..
Truyện ngắn của HG
Làng Vân là một làng nghèo, từng
có thâm niên hàng trăm năm bên bờ sông Cái. Một làng tồn tại lâu như thế mà chả
có danh tiếng gì. Đền thờ miếu mạo cũng gọi là có, nhưng hết sức sơ sài.
Về sau này có chủ trương bảo
tồn bảo tàng, xét về quy mô chả có cái nào đủ tiêu chuẩn để tôn tạo, để cấp “bằng chứng nhận di sản lịch sử” hay “văn
hóa”.
Danh nhân, danh tướng không có đã đành, mà dân
trí nói chung lại dưới tầm cây na, cây ổi.
Lanh quanh chỉ có một hai ông
giáo làng, gõ đầu trẻ, gọi là lớp trí thức của làng thời bấy giờ.
Phần đông chân chì, hạt bột,
cổ cày vai bừa..
Một nơi không xa kinh kỳ Hà Nội là mấy, mà tăm tối bao nhiêu năm, kể cũng cực kỳ vô lý.
Một nơi không xa kinh kỳ Hà Nội là mấy, mà tăm tối bao nhiêu năm, kể cũng cực kỳ vô lý.
Nhưng hình như điều đó dân
làng cũng chẳng ai bận tâm. Người ta lo cái ăn cái mặc hàng ngày còn chưa xong,
lấy đâu ra thời giờ, công sức để ý đến chuyện sang hèn, đua tranh với thiên hạ?
Thời đó trong làng chưa có nhiều
đồ nhựa, bền và tốt như bây giờ. Tất cả đồ dùng cho sinh hoạt mọi nhà hầu hết
đều bằng tre. Từ cái rá đãi gạo, cái nong cái nia phơi thóc, đến cái quạt mát cầm
tay, toàn làm bằng tre cả.
Ngay cả đến cái giường nằm,
cái chõng ngồi xơi nước cũng bằng tre nốt. Chưa kể đến cặp gậy đôi, cái néo đập
lúa, cái bắp cày, cái chổi bừa ..Không thứ nào không cần có tre góp mặt.
Mà làng Vân tre lại rất sẵn. Bốn bề làng, trừ một phía giáp cánh đồng là lũy tre dày đan kín. Ngay cả lối đi trong làng họa hoằn mới có một cây gạo, cây bàng xen kẽ, còn ngoài ra những tre là tre.
Mà làng Vân tre lại rất sẵn. Bốn bề làng, trừ một phía giáp cánh đồng là lũy tre dày đan kín. Ngay cả lối đi trong làng họa hoằn mới có một cây gạo, cây bàng xen kẽ, còn ngoài ra những tre là tre.
Người bấy giờ chưa đông, chưa
nhiều như bây giờ nên phần đa vườn nhà ai cũng rộng. Cây trái chưa biết thâm
canh, chưa nhiều chủng loại, lèo tèo vài thứ rông rài. Vườn nhiều nhà gần như
bỏ hoang, lạp tạp những thứ cây không mấy giá trị. Cũng có nhà cày bừa trông
ngô trồng đậu trong vườn. Nhưng bóng tre cớm nắng, cây lên èo uột chả mấy năng
suất. Chủ yếu trồng dăm ba cây mít. Thứ cây tán nó rộng, có khi choán cả nửa
sào đất, chủ yếu lấy quả ăn chơi, chứ
bán hơi bị khó vì chợ thì xa, dân làng thì nghèo. Chả có mấy người sẵn tiền
trong bọc. Một loại cây khác nữa cũng hay được trồng hồi đó là cây chuối. Quả
của nó chín thì ăn quả, xanh thì xào nấu làm canh, thay rau. Những năm mất mùa
hoặc đê vỡ còn thay cả cơm, đến là tiện dụng.
Bây giờ nếu ai có dịp qua lại vùng này, có những thứ cây không còn nữa. Thậm chí người ta không thể hình dung ra nó đã từng có mặt và tồn tại hàng trăm năm trước. Cây mít, cây tre là một ví dụ. Chỉ còn cây chuối là vẫn còn, được trồng hẳn từng vùng trong các trang trại cùng với nhiều giống cây khác. Nhưng đó là chuyện của sau này..
Bây giờ nếu ai có dịp qua lại vùng này, có những thứ cây không còn nữa. Thậm chí người ta không thể hình dung ra nó đã từng có mặt và tồn tại hàng trăm năm trước. Cây mít, cây tre là một ví dụ. Chỉ còn cây chuối là vẫn còn, được trồng hẳn từng vùng trong các trang trại cùng với nhiều giống cây khác. Nhưng đó là chuyện của sau này..
Thời cô Tân đang thời con
gái, tre ở làng Vân vẫn còn nhiều. Vẫn còn là nguồn thu đáng kể của nhiều nhà
trong làng. Ngay nhà cô cũng có hơn hai chục khóm. Mỗi khóm có đến hàng trăm
cây. Những cây tre óng ả, chen chúc nhau thẳng như có người uốn. Đó là nguồn
lợi bố cô được thừa kế từ đời các cụ, ông bà để lại. Cứ năm năm một lần lại có
người đến mua hết cả vườn tre. Họ thuê người vác ra sông, kết thành bè mang về
tận Hà Nội Hải Phòng.
Bấy giờ làm gì có xe ô tô để
chở? Đến xe bò xe cải tiến cũng không! Toàn là nhờ vào sức người.
Những ngày này, người ta đến
chặt tre, khuân chuyển đi trong xóm cứ ồn ã, náo nhiệt như ngày hội. Cây tre
đánh võng đu đưa trên vai. Vai trái, vai phải bên nào cũng đỏ bầm, chai đi,
nhưng người ta vẫn rất vui. Vô tư lắm, không hay quạu cọ, nổi khùng như những người buôn bán thời bây giờ.
Rồi anh rồi ả, hát đối hát
đáp, chòng ghẹo nhau như tất cả đang được sống ở thiên đường.
Những ngày khác, năm khác tre
vườn nhà cô Tân được mang ra chợ. Có một bãi hàng tre cho kẻ bán người mua chọn
lựa, mặc cả, trả tiền cho nhau.
Đó là chợ Cầu. Một cái chợ
bên kia con sông đào đổ ra sông cái ( không rõ có từ bao giờ, hình như là có từ
thời thực dân, phong kiến ). Muốn vào chợ phải qua một cái cầu cũng làm bằng
tre bắc qua con sông này. Vì thế chợ có tên là chợ Cầu.
Từ nhà cô Tân xuống chợ non
chục cây số. Phải qua hai cánh đồng, một khúc đê, lên xuống hai cái dốc. Chỉ đi
bộ thôi từ nhà đến chợ đã mệt, đằng này vắt vưởng ít nhất là hai cây tre bó lại
thì biết vất vả như thể nào rồi?
Nhưng cô không thấy mệt, cũng
chẳng thấy cực, thấy buồn, lại thấy phấn khích, hăng hái là đằng khác.“Con gái
mười bảy, bẻ gãy sừng trâu” Cô Tân chỉ thấy thinh thích. Thoát ra khỏi cái
không khí u u, ang ang của làng quê nghèo, ra chợ cô thấy cái gì cũng mới, cũng
đáng yêu.
Cô đặt vác tre xuống bãi ở
góc chợ, để mẹ cô bán sao thì bán. Nhoăn nhoắt, cô đi về hàng bún ốc, dù trong
túi chưa có đồng nào.
Mẹ cô bảo: “Con gái không nên
giữ tiền trong người, nhiều sự nguy lắm. Chỉ tổ làm sự chú ý của bọn ma cô, móc
túi”.
Ôi dào nói đến bọn đấy, cô
không muốn nghĩ nhiều. Chỉ tổ nhức đầu, hơn nữa cô chẳng thấy có gì phải sợ. Cô
đến chỗ này theo thói quen mọi khi. Nơi có anh chàng không đẹp trai lắm, nhưng
không đến nỗi xấu. Anh này mồm lôi công, kiểu mồm nói có người nghe, làm nghề
hoạn lợn. Một nghề mà sau này người ta cho là nghề mọn, xâu xấu, nhưng thời bấy
giờ lại có nhiều người trọng vọng vì kiếm ra được đồng tiền.
Ở cái xứ mà nghề ngỗng hiếm
hoi, có bất cứ nghề gì cũng là tốt rồi. Chê làm gì? Chê làm sao khi mà tất cả
chỉ có mỗi một nghề “chổng mông”, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời? Suốt từ
lúc sinh ra, cho đến khi nhắm mắt, không chừa một ai thoát ra khỏi cảnh chân
lấm, tay bùn.
Người ấy có đôi mắt rất lạ.
mắt to đàng hoàng, nhưng chỉ nhìn he hé, cách nhìn sâu vào bên trong, giấu kín
cảm xúc riêng của chính mình. Kiểu mắt của người đa mưu, túc trí. Đúng ra kiểu
người này phải làm việc bàn giấy, hay ông thầy dạy học. Không hiểu vì sao lại
làm nghề này?
Lòng trắc ẩn của cô gái mới
lớn khiến cô chú ý, dù chẳng biết anh ta là ai, quê quán nơi nao?
Nhưng cái làm cô chú ý nhất
là cái xe đạp của anh thợ hoạn. Đó là cái xe độc nhất vô nhị ở vùng quê nghèo
này. Khung và vành xe làm bằng đuya ra, lốp xe hai mầu đen trắng có xuất xứ từ
bên Pháp. Nó bằng tài sản của một gia đình trung lưu thời bấy giờ.
Hai người quen nhau bởi cái
giây phút gặp gỡ trên cầu vào chợ. Suýt nữa thì cái ngọn tre cô vác trên vai
đâm thẳng vào cái vành xe của anh. (may mà chuyện đó không xảy ra, nếu không đã
xảy ra nạn lớn rồi ).
“Đi đứng thế nào thế?” Anh
quát to. Cô gái hoảng hồn né sang một bên. Chút nữa thì cả cô lẫn vác tre rơi
xuống con sông đào!
Vẻ hoảng hốt của cô làm anh
chàng ái ngại. Anh dịu giọng: “ Cô không sao thì tốt rồi..Tôi mạn phép đi
trước”.
Tới lúc vào chợ cô lại bất
ngờ gặp lại con người ấy. Cô đã định tránh mặt. Người kia tiến lại gần: “Tôi
ban nãy có hơi nóng, cô cảm phiền cho nha!”. Khác với giọng khê khê nồng nồng
của dân vùng đất bãi, giọng anh chàng trầm vang như tiếng chuông chiều, làm cô
cảm động. Anh hỏi han quê quán, rồi hai người quen nhau. Anh theo cô về làng.
Về cái làng Vân có lũy tre
xõa tóc, ao hồ liên chi hồ điệp, anh không khỏi sửng sốt. Anh đi nhiều nơi gặp
gỡ nhiều người vì cái nghề thợ hoạn của anh vốn là nghề “thân cư thiên di”,
phải đi nhiều nơi mới kiếm được tiền.
Rồi cái gì phải đến đã đến.
Cô phải lòng anh lúc nào không hay. Ông bố nghiện rượu của cô hễ thấy anh đến
là rung râu, sáng mắt như được gặp quý nhân. Ngày ngày anh đạp xe đi thiến lợn
rong trong vùng, chiều tối mới về. Hôm thì mang về xâu thịt, hôm mớ cá tươi.
Hàng xóm phát ghen với nhà cô vớ được “ông khách sộp”.
Chuyện đời xưa nay, ngày vui
thường không dài..
Nửa năm sau, anh thợ hoạn mất dạng không có
tăm hơi. Người ta đồn anh dính dáng đến một “hội kín” gì đó, bị nhà chức trách
đưa biệt tích lên vùng rừng xanh núi đỏ.
Cũng là lúc cô Tân mang một
mầm mống, sinh linh bé nhỏ trong lòng. Cô cực kỳ hoang mang.
Thời đó “khắc phục hậu quả”
không đơn giản như thời sau này. Cô đã tính đến chuyện bỏ làng ra đi, muốn đến
đâu thì đến. May mà phút lưỡng lự bên bờ sông Cái đã cứu cô thoát nước làm
liều.
Tháng sáu nước lên, sông cái
cuồn cuộn, mênh mang nhìn không tới bờ bên kia. Nhảy xuống đấy rồi chỉ còn nước
xuôi ra cửa bể, không thể lên bờ..
Con
người ta bất luận hoàn cảnh thế nào, sinh mệnh cũng đều quý giá. Người ta chỉ
có một lần duy nhất nơi thế gian này. Nếu cô dại dột nhảy xuống dòng sông năm
ấy, sinh mệnh quý báu đã không còn. Dù có đầu thai kiếp khác chắc gì đã được
làm người, khi không biết quý trọng sinh mạng tạo hóa đã ban cho?
Cũng còn may, nhờ tục ngữ có
câu:“Ở ống thì dài..” Cha mẹ cô nhận lời sắp xếp cho cô một đám khác. Đám này
ước ao theo đuổi cô từ lâu, bị cô năm lần bảy lượt chối từ. Nhà anh ta đã
nghèo, người lại xấu. Cô từng chê anh ta “Mười phần thì bảy phần khỉ, chỉ có ba
phần người”. Đã thấp lùn thì chớ, lại lưng gù, mặt rỗ, răng vẩu. Đứng gần mồm
hôi đến buồn nôn.
Trăm sự tại giời, “ghét của
nào trời trao của đó”, ở hoàn cảnh này cô Tân đành phải chấp thuận, chứ biết
tính làm sao?
Anh “Sen rỗ”, tên cúng cơm
của vị hôn thê còn thêm một điều kiện: Hai người sẽ chả có cưới treo gì. Cả hai
sẽ xuống thuyền, từ nay làm nghề chài lưới dưới sông, cách xa miệng tiếng người
đời.
Cô dần quên bóng hình anh thợ
hoạn. Sát cánh cùng anh Sen rỗ, nay đây mai đó trôi nổi sông nước cho đến ngày
lên tới đầu nguồn..
**
Anh Sen rỗ tỉnh giấc đúng cữ. Tầm hai giờ một lần. Vớ cái tích đựng nước, anh xúc miệng òng ọc rồi nhổ xuống sông. Cảnh tượng trước mắt làm anh thoáng chút ân hận. Ai lại nhổ xuống một dòng sông đẹp đến thế này cơ chứ? Trăng thì cứ sáng vằng vặc trên đầu. Sóng nước ở đoạn gềnh phía trên réo ào ào. Nhưng vụng nước ở chỗ này tĩnh, thỉnh thoảng mới thấy tiếng cá đớp bóng trăng, từng quầng sáng lan tỏa lấp lánh. Cảnh tượng thật mê li. Nhìn dọc hai bên bờ sông ánh trăng bàng bạc, khói sương lơ mơ hư ảo.
Anh Sen rỗ tỉnh giấc đúng cữ. Tầm hai giờ một lần. Vớ cái tích đựng nước, anh xúc miệng òng ọc rồi nhổ xuống sông. Cảnh tượng trước mắt làm anh thoáng chút ân hận. Ai lại nhổ xuống một dòng sông đẹp đến thế này cơ chứ? Trăng thì cứ sáng vằng vặc trên đầu. Sóng nước ở đoạn gềnh phía trên réo ào ào. Nhưng vụng nước ở chỗ này tĩnh, thỉnh thoảng mới thấy tiếng cá đớp bóng trăng, từng quầng sáng lan tỏa lấp lánh. Cảnh tượng thật mê li. Nhìn dọc hai bên bờ sông ánh trăng bàng bạc, khói sương lơ mơ hư ảo.
Cuộc đời thật nhẹ nhõm. Như
thể người ta sinh ra để sống những ngày thanh bình.
Chỗ này đầu của một con ngòi
chảy từ suối ra sông, nước rộng rãi tỏa ra thành một cái vụng nhỏ. Cái bè câu
của anh nép hẳn về một phía bờ, vươn những chiếc gọng vó dài, khum khum thả
giữa vụng nước. Anh từ từ kéo đoạn dây chão. Đầu gọng vó có buộc thêm mấy cục
đá to bắt đầu hạ xuống. Nó là thứ để cân bằng sức nặng của tấm lưới to bằng bốn
cái chiếu cộng lại. Nếu thiếu nó có mà sức ba bốn người kéo lên cũng vất vả,
chứ đừng nói làm một mình.
Người nọ học người kia, không biết bắt đầu từ
đâu, dân vó bè đều làm như vậy như một thói quen.
Khi vó cất lên khỏi mặt nước,
rõ ràng thấy có cá quẫy bành bạch trong vó, nhưng anh không kéo hẳn nó lên để
tóm lấy.
Chả cần thiết phải làm như
vậy. Ở rốn vó đã có cái giỏ đan đan bằng tre, có hom sẵn. Cá rơi vào giỏ thì cứ
việc nằm đấy, vướng cái hom có tài thánh cũng không thể thoát được ra ngoài.
Đằng nào thì đến sáng hẳn, cái giỏ mới được nhấc lên khỏi mặt nước. Một đêm, vó
cất lên mấy lần như thế.
Anh Sen làm như chơi, như
đùa. Muốn chục ký cá chỉ là chuyện nhỏ. Sớm hôm sau lại có thuyền từ xuôi lên,
có bao nhiêu cá họ cũng “đong” hết.
Cái nghề nhẹ nhàng xem như đùa này kiếm ăn dễ khiến anh gắn bó với nơi này hết muốn đi đâu nữa.
Anh quên dần những tháng năm u ám, buồn tẻ ở quê nhà.
Cái nghề nhẹ nhàng xem như đùa này kiếm ăn dễ khiến anh gắn bó với nơi này hết muốn đi đâu nữa.
Anh quên dần những tháng năm u ám, buồn tẻ ở quê nhà.
Câu chuyện anh Sen lấy cô Tân
ở làng cũ một dạo xôn xao. Anh Sen ê hết cả mặt mày. Người ta bảo anh chỉ là
người tráng men, chứ thực ra đứa con trong bụng cô Tân là con lão thợ hoạn,
không phải con anh. Anh cũng biết thế chứ không phải là không. Chuyện con hoang
con hủy ở đời này có gì là lạ?
Đến vua chúa còn có kẻ xuất
thân như thế thì thằng dân đen như mình có gì là không được, không nên xảy ra?
Biết thì vẫn biết thế, nhưng khi nó ám chỉ thực sự vào mình thì ai mà không bứt
dứt?
Đám cưới qua loa, anh Sen bán miếng đất hình cái muống hót rác, sắm cái thuyền to hơn, ngược lên miền rừng. Và cuối cùng anh chọn chỗ này.
Đám cưới qua loa, anh Sen bán miếng đất hình cái muống hót rác, sắm cái thuyền to hơn, ngược lên miền rừng. Và cuối cùng anh chọn chỗ này.
Có lão thầy địa lý ngang qua
sông vào chơi nhà bè, khen phong cảnh nơi này đẹp, lại tốt về phong thủy. lão ý
bảo vùng đất này được hai dãy núi vòng qua, ôm lấy như một cái ngai. Khí hậu
bốn mùa quanh năm ôn hòa. Nắng không nắng gắt quá, lại chả có mưa to, bão lớn
bao giờ. Nếu nơi khác thiên tai độ mười phần thì đây chỉ chịu một hai phần. Anh
Sen để ý thấy có đúng như vậy thật.
Dân trên bờ là một xóm người
Thanh Y. Không hiểu sao lại có độc nhất một gia đình người Kinh. Bà này phiêu
bạt từ dưới xuôi lên sau nạn đói năm Ất Dậu.
Anh Sen quen bà một bận tình
cờ ngang qua đây. Hôm ấy anh vác bó nứa to từ trên khe mang xuống sông làm
mảng. Không nhớ sơ ý thế nào bị một gốc cây sắc nhọn xẻ ngang bắp chân. Cũng là
lúc bà cụ đi ngang qua. Như có duyên tiền định từ kiếp trước, bà dìu anh về
nhà. Hai mẹ con lau rửa vết thương, lại lấy lá cây cầm máu cho anh. Vết thương
khỏi dần, cũng là khi người con gái bà cụ bén hơi anh. Cô không đẹp, nhưng
ngoan hiền, thùy mị.
Người ta bảo: “lửa gần rơm..”
thật không có sai. Mà ở cái xứ khỉ ho cò gáy này, hai người đang tuổi cập kê,
tối ngày gặp nhau, làm sao tránh được cái cầm tay ấm áp? Chuyện xảy ra vài lần.
Khi anh Sen xuống mảng về xuôi, cũng là lúc cô Duyên bắt đầu ăn dở.
Chán cảnh ở quê nhà lắm điều xì xèo, anh Sen đưa cô Tân lên đất này. Anh hoàn toàn không biết chuyện cô Duyên đã sang tháng thứ hai.
Chán cảnh ở quê nhà lắm điều xì xèo, anh Sen đưa cô Tân lên đất này. Anh hoàn toàn không biết chuyện cô Duyên đã sang tháng thứ hai.
Ngày ấy “giải quyết hậu quả”
chưa tiện và dễ như bây giờ. Cô âm thầm dùng hết món lá nọ đến món lá kia đều
không có kết quả. Đành tặc lưỡi, muốn ra sao thì ra.
Được cái bà mẹ thương và
chiều con. Bà bảo: “Âu cũng là lòng giời, chót rồi, đẻ thì nuôi”.
***
***
Năm tháng qua đi, “chỉ tình
yêu ở lại”, cho dù tình yêu đó có đôi khi, đôi nét bẽ bàng.
Người như anh Sen tưởng mang
trầu cau đi hỏi vợ đến đứt quai bị, không lấy được. Không ai ngờ, định một mà
thành hai.
Ông Sen sau này có hai bà,
chuyện nguyên do là như vậy.
Khi tôi đến đất này, bà Duyên
và ông Sen đã mất. Mộ của họ an táng ngay gần lối rẽ vào gốc cây sung lối xuống
bến Con Cò.
Chả hiểu sao, mùa nào cũng
vậy, đều có bướm vàng bay chấp chới quanh khu này, không như mọi nơi, bướm ra
phải có mùa.
Bà Tân thọ đến ngoài trăm
tuổi. Cháu chắt có hàng chục người. Cả một vùng đất đai rộng rãi, quần cư toàn
con cháu bà, mang họ Lỗ, một cái họ nghe đã thấy rất hiếm người.
Không có một tấm ảnh để lại, tôi chịu không thể hình dung ông Sen là người trông như thế nào?
Mẹ tôi thì bảo: “quý nhân đãi kẻ khù khờ”. Có nhẽ đúng. Hẳn là kiếp trước ông ấy tu tỉnh thế nào đấy mới có cái kết có hậu như sau này.
Không có một tấm ảnh để lại, tôi chịu không thể hình dung ông Sen là người trông như thế nào?
Mẹ tôi thì bảo: “quý nhân đãi kẻ khù khờ”. Có nhẽ đúng. Hẳn là kiếp trước ông ấy tu tỉnh thế nào đấy mới có cái kết có hậu như sau này.
Tôi ra vụng vó, chỗ ngày xưa
ông Sen đặt vó bè, định học ông làm một cái, kiếm cá đỡ gia đình.
Mẹ tôi cười nhăn nhúm khuôn
mặt già nua, bà bảo:
- Con người ta mỗi người một
số, có muốn học, muốn làm theo cũng chẳng được đâu. Với lại sông nước thời nay
khác ngày xưa rồi, có còn cá tôm nữa đâu mà bè với chả vó?
Tôi nghĩ, có lẽ mẹ tôi nói
đúng. Bằng chứng là từ ngày có đập thủy điện trên thượng nguồn, đêm đêm trên
dòng sông không còn thấy ánh đèn soi lấp lóe vào lúc đêm gần sáng.
Tôm cá bây giờ đâu còn mấy,
người ta lặn lội đêm hôm để làm gì?
Thôi thì trời chả triệt đường
sống của ai. Còn đầy công, đầy việc. Chả vó bè nữa, thì đi làm việc khác, có
sao đâu?
===========================
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét