi thoang thoảng, hương rượu
ngô, hương con gái .
Con
công được chặt thành nhiều miếng vuông quân cờ, xếp lên một chót lá chuối. Ông
Giàng Chu bảo: " Thịt nướng không nên bày đĩa , nó mất mùi . Để trên lá ăn
nó mới thơm"
Đến
lúc này tôi mới hỏi ông : “Sao bác không lấy thuốc chữa cho nó? Bác biết cây
thuốc mà?” Ông Giàng Chu tay đã nhón
miếng thịt, lại đặt xuống, vỗ tay vào đùi : “Ừ nhỉ! Sao ta không nghĩ ra? lú
lẫn quá! Bây giờ mày nói tao mới sực nhớ, chứ trong rừng thuốc thiếu gì .. Mọi khi con ngựa nếu không may bị què tao
vẫn lấy thuốc đắp cho nó mà! Chỉ vài ngày là khỏi thôi. Nhưng từ xưa tới giờ có
thấy ai lấy thuốc cho chim đâu?
Tôi ngớ ra, việc này chưa từng có, không
trách ông được. Ở đời người ta hay nghĩ
và
làm theo thói quen, chẳng cứ người H’Mông, ngay các dân tộc khác cũng vậy, làm
khác đi đâu có dễ ?
Nhớ
lần tôi vào rừng với ông, vấp phải gốc cây, ngón chân cái bị sứt ra lòi xương
trắng hếu, máu chảy
ướt đỏ năm đầu ngón
chân, ông chu kiếm quanh, bứt mấy cái lá bỏ vào mồm nhai rồi đắp cho tôi. Chỗ
đứt cầm máu ngay, không thấy buốt nữa. Ông cõng tôi về nhà, dăm hôm sau là
khỏi.
Tôi
hỏi ông đó là thứ thuốc gì, ông bảo :" Rừng nhiều lá thuốc lắm. Lá tao đắp
cho mày gọi là lá tơ nhện” Thứ lá tôi
vẫn thường gặp ven suối , cây nó thân mềm , lá ròn giống cây thanh táo. Người
học võ thường hay dùng nó làm thuốc đòn, chữa giập xương. Nếu ông Giàng Chu
không sơ ý, con công đã được chữa khỏi. Ông tiếc cái cơ hội vừa rồi, không phải
lúc nào cũng gặp và bắt được nó. Giống này là tinh hoa của rừng, ít khi để lộ
ra. Người ta bảo rằng : " Năm nào
đi rừng mà gặp công là năm đó gặp nhiều điều hay. Vùng đất nào có công ở
là vùng đất đang thịnh” Thần rừng
nuôi nó để làm vui riêng cho mình, và
khi cần thì báo hiệu cho con người bằng
sự xuất hiện của nó.
Ông
Giàng Chu gắp cho tôi một miếng thịt. Đây là miếng lườn dưới bụng con chim,
chỉ
có tí xương rất mỏng, cứng. Thịt công nạc hơn thịt gà rừng, không có mỡ. Không
biết có phải vì thế mà nó múa lượn nhanh nhẹn, uyển chuyển, thịt lại ngon hơn
các loại chim khác? Tôi không muốn đem cái hương vị của nó ra kể. Ngại rằng ai
đó nảy ra ý nghĩ muốn ăn thử xem sao, khi đã chán sơn hào hải vị. Lúc đó công
sẽ là đối tượng bị săn lùng ráo riết. Chẳng khác năm nào người ta đi tìm đá đỏ,
đào tan hoang cả một cánh rừng!
Vừa
uống rượu tôi vừa kể cho ông Giàng Chu nghe về anh bạn tôi và con chim mái.
Ông
nheo nheo mắt hỏi : “Bạn mày giàu lắm à ?" Tôi bảo : " Nó cũng nghèo như những
người nghèo
trong tỉnh mình
thôi” Ông lại hỏi :” Nghèo lấy đâu ra
tiền mua công? Đắt lắm đấy! Còn phải nuôi nó nữa chứ, nó không ăn như gà
đâu!"
Tôi nói: "Anh ấy phải đổi một
chiếc xe máy tàu bác ạ! Còn cho ăn cũng dễ, nhà gần quán phở, thịt vụn dễ mua.
Chỉ tiếc cái xe còn mới, chạy chưa được ngàn cây số" Ông Chu tròn mắt:
“Sao nó làm liều thế. Không đắt đến thế đâu" Tôi bảo không đắt, bác còn giữ được con
công vừa rồi tôi cũng xin biếu bác một chiếc". Ông cười rung cả ngực, cả
vai. “Xe máy tao cũng thích nhưng không
biết đi. Lên nương cần gì đến xe máy, nếu lần sau tao bắt được, tao xin cái
tivi màu". Ông lại cười:" Ố, có
khi tao còn thấy người nhà ở trong tivi. Người Mèo núi cao nào chẳng có. Ở trong
Tây Nguyên còn có mà". Người H’Mông có óc thiết thực, hay nghĩ bằng
trực giác, bằng những cái cụ thể.
Chuyện
về con công ao ước ấy làm cho bữa rượu
sinh động hẳn lên. Ông Giàng Chu kể cho tôi nghe về cách bắt công. Giống
chim này tinh khôn, không bắn bằng súng được. Nó thấy mùi thuốc súng từ rất xa.
Thoáng cái là bay mất. Phải đánh bằng bẫy thật khéo léo. Lưới phải nhuộm màu
đất, màu lá cây để nó không nhận ra
được. Nó không phải giống phàm ăn, nên không bẫy bằng mồi. Phải tìm bãi đất
bằng phẳng, cỏ non giăng lưới sẵn. Những bãi này hay gặp ven bờ suối. Nó khôn
là vậy, nhưng lại có nhược điểm chết người. Nó hay nhảy múa và chết vì cái sở
thích của mình. Ấy là khi nó quyến rũ con cái. càng múa lượn nó càng say sưa,
quên cả hiểm nguy rình rập. Hệt như anh
con trai người H’Mông lúc múa, khèn lấp loáng như công xòe đuôi. Bước chân
người rất nhẹ, như không phải đặt trên mặt đất mà là đặt lên đám sương khói
bồng bềnh. Tiếng khèn thấm vào gan ruột, toàn thân run rẩy như người nhập đồng,
dáng dấp không
định hình được nữa,
cứ lơ mơ, nhập nhòa như mơ, như thực. Lúc ấy chẳng chú ý gì đến xung quanh. Con
công cũng vậy, nó sa bẫy chính vào lúc này. Y như con
người, say mê cái gì
là khổ vì cái ấy! Bỏ mạng lúc nào không hay!
Đang bữa, Thào Mìn cùng mấy anh
con trai người H’Mông đến. Tôi thấy lo, thế nào mình cũng bị gay go vì rượu!
Tửu lượng của họ rất cao mà lại mời
không cho từ chối. nếu chối từ sẽ không có lần gặp gỡ thứ hai. Người H’Mông
không ưa ai thì khó mà lấy lại được cảm tình. Tôi nhớ mình có con ngựa, nên
vững tâm, có bị mềm như dưa cũng chẳng sao, cố mà bò lên lưng ngựa. Con ngựa
quen đường sẽ đưa tôi về, khi nào đến nhà ông Phương sẹo mình sẽ làm một giấc, tỉnh lại cưỡi xe Min về. Giàng Thào Mìn còn
trẻ. Anh chàng đang định cướp A Hoa về làm vợ. Gọi là cướp cho đúng với phong
tục, thực ra con trai con gái người H’Mông bây giờ khác rồi, có yêu nhau mới
cướp được người mình yêu về làm vợ. Phải thổi nóng cây khèn, nhảy cho ran mặt
đất, cho nhau bằng lòng và cũng để cái ma cảm thông đừng ngăn trở. Suối đừng
quá sâu, núi đừng quá cao, mây giăng đừng che khuất lối đi về...
Tôi
định đi tìm, thật may Thào Mìn lại đến.
Ông Giàng Chu gắp cho mỗi người mới đến một miếng thịt, miệng giục" Uống
rượu đi, chốc nữa nói" Mấy anh
trai bản nâng chén rượu, cánh tay đưa
rất thẳng mời chúng tôi, nhưng vẫn có vẻ khép nép.Vì đến nhà người yêu của bạn,
hay thấy tôi là người lạ nên không được tự nhiên? Chỉ riêng Thào Mìn có vẻ sắc
sảo.
Những
cuộc vui như thế này, người xóm Khuổi Đào đều có mặt. Hễ kiếm được con gì, đều
cùng nhau vui. Có khi chỉ một con sóc cũng hết bay cả can ba lít. Tự nhiên tôi
thèm cái quấn quýt hồn nhiên của họ. Như thể trời đất mới sinh ra họ vậy, chưa
vướng bụi trần .
Bà
Giàng Chu bưng lên cái chõ đồ xôi bằng gỗ bên trong xếp đầy ngô nếp hãy còn non, cả bẹ . Hơi
nóng bốc lên nghi
ngút ngào ngạt. Ngô sôi kiểu này ăn rất ngọt, không dính tay. Bà đưa mỗi người
một quả. Đó là cách mời tận tình, đưa tận tay. Tôi yên lặng vừa ăn ngô vừa nghe
chuyện. những câu chuyện nửa tiếng kinh, nửa tiếng H’Mông. Có câu tôi hiểu, có
câu không. Nhưng khi thấy họ cười rộ lên, tôi cũng cười.
Ông
Giàng Chu khoe: "Tao cho chúng mày xem cái này".Rồi ông đứng lên, mở
cái hòm xưa đựng đạn pháo lấy ra tờ giấy. Ông bảo Thào Mìn đọc. Đó là giấy
chứng nhận ông là tuyên truyền viên văn hóa giỏi. Ông bảo tôi:"Hôm nào lên
mua tao cái khung kính. Không phải tao ham cái oai, mà vì để bọn nó hiểu tao
tốt với người H’Mông như thế nào. Tình cảm của tao mà". Tôi biết là ông thực lòng. Tuy chẳng chức
sắc gì, ông luôn là trung tâm, là cái hạt nhân của xóm người H’Mông này. Như
cái trống bọc da trâu treo sát mái kia, báo mọi chuyện vui buồn.
Tôi
bưng bát rượu lại gần Thào Mìn. Anh lánh ra một chút cho tôi ngồi, vừa cười vừa nói:"Mới lên à?" Tôi
gật đầu hỏi anh:" Ông Chu đã bảo gì với anh chưa" Thào Mìn hiểu ý ngay bảo:"Nó nói rồi,
uống rượu đã". Tôi hỏi thêm cho
chắc:"Có không?" Thào Mìn gật đầu: "Mấy cái kia". Tôi mừng
thầm, mong cho cuộc rượi mau kết thúc, vì nó thường kéo dài rất lâu, có khi qua
đêm suốt sáng. Rượu say lăn ra ngủ, rồi lại uống tiếp!
Thào Mìn không có thói quen ấy. Anh uống
chừng ba bát rồi lại gần bếp nói gì đó với A Hoa. Cô không nói gì, chỉ gật đầu,
tay gạt gạt thanh củi. Quay ra, Thào Mìn bảo tôi: "Tôi mượn con ngựa đi
lấy khèn về cho". Tôi dặn
anh:" Nó hơi bướng, anh cẩn
thận". Ông Giàng Chu vỗ vai tôi:
"Không lo, nó cưỡi được mà,
có phải hổ
đâu". Thào Mìn nhảy phóc lên lưng
ngựa, anh khuất sau rừng cây rất mau, sành điệu hơn cả tôi.
Anh
đi chừng nửa tiếng thì quay lại. Lúc này cuộc rượu đã lưng lửng. Ông Giàng Chu
lấy cây khèn ra cho đám thanh niên. Anh nọ dùn anh kia, chưa ai nhận. Thào Mìn
về, tất cả đều quay lại. Anh cầm trên tay những hai cây khèn mà mặt ỉu sìu sìu.
Anh đưa tôi một cây giọng rất buồn, chẳng như lúc ban đầu:"Anh không may
rồi. Trận lốc vừa rồi ác quá. Nó làm rơi cây xà vào giập hết khèn rồi. Tôi để
trên gác mà. May mà chưa đổ nhà"
Tôi hỏi :"Còn dùng được không?" Anh bảo không được đâu, thứ này hỏng một ống
thổi không được đâu." Ông Chu bực
bội:"Trời bây giờ ác quá. Hôm rồi còn bẻ gẫy cả rừng đào, quả hãy non lắm.
Mất cây, rừng nó đâm ốm mà". Nhìn
cây khèn giập, tôi như người hụt hẫng,
chẳng muốn nói gì nữa.
Thào
Mìn an ủi tôi: "May mà bầu nó còn nguyên, như rừng mất cây nhưng còn đất
mà. Tôi sẽ làm lại cho".
Ông Giàng Chu cũng nói: “Mày lên
phải ngày xấu rồi. Không được việc gì cả. Thôi, tao sẽ tìm cách giúp cho. Hôm
nào lên mà lấy. Hay mày không định lên chơi nữa hả?" Tôi vội nói: “Không,
cháu còn lên nữa chứ". Mà tôi còn lên thật. Duyên nợ với rừng tôi nào đã
xong?
Nhưng giờ phải về, con ngựa tôi mượn phải trả
để ông Phương mai sang Yên Nguyên thăm người nhà. Con ngựa như có phần uể oải,
cho thêm ít ngô nó cũng chẳng buồn ăn. Tôi mới lên suối Hoa Đào một ngày mà bao
nhiêu là chuyện ..
Rừng
ơi là rừng!
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét