Truyện
vừa của HG
Tiến là con rể cô tôi .Anh
hơn tôi hàng chục tuổi. Chuyện về cuộc đời anh là
một câu chuyện dài. Nhưng chuyện có liên quan
tới tôi thì thật là câu chuyện hú vía.
Mãi sau này tôi mới biết.
Nếu ngay lúc ấy biết được, chắc nó cũng không
xảy ra.
Người ta nói:"Hoạ vô đơn chí" có
phần đúng, như câu: " Cơn ông chưa qua ,cơn bà đã tới" .
Tôi vừa thoát hiểm, như con
chim sổ lồng, thì lại một tai ách mới.
Khiến cho ý định an phận thủ thường của tôi phải bỏ sang một bên. Toàn những
ngẫu nhiên khốn nạn như trời nhìn mình mà giáng xuống.
Nhiều lúc tôi băn khoăn:"Mầm
mống không biết nó bắt nguồn từ đâu?", " Có phải nhân duyên từ kiếp
trước?".
Một lần tình cờ có ông thầy
mù xem tử vi cho tôi nói "Tiền kiếp là nhà sư.Nếu kiếp này theo căn tu hành thì đắc đạo. Bằng không sẽ vất
vả". khi ấy tôi chẳng tin.
Những năm bảy mươi thế kỷ
trước, không cứ tôi, nhiều người cũng không tin như thế. Xuất gia tu hành đòi
hỏi một tính cách và nghị lực phi thường. không phải ai cũng có thể làm được.
Mà tôi trong đám chúng sinh cũng chỉ là một nhân mệnh tầm thường, đôi khi yếu đuối,
còn hèn hạ nữa.
Như tôi đã nói, để tránh một ngẫu nhiên có hại
cho mình, một lần nữa tôi lại khăn gói ra đi. Người ngoài cuộc thì bảo"Nó
là đứa ông không ra ông, thằng chẳng ra thằng. Thích lông bông".
Nhưng nói sao mặc lòng. Tôi chẳng hơi đâu mà
giải thích với họ.
Cái nết hay nhòm vào đời tư của người khác có
sẵn trong tiềm năng của người đời. Có thể lúc nào đó, tôi cũng có sở thích
chẳng ra gì ấy. Vì thế mới cần đến sự tu luyện. Cuộc sống con người chẳng là
một cuộc tự hoàn thiện đó sao ?
Trong cái làng quê vừa nghèo vừa cũ
ấy, anh Tiến là người có máu mặt. Việc của tôi lần này cần nhờ vả đến anh ,biết đâu anh chẳng giúp
tôi một việc gì đó kiếm ra tiền, độ thân lúc sa cơ?
Ngày trước anh làm giám thị ở trại giam ,mãi đâu
trên Lào Cai sương mù, mà tôi chưa đặt chân tới.
Một lần phạm bỏ trốn, anh bắn chết một tên,
nội vụ nghe ly kỳ lắm.. Tôi chỉ biết lõm bõm có vậy. Anh bị kỷ luật rồi về làng
làm ăn. Nhưng anh làm ăn không giống ai. Có thể đi trước thiên hạ vài bước. Có
thể đi sau thiên hạ vài bước.
Người nói anh cờ bạc bịp.
Người bảo anh:" Buôn lậu" . Quanh năm thấy anh vác cưa lên rừng nói
là đi xẻ. Nhưng không cho ai đi cùng,"Nghề thợ xẻ ít nhất phải có hai người"
, nếu có ai trong làng nói vậy anh chỉ bảo:" Đến đâu tận dụng nhân công ở đấy.
Đi nhiều làm gì cho tốn tiền tàu xe". Chẳng biết có đúng thế không?
Mấy năm trước anh còn lên Châu Hoá vài lần. Anh đến
hẳn nhà lão Quý chủ nhiệm.
Xi măng bấy giờ đắt và khó
mua lắm. Vậy mà anh biếu chủ nhà hẳn năm tạ xi. Trước đó anh đã thủ sẵn đồ thợ xây làm giúp nhà lão cái nền nhà. Nhà
lão Quý ngay sát bến đò, cát sỏi sẵn lắm. Chỉ cần bỏ công kéo về. Có hoạ là lão
Quý dở hơi mới từ chối lòng tốt của anh.
Nhưng lòng tốt của con người
không phải bỗng dưng mà có. Không biết anh nói thế nào với lão Quý mà lão lại
bằng lòng. Lão đồng ý cho anh gá bạc ít ngày. Chẳng cần giải thích, lão Quý
cũng biết việc này không đơn giản. Nếu lộ ra lão mất toi cái thẻ Đảng cùng chân chủ nhiệm HTX. Có khi
còn phải hầu toà. Người ta thường có tâm lý cho rằng có thể việc mình làm trót
lọt , nếu nghĩ không trót lọt thì chẳng ai dám làm việc gì sai ? Đấy là lỗ hổng
tâm lý mà pháp luật chưa để ý tới.
Khi láng nền, anh Tiến đã kín đáo đặt
xuống dưới nền nhà mấy cục nam châm. Thứ nam châm tháo từ đi na mô xe đạp. Dưới
đế giày da cao cổ kiểu sĩ quan anh, đã có sẵn bộ quân bài" Thửa" rất
công phu. Nhìn bề ngoài nó chẳng khác quân
bài thường chơi. Một mặt đen, một mặt trắng. Nhưng nó đã được nhiễm từ. Điều đó
thì không thể nhìn bằng mắt. Sau mấy ngày, bằng cách chỉ mình anh biết, Tiến
cuốn chiếu cả làng. Tiền anh ôm về quê không kịp đếm, tất cả lèn vào một
cái xắc du lịch kiểu Tàu , đó là kiểu
xắc có vẽ hình đôi trai gái bắn máy bay. Biểu tượng của tình hữu nghị Trung-
Việt thời đánh Mỹ
Gặp tôi anh Tiến bảo:" Chuyện
của cậu nhiều người không hiểu. Dân mình không ra khỏi làng. Người ta không
hiểu cũng là lẽ thường. Còn anh thì biết. Người như cậu, gian nan là cái chắc.
Tao định chuyến này vào Sài Gòn. Trong đó tao có người nhà . Giải phóng gần mười
năm rồi,chưa đi thăm được. Chẳng bù cho dân Hà Đông. Hai bảy tháng tư đã có người
theo đại quân vào đến Sài Gòn. Người ta đi buôn như thế mới là cực kỳ. Nếu cậu
theo anh thì ngày mai đi. Vốn liếng anh lo. Bằng không cậu vào trong đó kiếm
việc mà làm. Công cũng khá.." Anh
ngừng một lát, đưa mắt thăm dò. Tôi chưa nói gì, nhưng lộ ý đồng tình. Tôi thầm
nghĩ:" Đúng là mình đang buồn ngủ lại gặp chiếu manh. Không chừng chiếu
hoa".
Tôi còn trẻ , tuổi tre thì
giàu mơ ước và dự định, kể cả lúc bi đát.
Tiến lại nói: " Tao có thằng cháu
gọi bằng cậu. Nó hiện đang phụ trách công trình xây dựng trong Đa kia. Hôm nọ
nhắn về tìm thợ xây cho nó. Nghề thợ xây của chú mày chắc là được việc. Đi làm ăn
kiếm ít lưng vốn mà về". Tôi chỉ còn biết: " Vâng"
Lại bảo: " Thời bây
giờ người ta sống cụ thể. Không mấy ai hớn mưng như một dạo. Cũng phải thôi.
Làm thằng người chí ít cũng phải biết lo
cho mình. Nếu không còn nói chó gì nữa. Cậu mồ côi từ nhỏ, anh nói thế chắc cậu
hiểu".
Lời anh Tiến nói vô tình chạm vào nỗi đau
trong lòng tôi. Tôi chợt nhớ tới kẻ giết cha mình, khi tôi mới được bảy tháng
tuổi , cuộc sống của kẻ mồ côi cay đắng, khốn nạn như thế nào . Có lẽ suốt cuộc
đời tôi không sao quên được. Sau năm 1954 hắn di cư vào Nam . Nghe nói
hắn lên đến hàm tướng trong quân đội Sài Gòn.
Trước ngày giải phóng một năm, hắn có
người nhắn tin ra Bắc. Mụ vợ già và mấy đứa
con ở lại quê làm ma cho hắn. Người ta lấy sọ dừa và hom dâu xếp vào tiểu sành.
rồi tưới nước cam lồ làm phép, giả như hài cốt. Đám làm linh đình, huyên náo cả
thôn. Nhưng người làng thì nói: "Gần ngày giải phóng hết đường chạy, nhà
nó mới làm như vậy".
Tự dưng tôi có linh cảm là
hắn còn sống. Biết đâu chuyến đi này tôi lại gặp hắn ?
Chuyện đời muôn nỗi éo le. Anh Tiến lại
có họ hàng với nhà hắn. Nên chuyện này tôi để bụng, lúc này nói ra không tiện.
Tối hôm ấy tôi ở nhà xem ti vi. Nhà anh
có cái ti vi đen trắng dùng điện ắc quy.
Cả làng mới có hai chiếc ti
vi như thế. Thành ra người xem rất đông. Phòng khách mỗi chiều năm mét mà sặc
sụa khói thuốc lào. Người ta nói chuyện ồn ào nên chương trình tryền hình dứt đoạn.
Xem kịch mà chẳng rõ nội dung vở kịch như thế nào ? Nó như trò mua vui sau một
ngày kiếm sống vất vả.
Quê tôi ruộng ít. Những người
khoẻ mạnh đi làm thuê các tỉnh. Người có tiền đẩy xe thồ ra Hà Nội buôn bán rau quả. Toàn những việc nhì
nhằng kiếm đồng bạc vụn, cốt kiếm cơm.
Đi đường mệt lại thêm bấn
lo, tôi chả thiết xem. Chị tôi bảo: " Cậu lên gác mà nghỉ"
Gian gác nhà anh Tiến cũng thật là kỳ lạ. Nhà
gần trăm mét vuông đổ mái bê tông. Gian xép bên cạnh có một lỗ vuông ăn thông
lên tầng trên. Lên xuống không có cầu thang, tay vịn, mà là trèo thang dây. Khi
lên thang rồi có thể lật tấm ván có gắn bản lề xuống lỗ hổng đó.
Thiết kế kiểu này chắc anh Tiến có dụng ý
riêng. Chỉ anh và vợ con anh biết vì chưa bao giờ anh nói ra điều đó với ai.
Tôi đoán đây là điều bí hiểm. Vì trên gian nhà tầng trên có một cửa sổ cũng khá
đặc biệt. Cửa sổ có cánh dày chắc chắn nhưng lại không có chấn song, quay về
phía sau vườn nhà. Có thể đây là lối
thoát hiểm, nếu như có địch hoạ hoặc hoả hoạn. Môi trường sống tạo cho con người
ta tính cách và thói quen riêng. Nhiều khi nó vô thức chẳng để làm gì. Anh Tiến
là người hoạt năng. Chỉ trong nửa chiều và đêm hôm đó anh đã chuẩn bị đủ hàng
họ để mai về Hà Nội đi tàu Thống Nhất.
Chúng tôi mặc quần áo bộ đội.
Anh Tiến có thêm chiếc áo khoác dạ tá màu cứt ngựa. Trông anh ra dáng sĩ
quan.Chỉ nhìn cách anh buộc dây giày đủ biết anh có tác phong quân nhân kỳ cựu.
Nghề của anh trước đây tác phong na ná quân đội, có phần tỉ mỉ chặt chẽ hơn.
Tôi hỏi anh: " Giấy tờ như thế
nào? Em nghe nói đi tàu vào Nam phải có
giấy xác nhận của huyện trở lên".
Anh bảo: " Đứa con đầu của tao nó làm ở
phòng thông tin tín hiệu. Việc này nó khắc lo".
Tôi lại hỏi: " Sao Nam - Bắcthống
nhất rồi mà vẫn đi lại khó khăn như vậy". Anh gắt: " Cậu sống ngần ấy
năm rồi mà vẫn không hiểu cách quản lý hộ tịch, hộ khẩu đằng mình sao ? Hơn nữa
lâu nay bọn phỉ trên cao nguyên thỉnh thoảng vẫn lén xuống phá hoại..."
Anh lại bảo: " Nói thế cậu có sợ không?
" Tôi lắc đầu: " Không" .
Mà tôi không sợ thật. Tôi
có gì mà phải sợ?
Địch hay phỉ đối với tôi
cũng không có gì đáng sợ. Tôi có gì mà sợ chúng ám sát hay cướp bóc?
Có khi đáng sợ lại là người cùng phe gọi là đồng
chí, bè bạn với mình. Mối nguy được che đạy kín đáo, hoa mỹ đến thật không ngờ.
Phỉ thì rành ra đấy. Hơn nữa chúng vụng trộm như kẻ cắp có gì đáng ngại?
Ở Hà
Nội mất hai ngày.
Sáng sớm hôm thứ ba hai anh
em tôi đi tàu lúc ba giờ sáng.
Hôm sau Hà Nội khô khan
không có mưa. Gió lạnh từ phương Bắc lùa từng cơn như muốn giật tung chiếc áo
khoác ngoài. Đó là chiếc áo bạt quân nhu rộng thùng thình còn khét mùi nhựa.
Anh Tiến bảo: " Loại này tốt, hàng viện
trợ đấy". Tôi không nói gì, đang mải xem nhân viên soát vé lên tàu.
Hành khách phần đông là bộ đội.
Có thể họ đi công tác, cũng có thể đi trả phép, rất đông. Loáng thoáng vài bóng
thường dân. Mấy người này hành lý kềnh càng, mồm năm miệng mười dặn dò người
nhà ra tiễn hay đối đáp với nhân viên nhà tàu.
Đi qua , cửa soát vé tôi hơi lo. Vì trong người
chẳng có giấy tờ gì cả. Khi anh Tiến chìa chiếc vé ưu tiên tôi mới thở phào nhẹ
nhõm. Đó là tấm vé to bằng bàn tay chỉ dành ưu tiên cho người nhà nghành đường
sắt.
Một cô gái tay sách cái đèn tín hiệu bốn mặt
chỉ cho chúng tôi lên một toa gần đầu máy.
Anh Tiến mua thêm một tông rượu của người bán
hàng trên sân ga. Anh bảo: " Cậu làm tớp cho ấm bụng". Tôi nói: " em không uống" Anh Tiến cẩn thận buộc hai chiếc ba lô làm một,
để gọn trên xích tông của toa tàu.
Anh dăn tôi: " Mất hai
đêm trên tàu đấy. Nếu lúc nào ngủ bảo anh. Hai anh em thay nhau mà thức, không
nó cuỗm sạch đồ đi đấ.". Lúc sau
anh lại bảo: "Đi đường dài không như
ngoài này đâu. Sơ sểnh có nước ăn xin dọc đường !". Tôi
nghỉ:" Toa này là toa ưu tiên, chắc an ninh tốt hơn"
Anh mắng:" Vớ vẩn!Cậu
cứ duy hình thức như thế bao giờ mới ngộ ra được? Cậu chưa vào trong ấy, cậu chưa
biết. Người Nam
có câu cửa miệng như thế nào không? Đó là câu" Nói vậy, không phải
vậy!". Nhận xét cái gì cũng căn cứ
cái bề ngoài là hỏng toét cậu ạ!
Lâu nay tôi cũng ít nhiều ý
thức về chuyện này. Nhưng quả thực lúc này tôi sơ ý.
Trước mắt tôi bao cảnh, bao
người ,bao toan tính làm ý thức này nhoè đi.
Có
thể gọi đỉnh đèo Hải Vân là cái mốc phân kỳ
của hai miền khí hậu.
Phía bắc lúc lên tàu gia
buốt như thể có lưỡi dao lạnh cứa vào da thịt. Áo trong áo ngoài vẫn rét, hai
bàn tay cóng đơ.
Vậy mà bên này phía nam, đang
mùa nóng bức. Gió Lào nằm sâu trong bán đảo lùa về, cỏ tranh hai bên đường héo
như hơ lửa. Tôi cởi hết áo khoác ngoài đánh trần chiếc mai ô ba lỗ, mồ hôi vẫn
túa ra rơm rớp.
Qua ga Gà anh Tiến mua hẳn
một con. Anh bày lên cái bàn nhỏ gắn dọc thành tầu bảo ăn chút cho lại sức.
Bụng đói nhưng nóng quá tôi
không muốn ăn, uống một lúc hai cốc nước dừa . Anh bảo : "Cậu chịu nóng như
thế là kém. Nóng này đã ăn thua gì? Càng vào sâu càng nóng hơn. Ở sài gòn có
hôm nhiệt độ lên tới ba tám độ. Miền nam lúc nào cũng trội hơn miền bắc mười độ
C".
Tôi đã hơi hoang mang, giá
rét còn có thể chịu được. , nóng nực quả tôi rất sợ.
Tôi mệnh hoả rất ngại nóng
bức. Một dạo tôi làm gạch kiếm tiền rất khá. Nhưng sau phải bỏ. Nghề gạch là
nghề gần củi lửa. Có khi lò đang cháy bừng bừng phải đi lên nóc lò che phên
phòng lúc cơn mưa , đốt xong lò gạch đi đái dắt vài ngày.
Lại nghĩ: Cái gì rồi cũng quen.
Khả năng thích nghi với môi trường là tiềm năng
của mỗi người từ khi mới chào đời. Tôi đang còn trẻ, không lẽ người khác chịu được,
còn mình lại không?
Về sau tôi mới biết: Chuyến đi hôm đó vô
tình tôi đã làm một chuyện dại dột.
Trong chiếc ba lô anh Tiến đưa
tôi mang có hai cân thuốc phiện. Nếu chẳng may bị phát hiện, tôi ngồi tù là cái chắc.
Thời ấy người ta chưa trừng
trị tội buôn ban ma tuý nghiêm khắc như bây giờ. Nhưng bị xử lý cũng không phải là nhẹ. Cũng có thể tôi lần đầu
mang nó hoặc do ở toa ưu tiên nên suốt dọc đường không ai hỏi.
Khi nào đến Bình Dương, đứa
cháu con anh họ tôi đòi ăn sữa, tôi mang một hộp ra khui. Còn đang loay hoay chưa
mở được thì anh Tiến ngoài cầu nước chạy về.
Anh vội giằng lấy hộp sữa
cất đi, gắt khẽ vào tai tôi: "Không được, tù đấy". Tôi không hiểu ra
làm sao.
Anh kéo tôi ra vườn nói
nhỏ: "Đến nước này anh không cần giấu cậu, kẻo cậu lúc khác vô tình thì
chết cả nút. Không phải sữa , thuốc phiện đấy. Vào đến đây là êm rồi. Tuyệt đối
cậu không được nói với ai. Việc này chỉ mình cậu biết. Nghe không".
Tôi lặng lẽ gật đầu.
Hẳn nào lúc lên tàu anh Tiến cứ dặn: "Nếu
có ai hỏi cái ba lô cậu cứ mặc kệ họ. Coi như không phải của mình".
Tôi hỏi :"Hàng cấm
à?" Anh bảo: "Cũng không hẳn thế, thuốc lá sợi thôi. Nhưng thuế nặng
lắm. Đỡ đồng nào hay đồng ấy". Tôi nghĩ thế cũng phải! song chưa hết băn
khoăn. Thuốc lá sợi sao nặng thế. Tôi đã từng đi mua thuốc sợi từ Lạng Sơn về
Hà Nội bán. Nó nhẹ bồng bềnh cơ mà. Có thể anh mua bánh kẹo xếp trong ấy cho nên
nó mới nặng thế, khi sờ qua lần vải thấy mấy hộp sữa cưng cứng, tôi tạm yên
tâm.
Sau này tôi đã được biết thêm một điều bí
ẩn về ông anh rể.
Anh đã khéo léo bóc tem dán ngoài, dùng mũi
dao mỏng mở một bên lắp hộp lấy hết sữa ra rồi nhét thuốc phiện vào. Anh còn
cẩn thận cân lại hộp sữa sao cho sau và trước khi thay đổi, trọng lượng không
chênh lệch. Người vô tình khó nhận ra.
Chuyến đó chót lọt! Sự hồ đồ của tôi
không phải trả giá.
**
Ban đầu dự định của tôi là vào quận mười một
gần trường đua Phú Thọ. Tôi mừng có dịp tiếp cận đối tượng sát hại cha mẹ tôi.
Hẵng biết chỗ ở của hắn đã. Trừng phạt như thế nào, sau sẽ tuỳ cơ ứng biến. Tôi chỉ có một mình,
công việc không vội được. Trước hết phải tạm ổn định cuộc sống, mua chiếc xe đạp
chủ động đi lại..
Nhưng sau anh Tiến nói phải lên Phú giáo.
Anh sẽ bàn với người anh họ của tôi để giúp tôi ổn định cuộc sống. Anh họ tôi
tên là Bơ. Anh hiện đang làm giám đốc nông trường quân đội. Đơn vị này trước đây
đánh tiến sài gòn, sau giải phóng rút về Bình Dương làm kinh tế. Tôi biết lái
xe, có thể anh Bơ sẽ xếp cho tôi một việc làm. Anh Tiến bảo: "Cảnh ngộ của
cậu giờ hệt như toa tầu bỏ không ngoài sân ga, cần một đầu máy kéo đi, phải tận
dụng mọi cơ hội".
Tôi còn biết làm gì với sự sắp xếp của anh? Anh là người bỏ tiền đưa tôi
vào đây.. Tôi không có quyền làm trái ý anh được. Hơn thế nữa lại hết sức phiêu
lưu. Tôi đã quá ngán cảnh bấp bênh của đời mình . Khoảnh khắc người ta hiện
diện ở cuộc sống này có hạn, không thể đùa chơi, tôi nói: "Tuỳ anh"
Anh bảo : "Thế thì được, nếu thằng Bơ không xếp nổi cho mày, mới phải lên Đa
kia, vùng ấy khan nước, sống khổ lắm chưa chắc đã chịu nổi".
Đi khỏi dốc Bò Đái là tới nhà anh Bơ. Gọi
là dốc Bò Đái vì nó cao, bò kéo tới đây đều phải dừng lại. Người đánh xe quất
túi bụi vào mông, con bò ỉa đái tèm lem. Vì thế mới có tên gọi như vậy.
Khu nông trường bộ vài mươi ngôi nhà núp dưới
lùm cây, bên cạnh đìa nước nhỏ chảy ra sông Bé. Vườn cà phê, vườn tiêu xanh
ngắt. Khu trại nuôi trâu bò vài trăm con. Đây là vùng đất màu mỡ có thể làm ăn
phất lên được. Nhưng phần đong đang làm tạm bợ, cán bộ chiến sĩ đang chờ chính
sách ra quân để về miền Bắc. Thế mới biết quê hương, dù cuộc sống kham khổ đến
mấy người ta không dễ dàng quên , dù có nơi nào khác mỡ màng, dễ sống hơn .
Anh họ tôi cũng đang trong tình trạng đó.
Chị Bơ vào đây gần một năm nay . Chị
luôn thúc giục chồng ra Bắc . Chị nói: "Ông là con trưởng, tài sản của các
cụ để lại chưa nói đến. Nhưng nghĩa vụ của ông, không thể không về".
Anh tôi bảo:"Bà lạc hậu bỏ mẹ. Đường đất
nhà trời, ở đâu chẳng được ? Muốn về, làm kinh tế vài năm đã chết ai?" Chị
tôi nói:"Đợi lúc các cụ qua đời hết mới về có mà mặt mo. Tôi thì các vàng
tôi không ở" Anh tôi bảo: "Nếu thế bà cứ đi về trước đi. Tôi thu xếp
xong tôi về sau". Chị tôi hỏi: "Ông là còn nấn ná ở lại với con bé ở
ngoài cầu Bình Lợi nên không dứt nổi chứ gì ?" Anh Bơ đỏ mặt tía tai:
"Bà chỉ nói nhảm. Tôi đi làm cách mạng mà bà nói văng mạng thế à ?"
Chị tôi cười nhạt:
"Tôi còn lạ gì ông nói một đường, làm một nẻo. Mười năm trời ông đi B , tôi
ở nhà cơ khổ trăm đường nuôi bố mẹ, nuôi con cho ông. Bây giờ ông lên tướng,
lên tá còn thiết gì đến quê hương bản quán. Còn thiết gì cái thân teo tóp như
cái mo khô này..."
Rồi chị ôm mặt khóc. Anh
tôi mặc vội cái áo đại cán, thắt bao súng, gắt: "Bà có im đi không. Để từ từ rồi tôi
lo. Chết vì cái miệng đàn bà. Nói năng chẳng giữ gìn gì cả . Trên người ta
trông xuống, dưới thằng lính trông lên. Bà có để tôi yên không?"
Anh dắt cái xe cúp phóng
vào rừng cao su. Chị Bơ lại thản nhiên như không.
quay sang tôi chị bảo:
"Hai chị em mình ra ngoài đìa. Chỗ ấy lắm cá, chặn lấy một đoạn tát cạn
bắt cá, chiều ăn bánh tráng"
Thằng con lớn của anh gần bằng tôi cũng bảo:
"Nhiều cù đinh lắm chú ạ , tát cũng nhanh, không có mấy nước. Cứ ngồi nhà
nghe bố mẹ cháu dân ca thế này mệt lắm".
Trò mò cua bắt cá tôi không
ngại, thấy cháu nói vậy tôi cũng đành theo nó ra đìa.
Chúng tôi xẻ một đường mương thoát nước. Hai đầu khúc đìa còn lại vun đất be
bờ. Đất ngâm nước lâu ngày nhão nhoét những bùn. Phải lấy rơm cuộn lại, kè thêm
cọc mới thành bờ.
Cứ đắp được chỗ này chỗ
khác lại xổ , nước lại tràn vào.
Sau rồi tôi phải bảo thằng cháu lấy cái xảo to mọi khi
dùng gánh phân dùng để xúc, cứ chỗ nào nước động vục vào.
Trưa chặt, hai chú cháu cũng xúc được lưng
thùng cá. Thằng Dung cháu tôi toét miệng khoe với mẹ nó:" Công nhận chú
Thành hay thật, không cần tát cạn, cứ xảo mà vục, vùa nhanh vừa đỡ mệt".
Chị tôi chép miệng: "Chuyện , chú ấy khổ từ bé. Đâu có như
bố mày. Tính thì sĩ, mà làm việc gì cũng lóng nga lóng ngóng".
Tôi mệt bã bời, chẳng muốn tham gia câu chuyện
của chị với cháu.
Chị dâu tôi quen lam lũ, lại thêm tham công
tiếc việc. Công việc ở đây không biết đâu mà kể. Lại sẵn tôi, một công nhân
miễn phí.
Việc chị bày ra không biết còn những gì?
Mãi đến gần tối, anh hai Bơ mới về. Cơm
nước xong anh nói với tôi: " Bác Tiến dặn tôi, bác ra thành phố độ hai
ngày sẽ trở lại đón chú. Nay đã cả tuần rồi. Không khéo ông ấy ra Bắc rồi cũng
nên. Ông này vào đây mấy lần tôi biết. Ông ấy khiếp đấy, chú không theo được đâu.
Thôi cứ yên trí đi. Có anh ở đây khỏi lo".
Tôi nghĩ bụng: "Nếu
không yên trí, tôi còn biết làm gì nữa đây? Khi trong túi rỗng không chẳng có
gì ngoài cái bằng đại học nhàu nát tôi còn giữ được?"
Tôi lặng lẽ đưa anh Cơ xem cái bằng, ngụ ý
không dám nói ra, xem anh có cách nào giúp không?
Anh gạt đi:" Lúc này
bằng cấp không bằng bằng lòng. Chú ăn ở cho khéo, thiếu gì việc".
Tôi sượng hết cả mặt, cất
vội cái bằng vào trong túi áo. Có khi chẳng cần đến nó thật. Có thể là vào lúc
này, ở vào hoàn cảnh như thế này nó chẳng có ý nghĩa gì .
Thấy tôi tần ngần có ý chán nản anh vỗ vai tôi
bảo:"Chú không phải quân nhân nên hơi khó. Nếu chú là lính thì dễ ợt. Anh làm giám đốc nông trường,
nhưng biên chế bên bộ quốc phòng quản. Biên chế của nó rích rắc lắm. Nhưng đừng
lo, bên dân sự anh quen khá nhiều. Thế nào cũng tìm được việc cho chú. Cứ tạm
quên cái việc học hành đời. Lúc này người ta đang cải tạo công thương. Cả nước
là một cuộc đại cách mạng. Lòi cái đuôi trí thức tiểu tư sản ra khó nói chuyện
lắm. Chẳng thà nói mình là thợ, thợ gì cũng được. Công nhân là giai cấp vô sản
mà...".
Anh tôi là cán bộ trung cấp, do thành tích
chiến đấu mà nên. Lý luận của anh tôi thật là một mớ bòng bong. Nó không qua trường
lớp nào cả. Tôi không hiểu hết những điều anh nói. Nhưng mang máng hiểu ra là:
Tôi phải tỏ ra mình là con em người lao động. Bản thân cũng là người lao động
trung thực. Cái đó nhất định rồi. Chẳng cần phải tỏ ra cái gì cả! Cha truyền
con nối, tôi không là người lao động thì là gì? Nếu tôi lao động theo cách của
tôi nghĩ, có gì là sai?
Nhưng tôi không nói với
anh.
Giữa anh với tôi là hai thế hệ.
Anh em nhà nhưng hoàn cảnh
khác nhau, vốn sống, suy nghĩ khác nhau. Tốt nhất là không tranh biện.
Chẳng có cuộc tranh luận nào kết thúc cả. Giữa
các phạm trù, oái oăm thay cứ buộc vào nhau, lúc đẩy , lúc co, không tài nào
tách bạch ra được.
Tạm thời công việc hàng ngày của tôi là
cùng thằng cháu vào rừng. Hai chú cháu cắt những cây gỗ khô chỉ còn lõi về làm
nọc tiêu.
Khu rừng này xưa là vùng
trắng . Máy bay Mĩ giải chất độc hoá học và ném bom xăng nên cây to phần nhiều
chết khô, cháy lem nhem chỉ còn sót lại những lõi gỗ của những cây đã mục nát .
Lõi gỗ là loại rất cứng, chôn dưới đất hàng chục năm không sợ mối mọt, nó nặng
kinh người.
Cứ được vài chục cây anh
hai tôi cho xe vào chở . Phần giao cho nông trường, phần anh trồng ở vườn nhà .
Vườn nọc tiêu ngay hàng thẳng lối trông xa như đoàn quân hàng ngũ chỉnh tề .
Sau mấy tháng trời tôi thật không nhận ra mình nữa . Mặt tôi hốc hác , mắt
trũng sâu , mái tóc cứng rậm trùm gáy . Cảm giác như ổ rơm úp trên đầu . Nước
da càng tuyệt vời hơn , đúng là màu da của vùng cao nguyên , đen bóng thô dày
như da thuộc .
Nhưng đổi lại anh Hai Bơ
cho tôi cái xe Cúp 50, trông cũ kỹ nhưng đi còn tốt , trong túi có thêm chút ít
tiền .
Thế là tôi có cơ may thực
hiện ý định của mình .
***
Tất cả đi qua như một giấc
mơ ..
Có giấc mơ đẹp , cũng có cơn
ác mộng hãi hùng .
Còn bây giờ tôi ngồi đây ,
trong căn phòng nhỏ trên gác ba khu cư xá Thanh Đa . Khu này thiết kế dùng cho
gia binh ,theo kiểu bền và chắc .
Thành phố thời gian này hay
mất điện . Căn phòng thiếu sáng , đồ đạc sơ sài .
Đối tượng của tôi đang lay
hoay sửa cái bếp dầu cũ để đun nước châm trà .
Ông ta khoảng ngoài bảy mươi
, tóc đã bạc trắng . Cái lưng lòng khòng ,hai tay như khó điều khiển .Hồi trẻ
chắc hẳn ông ta là người cao lớn , đường bệ.
Tôi tự giới thiệu mình là
người bà con của ông ngoài bắc . Tuy vậy ông cũng không vồ vập . Có vẻ vừa nhạt
nhẽo vừa rụt rè , y như thân cây khô không mảy may lay động trước gió .Tôi chịu
không hình dung ra được đây là tên đồn trưởng ác ôn có nhiều nợ máu từ miền Bắc
di cư vào Nam .
Chính ông ta đã ra lệnh giết cha tôi và hơn mười người làng trong một trận càn.
Ông ta đã làm cho cuộc đời tôi bao nhiều điều bất hạnh. Tôi không được biết mặt
cha mình. Không được hưởng niềm hạnh phúc của đứa trẻ có cha, có mẹ. Thiếu tình
thương, thiếu sự chăm nom dìu dắt của người cha, lại lâm cảnh nghèo đói. Tôi
trở nên con người khốn khổ mấy mươi năm qua.
Tôi sẽ làm gì với ông ta đây? Lặng lẽ rút
con dao nhọn đâm cho ông một nhát thật gọn, sau đó khép cửa lại? Hay lén bỏ
chút bột trắng vào ly nước của ông ta? Hoặc đơn thuần dùng hai bàn tay thô nhám
vì đi rừng chẹn cổ họng ông ta cho đến chết?
Làm những việc đó không khó. Có thể cũng
không sợ ai phát hiện ra tôi. Khu nhà này vắng vẻ. Chủ yếu là binh lính nguỵ đi
cải tạo về. Khi tôi đến người ta lấm lét nhìn, không ai dám nhìn thẳng mặt.Hơn
nữa tôi đã hoá trang kỹ càng. Mắt đeo kính mát, bộ râu quai nón được dán rất
cẩn thận. Một dạo tôi đi diễn kịch không chuyên, nên chuyện hoá trang với tôi
là chuyện vặt.
Ý muốn trả thù khiến tôi mê đi. Không
nghĩ đến việc gì khác nữa. Phải làm sao trừng trị ông ta xứng đáng với tội ác
ông ta gây ra cho tôi và bao người khác. Nhân dân đã tha thứ cho ông ta, chỉ
cải tạo một thời gian rồi cho về. Nhưng nhân dân là cái chung chung. Mối thù
giai cấp, mối thù giặc cũng chỉ là cái chung chung. Còn tôi là một con người cụ
thể. Có đau thương mất mát cụ thể. Có mối thù cụ thể. Tôi phải trừng trị ông ta
!
Hình dung ra kẻ giết người man rợ tôi
lại rùng mình. Chẳng nhẽ tôi lại là kẻ sát nhân, là tên giết người? Dù sao ông
ta cũng là một con người. Con người tiều tuỵ yếu ớt kia không thể gây hại cho
ai nữa.
Những việc ông ta làm cũng
là theo mệnh lệnh của kẻ khác . Ông ta cũng chỉ là con tốt trên bàn cờ tranh
giành quyền lực của các giai cấp đối kháng .
Nhưng không lẽ lại tha cho
ông ta? Bỏ cả cuộc hành trình bao nhiêu trắc trở tới đây để rồi cho qua tất cả.
"Không thế được" Tôi tự nói với mình như thế. Đầu óc đang bấn loạn.
Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Hoa bằng lăng tím ngắt rơi đầy trên khoảng sân giữa
hai dãy nhà. Tất cả im lặng. Thành phố huyên náo như là ở đâu xa lắm, ngoài
kia. Tôi lấy lại bình tĩnh. "Việc này không vội được, phải cân nhắc kỹ
càng đã".
Có tiếng động ngoài hành lang. Rồi tiếng
dép lẹt xẹt lại gần. Một cô gái gái cụt bên tay phải, tay trái xách cái làn đỏ
bước vào, thấy tôi cô đứng sững, cúi chào:
-Con chào chú hai.
-Vâng chào cô!
Ông ta đứng dậy chỉ vào cô gái: "Tôi
còn mỗi con nhỏ này ở lại. Tụi nó, di tản hết chú hai à".
Tôi nghĩ bụng: "Chúng
mày trước di cư, giờ di tản. Sao lắm di thế không biết?"
Tôi nhìn kỹ cô, một bên mắt dán băng, không
biết chột hay bị đau.
Ông ta bảo: "Con nhỏ
này thiệt thòi quá. Nó đã hỏng một bên mắt mà mảnh pháo lại lấy đi của nó bên
tay, chẳng biết có phải trời quả báo tôi không? Nhiều lúc rầu muốn chết. Vẫn
mong có ngày mai về lại ngoài đó thăm mồ mả ông bà. Nhưng lại sợ việc tôi làm
trước ngày, nên chưa dám. Hơn nữa tiền bạc cũng ngặt quá".
Tôi hỏi: "Bây giờ hai
cha con sống bằng gì?"
Ông ta bảo: "Trông cả vào con nhỏ này.
Ngày ngày nó bán vé số ngoài đầu ngõ với hộp thuốcc lá bán lẻ. Tần tiệm đắp đổi
thôi mà chú".
Ông ta trỏ tôi, nói với con: "Đây là
anh hai con bà cả Mẫn nhà mình. Anh vô công tác tới thăm"
Bà cả Mẫn thì tôi biết. Họ
hàng chánh tổng Sâm giàu có và gian ác có tiếng ở quê tôi.
Tôi hỏi sao hồi đó không di
tản?. Ông ta bảo: "Tôi già sắp chết còn đi làm gì ? Tôi không muốn gửi xương
xứ người. Chờ dăm năm về ngoài ấy, rồi ra sao thì ra".
Thì ra con người, dù có
sống quỷ một đời vẫn còn nhớ đến quê..
Đứa con gái tật nguyền của ông ta xuất
hiện làm tôi thay đổi ý định. Tôi thấy không nên ngồi lâu, rồi chào ông xuống đường.
Tôi chạy xe trên đường, đầu óc mông lung không định đi về đâu.
Sài gòn với tôi quá rộng. Tôi như chim chích
lạc rừng, cứ chạy hết phố này sang phố khác. Sau rồi mệt, tôi dừng ở Thảo cầm
viên. Tôi gửi xe ở ngoài rồi nằm dài trên ghế đá trong vườn. Người đi lại lơ mơ
tôi không để ý. Đầu óc căng thẳng chưa quyết bề nào, rồi thiếp đi lúc nào không
biết.
Có người đánh thức tôi dậy . Anh Hai
tôi ngồi bên cạnh từ khi nào. Anh bảo: "Tao tìm mày muốn chết. Hồi sáng
thấy chị nói mày có ý khác lắm, tao sinh nghi. Sợ mày làm bậy nên mới đi tìm.
Thành phố cuồn cuộn thế này
biết tìm chỗ nào ? May mà
gặp".
Tôi bảo: "Lâu ngày em đi chơi một
hôm, có gì mà anh lo".
Anh Hai Cơ đưa con dao nhọn trong lúc tôi ngủ
rơi ra, mặt anh nghiêm lại: " Mày đừng có dấu , mày định làm gì tao biết
cả ! Tao cấm mày, làm gì bây giờ là khổ
anh mày đấy. Đừng để tao kiếm củi bao nhiêu năm, thiêu trong một giờ vì
mày".
Mặc tôi nói gì anh cũng không nghe, còn
bảo: "Việc chú cứ hỏi dò thằng Chinh ở đâu là anh đoán ra rồi . Chú phải
nhớ anh làm quân báo một thời nhé. Thế chú định làm gì nó?".
Tự dưng tôi buột miệng: "Đâm cho nó
một nhát" Anh Hai Cơ nghiêm giọng: "Đơn giản thế thôi à".
"Vâng"
Anh hờm một tiếng: "Đúng
là chú có lớn mà chưa có khôn. Đành rằng nó có nợ máu với nhà mình thật. Nhưng
cũng bị trừng phạt rồi. Chú xem liệu nó sống được mấy năm mà phải làm vậy? Mà
chú làm vậy tội ác lại chuyển qua phần chú đấy. Phải biết đi qua cái ác. Quên
hận thù mới sống được em ạ. Con người ta cứ luẩn quẩn trong vòng ân oán thì bao
giờ mới yên được? Thôi nghe anh, ta về. Tao tìm mày cũng còn việc khác nữa kia".
Không muốn câu chuyện nặng nề thêm, tôi hỏi cho qua chuyện: "Việc gì hả
anh" Anh Hai nói: "Tao vừa xin được cho chú một chân bảo vệ cơ quan
ngoài Bình Dương. Hồ sơ tao lo cả rồi, đừng để lỡ. Không phải dễ mà được đâu.
Người ta nể tao lắm mới nhận lời đấy".
Tôi lặng lẽ theo anh về Phú Giáo . Mỗi anh em
chạy một xe, nên dọc đường không nói chuyện.
Tối hôm đó về Phú Giao tôi bị anh Hai
tôi sạc cho một trận. Đến như chị Hai, người ít được ăn học như thế, còn nói:
"Con người ta làm điều tử tế mới khó. Chú làm chuyện độc ác đâu có khó gì.
Cũng vì chiến tranh người làng kẻ theo
phe này, người ở phe kia bắn giết lẫn nhau. Nếu không dừng lại, oán thù trả bao
giờ cho xong? Nhà mình mấy đời trồng cây phúc đức. Chú đừng dại dột".
Anh Hai Bơ lúc ấy mới nói: "Bác
Tiến bị bắt tuần trước ở ga Hoà Hưng. Tôi có nói bác ấy không nghe. Đi chót lọt
một chuyến, tham lam quá hoá liều. Chú ở lại đây là may cho chú. Gì chứ án ma
tuý chẳng biết bao giờ ra. Người ta còn lên tận đây để điều tra. Chú không liên
quan mới được yên thân đấy. Ngày mai đến cơ quan làm việc cho hẳn hoi. Chú muốn
nói thế nào thì nói, hoàn cảnh của chú bây giờ cái chính vẫn là do chú làm ra,
không thể đổ lỗi hết cho khách quan".
Tôi bàng hoàng cả người.
Thế là anh Tiến bị bắt! Cuộc đời anh ấy rồi sẽ ra sao ? Chị tôi và các cháu sẽ
ra sao? Có thể chuyến đi với anh, người ta không biết, hoặc anh không khai ra.
Dù sao tôi cũng rất lo lắng. Mặc dù mình vô tình , không biết gì về việc anh
làm.
Tôi có bàn với anh Hai Bơ xuống trại giam
thăm anh Tiến. Anh Hai Bơ bảo : "Tôi đã đến rồi. Người ta chỉ cho nhận
quà, không cho gặp vì chưa xong hồ sơ. Cứ lo xong việc của chú trước đã".
Ngày hôm sau anh dẫn tôi tới cơ quan nhận
công việc mới. Tôi chưa biết nên buồn hay nên vui trước những việc xảy ra thời
gian qua. Số phận con người, những khúc quanh, những đẩy xô, rồi nâng đỡ khiến
tôi chưa hết băn khoăn.
***
Công việc làm bảo vệ của
tôi tuy không vất vả, nhưng lương hướng chẳng đáng là bao. Ngoài giờ làm việc
không biết là gì. Tôi theo một lớp tại chức để củng cố lại kiến thức. Nếu sau
này không dùng vào việc gì, có thể tôi sẽ
làm thêm nghề dịch sách kỹ thuật. Địa bàn này hiện rất ít người làm.
Vài lần tôi xuống trại thăm anh Tiến, anh
gầy, đen và già đi rất nhiều. Hạnh phúc và khổ đau là hai cực nhưng lại rất gần
nhau, gianh giới thật mong manh. Một người tài hoa tháo vát như anh Tiến không
giữ được mình, kết cục lại rất thê thảm.
Gặp nhau anh anh ấy cứ ôm lấy tôi mà khóc. Anh
bảo: "Tại số tôi nó thế". Nhưng tôi không tin. Anh đã trượt qua điểm
dừng, bị cái ác níu lại.
Gần hết giờ thăm nuôi, anh dặn đi dặn
lại: "Cậu chớ có làm việc ấy, cậu không nói, nhưng tôi biết cậu dự định từ
lúc lên tầu vào đây. Đường đất xa xôi, vợ con anh chắc cũng không vào thăm anh được.
Có cậu ở trong này thỉnh thoảng vào thăm anh, kể cả không có gì cho cũng được , anh đã như thế này
, có người lâu lâu thăm hỏi là tốt rồi ".
Anh chị Hai tôi chuẩn bị ra miền Bắc.
Tôi được nhắn qua điện thoại về ăn liên hoan chia tay. Tôi rất mừng là có dịp
nhấn tin về nhà.
Anh Hai tôi còn nói thêm: "Lão
Chinh bị tai nạn chết tuần trước rồi. Thôi thế là tôi khỏi lo cho chú. Nhớ về
ngay nhé..."
Qua điện thoại không thể nói chuyện lâu.
Tôi nôn nao cả người. Đấy là ngẫu nhiên, hay huyền cơ nào sắp đặt, hay là vong
linh của cha tôi?
2004
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét