Phạm Việt Hưng
Abstract: Buddha said: “Three things cannot be long hidden: The Sun, the Moon, and the Truth”. The truth of Evolutionism has been hidden for a long time, but now it cannot be hidden longer. In 1987, Soren Lovtrup, a famous Swedish biologist, predicted: “one day the Darwinian myth will be ranked the greatest deceit in the history of science”. Yes, Darwinism was really the worst mistake in science!
Tóm tắt: Đức Phật nói: “Ba thứ không thể che đậy được mãi: Mặt trời, Mặt trăng, và Sự thật”. Sự thật của thuyết tiến hóa đã bị che đậy bấy lâu nay, nhưng giờ không thể che đậy được nữa. Năm 1987, nhà sinh học Thụy Điển nổi tiếng Soren Lovtrup tiên đoán: “một ngày nào đó câu chuyện hoang đường của học thuyết Darwin sẽ được xếp hạng như sự lừa gạt lớn nhất trong lịch sử khoa học”. Vâng, học thuyết Darwin quả thật là sai lầm tệ hại nhất của khoa học!
CHÚ Ý: Toàn bộ các bài viết về SINH HÓA (bao gồm Thuyết Tiến hóa) trên trang PVHg’s Home (viethungpham.com) đã được sắp xếp đày đủ theo thứ tự thời gian tại địa chỉ sau đây:
Nếu ai đó cảm thấy bị “sốc” khi đọc ý kiến của Soren Lovtrup ở trên, xin mở cuốn sách của ông: “Darwinism: The Refutation of a Myth” (Bác bỏ chuyện hoang đường của học thuyết Darwin), do Croom Helm xuất bản tại New York năm 1987. Đó là một trong những cuốn sách phê phán học thuyết Darwin mạnh mẽ nhất, làm cho các nhà tiến hóa lo lắng, tức tối, tìm mọi cách để chống đỡ.
Chẳng hạn, họ cho đăng bài báo “Was Darwin wrong?” (Phải chăng học thuyết Darwin sai?) trên tạp chí National Geographic, trong đó trả lời: KHÔNG (học thuyết Darwin không sai), bằng chứng của tiến hóa tràn ngập khắp nơi! Nhưng ngay lập tức, nhà động vật học nổi tiếng Thụy sĩ Ariel Roth lên tiếng phản bác:
“…phần lớn chứng cứ khoa học được trình bầy trong bài báo ủng hộ thuyết tiến hóa này lại nghèo nàn đến mức đáng ngạc nhiên. Hầu hết đều nói về những biến đổi rất nhỏ trong sinh vật, làm ra vẻ như chúng tiến hóa từ loài này sang loài khác. Đây cũng là những gì Darwin từng nói. Bài báo đã tảng lờ vấn đề hóc búa nhất của tiến hóa là làm thế nào để toàn bộ cuộc sống bắt nguồn từ chính nó như thuyết tiến hóa đề xuất?” (trích “Where did life come from”, Ariel Roth).
Uy tín của tạp chí National Geographic không đủ để bênh vực bài báo “Was Darwin Wrong?”, vì nó không đưa ra được chứng cứ đủ mạnh, và cố tình tảng lờ bài toán khó nhất là sự sống bắt đầu từ cái gì, như thế nào, và tảng lờ vấn đề cốt lõi của tiến hóa là làm thế nào để sinh vật tiến hóa từ loài này thành loài khác.
Thực ra, không cần phải tranh luận dài dòng, chỉ cần chất vấn các nhà tiến hóa bằng một câu hỏi duy nhất: “Làm thế nào để loài khỉ (hoặc vượn, tinh tinh) với 54, hoặc 48, hoặc 42 nhiễm sắc thể có thể biến thành loài người với 46 nhiễm sắc thể?” [1].
Theo sinh học phân tử, số nhiễm sắc thể của mỗi loài là cố định, và là một trong những đặc trưng của loài. Vì thế, khỉ hoặc vượn hoặc tinh tinh không thể và không bao giờ có thể biến thành người. Vì Darwin không biết gì về DNA và nhiễm sắc thể nên ông mới tưởng tượng ra chuyện lố bịch là khỉ (hoặc vượn, tinh tinh) tiến hóa thành người.
Theo Francis Collins, tác giả cuốn “The Language of God” (Ngôn ngữ của Chúa), mã di truyền được cài đặt trong DNA là ngôn ngữ của Chúa. Giới tiến hóa và những kẻ vô thần không có cách nào chống lại quan điểm này, vì họ không thể không thừa nhận DNA là một chương trình, nhưng không làm thế nào mà giải thích được vì sao có chương trình đó. Nói cách khác, giới tiên hóa đã vi phạm một định luật của khoa học thông tin, rằng “Bất kỳ một chuỗi thông tin nào cũng có thể tìm được dấu vết đi ngược trở về một nguồn trí tuệ thông minh” (Any given chain of information can be traced backward to an intelligent source).
DNA là một chuỗi thông tin, ắt phải có nguồn trí tuệ thông minh của nó. Đối với Collins, đó là Chúa. Đối với những người theo thuyết thiết kế thông minh (intelligent design theory), đó là Nhà thiết kế vĩ đại. Nhưng các nhà tiến hóa không công nhận Chúa, không thừa nhận có nhà thiết kế vĩ đại, mà “đổ thừa” cho tự nhiên. Nhưng “tự nhiên” là cái gì? Nếu “tự nhiên” chỉ là thế giới vật chất thông thường thì tự nó làm sao tạo ra chương trình được (chú ý rằng một chương trình bản thân nó không phải là vật chất, mà là một quy tắc tương tác của vật chất)? Làm thế nào để các nguyên tử kết hợp lại với nhau một cách NGẪU NHIÊN hoặc may rủi mà có thể tạo ra những tổ chức phức tạp, có cơ chế chặt chẽ, hoạt động theo những quy tắc xác định, thông minh, thậm chí có ý thức như loài người? Đó là chuyện không tưởng mà thuyết tiến hóa tuyên bố là CÓ THỂ. Điều này có thể ví như một cái cốc chứa 1000 bộ chữ cái trong tiếng Việt, rồi đổ tất cả các chữ cái đó ra mặt bàn giống như gieo súc sắc hay tung đồng xu, tính xác suất để các chữ cái sắp xếp ngẫu nhiên thành một áng văn hay, chẳng hạn như truyện Kiều. Toán học thừa sức tính xác suất đó, nhưng chẳng cần phải giỏi toán, chỉ cần có trực giác tốt cũng cảm nhận được rằng đó là chuyện KHÔNG THỂ, xác suất ấy coi như bằng 0. Cái gọi là DNA xuất hiện ngẫu nhiên từ sự kết hợp may rủi của các nguyên tố là chuyện không tưởng bịa đặt ngớ ngẩn nhất mà ta có thể thấy trong khoa học.
Ngược lại, những người tán thành quan điểm của Collins sẽ thấy mọi chuyện trở nên dễ hiểu. Thật vậy, mặc dù ngôn ngữ mà Chúa sử dụng để chương trình hóa hoạt động của mọi sinh vật đều là DNA, nhưng mỗi loài đã được cài đặt một chương trình riêng. Không có chương trình của loài nào tự biến đổi thành chương trình của loài khác. Một chương trình computer có thể hỏng, lỗi, chứ không bao giờ tự nó biến đổi thành một chương trình khác. Nếu một chương trình được thay đổi, ắt phải có sự can thiệp của người viết chương trình. Nếu Chúa muốn sáng tạo ra loài người, Ngài không cần phải làm cái việc mất thì giờ là sửa chữa chương trình của khỉ dần dần từng tí từng tí một qua hàng trăm triệu năm như Darwin nói. Mọi computer đều dùng ngôn ngữ cơ bản là hệ nhị phân, chỉ có 2 chữ cái là 0 và 1, nhưng loài người đã tạo ra không biết bao nhiêu chương trình kỳ diệu. Apple không dùng hệ điều hành của Microsoft mà vẫn tạo nên những chương trình riêng biệt tuyệt vời. Sự đa dạng và phong phú của các phần mềm trong công nghệ thông tin hiện nay không phải do các phần mềm tự tiến hóa, mà do sự sáng tạo của con người. Sự đa dạng và phong phú của thế giới sinh vật cũng không phải do tiến hóa mà có, mà do sự sáng tạo của Nhà thiết kế vĩ đại. Nhà thiết kế ấy không chỉ sáng tạo ra vật chất, mà còn sáng tạo ra các quy tắc tương tác của vật chất, buộc vật chất hoạt động theo những quy tắc đó. Sự di truyền thực ra là những hoạt động vật chất tuân thủ những lệnh đã được cài đặt trong DNA. Tự nhiên không thể tự nó viết ra những lệnh đó, mà nhận được từ Bà Mẹ Tự nhiên (The Mother Nature), tức nhà thiết kế vĩ đại.
Thực ra không cần tới những hiểu biết hiện đại của sinh học phân tử, chỉ cần kiến thức của khoa học thế kỷ 19 cũng đủ để bác bỏ Darwin. Thật vậy, trong khi giới vô thần trong thế kỷ 19 tôn sùng học thuyết Darwin vì nó phù hợp với những tham vọng làm chủ thế giới của họ, Louis Pasteur và Gregor Mendel là những nhà tư tưởng vĩ đại của thế kỷ 19 đã gián tiếp hoặc trực tiếp bác bỏ Darwin.
Trái ngược 100% với phương pháp nghiên cứu vô bằng của Darwin, mọi thành tựu khoa học của Pasteur và Mendel đều dựa trên những thí nghiệm chính xác không thể chối cãi.
Kết luận quan trọng nhất rút ra từ các định luật di truyền của Mendel là ở chỗ các đặc điểm của sinh vật được BẢO TOÀN trong quá trình di truyền; đặc điểm di truyền của con cái được quyết định hoàn toàn bởi các đặc điểm của cha mẹ – con cái không bỗng nhiên có những đặc điểm di truyền mới lạ mà cha và mẹ không có.
Không may cho Darwin, ông không biết gì về Mendel, nhưng lại tiếp thu tư tưởng di truyền sai lầm của Jean Baptiste Lamarck về cái gọi là “những đặc điểm mới giành được” (acquire straits) – những đặc điểm không phải do bẩm sinh, mà hình thành sau khi sinh vật ra đời, trong quá trình tương tác với môi trường sống. Theo Lamarck, những đặc điểm mới giành được này có thể di truyền lại cho các thế hệ nối tiếp. Điều này hoàn toàn trái với các định luật của Mendel, như vừa nói ở trên. Chẳng hạn, theo cách suy nghĩ của Lamarck và Darwin, để ăn những thứ hoa quả trên cao, con vật cần phải có cái cổ vươn cao. Nó cứ vươn cổ lên cao mãi mãi. Điều đó dẫn tới một “biến dị có lợi” (một loại đặc điểm mới giành được) là cổ cao lên một tí (?). Một cơ chế thần kỳ không biết từ đâu ra được gọi là “chọn lọc tự nhiên” sẽ khôn ngoan “nói nhỏ” với sinh vật rằng hãy chọn những biến dị có lợi này để di truyền lại cho đời sau. Qua hàng triệu năm, những cái vi phân “cổ cao lên một tí” sẽ tích phân lại để con vật biến thành một loài cổ cao, đó là hươu cao cổ (!).
Đây chính là một trong những câu chuyện thần tiên điển hình do Charles Darwin kể. Chuyện thần tiên này đánh lừa được trước hết chính bản thân Darwin – vì ông không biết gì về Mendel và do đó không biết rằng những “đặc điểm mới giành được” không thể di truyền. Sinh học phân tử hiện đại giúp Mendel giải thích rõ hơn vì sao những “đặc điểm mới giành được” không được di truyền – đơn giản vì chúng không hề làm THAY ĐỔI DNA.
Vì thế sẽ không có gì cường điệu khi nói rằng chừng nào còn coi thuyết tiến hóa là một khoa học thì chừng ấy vẫn chưa thấu hiểu các định luật di truyền do Mendel khám phá. Ngược lại, nếu đã thực sự thấu hiểu các định luật do Mendel khám phá thì ắt phải bác bỏ học thuyết Darwin, không thể coi đó là một lý thuyết khoa học, mà chỉ là một giả thuyết thuần túy.
Hoàn toàn tương tự về Pasteur: chừng nào còn coi thuyết tiến hóa là một khoa học thì chừng ấy vẫn chưa thấu hiểu 2 định luật về sự sống do Pasteur khám phá. Ngược lại, nếu đã thực sự thấu hiểu 2 định luật về sự sống do Pasteur khám phá thì ắt phải bác bỏ học thuyết Darwin, không thể coi đó là một lý thuyết khoa học, mà chỉ là một chuyện kể hư cấu.
Định luật thứ nhất về sự sống do Pasteur khám phá khẳng định rằng sự sống là bất đối xứng – sự sống chỉ thuận tay trái (để hiểu rõ vấn đề này, xin đọc các bài “Pasteur và Chúa” và “Tại sao sự sống thuận tay trái?” trên PVHg’s Home). Định luật này giáng một đòn chết người vào thuyết tiến hóa, vì thuyết này nói rằng sự sống đầu tiên hình thành do sự kết hợp ngẫu nhiên của các nguyên tử. Nhưng làm thế nào mà sự kết hợp ngẫu nhiên ấy lại tạo ra một phân tử hữu cơ chỉ thuận tay trái, trong khi xác suất để một phân tử hữu cơ thuận tay trái hoặc tay phải là 50-50? Theo lý thuyết xác suất, xác suất để tung một đồng xu xấp hay ngửa là như nhau. Hoàn toàn tương tự, sự hình thành một phân tử hữu cơ thuận tay trái hoặc tay phải là như nhau. Nhưng cớ sao sự sống chỉ thuận tay trái? Đã 167 năm trôi qua, kể từ ngày Pasteur nêu lên định luật này như một thách thức đối với khoa học nói chung và thuyết tiến hóa nói riêng, đến nay vẫn không có câu trả lời. Những phòng thí nghiệm tối tân nhất trên khắp thế giới đã lao vào tổng hợp acid amin, một thành phần cơ bản của sự sống, hòng chứng minh sự sống có thể ra đời từ sự kết hợp ngẫu nhiên của các nguyên tử, phân tử, làm bằng chứng cho thuyết tiến hóa. Nhưng, sau rất nhiều nỗ lực, họ KINH NGẠC nhận ra rằng khoa học chỉ tạo ra được những phân tử acid amin KHÔNG SỐNG, tức là phân tử hữu cơ thuận cả 2 tay – KHÔNG CÓ CÁCH NÀO tạo ra phân tử hữu cơ thuận tay trái và chỉ thuận tay trái, để cuối cùng phải cay đắng thừa nhận rằng PASTEUR ĐÚNG, rằng đặc trưng của sự sống là thuận tay trái và chỉ thuận tay trái, và rằng con người không thể tạo ra sự sống thuận tay trái từ các chất vô cơ. Sự bế tắc trong việc giải thích tại sao sự sống thuận tay trái và sự bất lực trong việc tổng hợp sự sống thuận tay trái từ các chất vô cơ đã đẩy các nhà tiến hóa tới chỗ “đổ thừa” cho vũ trụ. Họ reo mừng khi tìm thấy những thiên thạch rơi vào trái đất chứa phân tử acid amin thuận tay trái, thế là họ lớn tiếng nói rằng sự sống trên trái đất bắt nguồn từ vũ trụ. Nhưng tại sao vũ trụ lại tạo ra sự sống thuận tay trái? Họ vẫn bế tắc, không trả lời được. Có nghĩa là lý thuyết cho rằng sự sống đầu tiên hình thành từ sự kết hợp “ngẫu nhiên” của các nguyên tử vẫn chỉ là chuyện nói láo.
Định luật thứ hai do Pasteur khám phá nói rằng sự sống chỉ ra đời từ sự sống. Nói cách khác, sự sống không thể sinh ra từ sự kết hợp ngẫu nhiên của các vật chất không sống. Đây là sự bác bỏ trực tiếp đối với thuyết tiến hóa. Định luật này là kết quả của một thí nghiệm nổi tiếng có tên là “thí nghiệm bình cổ cong” hoặc “thí nghiệm bình cổ thiên nga” (Swan neck experiment) (để hiểu rõ vấn đề này, xin đọc các bài “Pasteur và Chúa” và “Pasteur và nhân loại trên PVHg’s Home). Thí nghiệm ấy đập tan ảo tưởng của cái gọi là “spontaneous generation” (sự hình thành sự sống một cách tự phát). Thuyết sự sống tự phát nói rằng sự sống hình thành một cách tự phát từ sự kết hợp ngẫu nhiên của các nguyên tử, phân tử vô cơ. Thí dụ, từ một xác động vật thối rữa bỗng nhiên nẩy sinh ra dòi bọ. Dòi bọ là những sinh vật sinh ra một cách tự phát từ không khí. Đó là một niềm tin cổ xưa, ít nhất từ nền văn hóa cổ Hy Lạp. Thuyết tiến hóa đã tiếp thu niềm tin đó để giải thích sự ra đời của sự sống đầu tiên. Nhưng những ai đã thấm nhuần định luật sự sống chỉ đẻ ra từ sự sống do Pasteur nêu lên thì sẽ thấy ngay rằng thuyết tiến hóa đơn giản chỉ là một sự ngoan cố trước sự thật không thể chối cãi. Nếu không chứng minh được sự sống ra đời từ sự kết hợp ngẫu nhiên của các nguyên tử thì buộc phải thừa nhận có sự can thiệp từ bên ngoài. Pasteur tuyên bố gần như thách thức: “Đừng đưa ra bất cứ cái gì mà bạn không thể chứng minh bằng thực nghiệm”. Tuyên bố này ám chỉ rõ ràng đến thuyết tiến hóa, cụ thể là những công trình của Darwin, vì lý thuyết này hoàn toàn không có bằng chứng, chỉ toàn những giả thuyết phỏng đoán, không hề có bất kỳ một chứng minh thực tế nào cả. Nếu Darwin đúng, hãy đưa ra bằng chứng. Nếu không, chỉ là nói láo. Bằng chứng mạnh nhất của Darwin nếu có, chắc chắn chỉ có thể là xương hóa thạch của những loài chuyển tiếp trong quá trình tiến hóa đã tuyệt chủng. Nhưng không có bằng chứng hóa thạch nào cả. Đây là điểm yếu nhất mà chính Darwin đã phải thú nhận rằng nó sẽ chống lại lý thuyết của ông, như chúng ta sẽ thấy ở phần dưới của bài viết này.
Với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ ngày nay, tính ngụy khoa học và phản tự nhiên của thuyết tiến hóa đã lộ ra rõ ràng đến nỗi những người không chuyên ngành về sinh học cũng có thể nhận thấy. Điển hình là trường hợp của Phillip Johnson, một giáo sư luật tại Đại học California ở Berkeley, trở thành một trong những nhà tiên phong trong sự nghiệp giành lại sự thật cho sinh học – tố cáo sự vi phạm luật tự nhiên của học thuyết Darwin. Trong hơn 20 năm qua Johnson liên tiếp cho ra mắt một loạt tác phẩm phê phán thuyết tiến hóa, thậm chí với tư cách một học giả về luật pháp, ông nêu câu hỏi thách thức: “Thuyết tiến hóa có thể chứng minh được tại một phòng xử án hay không?” (Can Evolution be proved in a courtroom?).
Câu hỏi ấy là lời giới thiệu cuốn “Darwin on Trial” (Darwin được đem ra xét xử) xuất bản năm 1991. Năm 1997, ra mắt cuốn “Defeating Darwinism by Open Minds” (Đánh bại học thuyết Darwin bằng tư duy mở). Năm 2006, ra mắt cuốn “Darwinism’s Nemesis” (Sự báo ứng đối với Darwin),….
Trong bài “Tại sao sự sống thuận tay trái?” trên PVHg’s Home ngày 22/08/2015, tôi đã giới thiệu cuốn video “Richard Dawkins stumped by creationists’ question” (Richard Dawkins bị bí bởi câu hỏi của những người theo thuyết sáng tạo). Xin nhắc lại rằng Richard Dawkins là một nhà tiến hóa học nổi tiếng. Khi được hỏi “liệu ông có bằng chứng nào để chứng minh cho sự tiến hóa hay không?”, Dawkins đã ngớ người ra, im lặng suy nghĩ một lúc rất lâu không trả lời được, đơn giản vì làm gì có bằng chứng. Hôm nay tôi xin giới thiệu thêm 2 videos bác bỏ Darwin:
The Great Evolution Hoax (Trò đánh lùa vĩ đại về tiến hóa)
https://www.youtube.com/watch?v=w8k_Ja34ymQ
https://www.youtube.com/watch?v=w8k_Ja34ymQ
DNA is the Greatest Enemy of Evolution Theory (DNA là kẻ thù lớn nhất của Thuyết Tiến hóa)
https://www.youtube.com/watch?v=ZHQYj3xfo9w
https://www.youtube.com/watch?v=ZHQYj3xfo9w
Toàn bộ thuyết tiến hóa, kể từ cuốn “Về nguồn gốc các loài” (1859) và cuốn “Nguồn gốc loài người” (1871) của Darwin đến những lý thuyết hiện đại sau này, đều là những giả thuyết tưởng tượng, những phỏng đoán không chắc chắn. Phỏng đoán “vĩ đại” nhất của Darwin là sự tồn tại của những thế hệ quá độ chuyển tiếp giữa các loài – vì sự tiến hóa diễn ra liên tục và dần dần tứng tí một (continuously and gradually) nên nếu loài A tiến hóa để biến thành loài B thì ắt phải có những loài trung gian nằm giữa A và B, được gọi là những thế hệ hay những mắt xích quá độ chuyển tiếp trong chuỗi tiến hóa từ A đến B. Những thế hệ này đã tuyệt chủng, nhưng theo Darwin, hóa thạch của chúng ắt phải nằm dưới lòng đất với số lượng lớn, và trước sau khoa học sẽ tìm thấy và phải tìm thấy. Nhưng phỏng đoán ấy càng “vĩ đại” bao nhiêu thì Darwin càng lo lắng bấy nhiêu về việc liệu có tìm thấy lượng hóa thạch đó hay không. Nếu không, lý thuyết của ông sẽ lâm nguy. Vâng, chính Darwin đã bầy tỏ nỗi lo lắng này trong cuốn “Về nguồn gốc các loài” (Chương 9) như sau:
“… số lượng những sinh vật chuyển tiếp quá độ, vốn đã tồn tại trên trái đất, thật sự là khổng lồ. Nhưng tại sao mọi tầng vỉa địa chất không chất đầy những mắt xích chuyển tiếp quá độ đó? Khoa địa chất chắc chắn không tìm thấy bất kỳ một sợi dây xích hữu cơ biến đổi dần dần từng tí một nào như thế; và có lẽ điều này là sự chống đối rõ ràng nhất và nghiêm trọng nhất có thể được nêu lên để chống lại lý thuyết của tôi”.
Có nghĩa là ngay trong thời của Darwin, người ta đã ra công đào xới, tìm kiếm hóa thạch của các thế hệ chuyển tiếp quá độ, và không tìm thấy gì cả. Từ đó đến nay, 156 năm đã trôi qua, kể từ ngày cuốn “Về nguồn gốc các loài” ra đời, vẫn chẳng hề tìm thấy gì cả. Thời gian đã quá đủ để thấy sự thật, rằng KHÔNG TỒN TẠI những thế hệ chuyển tiếp, đơn giản vì KHÔNG CÓ SỰ TIẾN HÓA. Nói cách khác, phỏng đoán “vĩ đại” của Darwin là SAI – sai vì tin rằng có tiến hóa.
Một lần nữa xin nhấn mạnh rằng Darwin ý thức rất rõ rằng vấn đề hóa thạch sẽ quyết định “sinh mạng lý thuyết” của ông. Bằng chứng là ông dành hẳn một chương trong cuốn “Về nguồn gốc các loài” để bàn về vấn đề này. Đó là Chương 9, nhan đề “On the Imperfection of the Geological Record” (Về thiếu sót trong hồ sơ địa chất), trong đó ông viết: “Sự giải thích, như tôi tin, nằm trong sự cực kỳ thiếu sót của hồ sơ địa chất”.
Thế đấy, Darwin đã cảnh báo rằng hồ sơ địa chất (tìm hóa thạch) là cực kỳ thiếu sót.
Đó là lý do để các đệ tử của Darwin phải tìm mọi cách lấp đầy khoảng trống tiến hóa từ vượn lên người. Họ dựng lên bức tranh tiến hóa “rất đẹp” từ vượn lên người, rồi cho phổ biến rộng rãi, nhằm tiêm nhiễm vào đầu óc mọi người, đặc biệt là trẻ em, rằng thuyết tiến hóa là một sự thật. Với công nghệ 3D hiện đại, bức tranh tiến hóa được bịa ra bằng những xảo thuật đánh lừa bậc thầy, chẳng hạn như bức tranh sau đây:
Nhưng những hóa thạch mà họ lấp đầy khoảng trống từ vượn lên người thực ra đều là những là những loài khỉ hoặc vượn 100% đã tuyệt chủng, hoặc đôi khi là hóa thạch người 100% thời tiền cổ đại. Họ lừa được đa số mọi người, vì đa số là những người không chuyên. Nhưng họ không lừa nổi các chuyên gia sinh học trung thực. Chẳng hạn như Michael Denton, một nhà sinh học phân tử nổi tiếng của Úc, tác giả cuốn ““Evolution: A Theory in Crisis” (Tiến hóa: Một lý thuyết đang khủng hoảng), xuất bản năm 1985, trong đó viết:
“Bất chấp những nỗ lực khổng lồ trong việc đào xới địa chất ở khắp nơi trên trái đất và bất chấp việc khám phá ra nhiều dạng động vật kỳ lạ trước đây chưa hề biết, số lượng vô cùng lớn những mắt xích liên kết chuỗi tiến hóa bị mất tích vẫn chưa được tìm thấy và hồ sơ hóa thạch hầu như vẫn gián đoạn như khi Darwin viết cuốn Về Nguồn gốc các loài”.
“Bất chấp những nỗ lực khổng lồ trong việc đào xới địa chất ở khắp nơi trên trái đất và bất chấp việc khám phá ra nhiều dạng động vật kỳ lạ trước đây chưa hề biết, số lượng vô cùng lớn những mắt xích liên kết chuỗi tiến hóa bị mất tích vẫn chưa được tìm thấy và hồ sơ hóa thạch hầu như vẫn gián đoạn như khi Darwin viết cuốn Về Nguồn gốc các loài”.
Hoảng sợ trước việc không tìm thấy hóa thạch dưới lòng đất, các nhà tiến hóa nghĩ ra cách tìm “hóa thạch sống”. Đó là trường hợp đầu thế kỷ 20, họ đổ vấy cho người Aborigines (thổ dân) ở Australia chính là một loại “người-khỉ/khỉ-người” – một trong những cái được gọi là missing links (mắt xích chuyển tiếp bị mất tích) mà họ cần tìm kiếm để cứu vãn thuyết tiến hóa. Những cuộc truy lùng, săn bắt, thảm sát thổ dân đã diễn ra nhằm lấy hộp sọ nghiên cứu. Đó là một trang lịch sử đen tối của Úc, một vết thương âm ỉ trong lòng xã hội Úc đến nay vẫn chưa lành. Ngày nay ai cũng biết rõ đó là một tội ác của những kẻ nhân danh thuyết tiến hóa, vậy mà thuyết tiến hóa vẫn được tung hô, bằng cách bịt mắt lại để không nhìn thấy những hậu quả phi nhân mà nó đã gây ra trên thế giới, đỉnh cao là chủ nghĩa quốc xã Đức đầu thế kỷ 20. Phải mất nhân tính đến mức độ nào nữa thì người ta mới đủ dũng cảm để nhìn thẳng vào sự thật để kết tội thuyết tiến hóa? Câu hỏi của Grenville Kent trên tạp chí SIGNS of the Times của Australia: “What Darwin taught Hitler?” (Darwin đã dạy Hitler điều gì?) vẫn không có nhà tiến hóa nào dám lên tiếng trả lời. Họ biết trả lời sao đây? Bởi chính ông thầy của họ, Charles Darwin đã dạy họ rằng “trong một thời gian không xa lắm, có thể tính bằng số thế kỷ, các chủng tộc văn minh hầu như sẽ tiêu diệt các chủng tộc man rợ trên khắp thế giới”.
Hình bên: “Không có Học thuyết Darwin, đặc biệt các lý thuyết con của nó như thuyết ưu sinh và Darwin xã hội, cả Hiler lẫn những phần từ quốc xã đi theo hắn đều sẽ không có một chỗ dựa khoa học cần thiết để tự thuyết phục mình và thuyết phục những kẻ hợp tác với chúng rằng một trong những sự độc ác kinh khủng nhất lại thực sự đáng được ca ngợi về mặt đạo đức” (Richard Weikart, nhà lịch sử tại Đại học Tiểu bang California).
Đó là hệ quả tất yếu của lý thuyết đấu tranh sinh tồn mạnh được yếu thua, cái được coi là động lực của tiến hóa. Hitler chỉ đơn giản là áp dụng lý thuyết đó vào xã hội loài người mà thôi. Chính Darwin đã lát đường cho Hitler! Chính Darwin đã cung cấp cho chủ nghĩa phân biệt chủng tộc một cơ sở ngụy khoa học để nó tiến hành những hành vi phản nhân loại nhân danh tiến hóa. Lý Tôn Ngô ở Trung Hoa đầu thế kỷ 20 đã vạch trần bản chất phi nhân này trong học thuyết Darwin.
Nhưng học thuyết Darwin mất uy tín không chỉ vì chủ nghĩa quốc xã. Lý do chủ yếu để nó mất uy tín là ở bản chất phi khoa học, hay chính xác hơn, bản chất phản khoa học của nó.
Nó phi khoa học vì vô bằng chứng: “Lý thuyết của Darwin về nguồn gốc các loài không có lấy một sự kiện thực tế nào để xác nhận nó trong thế giới tự nhiên. Nó không phải là kết quả của nghiên cứu khoa học, mà thuần túy chỉ là sản phẩm của tưởng tượng” (trích đoạn trang 13, cuốn Witnesses Against Evolution (Những bằng chứng chống lại thuyết tiến hóa) của John Meldau, do Christian Victory Publishing xuất bản năm 1968 tại Denver, Mỹ).
Nó phản khoa học vì toàn bộ lý thuyết của nó dựa trên một cơ chế phi hiện thực – sự chọn lọc tự nhiên dẫn tới những biến dị có lợi qua hàng triệu, hàng tỷ năm biến loài này thành loài khác. Michael Denton gần như giận dữ bác bỏ cơ chế này:
“Không ở đâu Darwin có thể chỉ ra một trường hợp đích thực của chọn lọc tự nhiên đã thực sự gây ra biến đổi tiến hóa trong tự nhiên… Rốt cuộc, lý thuyết tiến hóa của Darwin không hơn không kém một câu chuyện hoang đường về nguồn gốc vũ trụ trong thế kỷ 20” (trích trang 62, 358, “Evolution, A Theory in Crisis” (Tiến hóa: Một lý thuyết trong khủng hoảng) của Michael Denton, NXB Adler & Adler, Maryland, Mỹ, 1986).
Khoa học chưa từng chứng kiến một biến dị có lợi nào. Ngược lại, hầu hết biến dị đều dẫn tới bệnh tật, hủy hoại sinh vật. Chọn lọc tự nhiên, một cơ chế tưởng tượng, không “dại gì” mà lựa chọn những biến dị có hại. Nói cách khác, chọn lọc tự nhiên không hoạt động, hay chính xác hơn, không có chọn lọc tự nhiên.
Toán học chứng minh rằng xác suất để xẩy ra liên tiếp hàng triệu, hàng tỷ những biến dị “có lợi” trong quá trình “tiến hóa” hàng triệu, hàng tỷ năm là một đại lượng coi như bằng 0, cơ may để biến dị dẫn tới tiến hóa là hoàn toàn KHÔNG CÓ. Chọn lọc tự nhiên là một khái niệm tưởng tượng. Chọn lọc tự nhiên dẫn tới tiến hóa là chuyện hoàn toàn hoang đường!
Các nhà tiến hóa đã tiến hành những thí nghiệm hòng tạo ra những biến dị làm thay đổi loài. Nhưng họ thất bại thảm hại. Chẳng hạn, họ đã thực hiện những thí nghiệm chiếu xạ hoặc tác động hóa học đối với ruồi giấm trong hơn 1500 thế hệ. Kết quả, ruồi vẫn là ruồi, ruồi chẳng hề biến thành bất cứ con vật nào khác. Hơn nữa, trong những thế hệ tiếp nối, rất nhiều con bị chết, nhiều con bị xoăn cánh hoặc cánh cụt ngủn.
Dưới con mắt vật lý, biến dị chính là một biểu hiện của Định luật Entropy (Định luật thứ hai của nhiệt động học) – định luật nói rằng vật chất biến đổi theo chiều hướng càng ngày càng xấu đi, hỗn loạn hơn. Entropy là đại lượng đo mức độ vô trật tự của một hệ thống. Định luật entropy khẳng định entropy chỉ tăng, không giảm (có thể không tăng trong giai đoạn ngắn). Biến dị là một biểu hiện của sự tăng entropy. Vậy biến dị là một biến đổi ngược chiều với tiến hóa, vì tiến hóa là khái niệm cho rằng sự vật ngày càng có tổ chức cao hơn, trật tự hơn. Vậy lý thuyết nói rằng biến dị dẫn tới tiến hóa là hoàn toàn sai lầm, phản tự nhiên.
Tính chất tưởng tượng bịa đặt đó bị tố cáo mạnh mẽ trong cuốn “Evolution and the Emperor’s New Clothes” (Thuyết tiến hóa và bộ quần áo mới của hoàng đế) của N.J.Mitchell, do Roydon Publications xuất bản tại Anh năm 1983. Xin trích đoạn:
“Các nhà khoa học, những người đang truyền bá rằng tiến hóa là một sự thật của cuộc sống, là những kẻ đánh lừa người khác bằng sự cả tin, và câu chuyện họ đang kể là trò lừa bịp hơn bao giờ hết. Trong khi giải thích sự tiến hóa, chúng ta mảy may không có một chút sự thật nào cả”.
Trước trào lưu chống thuyết tiến hóa ngày càng mạnh, thái độ của các nhà tiến hóa ra sao? Hoặc là im lặng, bởi “im lặng là vàng”. Càng làm to chuyện, chân tướng thuyết tiến hóa càng lộ rõ. Đúng ra, những người chống thuyết tiến hóa mới đang là những người muốn làm to chuyện, muốn đưa thuyết tiến hóa ra tòa, như Phillip Johnson chẳng hạn. Thực sự các nhà tiến hóa đã và đang rơi vào tình thế rất lúng túng, như Richard Dawkins đã lúng túng trong cuốn video ở trên. Tuy nhiên, bản chất ngoan cố của con người là điều không làm ai ngạc nhiên. Các nhà tiến hóa vẫn loanh quanh chống chế. Họ kém trung thực so với ông thầy của họ, Charles Darwin.
Thật vậy, dù sao thì Darwin vẫn hơn hẳn các đệ tử của ông vì thái độ trung thực. Nỗi lo lắng của ông về sự thiếu vắng bằng chứng hóa thạch là một ví dụ điển hình. Theo Adrian Desmond và James Moore kể lại trong cuốn “Darwin” (do W.W.Norton and Company xuất bản tại New York năm 1991, trang 456, 475) thì có lần Darwin tâm sự với Asa Gray rằng:
“… Tôi hoàn toàn ý thức được rằng những phỏng đoán của tôi đã vượt quá giới hạn của khoa học thực sự… Nó chỉ là một mảnh vụn của một giả thuyết với nhiều sai lầm và lỗ hổng cũng như những phần đúng đắn” (…I am quite consciuos that my speculations run beyond the bounds of true science… It is a mere rag of an hypothesis with as many flaws & holes as sound parts).
Thú thực, tôi kính trọng Darwin hơn chính vì lời thú nhận nói trên, thay vì ở lý thuyết của ông. Nhưng càng kính trọng sự trung thực của ông bao nhiêu, tôi càng thất vọng với sự ngoan cố của các đệ tử của ông bấy nhiêu. Họ cố tình che đậy những lời thú nhận của Darwin bấy lâu nay. Nhưng internet đã làm họ thất bại! Sự thật đang ngày càng lộ ra, và lời tiên báo của Soren Lovtrup sẽ trở thành sự thât: “một ngày nào đó, học thuyết Darwin sẽ được xếp hạng như trò lừa gạt vĩ đại nhất trong lịch sử khoa học”.
Vậy mà Charles Darwin từng được nhiều sách báo và trang mạng tôn vinh như một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại (!!!). Chẳng hạn, Darwin được coi là một trong 12 người khổng lồ trong cuốn “On Giants’ Shoulders” (Trên vai những người khổng lồ) của Melvyn Bragg. Trên trang mạng Biography Online, Darwin được tôn vinh như một trong 10 nhà khoa học vĩ đại nhất, vì “đã phát triển lý thuyết tiến hóa bất chấp sự không tin tưởng và nghi ngờ, và đã sưu tập được những bằng chứng trong 20 năm, và công bố các kết luận trong cuốn On the Origin of Species năm 1859”. Thật lố bịch hết chỗ nói. Tôi không tìm được một trường hợp thứ hai nào trong lịch sử khoa học lố bịch như trường hợp này.
Nhưng dù gia công đánh bóng tên tuổi Darwin bằng cách nào đi chăng nữa, hai tác phẩm chủ yếu của Darwin, “Về nguồn gốc các loài” (1859) và “Nguồn gốc loài người” (1871) chính là 2 bằng chứng sẽ chôn vùi thanh danh của Darwin, và đến một ngày không xa, có thể tính bằng số năm tháng, học thuyết Darwin sẽ được xếp hạng như sự lừa gạt vĩ đại nhất trong lịch sử khoa học. Sự thật sẽ không thể che đậy được mãi, đúng như lời Đức Phật đã dạy!
PVHg, 06/09/2015
GHI CHÚ:
[1]: Thực ra khỉ, vượn có rất nhiều loài khác nhau, với số nhiễm sắc thể khác nhau, và nói chung đều khác với số nhiễm sắc thể của người. Người có 46 nhiễm sắc thể trong khi Khỉ Capuchin có 54 nhiễm sắc thể; Gorilla, Orangutan (đười ươi), Chimpanzee (tinh tinh) có 48 nhiễm sắc thể; Khỉ Rhesus có 42 nhiễm sắc thể;…
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét