BLA: Lâm Bưu (1907-1971) là nhân vật số 2, người sẽ thế vị Mao lãnh tụ lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc. Lâm Bưu là Phó chủ tịch đảng, mang hàm nguyên soái và là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho đến khi bị chết trong một vụ đào thoát bằng máy bay.
Theo các tài liệu chính thức do đảng cộng sản Trung Quốc công bố, thì do âm mưu tạo phản, ám sát lãnh tụ Mao Trạch Đông bị bại lộ, Lâm Bưu cùng đồng bọn đã phải cướp máy bay đào thoát ra nước ngoài. Chiếc máy bay của Lâm Bưu đã bị rơi trên bầu trời Mông Cổ vào sáng sớm ngày 13/9/1971. Như vậy, có thể khẳng định cái chết của Lâm Bưu liên quan đến việc đấu đá, thanh trừng lẫn nhau trong giới lãnh đạo chóp bu của đảng cộng sản Trung Quốc. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều điều bí ẩn xung quanh cái chết của Lâm Bưu.
Ảnh: Cái chết của ủy viên Bộ chính trị đảng cộng sản TQ, nguyên soái, Bộ trưởng quốc phòng Lâm Bưu vẫn còn nhiều điều cần phải giải mã
Tiểu sử Lâm Bưu
Lâm Bưu sinh năm 1907, trong một gia đình địa chủ ở Hoàng Cương, tỉnh Hồ Bắc. Năm 1925 Lâm Bưu tham gia Đảng Cộng sản Trung Quốc khi đang theo học Trường Quân sự Hoàng Phố. Trong cuộc Vạn Lý trường chinh Lâm Bưu giữ chức Sư trưởng Bát lộ quân. Năm 1945, Lâm Bưu giữ chức tư lệnh quân dã chiến Đông Bắc.
Năm 1954, Lâm Bưu được bầu là Phó Thủ tướng và giữ chức vụ này cho đến khi qua đời năm 1971.
Về đảng, năm 1955, Lâm Bưu vào Bộ chính trị đảng cộng sản Trung Quốc (cùng lúc với Đặng Tiểu Bình), được phong hàm nguyên soái và thường xuất hiện bên cạnh Mao Trạch Đông như nhân vật số hai trong quân đội Trung Quốc. Năm 1958, Lâm Bưu là 1 trong 5 Phó Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc. (Thời gian này Mao Trạch Đông là Chủ tịch đảng, tương đương chức Tổng bí thư như ngày nay)
Năm 1959, Lâm Bưu giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng thay Bành Đức Hoài đang bị đình chỉ mọi chức vụ và quản chế tại nhà riêng. Lâm Bưu cũng được coi là kiến trúc sư của Cách mạng Văn hóa.
Năm 1966, Lâm Bưu nhảy từ vị trí thứ 6 lên vị trí thứ 2, khi trở thành Phó Chủ tịch Đảng duy nhất.
Năm 1969, tại Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ IX Lâm Bưu được chọn là người sẽ kế vị Mao Trạch Đông, được mệnh danh là "Phó Thống soái".
Chấn động sự kiện Lâm Bưu chạy trốn ngày 13/9/1971
Ngày 13/9/1971 đã xảy ra một sự kiện chấn động toàn Trung Quốc, Lâm Bưu được cho là đã tử nạn máy bay ở Mông Cổ khi đang trốn chạy sau vụ mưu sát Mao Trạch Đông không thành. Kế hoạch của Lâm Bưu có tên là Ðề Án 5-7-1, nhằm âm mưu bắt và ngay cả ám sát Mao để chiếm lấy quyền lực. (Tuy nhiên có tài liệu cho rằng Lâm Bưu không phải chết vì máy bay bị rơi mà do bị Mao chỉ đạo hạ sát bằng hỏa tiễn sau khi đi ăn tiệc tại chỗ Mao về).
Năm 1973, dù được kết luận đã chết, Lâm Bưu bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đến năm 1981, Lâm Bưu bị Tòa án Tối cao nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa kết tội "phản cách mạng".
Dưới đây là 3 bài báo viết về cuộc trốn chạy và "phản loạn" của Lâm Bưu
--------------------
Tháng 3/1969, nhiều cuộc đụng độ giữa quân đội Trung Quốc và Liên Xô xảy ra dọc biên giới, ở khu vực sông Hắc Long Giang. Vài tháng sau đó, cả nước bị động viên vào cuộc chiến, nhiều triệu dân chúng phải tản cư về nông thôn. Các thành phần bị cho là chống đảng bị đày đi cải tạo lao động tay chân tay tại một trại cải tạo được che đậy dưới hình thức của một trường đào tạo cán bộ gọi là Mùng Bảy Tháng Năm. Thật ra trường nầy được lập ra không phải để đào tạo nhưng là một nơi để đày đọa các thành phần bị nghi ngờ là chống đối.
Trong thời điểm cao độ của cuộc tranh chấp quân sự giữa Trung Quốc và Liên Xô, Mao hỏi tôi (bác sỹ Lý Chí Thỏa) "Hãy nghĩ đến điều nầy. Chúng ta có nhiều kẻ thù, phía bắc và phía tây là Liên Xô, phía Nam là Ấn Ðộ, phía đông là Nhật Bản. Nếu tất cả cùng tấn công chúng ta một lúc, theo Bác Sĩ chúng ta nên đối phó bằng cách nào ?." Tôi nghĩ suốt ngày không ra.
Sang hôm sau, Mao lại hỏi câu khác "Hãy nghĩ thêm điều nầy nữa. Phía sau Nhật Bản là Mỹ. Ông bà ta thường thỏa hiệp với kẻ thù ở xa và tấn công kẻ thù ở gần. Có đúng vậy không ?." Nghe Mao nói, tôi ngạc nhiên hỏi lại Mao "làm thế nào có thể đàm phán với Mỹ ?" Mao trả lời "Mỹ và Liên Xô không giống nhau. Tổng thống Mỹ hiện nay là Nixon, một tổng thống hữu khuynh và chống Cộng kịch liệt. Mỹ không quan tâm gì về chuyện đất đai của Trung Quốc. Tôi thích nói chuyện với một tổng thống hữu khuynh như ông ta.
Những người hữu khuynh thường nói ngay những gì họ nghĩ, không giống như những người thiên tả, nói một đường nghĩ một ngỏ." Cả tôi lẫn Uông Ðông Hưng đều không tin là Mao nói thật nhưng chính Mao lại rất trân trọng và nghiêm túc.
Trong lúc đó tại Hoa Kỳ, Tổng Thống Richard Nixon cũng đang theo đuổi một chính sách đối ngoại mới. Qua trung gian của Tổng Thống nước Paksitan và Chủ tịch Rumani Nicholai Ceausecau, Tổng Thống Nixon đã thăm dò ý định Trung Quốc. Tổng thống Nixon cũng bày tỏ ý định chống đối chính sách của Liên Xô về việc thiết lập một nền an ninh tập thể tại Á Châu. Mao tương tự cũng chống đối chính sách của Liên Xô. Mao đe dọa Liên Xô "bom nguyên tử và hỏa tiển của Trung Quốc dù không bắn tới Mỹ nhưng bắn vào lãnh thổ Liên Xô tới ngay."
Tháng 12/1969, Thủ Tướng Chu Ân Lai trình Mao một bức điện tín chuyển từ toà đại sứ Trung Quốc tại Ba Lan, nơi Mỹ và Trung Quốc đang trong thời gian đàm phán từ lâu nhưng không có kết quả gì. Lần nầy phía Hoa Kỳ đề nghị một phiên họp mới. Mao rất quan tâm về nội dung bức điện, y nói với tôi "Hai bên đã ngồi lại suốt mười một năm nhưng chưa thực sự trao đổi chuyện gì. Bây giờ mới thật sự gọi là đàm phán. Nixon phải thành thật khi ông ta chuyển lời muốn đàm phán với chúng ta."
Trong thời gian Mao tìm cách hoãn với Mỹ lại gia tăng mối bất hòa với Lâm Bưu. Lần đầu tôi nhận thấy điều nầy trong chuyến kinh lý miền nam vào Tháng Năm 1969, ngay sau khi Ðại Hội Ðảng Lần Thứ 9. Và tới tháng 8 năm 1971, sự bất đồng đã lên tới mức cao độ.
Sĩ Quang Di báo cáo với Mao rằng một tổ chức gián điệp bí mật đặt dưới quyền của Lâm Lập Quả, con trai Lâm Bưu, đã được thiết lập trong Bộ Tham Mưu Không Quân. Tổ chức gián điệp nầy bao gồm nhiều đơn vị, với mật danh là "Hạm đội liên hợp", "Nhóm nhỏ Thượng Hải" và "Tiểu đoàn hướng dẫn". Những nhóm hoạt động lén lút nầy nhằm mục đích cướp đoạt quyền hành từ tay Mao.
Ngày 14/8/1971, Mao quyết định đi một vòng kinh lý để đánh giá sự ủng hộ của quân đội đối với bản thân ông ta. Chúng tôi đáp xe lửa xuôi nam. Trạm dừng chân đầu tiên là Vũ Hán và sau đó lần lượt là Trân Sa, Nam Kinh, Hàn Châu và Thượng Hải. Ðến đâu Mao cũng tiếp xúc bí mật với các lãnh đạo đảng và quân đội tại mỗi địa phương. Nội dung lời chỉ thị của Mao tương tự là: tại đại hội đảng ở Lư Sơn, có kẻ đã vội vã âm mưu tiếm đoạt quyền lãnh đạo đảng, phân hóa đảng. Vấn đề đó cho đến nay vẫn chưa giải quyết xong.
Mao không đích danh tấn công Lâm Bưu nhưng mục tiêu của những lời tố cáo của y không thể nào lầm lẫn cho một người nào khác hơn là Lâm Bưu. Mao cũng nghi ngờ quyền hạn của Diệp Quần, vợ Lâm Bưu. Mao than phiền "Tôi chưa hề chấp thuận cho phép việc người vợ quản lý các công việc của chồng. Nhưng Diệp Quần đang quản lý các công việc của Lâm Bưu, các tướng Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô Pháp Hiến, Lý Thuyết Phong, Lý Tác Bằng đều phải qua ngã Diệp Quần để được tiếp xúc với Lâm Bưu."
Sau hơn một tháng kinh lý miền nam, chúng tôi trở về Bắc Kinh vào ngày 12/9/1971. Trước khi trở về tư dinh ở Trung Nam Hải, Mao tiếp xúc với Bộ Tư Lịnh Quân Khu Bắc Kinh, và cũng như các nơi đã đi qua, Mao cho họ biết các quan tâm của ông ta về Thống Chế Lâm Bưu đang âm mưu phản loạn.
Trong khi chúng tôi chưa kịp lo thu dọn đồ đạc sau chuyến kinh lý mới về Uông Ðông Hưng nhận được cú điện thoại từ Bắc Ðái Hà. Lúc đó khoảng vài phút sau mười giờ. Ngươì gọi là Trương Hùng, phó tư lịnh Binh Ðoàn Bảo Vệ Trung Ương. Họ Trương thông báo khẩn cấp rằng con gái của Lâm Bưu là Lâm Ðậu Ðậu, cho y biết rằng Diệp Quần và Lâm Lập Quả đã bắt cóc Lâm Bưu và bắt buộc ông ta phải bỏ trốn.
Uông Ðông Hưng gọi điện thoại cho Chu Ân Lai. Tôi có mặt tại chỗ khi Chu Ân Lai đến lúc 11 giờ. Lúc đó Chu Ân Lai mới thông báo cho Mao biết sự tình. Mặt Mao sa sầm khi nghe họ Chu báo cáo là Lâm Bưu đã trốn thoát.
Chu đề nghị Mao di chuyển qua Nhân Dân Ðại Sảnh để an toàn hơn. Theo Chu Ân Lai đồng bọn của Lâm Bưu còn nhiều, nếu họ muốn đảo chánh chắc chắn họ sắp sửa tấn công. Uông Ðông Hưng sắp xếp xe cộ để đưa Mao qua Nhân Dân Ðại Sảnh và ra lịnh môt tiểu đoàn bảo vệ canh phòng nghiêm nhặt chung quanh. Toàn bộ Binh Ðoàn 8341 được đặt trong tình trạng cảnh giác. Mọi thông tin liên lạc với bên ngoài đều bị cắt đứt. Tại Nhân Dân Ðại Sảnh, Mao ngụ trong phòng 118 với vài nữ phục vụ. Bộ chỉ huy của Uông Ðông Hưng được thiết lập ngay trong một phòng bên cạnh.
Khoảng 12 giờ 50 phút sáng 13/9/1971, tướng Trương Hùng khẩn báo từ Bắc Ðái Hà rằng họ đã theo đuổi đoàn xe của Lâm Bưu đến phi trường, đã khai hỏa vào đòan xe nhưng không có kết quả vì xe của Lâm Bưu thuộc loại xe ngăn đạn. Ðoàn xe Lâm Bưu chạy quá nhanh đến nỗi khi xe của Trương Hùng ra đến phi trường máy bay của Lâm Bưu đang trên đường rời phi đạo.
Chu Ân Lai đề nghị dùng hỏa tiển để tấn công máy bay nhưng Mao từ chối. Y nói "mưa rơi từ trời cao, góa phụ sẽ tái giá. Chúng ta sẽ làm gì ? Lâm Bưu đã muốn đi để y đi."
Chúng tôi chỉ biết chờ.
Nhưng rồi cũng chẳng cần bắn. Chúng tôi biết sau đó rằng máy bay đã cất cánh quá vội vã và không mang theo nhiên liệu thích hợp. Khi cất cánh chiếc máy bay đã chạm phải thùng nhiên liệu làm cho một bánh phía bên phải bị hư hỏng. Máy bay cũng không có phi công phụ hay hoa tiêu tháp tùng theo.
Hệ thống Radar Trung Quốc theo dõi máy bay khi nó đang tiến dần lên hướng tây bắc tức hướng về phía Liên Xô. Theo nguồn tin đầu tiên mà chúng tôi nhận được Lâm Bưu dự định bay về Quảng Châu để lập chính phủ riêng, nhưng điều nầy đến sáng ngày 13 chứng tỏ là không đúng.
Vào khoảng 2 giờ sáng chúng tôi được báo cáo là Lâm Bưu đang tiến vào không phận Mông Cổ. Máy bay lúc đó không còn xuất hiện trên màn ảnh radar của Trung Quốc nữa. Chu Ân Lai quay sang nói với Mao "thế là chúng ta lại có thêm một kẻ phản bội", Mao đáp "giống như Dương Quang Tạo và Vương Minh."
Tuy nhiên đến buổi chiều một tin quan trọng Chu Ân Lai nhận được từ Ðại Sứ Trung Quốc tại Cộng Hòa Ngoại Mông cho biết rằng một chiếc máy bay với chín người gồm tám nam và một nữ đã bị đã bị hỏng rớt trong khu vực Undur Khan thuộc lãnh thổ Ngoại Mông, tất cả hành khách trên tàu đều thiệt mạng. Ba ngày sau viên đại sứ thông báo cho Chu Ân Lai biết, sau khi so sánh với bản chụp phim của răng, một trong 8 nam hành khách kia là Lâm Bưu.
Những cuộc điều tra sau đó cho biết Lâm Bưu và đồng bọn đã thực hiện một đề án có tên là Ðề Án 5-7-1, nhằm âm mưu bắt và ngay cả ám sát Mao để chiếm lấy quyền lực. Mao không hề biết điều nầy mặc dù đã nghi ngờ Lâm Bưu từ lâu.
Việc Mao đi kinh lý các khu vực chính trị và quân sự là một phần trong chiến lược quân sự của y và để xác định sự ủng hộ từ các địa phương. Tuy nhiên việc Mao tiếp xúc với các tư lịnh quân sự địa phương cho Lâm Bưu biết rằng y không còn nhiều thời gian để thực hiện ý âm mưu. Nội dung các buổi họp của Mao với các tư lịnh quân sự theo nguyên tắc bí mật nhưng tư lịnh Quân Khu Vũ Hán lại học lại nội dung cho Chính Ủy Hải Quân là tướng Lý Tác Bàng biết. Viên tướng họ Lý lại cảnh giác tướng Hoàng Vĩnh Thắng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Ðội và là một tay chân thân cận của Lâm Bưu. Hoàng Vĩnh Thắng, đến phiên mình, đã báo cáo lên Lâm Bưu trong lúc họ Lâm đang nghĩ hè ở Bắc Ðái Hà. Họ tức khắc phát họa âm mưu ám sát Mao.
Lâm Bưu và đồng bọn có hàng loạt kế hoạch. Không Ðoàn 5 có khả năng thả bom đoàn xe lửa của Mao. Binh Ðoàn Không Quân 4 cũng có thể bắn hạ Mao. Cuối cùng là kế hoạch đặt bom trên đường xe lửa nơi chiếc xe lửa đặt biệt của Mao đi qua được chấp nhận.
Tôi thật sự không biết là những báo cáo về âm mưu của Lâm Bưu có chính xác hay không. Tôi cũng biết là việc ám sát Mao không phải là dễ dàng. Uông Ðông Hưng và các cán bộ bảo vệ dưới quyền y đều hoạt động vô cùng bí mật. Mọi sự duy chuyển của Mao đều rất kín đáo và thay đổi vô cùng nhanh chóng đến nỗi ngay cả những nhân viên thân cận nhất cũng không được biết trước. Khi Mao trở lại Bắc Kinh an toàn, Lâm Bưu biết rằng y đã thua trận và con đường duy nhất là bỏ trốn. Lý Ðậu Ðậu báo cáo rằng Lâm Bưu bị bắt cóc là sai. Lý Ðậu Ðậu có hiếu với cha đến nỗi không thấy cha cô ta sai chỗ nào cả. Cuối năm 1971, khi biến cố Lâm Bưu được thông báo cho quần chúng biết, ai ai cũng đều ngạc nhiên. Sau biến cố đó, sức khỏe của Mao ngày càng sa sút. Ngày 20 tháng 11 năm 1971, khi Mao tiếp Thủ Tướng Cộng Sản Việt Nam Phạm Văn Ðồng tại Nhân Dân Ðại Sảnh, màn ảnh truyền hình cho thấy Mao với những bước chân run rẩy. Mao lúc nầy đang nghĩ đến một chiến lược mới, không phải tấn công đối thủ nhưng là lúc để hòa hoãn . Thể hiện đầu tiên qua việc Mao đích thân tham dự tang lễ của Thống Chế Trần Di, nguyên bộ trưởng ngoại giao, đã bị cách chức vì chống lại Mao. Tình trạng sức khỏe của Mao tiếp tục suy giảm, và cả đội y sĩ chúng tôi cố gắng phục hồi sức khoẻ cho y trước ngày Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon viếng thăm Trung Quốc vào 21 tháng 2 năm 1972.
-------------------------------
Khi Lâm Bưu và đồng bọn lên máy bay chạy trốn, Chu Ân Lai đã thay mặt Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) hạ lệnh cấm bay trên toàn quốc. Hậu quả là Lâm Bưu và đồng bọn bị chết.
Dư luận trong và ngoài Trung Quốc đặt câu hỏi: Thứ nhất: lệnh cấm bay phát ra lúc nào, khi đó máy bay chở Lâm Bưu đang ở đâu? Thứ hai, thái độ của Trung ương ĐCSTQ muốn Lâm Bưu quay trở lại hay muốn ông ta ra đi? Thứ ba, có phải đúng là Lâm Bưu muốn xin hạ cánh máy bay?
Có phải Chu Ân Lai không cho máy bay chở Lâm Bưu hạ cánh?
Trong Đại cách mạng Văn hóa, bọn Lâm Bưu, Diệp Quần (vợ Lâm Bưu), Lâm Lập Quả (con trai Lâm Bưu) sau khi âm mưu làm chính biến vũ trang bị bại lộ, sáng sớm ngày 13/9/1971 đã hốt hoảng leo lên chiếc máy bay Trident số hiệu 256 bỏ chạy và chết tan xác cùng máy bay rơi tại đồng cỏ gần Ondorchaan, nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ.
Đó là “sự kiện 13/9” gây chấn động dư luận Trung Quốc và thế giới.
Trong cuốn "Lịch sử nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa", xuất bản tại London (Anh) năm 2005, dẫn ra quan điểm cho rằng, chiếc máy bay Trident chở Lâm Bưu và đồng bọn thoạt tiên bay xuống phía nam trong thời gian 10 phút, sau đó vòng lại bay về Sơn Hải Quan, nhưng phát hiện sân bay này đã đóng cửa theo chỉ thị của Thủ tướng Chu Ân Lai.
Bài viết ngầm biểu thị rằng, chính Chu Ân Lai không cho máy bay Lâm Bưu tiếp đất, để buộc ông ta phải bay đi Liên Xô. Như vậy ông ta sẽ đứng về phía đối lập với nhân dân, trở thành kẻ phản bội đất nước.
Tương tự, trong một cuốn sách xuất bản trong nước cũng viết: “Sau khi máy bay cất cánh chừng hơn 20 phút, những nhân viên lưu lại “Văn phòng Lâm Bưu” tại tòa lầu số 96 bỗng nghe thấy tiếng động cơ máy bay vòng lại. Mọi người trong tòa nhà 96 đều tập trung trên sân thượng, nhìn về phía sân bay nơi xa, và nghe thấy tiếng máy bay ầm ì lượn vòng trên không trung nên đều cho rằng máy bay đã quay về, nhất định là đang muốn hạ cánh.
Khi đó, người của Văn phòng Lâm Bưu không một ai ngờ được rằng sau khi máy bay chở Lâm Bưu cất cánh, Trung ương ĐCSTQ liền hạ lệnh phong tỏa sân bay, đèn hoa tiêu dưới mặt đất đều tắt hết, nên máy bay vô phương hạ cánh.
Máy bay bay về Liên Hoa Phong, lượn vòng trên không phận tòa nhà 96, rồi bay thẳng về phương Bắc, không thấy quay trở lại nữa.”
Dụng ý của hai đoạn văn trên muốn nói Lâm Bưu khi ở trên máy bay vẫn không muốn chạy sang Liên Xô, nên lệnh cho phi công đưa máy bay quay về sân bay Sơn Hải Quan, nhưng do Chu Ân Lai hạ lệnh đóng cửa sân bay khiến máy bay không hạ cánh được, nên không thể không bay về phương Bắc.
Thực ra, chỉ cần có chút kiến thức, mọi người đều hiểu ra rằng, máy bay Trident có tốc độ bay 900km/giờ thì làm thế nào có thể lượn vòng phía trên nóc tòa nhà số 96 ở Bắc Đới Hà như một chiếc máy bay cỡ nhỏ được?
Sân bay Sơn Hải Quan, nơi chiếc Trident chở Lâm Bưu cất cánh cách Bắc Đới Hà xa cả trăm dặm, bằng mắt thường không thể nhìn thấy được, vậy làm thế nào mà có thể “nhìn về phía sân bay nơi xa, và còn có thể nghe thấy “tiếng động cơ máy bay quay lại” được? Đây quả thật là chuyện của những người rất giàu "tưởng tượng".
Sự thật về việc hạ lệnh cấm bay
Sau khi máy bay chở Lâm Bưu cất cánh, Chu Ân Lai thay mặt Bộ Chính trị Trung ương ra lệnh cấm bay. Đây là sự thật không cần tranh cãi.
Trong cuốn “Chuyện Chu Ân Lai” có ghi như sau: “Khi Lâm Bưu đột ngột lên máy bay chạy trốn, Chu Ân Lai lệnh cho Lý Đức Sinh trực chỉ huy tại Bộ Tư lệnh không quân, theo dõi sát sao hướng di chuyển của máy bay. Cử Dương Đức Trung cùng Ngô Pháp Hiến tới sân bay Tân Giao, cử Kỷ Đăng Khuê tới Bộ Tư lệnh Không quân Bắc Kinh để tiện nắm tình hình các mặt. Đồng thời ông ra lệnh cấm bay trong toàn quốc, đóng cửa tất cả các sân bay, ngừng cất cánh mọi loại máy bay, khởi động tất cả các dàn radar để giám sát bầu trời.
Chu Ân Lai còn lệnh cho các điều độ viên dùng vô tuyến điện liên lạc với chiếc Trident chở Lâm Bưu và đồng bọn, yêu cầu họ quay trở về, báo cho họ biết bất kể là máy bay hạ cánh xuống sân bay nào trong nước, Chu Ân Lai cũng đến tận sân bay đón tiếp. Nhưng trên máy bay tịnh không hồi âm".
Giáo sư Vu Nam - một chuyên gia nghiên cứu kỹ về sự kiện Lâm Bưu cũng đã viết trong bài “Về việc khảo sát một số vấn đề lịch sử của sự kiện Lâm Bưu”: “Chu Ân Lai sau đó từ Đại lễ đường nhân dân tới nơi ở của Mao Trạch Đông trong Trung Nam Hải. Uông Đông Hưng, Trương Diệu Từ dường như lúc đó cùng tới.
Chu Ân Lai ra lệnh tất cả các trạm radar vùng Hoa Bắc bật máy giám sát chặt chiếc máy bay chạy trốn, và tìm cách liên lạc với những người trên máy bay, báo cho họ biết rằng máy bay có thể xin hạ cánh tại bất kỳ sân bay nào, nhưng chiếc máy bay số hiệu 256 không trả lời.
Trạm radar mặt đất không ngừng thông báo hướng bay làm động tác giả của máy bay chở Lâm Bưu, thoạt đầu bay chếch hướng 2900 tức thẳng hướng Bắc Kinh, Đại Đồng, nhưng hơn 10 phút sau, lúc 0h40’ liền chuyển hướng bay là 3100, hướng miền Tây Mông Cổ theo đường bay Ulanbato – Irkutsk”.
Những điều này đã nói rõ, sau khi máy bay chở Lâm Bưu cất cánh, thái độ của Trung ương ĐCSTQ là muốn ông ta quay lại, bởi vậy mới từ mặt đất liên tục phát tín hiệu liên lạc với chiếc máy bay này. Hơn thế nữa, Chu Ân Lai ngỏ ý sẵn sàng tới sân bay đón Lâm Bưu, đây có thể coi là hành động rất vị tha và nhân đạo.
Ghi chép của người trong cuộc
Vấn đề mấu chốt là “lệnh cấm bay” của Chu Ân Lai phát ra lúc nào? Rất may ghi chép của người đã nhận lệnh của Chu Ân Lai đêm 13/9/1971 và trực tiếp gọi điện thoại truyền lệnh cấm bay đi toàn quốc đã ghi lại toàn bộ sự việc một cách chính xác. Đây là chứng cứ đầy sức thuyết phục để trả lời câu hỏi này. Người đó là Chu Bỉnh Tú - sĩ quan tham mưu tác chiến trực ban Sở Chỉ huy Không quân Trung Quốc lúc ấy.
Bản ghi chép như sau: “Chu Ân Lai chỉ thị, Sở Chỉ huy dùng đài đối không liên lạc thẳng với Phan Cảnh Diễn (phi công điều khiển chiếc máy bay của Lâm Bưu), bảo anh ta lái máy bay quay trở lại. Sân bay Tây Giao và sân bay thủ đô đều có thể hạ cánh được.
Lúc này, tại Sở Chỉ huy sân bay Tây Giao, Ngô Pháp Hiến cũng thân chinh cầm ống nói liên tục kêu gọi Phan Cảnh Diễn điều khiển máy bay quay về, và hứa sẽ không để xảy ra chuyện gì. Nhưng trước sau cũng không nhận được câu trả lời của anh ta.
Theo dõi màn hình radar thấy mục tiêu đã tiến sát tới vạch giới tuyến quốc gia, lúc 1h50’, máy bay thoát ra khỏi biên giới, bay vào không phận của nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, và đang hạ dần độ cao, cho tới khi tín hiệu mục tiêu trên màn hình radar trước mặt tôi bị xóa hoàn toàn tại tọa độ phía nam Ondorchaan trên đất Mông Cổ.
Lý Đức Sinh lập tức báo cáo với Chu Ân Lai về vị trí cuối cùng khi tín hiệu bị mất trên màn hình radar. Đồng thời ông ra hiệu cho tôi nhanh chóng cầm bút ghi chép lại, rồi đọc từng câu mệnh lệnh của Bộ Chính trị do Chu Ân Lai truyền đạt trong điện thoại: “Bắt đầu từ giờ phút này, mọi mệnh lệnh không có chữ ký liên danh của Mao Chủ tịch, Phó chủ tịch Lâm Bưu, Thủ tướng Chu Ân Lai, Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Vĩnh Thắng, Tư lệnh trưởng Không quân Ngô Pháp Hiến, thì không một chiếc máy bay nào được phép cất cánh!”.
Ghi xong tôi đọc lại cho Lý Đức Sinh nghe một lượt. Ông nói: "Được rồi", chuyện Lâm Bưu chạy trốn khi đó là phải tuyệt đối giữ bí mật, số người được biết sau khi mệnh lệnh được truyền đạt xuống là khá đông, do đó trong mệnh lệnh không thể không ghi: “Phó chủ tịch Lâm Bưu. Việc truyền đạt “lệnh cấm bay” này bắt đầu từ 1h56’ đến tận 2h20’ mới hoàn tất”.
Chu Ân Lai trực tiếp gọi điện tới Ban Chỉ huy sân bay quân sự Sơn Hải Quan truyền đạt mệnh lệnh này là vào hồi 1h50’, sau khi máy bay chở Lâm Bưu cất cánh lúc 0h32’, hơn 1 giờ đồng hồ, vậy nên tin đồn cho rằng Lâm Bưu muốn quay về, nhưng bị Chu Ân Lai lệnh đóng cửa sân bay, cấm hạ cánh nên đành phải “một đi không trở lại” là bịa đặt hoang đường
Tai nạn thảm khốc trên chiếc chuyên cơ Trident 256 chở Lâm Bưu chạy trốn vào ngày 13/9/1971 từng là cú sốc chính trị lớn đối với đất nước Trung Quốc. Chiếc chuyên cơ Trident 256 chở Lâm Bưu chạy trốn gồm cả thảy chín người. Trong đó, gia đình Lâm Bưu gồm Lâm Bưu cùng vợ và con trai. Cùng đi với họ có hai thủ hạ đắc lực. Tổ lái gồm bốn nhân viên: cơ trưởng Phan Cảnh Diễn và ba thợ máy Lý Bình, Đài Khởi Lương và Trương Diên Khuê.
Tang tóc đổ xuống
Chín người trên chuyến bay này đều chết không sót một mống. Sự kiện ngày 13/9 khiến dư luận thắc mắc liệu các nhân viên tổ lái có phải là “đồng đảng” phản loạn đào tẩu cùng Lâm Bưu, hay chỉ là nạn nhân bị ép buộc phạm tội?
Lâm Bưu là bộ trưởng Quốc phòng, phó chủ tịch Đảng, “phó thống soái” kế vị hợp hiến chức vụ của Mao Trạch Đông. Tháng 10/1971, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ra Văn kiện số 57 tuyên bố Lâm Bưu là kẻ phản đảng, phản quốc.
Tiếp đó, cả nước dấy lên làn sóng phê phán Lâm Bưu. Người ta đua nhau đấu tố, vạch trần, làm rõ tội trạng, hành vi phản dân hại nước của “Tập đoàn phản đảng Lâm Bưu”. Vậy mà mới ngày nào, họ còn gân cổ chúc Phó thống soái Lâm Bưu “vĩnh viễn kiện khang”, tức mãi mãi mạnh khỏe.
Cơ trưởng Phan Cảnh Diễn có cô con gái đầu tuổi mới lên 10, bị chứng bại liệt từ nhỏ. Đôi chân cô bé teo tóp, liệt hẳn nên không thể tự chăm sóc trong sinh hoạt. Năm 1970, Phan Cảnh Diễn được giới thiệu đưa con tới thành phố Trường Xuân tìm bác sĩ giỏi để điều trị.
Thượng tuần tháng 9/1971, tiện có chuyến bay thẳng công vụ, anh đã đưa con gái từ Trường Xuân về Bắc Kinh. Sự trùng hợp sít sao về thời gian này khiến người ta suy diễn, cho rằng anh đã cố ý sắp đặt trước khi tham gia vào âm mưu phản loạn đào tẩu.
Sau sự kiện 13/9, theo lệnh phê chuẩn của lãnh đạo thành phố Bắc Kinh, nhân viên an ninh đã xộc tới đơn vị làm việc của vợ Phan Cảnh Diễn và đọc lệnh bắt chị đi “cách ly thẩm tra”. Chị ngơ ngác không hiểu vì sao mình bị bắt. Bởi cho tới lúc đó, chị vẫn chưa hề biết đã xảy ra sự kiện 13/9, trong đó chồng chị là nạn nhân.
Tấm biển “Gia đình quân nhân vẻ vang” treo trước cửa nhà thợ máy Lý Bình bị Hồng vệ binh hùng hổ giật xuống đập nát. Ít lâu sau, phía binh chủng không quân cho người đem mọi di vật của Lý Bình tới trao trả cho gia đình. Vợ Lý Bình vật vã khóc lóc, ngất lên ngất xuống. Hai đứa con nhỏ dại ngơ ngác chẳng hiểu chuyện gì đã xảy ra. Trả lời cật vấn của vợ Lý Bình, người ta cứ ậm ừ, vòng vo cho qua chuyện. Họ cố né tránh, không chịu nói rõ tính chất của vụ tai nạn máy bay khiến chồng chị chết.
Hoàn cảnh gia đình thợ máy Đài Khởi Lương còn đáng ngại hơn. Chị vợ ốm yếu quanh năm. Hung tin tới như sét đánh ngang tai. Bị "sốc" ghê gớm, chị suy sụp hoàn toàn cả về thể chất lẫn tinh thần.
Thợ máy tân binh Trương Diên Khuê còn quá trẻ, mới hơn 20 tuổi và vừa cưới vợ được hơn nửa năm thì gặp nạn. Cô vợ đang mang bầu. Lại một đứa trẻ chào đời và lớn lên mà không biết mặt cha.
Những cái chết lập lờ
Sự kiện 13/9 dù bất ngờ hay không thì vẫn gây cú sốc chính trị đặc biệt lớn cho đất nước Trung Hoa. Thời kỳ đó, đất nước này đang bước vào thời kỳ “vĩ thanh” của 10 năm động loạn “đại cách mạng văn hóa” do Mao Trạch Đông thân chinh phát động.
So sánh địa vị xã hội, Lâm Bưu thuộc đẳng cấp cao, còn nhóm Phan Cảnh Diễn chỉ thuộc hàng chót bẹt. Dù cùng ngồi trên một chiếc máy bay và cùng chết khi máy bay rơi trên đất khách quê người, nhưng tên tuổi của họ được ghi nhận khác nhau trong văn kiện Đảng và nhà nước.
Không một dòng chữ nào nhắc tới tên tuổi của bất cứ ai trong nhân viên tổ bay. Thế là họ hoàn toàn bị quên lãng. Người ta mặc sức quy chụp họ, bảo họ bị Lâm Bưu lừa gạt, hãm hại cũng đúng, mà lên án họ “phản đảng, chống ông Mao” thì cũng không sai.
Ngoài bốn người trong tổ lái đã chết theo máy bay rơi, tổ bay của chiếc chuyên cơ Trident 256 còn có năm người khác. Những người này chưa kịp lên cùng máy bay nên may mắn sống sót. Khốn nỗi, họ liền bị quy là liên đới trực tiếp với sự kiện 13/9 và đều bị “cách ly điều tra” vô thời hạn vì là nghi can số một.
Năm người bị lôi đi hỏi cung liên miên. Họ phải viết các bản trần tình chứng minh rằng bốn chiến hữu xấu số của họ không hề biểu hiện dấu vết nào chứng tỏ có sự dính dáng tới âm mưu phản loạn và ý đồ chạy trốn của Lâm Bưu, trong lời nói lẫn việc làm lúc sinh thời. Thói đời người có thân phận thấp hèn, tiếng nói nhẹ bỗng ai thèm lắng nghe. Lời làm chứng của họ trước công lý chẳng qua chỉ như gió thoảng!
Máy bay chở Lâm Bưu rơi tan xác, không một ai sống sót. Đến nay, kết quả giải mã hộp đen âm thanh tìm thấy trong đống xác máy bay cũng chẳng được nói tới. Người ta có thu được tài liệu nào khả dĩ chứng minh giữa Lâm Bưu và các nhân viên tổ bay có bàn bạc trao đổi ngầm, hoặc có đấu tranh, giằng co vật lộn giữa chạy trốn và chống chạy trốn trên không trung hay không?
Giải oan cho người đã khuất
Các nhân viên tổ lái là “đồng đảng” phản loạn đào tẩu cùng Lâm Bưu hay chỉ là nạn nhân bị ép buộc phạm tội? Câu hỏi này phải được làm rõ vì danh dự của người đã khuất, cũng là vì cuộc sống người thân của họ còn đang ở trên cõi đời này.
Ngày 11/9/1980, tức chín năm sau sự kiện 13/9, ông Đặng Tiểu Bình đã trả lời thẳng thắn về nguyên nhân dẫn tới tai họa đối với chiếc máy bay Trident 256. Tiếp El Fer, Tổng biên tập tờ Tạp chí Châm ngôn khoa học Cơ đốc giáo của Mỹ, Đặng Tiểu Bình nói: "Theo phán đoán của riêng tôi thì phi công (điều khiển chiếc chuyên cơ Trident 256) là một người tử tế, một đảng viên cộng sản tốt”.
Ông Đặng Tiểu Bình kể: Trước kia đã từng xảy ra một vụ việc tương tự. Một máy bay cùng loại chở theo lượng lớn tài liệu cơ mật của Đảng và nhà nước Trung Quốc trên đường bay nội địa bị buộc bay sang một quốc gia thù địch. Khi phát hiện ý đồ đen tối của kẻ sai khiến, viên phi công đã chống lại quyết liệt. Máy bay phải hạ cánh khẩn cấp. Nhưng ngay sau đó, viên phi công đã bị bọn phản loạn bắn chết.
Lời khai cung của năm thợ máy còn sống đều nhấn mạnh: Trước khi xảy ra sự kiện 13/9, mối quan hệ giữa phi hành đoàn và tập đoàn Lâm Bưu chỉ thuần túy là hành vi thực thi nhiệm vụ chuyên môn theo quy định của quân chủng. Họ chỉ có nghĩa vụ duy tu, bảo dưỡng và vận hành tốt chuyên cơ.
Mà sự thật là vậy. Nhưng thật trớ trêu, suốt chín năm trời sau sự kiện 13/9, không có bất kỳ một cá nhân hay một lãnh đạo nào dám công khai bày tỏ quan điểm thừa nhận và chỉ ra bản chất về sự hy sinh của bốn nhân viên tổ lái. Báo chí hay tài liệu lưu hành nội bộ cũng không hề có lấy một dòng một chữ nào liên quan đến sự kiện. Họ né tránh “vấn đề nhạy cảm” trong cái thời đại bị chụp mũ phản cách mạng đồng nghĩa với lãnh án tử hình. Cũng có thể do họ vô cảm.
Cho tới khi ông Đặng Tiểu Bình dũng cảm nói lên sự thật, họ mới thở phào và bắt đầu “ăn theo nói leo”, đại loại: “Biết ngay mà, nhân báo như thần bảo”.
Cái “chết bệnh” nhẹ tênh
Dường như không ai còn công khai coi viên phi công cơ trưởng và ba thợ máy gặp nạn kia là những kẻ phản bội nữa. Nhưng sinh mạng chính trị của họ vẫn mập mờ, chẳng rõ ràng. Bởi cái chết của họ vẫn không được coi là chết trong khi thực thi công vụ.
Vợ của cơ trưởng Phan Cảnh Diễn trải qua hơn một năm trời bôn ba trên đường gập ghềnh tìm công lý, minh oan cho chồng. Đầu năm 1982, chị cùng gia đình nhận được “Giấy chứng nhận chết bệnh của quân nhân cách mạng” do Tổng cục Chính trị Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc ký. Giấy này ghi rằng: “Đồng chí Phan Cảnh Diễn đã không may chết cùng máy bay rơi tại Ondorchaan Mông Cổ ngày 13/9/1971. Xin gửi lời chia buồn chân thành và thống thiết nhất của chúng tôi tới gia quyến. Mong mọi người hãy biến đau thương thành sức mạnh, gắng sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Nhờ lời khẳng định của Đặng Tiểu Bình, nỗi oan của bốn nhân viên tổ lái đã được giải sau hơn 10 năm tử nạn oan khuất, mất xác cùng máy bay rơi. Cả bốn người đều bị gán cho cái chết nhẹ tênh là “chết bệnh”.
Tiếp đó, năm người thợ máy sau hơn 10 năm bị tạm giam và đang làm việc khổ sai tại một trại cải tạo vùng biên viễn phía Bắc cũng được trả tự do. Họ không hề biết lý do được phóng thích. Cứ như 10 năm trước, họ cũng từng ngơ ngác tự hỏi: “Tại sao mình lại bị bắt nhỉ?”.
Mấy chục năm đã trôi qua. Tất cả đã lui về dĩ vãng. Sự việc về cơ bản đã được làm sáng tỏ. Nhưng mỗi lần nhắc tới sự kiện 13/9 thì mọi người - nhất là những người đã ở dốc bên kia cuộc đời không ai là không nhớ.
Theo các tài liệu chính thức do đảng cộng sản Trung Quốc công bố, thì do âm mưu tạo phản, ám sát lãnh tụ Mao Trạch Đông bị bại lộ, Lâm Bưu cùng đồng bọn đã phải cướp máy bay đào thoát ra nước ngoài. Chiếc máy bay của Lâm Bưu đã bị rơi trên bầu trời Mông Cổ vào sáng sớm ngày 13/9/1971. Như vậy, có thể khẳng định cái chết của Lâm Bưu liên quan đến việc đấu đá, thanh trừng lẫn nhau trong giới lãnh đạo chóp bu của đảng cộng sản Trung Quốc. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều điều bí ẩn xung quanh cái chết của Lâm Bưu.
Ảnh: Cái chết của ủy viên Bộ chính trị đảng cộng sản TQ, nguyên soái, Bộ trưởng quốc phòng Lâm Bưu vẫn còn nhiều điều cần phải giải mã
Tiểu sử Lâm Bưu
Lâm Bưu sinh năm 1907, trong một gia đình địa chủ ở Hoàng Cương, tỉnh Hồ Bắc. Năm 1925 Lâm Bưu tham gia Đảng Cộng sản Trung Quốc khi đang theo học Trường Quân sự Hoàng Phố. Trong cuộc Vạn Lý trường chinh Lâm Bưu giữ chức Sư trưởng Bát lộ quân. Năm 1945, Lâm Bưu giữ chức tư lệnh quân dã chiến Đông Bắc.
Năm 1954, Lâm Bưu được bầu là Phó Thủ tướng và giữ chức vụ này cho đến khi qua đời năm 1971.
Về đảng, năm 1955, Lâm Bưu vào Bộ chính trị đảng cộng sản Trung Quốc (cùng lúc với Đặng Tiểu Bình), được phong hàm nguyên soái và thường xuất hiện bên cạnh Mao Trạch Đông như nhân vật số hai trong quân đội Trung Quốc. Năm 1958, Lâm Bưu là 1 trong 5 Phó Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc. (Thời gian này Mao Trạch Đông là Chủ tịch đảng, tương đương chức Tổng bí thư như ngày nay)
Năm 1959, Lâm Bưu giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng thay Bành Đức Hoài đang bị đình chỉ mọi chức vụ và quản chế tại nhà riêng. Lâm Bưu cũng được coi là kiến trúc sư của Cách mạng Văn hóa.
Năm 1966, Lâm Bưu nhảy từ vị trí thứ 6 lên vị trí thứ 2, khi trở thành Phó Chủ tịch Đảng duy nhất.
Năm 1969, tại Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ IX Lâm Bưu được chọn là người sẽ kế vị Mao Trạch Đông, được mệnh danh là "Phó Thống soái".
Một tấm bích chương in hình Mao Trạch Đông và Lâm Bưu. Lâm Bưu từng được xem là nhân vật số 2, người sẽ kế thừa chức Chủ tịch đảng của Mao.
Chấn động sự kiện Lâm Bưu chạy trốn ngày 13/9/1971
Ngày 13/9/1971 đã xảy ra một sự kiện chấn động toàn Trung Quốc, Lâm Bưu được cho là đã tử nạn máy bay ở Mông Cổ khi đang trốn chạy sau vụ mưu sát Mao Trạch Đông không thành. Kế hoạch của Lâm Bưu có tên là Ðề Án 5-7-1, nhằm âm mưu bắt và ngay cả ám sát Mao để chiếm lấy quyền lực. (Tuy nhiên có tài liệu cho rằng Lâm Bưu không phải chết vì máy bay bị rơi mà do bị Mao chỉ đạo hạ sát bằng hỏa tiễn sau khi đi ăn tiệc tại chỗ Mao về).
Năm 1973, dù được kết luận đã chết, Lâm Bưu bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đến năm 1981, Lâm Bưu bị Tòa án Tối cao nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa kết tội "phản cách mạng".
Dưới đây là 3 bài báo viết về cuộc trốn chạy và "phản loạn" của Lâm Bưu
--------------------
Cuộc phản loạn của Lâm Bưu
Nguyên Tác Hoa Ngữ: Mao Trạch Ðông, Tư Nhân Bác Sĩ Hồi Ký Lục
Bản tiếng Anh: The private life of Chairman Mao
Tác Giả: Bác Sĩ Lý Chí Thỏa, bác sỹ chăm sóc Mao Trạch Đông
Trần Trung Ðạo trích lược dịch theo bản tiếng Anh có đối chiếu với nguyên tác Hoa ngữ.
Trong thời điểm cao độ của cuộc tranh chấp quân sự giữa Trung Quốc và Liên Xô, Mao hỏi tôi (bác sỹ Lý Chí Thỏa) "Hãy nghĩ đến điều nầy. Chúng ta có nhiều kẻ thù, phía bắc và phía tây là Liên Xô, phía Nam là Ấn Ðộ, phía đông là Nhật Bản. Nếu tất cả cùng tấn công chúng ta một lúc, theo Bác Sĩ chúng ta nên đối phó bằng cách nào ?." Tôi nghĩ suốt ngày không ra.
Sang hôm sau, Mao lại hỏi câu khác "Hãy nghĩ thêm điều nầy nữa. Phía sau Nhật Bản là Mỹ. Ông bà ta thường thỏa hiệp với kẻ thù ở xa và tấn công kẻ thù ở gần. Có đúng vậy không ?." Nghe Mao nói, tôi ngạc nhiên hỏi lại Mao "làm thế nào có thể đàm phán với Mỹ ?" Mao trả lời "Mỹ và Liên Xô không giống nhau. Tổng thống Mỹ hiện nay là Nixon, một tổng thống hữu khuynh và chống Cộng kịch liệt. Mỹ không quan tâm gì về chuyện đất đai của Trung Quốc. Tôi thích nói chuyện với một tổng thống hữu khuynh như ông ta.
Những người hữu khuynh thường nói ngay những gì họ nghĩ, không giống như những người thiên tả, nói một đường nghĩ một ngỏ." Cả tôi lẫn Uông Ðông Hưng đều không tin là Mao nói thật nhưng chính Mao lại rất trân trọng và nghiêm túc.
Trong lúc đó tại Hoa Kỳ, Tổng Thống Richard Nixon cũng đang theo đuổi một chính sách đối ngoại mới. Qua trung gian của Tổng Thống nước Paksitan và Chủ tịch Rumani Nicholai Ceausecau, Tổng Thống Nixon đã thăm dò ý định Trung Quốc. Tổng thống Nixon cũng bày tỏ ý định chống đối chính sách của Liên Xô về việc thiết lập một nền an ninh tập thể tại Á Châu. Mao tương tự cũng chống đối chính sách của Liên Xô. Mao đe dọa Liên Xô "bom nguyên tử và hỏa tiển của Trung Quốc dù không bắn tới Mỹ nhưng bắn vào lãnh thổ Liên Xô tới ngay."
Tháng 12/1969, Thủ Tướng Chu Ân Lai trình Mao một bức điện tín chuyển từ toà đại sứ Trung Quốc tại Ba Lan, nơi Mỹ và Trung Quốc đang trong thời gian đàm phán từ lâu nhưng không có kết quả gì. Lần nầy phía Hoa Kỳ đề nghị một phiên họp mới. Mao rất quan tâm về nội dung bức điện, y nói với tôi "Hai bên đã ngồi lại suốt mười một năm nhưng chưa thực sự trao đổi chuyện gì. Bây giờ mới thật sự gọi là đàm phán. Nixon phải thành thật khi ông ta chuyển lời muốn đàm phán với chúng ta."
Trong thời gian Mao tìm cách hoãn với Mỹ lại gia tăng mối bất hòa với Lâm Bưu. Lần đầu tôi nhận thấy điều nầy trong chuyến kinh lý miền nam vào Tháng Năm 1969, ngay sau khi Ðại Hội Ðảng Lần Thứ 9. Và tới tháng 8 năm 1971, sự bất đồng đã lên tới mức cao độ.
Sĩ Quang Di báo cáo với Mao rằng một tổ chức gián điệp bí mật đặt dưới quyền của Lâm Lập Quả, con trai Lâm Bưu, đã được thiết lập trong Bộ Tham Mưu Không Quân. Tổ chức gián điệp nầy bao gồm nhiều đơn vị, với mật danh là "Hạm đội liên hợp", "Nhóm nhỏ Thượng Hải" và "Tiểu đoàn hướng dẫn". Những nhóm hoạt động lén lút nầy nhằm mục đích cướp đoạt quyền hành từ tay Mao.
Ngày 14/8/1971, Mao quyết định đi một vòng kinh lý để đánh giá sự ủng hộ của quân đội đối với bản thân ông ta. Chúng tôi đáp xe lửa xuôi nam. Trạm dừng chân đầu tiên là Vũ Hán và sau đó lần lượt là Trân Sa, Nam Kinh, Hàn Châu và Thượng Hải. Ðến đâu Mao cũng tiếp xúc bí mật với các lãnh đạo đảng và quân đội tại mỗi địa phương. Nội dung lời chỉ thị của Mao tương tự là: tại đại hội đảng ở Lư Sơn, có kẻ đã vội vã âm mưu tiếm đoạt quyền lãnh đạo đảng, phân hóa đảng. Vấn đề đó cho đến nay vẫn chưa giải quyết xong.
Mao không đích danh tấn công Lâm Bưu nhưng mục tiêu của những lời tố cáo của y không thể nào lầm lẫn cho một người nào khác hơn là Lâm Bưu. Mao cũng nghi ngờ quyền hạn của Diệp Quần, vợ Lâm Bưu. Mao than phiền "Tôi chưa hề chấp thuận cho phép việc người vợ quản lý các công việc của chồng. Nhưng Diệp Quần đang quản lý các công việc của Lâm Bưu, các tướng Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô Pháp Hiến, Lý Thuyết Phong, Lý Tác Bằng đều phải qua ngã Diệp Quần để được tiếp xúc với Lâm Bưu."
Sau hơn một tháng kinh lý miền nam, chúng tôi trở về Bắc Kinh vào ngày 12/9/1971. Trước khi trở về tư dinh ở Trung Nam Hải, Mao tiếp xúc với Bộ Tư Lịnh Quân Khu Bắc Kinh, và cũng như các nơi đã đi qua, Mao cho họ biết các quan tâm của ông ta về Thống Chế Lâm Bưu đang âm mưu phản loạn.
Trong khi chúng tôi chưa kịp lo thu dọn đồ đạc sau chuyến kinh lý mới về Uông Ðông Hưng nhận được cú điện thoại từ Bắc Ðái Hà. Lúc đó khoảng vài phút sau mười giờ. Ngươì gọi là Trương Hùng, phó tư lịnh Binh Ðoàn Bảo Vệ Trung Ương. Họ Trương thông báo khẩn cấp rằng con gái của Lâm Bưu là Lâm Ðậu Ðậu, cho y biết rằng Diệp Quần và Lâm Lập Quả đã bắt cóc Lâm Bưu và bắt buộc ông ta phải bỏ trốn.
Uông Ðông Hưng gọi điện thoại cho Chu Ân Lai. Tôi có mặt tại chỗ khi Chu Ân Lai đến lúc 11 giờ. Lúc đó Chu Ân Lai mới thông báo cho Mao biết sự tình. Mặt Mao sa sầm khi nghe họ Chu báo cáo là Lâm Bưu đã trốn thoát.
Chu đề nghị Mao di chuyển qua Nhân Dân Ðại Sảnh để an toàn hơn. Theo Chu Ân Lai đồng bọn của Lâm Bưu còn nhiều, nếu họ muốn đảo chánh chắc chắn họ sắp sửa tấn công. Uông Ðông Hưng sắp xếp xe cộ để đưa Mao qua Nhân Dân Ðại Sảnh và ra lịnh môt tiểu đoàn bảo vệ canh phòng nghiêm nhặt chung quanh. Toàn bộ Binh Ðoàn 8341 được đặt trong tình trạng cảnh giác. Mọi thông tin liên lạc với bên ngoài đều bị cắt đứt. Tại Nhân Dân Ðại Sảnh, Mao ngụ trong phòng 118 với vài nữ phục vụ. Bộ chỉ huy của Uông Ðông Hưng được thiết lập ngay trong một phòng bên cạnh.
Khoảng 12 giờ 50 phút sáng 13/9/1971, tướng Trương Hùng khẩn báo từ Bắc Ðái Hà rằng họ đã theo đuổi đoàn xe của Lâm Bưu đến phi trường, đã khai hỏa vào đòan xe nhưng không có kết quả vì xe của Lâm Bưu thuộc loại xe ngăn đạn. Ðoàn xe Lâm Bưu chạy quá nhanh đến nỗi khi xe của Trương Hùng ra đến phi trường máy bay của Lâm Bưu đang trên đường rời phi đạo.
Chu Ân Lai đề nghị dùng hỏa tiển để tấn công máy bay nhưng Mao từ chối. Y nói "mưa rơi từ trời cao, góa phụ sẽ tái giá. Chúng ta sẽ làm gì ? Lâm Bưu đã muốn đi để y đi."
Chúng tôi chỉ biết chờ.
Nhưng rồi cũng chẳng cần bắn. Chúng tôi biết sau đó rằng máy bay đã cất cánh quá vội vã và không mang theo nhiên liệu thích hợp. Khi cất cánh chiếc máy bay đã chạm phải thùng nhiên liệu làm cho một bánh phía bên phải bị hư hỏng. Máy bay cũng không có phi công phụ hay hoa tiêu tháp tùng theo.
Hệ thống Radar Trung Quốc theo dõi máy bay khi nó đang tiến dần lên hướng tây bắc tức hướng về phía Liên Xô. Theo nguồn tin đầu tiên mà chúng tôi nhận được Lâm Bưu dự định bay về Quảng Châu để lập chính phủ riêng, nhưng điều nầy đến sáng ngày 13 chứng tỏ là không đúng.
Vào khoảng 2 giờ sáng chúng tôi được báo cáo là Lâm Bưu đang tiến vào không phận Mông Cổ. Máy bay lúc đó không còn xuất hiện trên màn ảnh radar của Trung Quốc nữa. Chu Ân Lai quay sang nói với Mao "thế là chúng ta lại có thêm một kẻ phản bội", Mao đáp "giống như Dương Quang Tạo và Vương Minh."
Tuy nhiên đến buổi chiều một tin quan trọng Chu Ân Lai nhận được từ Ðại Sứ Trung Quốc tại Cộng Hòa Ngoại Mông cho biết rằng một chiếc máy bay với chín người gồm tám nam và một nữ đã bị đã bị hỏng rớt trong khu vực Undur Khan thuộc lãnh thổ Ngoại Mông, tất cả hành khách trên tàu đều thiệt mạng. Ba ngày sau viên đại sứ thông báo cho Chu Ân Lai biết, sau khi so sánh với bản chụp phim của răng, một trong 8 nam hành khách kia là Lâm Bưu.
Những cuộc điều tra sau đó cho biết Lâm Bưu và đồng bọn đã thực hiện một đề án có tên là Ðề Án 5-7-1, nhằm âm mưu bắt và ngay cả ám sát Mao để chiếm lấy quyền lực. Mao không hề biết điều nầy mặc dù đã nghi ngờ Lâm Bưu từ lâu.
Việc Mao đi kinh lý các khu vực chính trị và quân sự là một phần trong chiến lược quân sự của y và để xác định sự ủng hộ từ các địa phương. Tuy nhiên việc Mao tiếp xúc với các tư lịnh quân sự địa phương cho Lâm Bưu biết rằng y không còn nhiều thời gian để thực hiện ý âm mưu. Nội dung các buổi họp của Mao với các tư lịnh quân sự theo nguyên tắc bí mật nhưng tư lịnh Quân Khu Vũ Hán lại học lại nội dung cho Chính Ủy Hải Quân là tướng Lý Tác Bàng biết. Viên tướng họ Lý lại cảnh giác tướng Hoàng Vĩnh Thắng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Ðội và là một tay chân thân cận của Lâm Bưu. Hoàng Vĩnh Thắng, đến phiên mình, đã báo cáo lên Lâm Bưu trong lúc họ Lâm đang nghĩ hè ở Bắc Ðái Hà. Họ tức khắc phát họa âm mưu ám sát Mao.
Lâm Bưu và đồng bọn có hàng loạt kế hoạch. Không Ðoàn 5 có khả năng thả bom đoàn xe lửa của Mao. Binh Ðoàn Không Quân 4 cũng có thể bắn hạ Mao. Cuối cùng là kế hoạch đặt bom trên đường xe lửa nơi chiếc xe lửa đặt biệt của Mao đi qua được chấp nhận.
Tôi thật sự không biết là những báo cáo về âm mưu của Lâm Bưu có chính xác hay không. Tôi cũng biết là việc ám sát Mao không phải là dễ dàng. Uông Ðông Hưng và các cán bộ bảo vệ dưới quyền y đều hoạt động vô cùng bí mật. Mọi sự duy chuyển của Mao đều rất kín đáo và thay đổi vô cùng nhanh chóng đến nỗi ngay cả những nhân viên thân cận nhất cũng không được biết trước. Khi Mao trở lại Bắc Kinh an toàn, Lâm Bưu biết rằng y đã thua trận và con đường duy nhất là bỏ trốn. Lý Ðậu Ðậu báo cáo rằng Lâm Bưu bị bắt cóc là sai. Lý Ðậu Ðậu có hiếu với cha đến nỗi không thấy cha cô ta sai chỗ nào cả. Cuối năm 1971, khi biến cố Lâm Bưu được thông báo cho quần chúng biết, ai ai cũng đều ngạc nhiên. Sau biến cố đó, sức khỏe của Mao ngày càng sa sút. Ngày 20 tháng 11 năm 1971, khi Mao tiếp Thủ Tướng Cộng Sản Việt Nam Phạm Văn Ðồng tại Nhân Dân Ðại Sảnh, màn ảnh truyền hình cho thấy Mao với những bước chân run rẩy. Mao lúc nầy đang nghĩ đến một chiến lược mới, không phải tấn công đối thủ nhưng là lúc để hòa hoãn . Thể hiện đầu tiên qua việc Mao đích thân tham dự tang lễ của Thống Chế Trần Di, nguyên bộ trưởng ngoại giao, đã bị cách chức vì chống lại Mao. Tình trạng sức khỏe của Mao tiếp tục suy giảm, và cả đội y sĩ chúng tôi cố gắng phục hồi sức khoẻ cho y trước ngày Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon viếng thăm Trung Quốc vào 21 tháng 2 năm 1972.
-------------------------------
Thủ tướng Chu Ân Lai với sự kiện Lâm Bưu chạy trốn
Khi Lâm Bưu và đồng bọn lên máy bay chạy trốn, Chu Ân Lai đã thay mặt Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) hạ lệnh cấm bay trên toàn quốc. Hậu quả là Lâm Bưu và đồng bọn bị chết.
Dư luận trong và ngoài Trung Quốc đặt câu hỏi: Thứ nhất: lệnh cấm bay phát ra lúc nào, khi đó máy bay chở Lâm Bưu đang ở đâu? Thứ hai, thái độ của Trung ương ĐCSTQ muốn Lâm Bưu quay trở lại hay muốn ông ta ra đi? Thứ ba, có phải đúng là Lâm Bưu muốn xin hạ cánh máy bay?
Có phải Chu Ân Lai không cho máy bay chở Lâm Bưu hạ cánh?
Trong Đại cách mạng Văn hóa, bọn Lâm Bưu, Diệp Quần (vợ Lâm Bưu), Lâm Lập Quả (con trai Lâm Bưu) sau khi âm mưu làm chính biến vũ trang bị bại lộ, sáng sớm ngày 13/9/1971 đã hốt hoảng leo lên chiếc máy bay Trident số hiệu 256 bỏ chạy và chết tan xác cùng máy bay rơi tại đồng cỏ gần Ondorchaan, nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ.
Đó là “sự kiện 13/9” gây chấn động dư luận Trung Quốc và thế giới.
Trong cuốn "Lịch sử nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa", xuất bản tại London (Anh) năm 2005, dẫn ra quan điểm cho rằng, chiếc máy bay Trident chở Lâm Bưu và đồng bọn thoạt tiên bay xuống phía nam trong thời gian 10 phút, sau đó vòng lại bay về Sơn Hải Quan, nhưng phát hiện sân bay này đã đóng cửa theo chỉ thị của Thủ tướng Chu Ân Lai.
Bài viết ngầm biểu thị rằng, chính Chu Ân Lai không cho máy bay Lâm Bưu tiếp đất, để buộc ông ta phải bay đi Liên Xô. Như vậy ông ta sẽ đứng về phía đối lập với nhân dân, trở thành kẻ phản bội đất nước.
Tương tự, trong một cuốn sách xuất bản trong nước cũng viết: “Sau khi máy bay cất cánh chừng hơn 20 phút, những nhân viên lưu lại “Văn phòng Lâm Bưu” tại tòa lầu số 96 bỗng nghe thấy tiếng động cơ máy bay vòng lại. Mọi người trong tòa nhà 96 đều tập trung trên sân thượng, nhìn về phía sân bay nơi xa, và nghe thấy tiếng máy bay ầm ì lượn vòng trên không trung nên đều cho rằng máy bay đã quay về, nhất định là đang muốn hạ cánh.
Khi đó, người của Văn phòng Lâm Bưu không một ai ngờ được rằng sau khi máy bay chở Lâm Bưu cất cánh, Trung ương ĐCSTQ liền hạ lệnh phong tỏa sân bay, đèn hoa tiêu dưới mặt đất đều tắt hết, nên máy bay vô phương hạ cánh.
Máy bay bay về Liên Hoa Phong, lượn vòng trên không phận tòa nhà 96, rồi bay thẳng về phương Bắc, không thấy quay trở lại nữa.”
Dụng ý của hai đoạn văn trên muốn nói Lâm Bưu khi ở trên máy bay vẫn không muốn chạy sang Liên Xô, nên lệnh cho phi công đưa máy bay quay về sân bay Sơn Hải Quan, nhưng do Chu Ân Lai hạ lệnh đóng cửa sân bay khiến máy bay không hạ cánh được, nên không thể không bay về phương Bắc.
Thực ra, chỉ cần có chút kiến thức, mọi người đều hiểu ra rằng, máy bay Trident có tốc độ bay 900km/giờ thì làm thế nào có thể lượn vòng phía trên nóc tòa nhà số 96 ở Bắc Đới Hà như một chiếc máy bay cỡ nhỏ được?
Sân bay Sơn Hải Quan, nơi chiếc Trident chở Lâm Bưu cất cánh cách Bắc Đới Hà xa cả trăm dặm, bằng mắt thường không thể nhìn thấy được, vậy làm thế nào mà có thể “nhìn về phía sân bay nơi xa, và còn có thể nghe thấy “tiếng động cơ máy bay quay lại” được? Đây quả thật là chuyện của những người rất giàu "tưởng tượng".
Sự thật về việc hạ lệnh cấm bay
Sau khi máy bay chở Lâm Bưu cất cánh, Chu Ân Lai thay mặt Bộ Chính trị Trung ương ra lệnh cấm bay. Đây là sự thật không cần tranh cãi.
Trong cuốn “Chuyện Chu Ân Lai” có ghi như sau: “Khi Lâm Bưu đột ngột lên máy bay chạy trốn, Chu Ân Lai lệnh cho Lý Đức Sinh trực chỉ huy tại Bộ Tư lệnh không quân, theo dõi sát sao hướng di chuyển của máy bay. Cử Dương Đức Trung cùng Ngô Pháp Hiến tới sân bay Tân Giao, cử Kỷ Đăng Khuê tới Bộ Tư lệnh Không quân Bắc Kinh để tiện nắm tình hình các mặt. Đồng thời ông ra lệnh cấm bay trong toàn quốc, đóng cửa tất cả các sân bay, ngừng cất cánh mọi loại máy bay, khởi động tất cả các dàn radar để giám sát bầu trời.
Chu Ân Lai còn lệnh cho các điều độ viên dùng vô tuyến điện liên lạc với chiếc Trident chở Lâm Bưu và đồng bọn, yêu cầu họ quay trở về, báo cho họ biết bất kể là máy bay hạ cánh xuống sân bay nào trong nước, Chu Ân Lai cũng đến tận sân bay đón tiếp. Nhưng trên máy bay tịnh không hồi âm".
Giáo sư Vu Nam - một chuyên gia nghiên cứu kỹ về sự kiện Lâm Bưu cũng đã viết trong bài “Về việc khảo sát một số vấn đề lịch sử của sự kiện Lâm Bưu”: “Chu Ân Lai sau đó từ Đại lễ đường nhân dân tới nơi ở của Mao Trạch Đông trong Trung Nam Hải. Uông Đông Hưng, Trương Diệu Từ dường như lúc đó cùng tới.
Chu Ân Lai ra lệnh tất cả các trạm radar vùng Hoa Bắc bật máy giám sát chặt chiếc máy bay chạy trốn, và tìm cách liên lạc với những người trên máy bay, báo cho họ biết rằng máy bay có thể xin hạ cánh tại bất kỳ sân bay nào, nhưng chiếc máy bay số hiệu 256 không trả lời.
Trạm radar mặt đất không ngừng thông báo hướng bay làm động tác giả của máy bay chở Lâm Bưu, thoạt đầu bay chếch hướng 2900 tức thẳng hướng Bắc Kinh, Đại Đồng, nhưng hơn 10 phút sau, lúc 0h40’ liền chuyển hướng bay là 3100, hướng miền Tây Mông Cổ theo đường bay Ulanbato – Irkutsk”.
Những điều này đã nói rõ, sau khi máy bay chở Lâm Bưu cất cánh, thái độ của Trung ương ĐCSTQ là muốn ông ta quay lại, bởi vậy mới từ mặt đất liên tục phát tín hiệu liên lạc với chiếc máy bay này. Hơn thế nữa, Chu Ân Lai ngỏ ý sẵn sàng tới sân bay đón Lâm Bưu, đây có thể coi là hành động rất vị tha và nhân đạo.
Ghi chép của người trong cuộc
Vấn đề mấu chốt là “lệnh cấm bay” của Chu Ân Lai phát ra lúc nào? Rất may ghi chép của người đã nhận lệnh của Chu Ân Lai đêm 13/9/1971 và trực tiếp gọi điện thoại truyền lệnh cấm bay đi toàn quốc đã ghi lại toàn bộ sự việc một cách chính xác. Đây là chứng cứ đầy sức thuyết phục để trả lời câu hỏi này. Người đó là Chu Bỉnh Tú - sĩ quan tham mưu tác chiến trực ban Sở Chỉ huy Không quân Trung Quốc lúc ấy.
Bản ghi chép như sau: “Chu Ân Lai chỉ thị, Sở Chỉ huy dùng đài đối không liên lạc thẳng với Phan Cảnh Diễn (phi công điều khiển chiếc máy bay của Lâm Bưu), bảo anh ta lái máy bay quay trở lại. Sân bay Tây Giao và sân bay thủ đô đều có thể hạ cánh được.
Lúc này, tại Sở Chỉ huy sân bay Tây Giao, Ngô Pháp Hiến cũng thân chinh cầm ống nói liên tục kêu gọi Phan Cảnh Diễn điều khiển máy bay quay về, và hứa sẽ không để xảy ra chuyện gì. Nhưng trước sau cũng không nhận được câu trả lời của anh ta.
Theo dõi màn hình radar thấy mục tiêu đã tiến sát tới vạch giới tuyến quốc gia, lúc 1h50’, máy bay thoát ra khỏi biên giới, bay vào không phận của nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, và đang hạ dần độ cao, cho tới khi tín hiệu mục tiêu trên màn hình radar trước mặt tôi bị xóa hoàn toàn tại tọa độ phía nam Ondorchaan trên đất Mông Cổ.
Lý Đức Sinh lập tức báo cáo với Chu Ân Lai về vị trí cuối cùng khi tín hiệu bị mất trên màn hình radar. Đồng thời ông ra hiệu cho tôi nhanh chóng cầm bút ghi chép lại, rồi đọc từng câu mệnh lệnh của Bộ Chính trị do Chu Ân Lai truyền đạt trong điện thoại: “Bắt đầu từ giờ phút này, mọi mệnh lệnh không có chữ ký liên danh của Mao Chủ tịch, Phó chủ tịch Lâm Bưu, Thủ tướng Chu Ân Lai, Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Vĩnh Thắng, Tư lệnh trưởng Không quân Ngô Pháp Hiến, thì không một chiếc máy bay nào được phép cất cánh!”.
Ghi xong tôi đọc lại cho Lý Đức Sinh nghe một lượt. Ông nói: "Được rồi", chuyện Lâm Bưu chạy trốn khi đó là phải tuyệt đối giữ bí mật, số người được biết sau khi mệnh lệnh được truyền đạt xuống là khá đông, do đó trong mệnh lệnh không thể không ghi: “Phó chủ tịch Lâm Bưu. Việc truyền đạt “lệnh cấm bay” này bắt đầu từ 1h56’ đến tận 2h20’ mới hoàn tất”.
Chu Ân Lai trực tiếp gọi điện tới Ban Chỉ huy sân bay quân sự Sơn Hải Quan truyền đạt mệnh lệnh này là vào hồi 1h50’, sau khi máy bay chở Lâm Bưu cất cánh lúc 0h32’, hơn 1 giờ đồng hồ, vậy nên tin đồn cho rằng Lâm Bưu muốn quay về, nhưng bị Chu Ân Lai lệnh đóng cửa sân bay, cấm hạ cánh nên đành phải “một đi không trở lại” là bịa đặt hoang đường
(Tư liệu của Đảng CSTQ, đăng trên báo Chuyện Văn học – TQ
-----------------------------
Những cái chết lấp lửng trong vụ Lâm Bưu
Tai nạn thảm khốc trên chiếc chuyên cơ Trident 256 chở Lâm Bưu chạy trốn vào ngày 13/9/1971 từng là cú sốc chính trị lớn đối với đất nước Trung Quốc. Chiếc chuyên cơ Trident 256 chở Lâm Bưu chạy trốn gồm cả thảy chín người. Trong đó, gia đình Lâm Bưu gồm Lâm Bưu cùng vợ và con trai. Cùng đi với họ có hai thủ hạ đắc lực. Tổ lái gồm bốn nhân viên: cơ trưởng Phan Cảnh Diễn và ba thợ máy Lý Bình, Đài Khởi Lương và Trương Diên Khuê.
Tang tóc đổ xuống
Chín người trên chuyến bay này đều chết không sót một mống. Sự kiện ngày 13/9 khiến dư luận thắc mắc liệu các nhân viên tổ lái có phải là “đồng đảng” phản loạn đào tẩu cùng Lâm Bưu, hay chỉ là nạn nhân bị ép buộc phạm tội?
Một trong chín nạn nhân cháy biến dạng trên chiếc chuyên cơ Trident 256.
Lâm Bưu là bộ trưởng Quốc phòng, phó chủ tịch Đảng, “phó thống soái” kế vị hợp hiến chức vụ của Mao Trạch Đông. Tháng 10/1971, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ra Văn kiện số 57 tuyên bố Lâm Bưu là kẻ phản đảng, phản quốc.
Tiếp đó, cả nước dấy lên làn sóng phê phán Lâm Bưu. Người ta đua nhau đấu tố, vạch trần, làm rõ tội trạng, hành vi phản dân hại nước của “Tập đoàn phản đảng Lâm Bưu”. Vậy mà mới ngày nào, họ còn gân cổ chúc Phó thống soái Lâm Bưu “vĩnh viễn kiện khang”, tức mãi mãi mạnh khỏe.
Cơ trưởng Phan Cảnh Diễn có cô con gái đầu tuổi mới lên 10, bị chứng bại liệt từ nhỏ. Đôi chân cô bé teo tóp, liệt hẳn nên không thể tự chăm sóc trong sinh hoạt. Năm 1970, Phan Cảnh Diễn được giới thiệu đưa con tới thành phố Trường Xuân tìm bác sĩ giỏi để điều trị.
Thượng tuần tháng 9/1971, tiện có chuyến bay thẳng công vụ, anh đã đưa con gái từ Trường Xuân về Bắc Kinh. Sự trùng hợp sít sao về thời gian này khiến người ta suy diễn, cho rằng anh đã cố ý sắp đặt trước khi tham gia vào âm mưu phản loạn đào tẩu.
Sau sự kiện 13/9, theo lệnh phê chuẩn của lãnh đạo thành phố Bắc Kinh, nhân viên an ninh đã xộc tới đơn vị làm việc của vợ Phan Cảnh Diễn và đọc lệnh bắt chị đi “cách ly thẩm tra”. Chị ngơ ngác không hiểu vì sao mình bị bắt. Bởi cho tới lúc đó, chị vẫn chưa hề biết đã xảy ra sự kiện 13/9, trong đó chồng chị là nạn nhân.
Tấm biển “Gia đình quân nhân vẻ vang” treo trước cửa nhà thợ máy Lý Bình bị Hồng vệ binh hùng hổ giật xuống đập nát. Ít lâu sau, phía binh chủng không quân cho người đem mọi di vật của Lý Bình tới trao trả cho gia đình. Vợ Lý Bình vật vã khóc lóc, ngất lên ngất xuống. Hai đứa con nhỏ dại ngơ ngác chẳng hiểu chuyện gì đã xảy ra. Trả lời cật vấn của vợ Lý Bình, người ta cứ ậm ừ, vòng vo cho qua chuyện. Họ cố né tránh, không chịu nói rõ tính chất của vụ tai nạn máy bay khiến chồng chị chết.
Hoàn cảnh gia đình thợ máy Đài Khởi Lương còn đáng ngại hơn. Chị vợ ốm yếu quanh năm. Hung tin tới như sét đánh ngang tai. Bị "sốc" ghê gớm, chị suy sụp hoàn toàn cả về thể chất lẫn tinh thần.
Thợ máy tân binh Trương Diên Khuê còn quá trẻ, mới hơn 20 tuổi và vừa cưới vợ được hơn nửa năm thì gặp nạn. Cô vợ đang mang bầu. Lại một đứa trẻ chào đời và lớn lên mà không biết mặt cha.
Những cái chết lập lờ
Sự kiện 13/9 dù bất ngờ hay không thì vẫn gây cú sốc chính trị đặc biệt lớn cho đất nước Trung Hoa. Thời kỳ đó, đất nước này đang bước vào thời kỳ “vĩ thanh” của 10 năm động loạn “đại cách mạng văn hóa” do Mao Trạch Đông thân chinh phát động.
So sánh địa vị xã hội, Lâm Bưu thuộc đẳng cấp cao, còn nhóm Phan Cảnh Diễn chỉ thuộc hàng chót bẹt. Dù cùng ngồi trên một chiếc máy bay và cùng chết khi máy bay rơi trên đất khách quê người, nhưng tên tuổi của họ được ghi nhận khác nhau trong văn kiện Đảng và nhà nước.
Không một dòng chữ nào nhắc tới tên tuổi của bất cứ ai trong nhân viên tổ bay. Thế là họ hoàn toàn bị quên lãng. Người ta mặc sức quy chụp họ, bảo họ bị Lâm Bưu lừa gạt, hãm hại cũng đúng, mà lên án họ “phản đảng, chống ông Mao” thì cũng không sai.
Ngoài bốn người trong tổ lái đã chết theo máy bay rơi, tổ bay của chiếc chuyên cơ Trident 256 còn có năm người khác. Những người này chưa kịp lên cùng máy bay nên may mắn sống sót. Khốn nỗi, họ liền bị quy là liên đới trực tiếp với sự kiện 13/9 và đều bị “cách ly điều tra” vô thời hạn vì là nghi can số một.
Năm người bị lôi đi hỏi cung liên miên. Họ phải viết các bản trần tình chứng minh rằng bốn chiến hữu xấu số của họ không hề biểu hiện dấu vết nào chứng tỏ có sự dính dáng tới âm mưu phản loạn và ý đồ chạy trốn của Lâm Bưu, trong lời nói lẫn việc làm lúc sinh thời. Thói đời người có thân phận thấp hèn, tiếng nói nhẹ bỗng ai thèm lắng nghe. Lời làm chứng của họ trước công lý chẳng qua chỉ như gió thoảng!
Máy bay chở Lâm Bưu rơi tan xác, không một ai sống sót. Đến nay, kết quả giải mã hộp đen âm thanh tìm thấy trong đống xác máy bay cũng chẳng được nói tới. Người ta có thu được tài liệu nào khả dĩ chứng minh giữa Lâm Bưu và các nhân viên tổ bay có bàn bạc trao đổi ngầm, hoặc có đấu tranh, giằng co vật lộn giữa chạy trốn và chống chạy trốn trên không trung hay không?
Giải oan cho người đã khuất
Các nhân viên tổ lái là “đồng đảng” phản loạn đào tẩu cùng Lâm Bưu hay chỉ là nạn nhân bị ép buộc phạm tội? Câu hỏi này phải được làm rõ vì danh dự của người đã khuất, cũng là vì cuộc sống người thân của họ còn đang ở trên cõi đời này.
Ngày 11/9/1980, tức chín năm sau sự kiện 13/9, ông Đặng Tiểu Bình đã trả lời thẳng thắn về nguyên nhân dẫn tới tai họa đối với chiếc máy bay Trident 256. Tiếp El Fer, Tổng biên tập tờ Tạp chí Châm ngôn khoa học Cơ đốc giáo của Mỹ, Đặng Tiểu Bình nói: "Theo phán đoán của riêng tôi thì phi công (điều khiển chiếc chuyên cơ Trident 256) là một người tử tế, một đảng viên cộng sản tốt”.
Ông Đặng Tiểu Bình kể: Trước kia đã từng xảy ra một vụ việc tương tự. Một máy bay cùng loại chở theo lượng lớn tài liệu cơ mật của Đảng và nhà nước Trung Quốc trên đường bay nội địa bị buộc bay sang một quốc gia thù địch. Khi phát hiện ý đồ đen tối của kẻ sai khiến, viên phi công đã chống lại quyết liệt. Máy bay phải hạ cánh khẩn cấp. Nhưng ngay sau đó, viên phi công đã bị bọn phản loạn bắn chết.
Lời khai cung của năm thợ máy còn sống đều nhấn mạnh: Trước khi xảy ra sự kiện 13/9, mối quan hệ giữa phi hành đoàn và tập đoàn Lâm Bưu chỉ thuần túy là hành vi thực thi nhiệm vụ chuyên môn theo quy định của quân chủng. Họ chỉ có nghĩa vụ duy tu, bảo dưỡng và vận hành tốt chuyên cơ.
Mà sự thật là vậy. Nhưng thật trớ trêu, suốt chín năm trời sau sự kiện 13/9, không có bất kỳ một cá nhân hay một lãnh đạo nào dám công khai bày tỏ quan điểm thừa nhận và chỉ ra bản chất về sự hy sinh của bốn nhân viên tổ lái. Báo chí hay tài liệu lưu hành nội bộ cũng không hề có lấy một dòng một chữ nào liên quan đến sự kiện. Họ né tránh “vấn đề nhạy cảm” trong cái thời đại bị chụp mũ phản cách mạng đồng nghĩa với lãnh án tử hình. Cũng có thể do họ vô cảm.
Cho tới khi ông Đặng Tiểu Bình dũng cảm nói lên sự thật, họ mới thở phào và bắt đầu “ăn theo nói leo”, đại loại: “Biết ngay mà, nhân báo như thần bảo”.
Cái “chết bệnh” nhẹ tênh
Dường như không ai còn công khai coi viên phi công cơ trưởng và ba thợ máy gặp nạn kia là những kẻ phản bội nữa. Nhưng sinh mạng chính trị của họ vẫn mập mờ, chẳng rõ ràng. Bởi cái chết của họ vẫn không được coi là chết trong khi thực thi công vụ.
Vợ của cơ trưởng Phan Cảnh Diễn trải qua hơn một năm trời bôn ba trên đường gập ghềnh tìm công lý, minh oan cho chồng. Đầu năm 1982, chị cùng gia đình nhận được “Giấy chứng nhận chết bệnh của quân nhân cách mạng” do Tổng cục Chính trị Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc ký. Giấy này ghi rằng: “Đồng chí Phan Cảnh Diễn đã không may chết cùng máy bay rơi tại Ondorchaan Mông Cổ ngày 13/9/1971. Xin gửi lời chia buồn chân thành và thống thiết nhất của chúng tôi tới gia quyến. Mong mọi người hãy biến đau thương thành sức mạnh, gắng sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Nhờ lời khẳng định của Đặng Tiểu Bình, nỗi oan của bốn nhân viên tổ lái đã được giải sau hơn 10 năm tử nạn oan khuất, mất xác cùng máy bay rơi. Cả bốn người đều bị gán cho cái chết nhẹ tênh là “chết bệnh”.
Tiếp đó, năm người thợ máy sau hơn 10 năm bị tạm giam và đang làm việc khổ sai tại một trại cải tạo vùng biên viễn phía Bắc cũng được trả tự do. Họ không hề biết lý do được phóng thích. Cứ như 10 năm trước, họ cũng từng ngơ ngác tự hỏi: “Tại sao mình lại bị bắt nhỉ?”.
Mấy chục năm đã trôi qua. Tất cả đã lui về dĩ vãng. Sự việc về cơ bản đã được làm sáng tỏ. Nhưng mỗi lần nhắc tới sự kiện 13/9 thì mọi người - nhất là những người đã ở dốc bên kia cuộc đời không ai là không nhớ.
(Theo Nguyệt san Pháp luật TP.HCM)
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét