Truyện ngắn của Kinh Bắc
Tôi phục các ông nhà văn quá, họ viết quanh năm suốt tháng, bao nhiêu là chữ. Còn tôi chỉ động
suy nghĩ một tí, là lại cứ đau đầu và buồn ngủ!
(Câu nói của bố tôi trước lúc được Chúa gọi về.)
1. Hôm rồi, có anh bạn nhà báo thân thiết đến bảo ông viết cho tôi cái truyện ngắn. Mình than trời từ hồi bị cái bệnh đau cột sống phải nghỉ việc đến nay, gần như không cầm bút nữa. Giờ biết viết gì?!… Hơn nữa viết lách là một phản xạ. Ngày nào cũng viết như người làm báo, thì chữ ra đều lắm, ý tứ tuôn trào. Nhưng một thời gian dài buông bút, thậm chí còn ít nghĩ, ít nghe ít đọc, thì có muốn “quay đầu”, cũng khó “đến bờ” được. Lâu không viết, ngọn bút nó trơ đi, hay cái đầu – chỗ tư duy sáng tạo ấy – nó cùn nhụt mất rồi.
Mình nhớ cái năm nào, sau tháng Tư bảy lăm, hay ngồi cà phê hè đường chỗ góc Pasteur – Nguyễn Du với mấy anh em văn nghệ đủ loại cũ, mới. Trong đám có thằng Long “cận”, chuyên viết truyện ngắn. Thằng này một vợ hai con, mà chẳng có nghề nghiệp gì, nên nó bảo chỉ còn cách là viết truyện gửi các báo kiếm tiền cho vợ đong gạo. Song bọn mình biết thừa là nó buồn vì chẳng làm gì ra tiền, nên phải viết, và lấy sự viết nháo nhào ấy để chữa cả cái sự buồn. Cứ xong một truyện, gửi báo, có khi chờ hàng tháng mới có kết quả, được vài đồng còm. Đó là chưa kể, trường hợp truyện không được đăng mà toà soạn chẳng thèm có vài chữ trong cái mục “hộp thư bạn đọc”, gọi là để phúc đáp cho tác giả biết rằng “kế hoạch làm kinh tế gia đình” của y đã bị phá sản.
Long cận viết nhanh lắm. Mà lạ! Anh em ngồi đông thế, la nói tùm lum chuyện, ồn ào như chợ vỡ; mà nó vẫn bình thản viết. Cứ nhoay nhoáy chữ. Thỉnh thoảng nó nhấp ngụm cà phê, rít hơi thuốc hay góp một đôi câu với bạn bè. Xong lại thì thụp viết, đều đều chữ, không bị đứt mạch.
Có lần mình hỏi thằng Long, mày viết những gì mà liên tù tì thế. Trong lúc bọn thằng Hà “thối”, thằng Thương “còm” thì cứ luôn mồm kêu là không có gì để viết. Lại nữa, ngồi hè đường giữa tiếng ầm ào xe cộ, huyên thiên đủ chuyện sao mày vẫn ung dung viết, không bị chia trí à? Nó đáp, viết truyện là kể chuyện bằng cây bút thay vì bằng mồm. Mà chuyện thì đâu chả có, cứ nhặt hết, rồi chọn ra. Như mày đang nói đang hỏi tao này nọ, đấy là chuyện. Cứ tường thuật lại thôi. Nhưng cái “bí kíp” của nó là phải tìm kiếm trong đó những chi tiết, tình tiết hay ho, vui vui hoặc gay cấn, lãng mạn – như tình yêu chẳng hạn… để “chêm” vào, tạo kịch tính, có gút có mở vân vân. Thế là thành cái truyện ngắn. Còn như muốn dài, thì… kéo nó ra!
Nghe nó nói như đùa, mình chả hiểu gì. Nhưng cái thằng hay quá! Trong hai ba năm nó viết cả truyện người lớn lẫn trẻ con, được đâu hơn hai chục cái, và đã có chút tiếng tăm. Trong giới văn nghệ anh em bắt đầu kêu nó là nhà văn. Sự cầm bút giải buồn hay đỡ đần một chút cho vợ của Long cận, có vẻ như đang dần mở ra con đường đi vào “văn học sử”, thì bỗng dưng nó biến mất, không ai còn thấy tăm hơi đâu cả. Mãi sau này mới nghe phong thanh rằng Long cận sống cực quá, gia đình thiếu thốn mọi bề nên nó đưa vợ con với bà mẹ già trên bảy mươi tuổi đi kinh tế mới ở Lộc Ninh. Mình cứ nhớ nó mãi. Nhưng nhớ hơn cả là một hôm ngồi nhậu ở cái nhà hàng gì hồi xưa tên Continental trên đường Đồng Khởi với mấy người bạn. Mình hơi say, bíu vai hoạ sĩ Đức hỏi ông này sao thằng Long cận nó viết nhanh quá, chữ nghĩa cứ tuôn ra ào ào, còn thằng Thuần mỗi lần viết một bài báo mất cả ngày. Ông Đức bảo tại vì cái ruột thằng Long nó đầy chữ, còn ruột thằng Thuần toàn cứt. Câu chửi này thâm quá, lại đểu! Dân Quảng Nam không nói bụng, mà kêu là ruột; nghe rất buồn cười.
Cái bài học sáng tác đầu đời ấy là của Long cận, để rồi sau này mình cũng theo đó mon men lẻn vào lĩnh vực truyện ngắn. Nhưng quả thực, không biết có phải còn do năng khiếu, hay thiên bẩm thế nào, chứ viết khó quá. Mà lại còn viết nhanh nữa, thì chịu. Mình viết cứ như đánh vật, khổ sở lắm. Thành thử cứ mỗi khi cầm bút, lại nhớ thằng Long.
Như bây giờ đây, đang ôm đầu ngẫm nghĩ xem sẽ viết cái gì. Thế là hình ảnh thằng bạn cố tri ngày nảo ngày nao lại hiện về. Nhưng không phải cái thằng ốm o thê thảm hồi xưa, suốt ngày lom khom hí hoáy viết truyện kiếm cơm. Nó giờ to béo, trắng trẻo và về tư tưởng thì vô cùng yêu nước – bởi nó là Việt kiều. Mà “thuộc tính” của người Việt định cư ở nước ngoài, theo “quy định”, hết thảy là yêu nước.
Năm tám mấy, nó kể nhưng mình quên mất, sau khi mẹ nó chết chôn ở đồi K. 57 xã Lộc Tấn, huyện Lộc Ninh, nó đưa vợ con vượt biên. Chuyến đi thành công đã giúp làm thay đổi không chỉ cuộc sống vợ chồng nó, mà còn đổi đời cho cả hai đứa con để chúng có một tương lai dễ chịu. Năm hai nghìn lẻ năm, lần đầu vợ chồng Long cận về Việt Nam. Nó tìm mình dẫn đi nhậu và nói cho mày năm trăm đô xài chơi, chứ tao biết mày chẳng làm ăn mẹ gì và số tiền mọn này cũng không đủ cho mày làm vốn. Nó còn thăm mẹ già mình, cho bà hai trăm nhưng lúc này cụ lẫn quá, có còn biết đô điếc là gì. Có lần không biết mê mẩn thế nào mà cụ hỏi thằng con mình rằng thế thằng Tây có còn hay đi càn không. Rồi thì ông Lý Tựu – là ông Lý trưởng của cái làng quê nghèo khó quanh năm của mình ở tận ngoài Bắc – có còn hay đánh bà Ba (bà vợ thứ ba của ông ấy) không. Chao ơi là buồn, thương cho một kiếp người! Mẹ già mình thời son trẻ là cô gái đẹp nhất nhì của phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh đấy chứ. Thế mà trăm tuổi rồi, tàn phai, lẩn thẩn, sống như cái bóng hiu hắt của ngọn đèn chỉ còn chút dầu cạn.
Mình hỏi Long cận về cái đoạn bỏ viết ngày xưa, lên Lộc Ninh làm rẫy. Có phải do nghèo, khổ quá mà đi. Nó trả lời cũng đúng một phần là cái nghèo. Còn chính thì do nó dần cảm nhận được rằng có sự không ổn trong cuộc viết lách, văn nghệ văn gừng. Nó bảo mình, mày nhớ thằng Thành học với tao ở Chu Văn An thời ông Quế “gù” làm hiệu trưởng không. Thành là thiếu uý Hải quân, đang đưa tàu sang Phi Luật Tân sửa chữa thì Giải phóng. Vài tuần sau ngày ba mươi tháng tư, nó cùng nhiều người khác đấu tranh đòi về nước và được thoả mãn. Tụi nó về Việt Nam bằng chuyến tàu “Việt Nam Thương Tín” nổi tiếng lúc đó, với khoảng ba ngàn người “tự nguyện hồi hương”. Vừa vào đến cảng Cam Ranh thằng Thành bị đưa thẳng lên trại cải tạo Xuân Phước, Nha Trang đúc gạch sáu năm bảy tháng liền. Những cục gạch nó làm ra có số phận như những cái truyện ngắn của tao vậy. Vuông chằn chặn, láng lẫy song chẳng có hồn vía chi hết, mà thậm chí, còn rất buồn nữa!
Thằng Long ở chơi hơn tháng, đi đây đi đó thăm thú gần khắp các tỉnh miền Nam, nhưng tuyệt nhiên không ra Bắc, không về thăm Hà Nội là quê gốc của dòng tộc nhà nó. Nó nói ra đấy làm gì, chỉ thêm tủi. (Tại sao?…). Nhưng mình chẳng hỏi. Ai chả có tâm sự riêng.
2. Lấy chai rượu Làng Vân của anh bạn ngoài Hà Nội gửi vào hôm tết ra, rót một chung lấy hứng tìm… đề tài.
Vậy mà cũng phải cạn đến nửa cút, mới sực nhớ ra câu chuyện hồi còn đi học, với nhân vật là thằng Minh “ngủ”. Hay viết chuyện này chăng? Có một tí tuổi thơ, một chút tình nghĩa thầy trò, bè bạn cùng cái cung cách giáo dục, học hành ngày xưa. Những năm sáu mươi, bảy mươi của thế kỉ hai mươi. Chưa phải là cổ xưa, song cũng đã lâu lắm rồi, để thành kỷ niệm khó quên trong đời. Như câu văn đề ở tấm bia trước mộ vua Hàm Nghi, bên Pháp: “Le temps efface tout n’efface pas le souvenir” (thời gian xoá bỏ tất cả nhưng không xoá bỏ được kỷ niệm. Đại khái. )
Năm đệ lục (tức lớp bảy bây giờ), mình mới bắt đầu để ý tới thằng Minh ngủ vì nó là đứa hầu như không bao giờ thuộc bài, không bao giờ làm bài cho về nhà và rất hay ngủ trong lớp. Không phải là ngủ gật, mà nó ngủ đàng hoàng một giấc say sưa cứ như đang nằm ở nhà hay chỗ nào khác, chứ không phải đang giờ học, ngồi trong lớp học. Thế mới lạ!
Thầy Vũ giáo sư Anh văn, đã mấy lần phải nắm chặt hai bàn tay thành quả đấm, rồi phùng mang trợn mắt lên bảo nó Minh ơi là Minh, thế này thì mày không học hành gì được đâu, hỏng cả đời đấy con ạ. Nhưng thây kệ. Nó vẫn cứ không làm bài, không thuộc bài và vẫn…ngủ! Thầy Lê dạy toán thì có lần cho nó hai cái tát rất đau bởi cái kiểu chứng minh hai tam giác bằng nhau, của nó: Ta lấy hai tờ giấy cắt hai tam giác ABC và DEF, xong ta xếp chồng chúng lên nhau, nếu thấy chúng vừa khít nhau tức là hai tam giác ấy bằng nhau vậy. Thật đến mấy ông Fields cũng phải cười đến nẻ ruột ra mà chết!
Ngoài cái tội lười và dốt, Minh ngủ còn là đứa ở bẩn. Người nó luôn toát ra cái mùi khăm khẳm, không ai biết là mùi gì. Khi nó ngủ đầu nằm nghiêng trên bàn, môi miệng toè loe, rớt dãi ứa ra hai bên mép, trông rất sợ. Cô An dạy môn Công dân – giáo dục, là một phụ nữ đẹp, dáng vẻ sang trọng, quí phái; đặc biệt cô rất sạch sẽ. Trước khi vào lớp, cô đứng trước cửa ngửi ngửi, hít hít nếu nghe mùi gì lạ, khó chịu là cô bắt cả lớp làm vệ sinh xong mới học. Thế nên cô rất hãi thằng Minh ngủ. Mỗi lần kêu lên trả bài, cô đều bắt nó đứng dang xa. Cô nói cái cậu này sao mà hôi hám quá. Thế trước khi đi học không tắm rửa gì à. Có lần chắc mùi nó kinh khiếp hơn mọi ngày, nên cô phải vừa đuổi nó ra xa, vừa bịt mũi nghe nó sụt sịt trả bài.
Ấy vậy mà cũng chính do cô, mà cả lớp mình mới biết được hoàn cảnh của cái thằng bạn vô cùng đáng thương ấy. Số là một hôm cuối buổi học, cô An nói trưởng lớp rằng ban đại diện phải tổ chức đi thăm nhà cậu Minh này xem thế nào, chứ sao lại có một học trò lười biếng và ở bẩn như vậy. Đến tìm hiểu rồi về nói với tôi, tôi sẽ có cách giải quyết.
Bọn mình theo lời cô tìm tới nhà Minh ngủ. Mẹ nó, một người đàn bà ốm o, trông cũng luộm thuộm và bẩn thỉu như thằng con hay ngủ của mình, mếu máo than thở nào là em nó mồ côi cha, tôi một mình đầu tắt mặt tối lam lũ nuôi các con… Ấy, thằng Minh mới mười ba tuổi đầu nhưng sau nó còn ba đứa nữa, vân vân…
Nghèo quá, mẹ con thằng Minh thuê cái nhà bé tẹo nền xi măng, vách gỗ tạp, mái lợp lá dừa nước trầm đơn ở cuối một con hẻm lầy lội bùn đất. Hình như cái khu vực tăm tối, vô cùng nhớp nhúa mất vệ sinh này là một phần của xóm gà, vùng Gia Định.
Chuyến đi này bọn mình có đứa nào hỏi han gì đâu, mẹ thằng Minh cứ ồn ào bỗ bã kể tuốt tuồn tuột mọi điều. Và rồi, cái nguyên nhân của sự hay ngủ trong lớp cùng mùi hôi hám ớ lợ của Minh ngủ được sáng tỏ từ lời “khai” của mẹ nó. Hằng ngày cứ trong khoảng từ hai ba đến bốn năm giờ sáng là thằng Minh đi giã giò thuê (giã thịt heo làm giò lụa, hay còn gọi chả lụa). Tuy phải thức khuya dậy sớm như vậy, lại lao động vất vả, nhưng Minh ngủ lại không ngủ bù được bởi tình trạng chật chội, nóng bức trong cái căn “chòi đạp” của mình, cùng với nếp sinh hoạt “dậy giặc” của hàng trăm cư dân lao động nghèo, thất học xung quanh khiến nó luôn chìm trong trạng thái dật dờ, nửa tỉnh nửa mê cho đến khi vác cặp đi học. Minh ngủ cứ ngủ hoài trong lớp là vì thế!
Cái trường mình là trường xưa, hình như xây từ thời Pháp. Phòng học nào ở tầng một cũng có hai cửa sổ lớn và hai cửa ra vào to rộng, luôn lộng gió. Sân trường đầy cây phượng vĩ và điệp. Các dãy nhà học đều lợp ngói đỏ, tường quét vôi vàng, đẹp cổ kính. Chính vì vậy, trường lớp đã là nơi chốn cực kì tĩnh lặng, lý tưởng để thằng Minh ngủ mỗi ngày, khi vào học.
Tất cả những gì tai nghe mắt thấy về gia đình thằng Minh, được Ban đại diện lớp tường trình đầy đủ với cô An. Song lúc này lại rơi vào thời điểm cuối niên học, nên mọi việc lỡ dở cả. Còn bước sang năm học mới thì không thấy thằng Minh đâu nữa. Thầy Hậu giám thị bảo mẹ cậu Minh xin cho cậu ấy nghỉ để đi làm nuôi các em. Nghe thế mọi người hơi buồn một chút, rồi lại quên ngay. Dẫu sao những năm tháng ấy bọn mình vẫn còn là những đứa trẻ ham chơi hơn ham học, phá làng phá xóm chứ đã biết thế nào là cái tình cảm sâu sắc, vui buồn của anh em bè bạn chung trường, chung lớp.
Thằng Minh nghỉ học, nhưng câu chuyện về nó thì chẳng những chưa chấm dứt, mà còn nảy ra một cái “hậu kỳ” rất lạ lùng, ngạc nhiên và đáng kể…
…Khoảng vài ba năm trước, chắc hai nghìn lẻ tám thì phải, mấy tay bạn cũ trường xưa tìm mình bàn việc thành lập nhóm cựu học sinh lớp đệ thất hai, niên khoá sáu hai sáu ba. Bọn nó ngại không dám làm cái hội ái hữu cựu học sinh trường, vì cái trường mình học mang tên một ông cố đạo lừng danh, sợ có khi gây dị ứng chăng? Trong câu chuyện nhắc kỷ niệm về trường, về thầy cô giáo như thầy Sáu “lùn”, thầy Tiến “sói”, thầy Giám có người anh em song sinh giống thầy in hệt; rồi cô Dung cô Oanh, và cô Thanh Dân quanh năm lúc nào cũng thấy mang bụng bầu… Về phía học trò, hai nhân vật được nêu danh đầu tiên là thằng Minh ngủ và thằng Tốt xóm Chùa. Cái thằng Tốt này cũng học hết năm đệ lục thì bỏ, đi làm thợ sửa xe lề đường. Có lần mình bị xì lốp xe đạp ở dưới dốc cầu Trương Minh Giảng, định dắt tìm chỗ vá thì gặp đúng ngay nó. Hồi này nó đen đủi gầy còm, và trông già quá. Vá xong thằng Tốt không lấy tiền. Lúc mình sắp đi nó nói thiệt ngộ, mày sao tới đúng lúc quá, ít bữa tao nghỉ rồi. Đi đăng lính biệt động quân. Đù mẹ, làm cực thấy mồ tổ, mà tiền không bao nhiêu. Đi lính cho nó khoẻ, được bay nhảy (?!… ). Từ đó tới nay, bặt tin thằng Tốt xóm Chùa. Mình lâu lâu lại nhớ nó, thắc mắc không biết nó còn sống hay chết rồi. Mà nếu còn sống thì giờ này ở đâu, làm gì? Có khá không, hay… vẫn sửa xe!
Còn thằng Minh ngủ; lúc nhắc tới nó thằng Thịnh “béo” vỗ bàn nói mẹ kiếp, cái thằng học hành đếch ra gì ấy mà giờ ngon lắm. Anh em hỏi sao, Thịnh kể chỗ xóm nhà lá thằng Minh ở có một tay Việt cộng nằm vùng, hành nghề chạy xích lô máy. Sau bảy lăm y xuất tướng, ra nắm chánh quyền. Vì ở kế nhà, biết thằng Minh dân lao động nghèo, làm mướn, trốn lính… là thành phần “cơ bản”, nên lão ấy “xây dựng” nó thành cốt cán ở phường, làm bí thư đoàn thanh niên. Công tác phường gần mười năm, chắc nó chán, nên trong một đợt đưa dân đi kinh tế mới nó xin ở lại lâu dài, bám trụ với bà con. Rồi cái địa phương nơi thằng Minh đưa dân tới, vốn rất thiếu cán bộ nên họ đề nghị nó nhập cư luôn để vừa được thêm “cán bộ có trình độ” (?!), vừa giao nó trông coi cái làng kinh tế mới đó.
Là đảng viên, lại xung kích vào nơi “vô vàn khó khăn”, sống “hoà đồng với quần chúng nhân dân” nên Minh ngủ được lãnh đạo đánh giá cao, đưa vào diện “cán bộ quy hoạch”, nghĩa là thuộc loại “cán bộ nguồn, kế thừa vân vân. ” (nhưng đồng thời một yếu tố rất quyết định cho cái sự thăng quan tiến chức nhanh chóng của Minh ngủ là thầy ruột của nó, ông cán bộ chạy xích lô máy ngày xưa, giờ làm bí thư quận; mà cái quận này lại kết nghĩa với cái huyện chỗ thằng Minh đang đứng chân, do vậy nó vẫn được đàn anh “quan tâm” nâng đỡ, đẩy lên vù vù).
Thịnh béo kể tiếp, tao là dân phá sơn lâm. Năm đó “phá” tới cái huyện của thằng Minh ngủ, nơi nó đương kiêm chức Phó Chủ tịch phụ trách tài mậu. Hai thằng gặp nhau thiệt hết sức bất ngờ, mừng quá. Sau thời gian dài “làm việc” đôi bên và tâm sự, lần hồi Minh ngủ thổ lộ tâm can. Nó nói mày biết rồi đấy, tao con nhà nghèo, nghèo tận mạng và cũng bởi nghèo nên học dốt, bị bọn bây chế nhạo hoài. Còn cái nghề giã giò của tao nữa, ai cũng khi dễ. Nhưng tao đâu có bất mãn hay uất ức, phẫn nộ gì. Cuộc sống thì phải có người này người kia, nhiều hoàn cảnh mới thành xã hội chớ. Bởi vậy tao yên phận, nghỉ học làm lụng phụ má tao nuôi mấy đứa em. Ai dè tới cuộc Giải phóng, rồi thằng cha Sáu Minh (chả cũng tên Minh như tao) tới nhà kêu tao ra “công tác”, chả nói là “thoát ly”. Làm năm bảy tháng được vô đoàn. Sáu Minh nói biết rành tao từ hồi nhỏ, thương tao cực khổ, gia đình thuộc thành phần “giai cấp vô sản” vân vân, rồi chả biểu tao khai lý lịch tham gia cách mạng trước bảy lăm, là cơ sở của chả, cho dễ “cơ cấu” sau này. Chắc do cái vụ “khai man” đó, nên mới công tác đâu chừng hai năm mà tao nắm bí thư phường đoàn, vô đảng, kế có chân trong chi uỷ nữa… Từ thằng làm mướn giã giò, dốt học không nổi phải nghỉ ngang, giờ người ta gọi tao là anh Bảy (tao thứ hai trong nhà, nhưng kết nghĩa huynh đệ với Sáu Minh nên tao lấy thứ bảy), kêu đồng chí Bảy, đồng chí bí thư (đoàn) này nọ. Có khi họp hành tao còn chỉ đạo lũ đoàn viên – thanh niên, la mắng phê bình tới lui, cũng ngon lành! Còn dân trong phường, bất kể ai, hễ không là cán bộ đảng hay cán bộ nhà nước là tao đều phải có trách nhiệm “giáo dục”, giác ngộ cách mạng cho họ… Đó, mày thấy có phải tao được đổi đời không? Đổi tới cả tỉ lần chớ không chỉ “chăm phần chăm” đâu. Vậy rồi lần lần tao mới khôn ra, có ý thức kiểu như học hành khó khăn quá không kham nổi, lao động thì cực nhọc mà tới chừng nào mới ngoi đầu lên được (mày coi mấy thằng công nhân hãng xưởng giờ, thì biết tụi nó khổ cỡ nào). Chỉ có con đường làm chánh trị là mau “có ăn” nhứt! Mà hễ làm chính trị thời phải “khéo léo”. Tổ chức là không thể giỡn mặt được. Lãnh đạo còn hơn cha mẹ. Phải phục tùng tuyệt đối, không khi nào trái lệnh. Đại khái gọi dạ – bảo vâng…
Thịnh béo lắc lắc cái đầu, nói cái thằng lành như đất, dốt như bò, không học hành chi cả mà làm tới Phó Chủ tịch một huyện (còn bây giờ, nó là Tổng giám đốc một công ty kinh doanh cấp tỉnh, nhưng hoạt động đủ thứ ngành nghề khắp cả nước); vợ nó không đẹp, nhưng có hai đứa con du học Úc. Còn cái nhà nó, tụi bây chưa thấy đâu. Một cái “huyla” trên khuôn viên hơn một công đất, có hồ bơi… Tao hỏi nó, anh em mày nói thiệt tao nghe, mày mới học lớp bảy – mà vô lớp cũng chỉ ngủ, chứ biết gì – thì làm sao làm việc, quan hệ giao tiếp, chỉ đạo này kia. Nó cười hệch, nói đã có nghị quyết. Cái chi cũng từ nghị quyết mà ra. Có điều phải học cho thuộc, đặng nói lại…
Trong lúc thằng Thịnh béo phun mấy câu kết rằng tao cũng sợ nó luôn, và đúng là đời người có số cả, thì mình nghe như có tiếng nấc nghẹn của ai đó. Ngó lại, té ra thằng Sơn. Thằng này học giỏi, có mấy cái bằng đại học song vẫn cứ nghèo thê thảm, bị vợ con móc máy, chê lên chê xuống. Chắc nó buồn vì thân phận của nó so với thằng Minh ngủ, mà hồi còn đi học, ngồi chung lớp chắc chắn nó không coi thằng này ra gì (trong chuyện học hành). Thằng Sơn rầu rĩ nói Thịnh à, hình như Minh ngủ vẫn là đứa dễ thương. Nghe mày kể tao thấy nó có vẻ là thằng sống trung thực. Thịnh béo cười khì; ừ, nhưng chắc chỉ với lũ đồng môn tình xưa nghĩa cũ như bọn mình thôi, chớ với thiên hạ, thằng này “khéo” lắm. Tao đồ rằng, có khi chỉ ít năm nữa, nó sẽ vô trung ương cho mà coi!
3. Nếu nói mỗi con người đều có số mệnh, thì tử vi thằng Minh ngủ ắt có hai sao Tuần, Triệt chặn đầu (?), làm ra một cái đại hạn trong thời niên thiếu của nó. Tuần, Triệt đương đầu, thiếu niên tân khổ. Tới năm một chín bảy lăm giải phóng miền Nam, thì có lẽ đồng thời cũng chấm dứt đại hạn mười năm, tức vào quãng ngoài hai mươi tuổi. Do vậy nó phất chăng?
Trong sĩ số lớp thất hai (rồi lục hai, v. v. ) năm xưa đó, giờ trừ bọn lưu lạc xa xứ hoặc chết chóc mất tích ra thì tổng còn lại hơn ba mươi đứa. Bọn mình họp bầu ra một ban đại diện để điều phối sinh hoạt như thu nguyệt liễm, niên liễm, hỗ trợ quan hôn tang tế, tổ chức tiệc tùng gặp gỡ hàng năm… Nhưng trên cả cái ban đại diện ấy, về danh nghĩa, là thằng Minh ngủ với chức “Chủ tịch danh dự”. Tuy phong chơi vậy chứ đâu phải hội hè chính thức hay tổ chức xã hội gì, nhưng vẫn cho thấy một thực tế là thằng Minh “có giá” và nó đứng trên hết cả bọn. Mà cũng đúng thôi, bởi mấy thằng vẫn mang tiếng là khấm khá hơn cả trong anh em như thằng bác sĩ Bách, thằng kỹ sư Chương, thằng Mạnh giáo sư nếu đem so với Minh ngủ, thì chỉ đáng xách dép cho nó. Họp mặt lần nào ngoài các khoản đóng góp theo quy định như người khác, nó còn tự nguyện lãnh thầu món “thức uống”. Mà đây mới là phần nặng đô nhất, toàn rượu Tây bia Đức cả. Đứa nào xây sửa nhà hay cưới gả cho con cái nó đều mừng cái phong bì dày cộp. Như lần thằng Dũng (đóng) “giày” đi nhậu té xe gẫy mất nửa hàm răng, mồm sưng vếu không nhai không nói được, ai hỏi chỉ ú ớ. Thế mà Minh ngủ đến rút bóp cho năm triệu gọi là để “thuốc thang”, thằng Dũng bật ngay dậy, nói cảm ơn. Thật còn hơn thuốc thánh chữa bệnh tử. Cổ nhân nói không sai. Có tiền là có lễ nghĩa, đạo lý và được thiên hạ kính trọng. Nghèo quá làm sao thi hành được chữ lễ, chẳng hoá ra tiểu nhân! Phải chăng “Lễ không xuống đến thứ dân”, là muốn nói người dân thường, do nghèo mà không giữ được lễ?
Minh được anh em quý trọng lắm. Quý thực lòng. Chả biết nó hợm hĩnh, bố láo ở đâu chứ với anh em, như thằng Thịnh béo vẫn khẳng định, là thằng ấy nó ngoan, biết xử với bạn bè.
Chỉ chết cười là thầy Vũ. Hồi năm bốn lăm bốn sáu gì đấy thầy hăng hái tham gia kháng chiến, được tổ chức giao nhiệm vụ ném lựu đạn khách sạn Majestic ở Sài Gòn (chẳng biết để ám sát ai, hay chỉ nhằm gây tiếng vang?). Thầy thực hiện đúng phương án tác chiến, nhưng không biết quả lựu đạn nội hoá của công binh xưởng sản xuất thế nào mà thầy vừa vung tay, thì nó phát nổ, khiến thầy bị hỏng mất một mắt. Từ đó thầy thôi làm cách mạng, đi Tây học rồi trở về làm giáo sư dạy tiếng Anh kiêm dịch giả sách báo. Năm kỉa năm kia, lúc thầy chưa mất mình gặp thầy, nhân nhắc chuyện lớp lang trò choẹt cũ, đến Nguyễn Minh, đứa học trò hay ngủ, thầy nhăn nhó xua tay nói tôi nhớ, tôi nhớ lắm. Ai chứ cái cậu ấy thì tôi không quên được. Khổ quá, học hành thế làm sao nên người. Thì đấy; mới hết năm đệ lục đã nghỉ rồi…
Trời ạ! Giá mà thầy Vũ còn sống đến hôm nay, để mình đưa thằng Minh ngủ đến thăm thầy. Nó sẽ chất thầy lên ô tô con của nó đi dạo, đi ăn và mua biếu thầy ít quà… thì chắc chắn là thầy sẽ ngỡ ngàng, sẽ phải nghĩ lại sự nhận định của mình về chuyện nên người hay không của cái thằng học trò tệ nhất ngày xưa ấy. Vâng; thầy, và cả bọn chúng em nữa, đều không tưởng đến một điều là cách mạng đã “đổi đời” cho nó!
4. Mấy bữa nay chẳng làm được việc gì, cứ đi ra đi vào. Có nằm, thì cũng gác tay lên trán thở dài thườn thượt. Làm mấy cái đề cương, cái nào thoáng đọc cũng hay ho nhưng coi đi coi lại thấy nhạt thếch và vô duyên. Đã thế, hôm thằng Thịnh béo tới nhà bàn vụ đi Cà Mau thăm Bãi Bồi, Đất Mũi cho biết cái “cù ngoéo” cực Nam của Tổ quốc giờ đã ngon lành thực như báo bổ viết chưa, hay vẫn còn lần khân từng bước… Sắp xếp chương trình đi xong, nó nói tao nghe mày định viết truyện mà có nêu vụ học hành thời cố hỉ của thằng Minh, tao e không nên. Mình hỏi tại sao, nó kêu viết làm chi, đọc được nó buồn. Còn nữa, giờ nó đảng viên, làm lớn mà khêu lại vụ nó học dốt học dở này nọ coi chừng người ta nói mày kiếm cớ bươi xấu cán bộ, là sanh chuyện.
Nhiều ý kiến lắm!
Truyện thì chưa có chữ nào, mà hết người này tới người kia nói. Chẳng qua cũng là do mình tìm hỏi tụi nó mấy chi tiết liên quan trường lớp hồi nhỏ, nên bị đồn um. Thằng Thông (nuôi) “vịt” gặp mình giữa đường, chỉ mặt nói lóng rày trông mày giống con thạch sùng quá. Ốm nhom. Tái mét. Bộ “thao thức” dữ lắm hả? Rồi mấy đứa khác nữa. Nào là, ngó (mình) in hệt thằng cha “thai đề” tụi chệt nuôi để hô số; và, ráng viết như… Vũ Trọng Phụng (?!) nghen “em”. Thời buổi này nhiều bọn “Xuân tóc đỏ”, lưu manh cặn bã lắm; chửi cho chết mẹ chúng đi!…
Mình định viết cái truyện về thằng bạn học thời thơ ấu, chứ có “ý đồ” chính trị, xã hội gì đâu mà phê phán, chửi bới ai. Tuy rằng lâu lâu chợt nghĩ tới, hoặc có người nhắc, cũng muốn chửi thề lắm. Thiệt vậy! Chừ đám con hoang ngạo ngược lên đời, quậy tá lả bùng binh thì cái xã hội này rút cục sẽ đi về đâu (?!). Chấm cái dấu hỏi “đâm hơi” vậy thôi, chớ làm sao giải quyết? Đạo đức xuống cấp. Cuộc sống bấp bênh, mệt mỏi. Cầm cây bút còn cảm thấy nặng nề, hơi sức đâu mà bao biện!
…Nghe đủ thứ lời này tiếng nọ riết đâm tức, nói ngang: Đứa mô chót chét chi, kệ nó. Mình viết; cứ viết!
Nhưng đâu được. Vợ mình nghe nói đang tìm đề tài viết truyện, bả nổi điên lên cự nự kêu viết mà ra cơm ra cháo bỏ vô mồm được, hẵng viết. Không thì thôi. Xăng lên giá, cuốn bao nhiêu thứ tăng theo ào ào mà chỉ mình tôi lo toan chạy vạy. Sắp chết đói cả lũ rồi đấy! Cái sự “cảnh báo” đó mới chỉ là “hồi chuông nhắc nhở”, và dĩ nhiên là chưa có ai chết; song nghe sao mất hứng quá. Hết muốn làm việc!
Lại nhớ chuyện ông chú Ba mình, chết mấy chục năm rồi, hy sinh thời chống Pháp. Hồi còn “21 năm xã hội chủ nghĩa miền Bắc”, gia đình lo “chạy công điểm” hợp tác xã đâu có thời gian ra khỏi cổng làng, nói chi chuyện đi tìm mộ. Tới cái năm chín mươi chín mấy, rộ lên vụ “ngoại cảm”, cả họ nhà mình đổ xô chạy chọt thầy thím nhờ vả. Nhiều trận tìm kiếm xa xôi tận miền đồng rừng Đồi Thông – Lang Tạ, Thái Nguyên rồi Tuyên Quang, Bắc Cạn… hao tốn biết bao nhiêu mà kể, nhưng không kết quả gì. Kỳ đó, đâu năm hai nghìn lẻ sáu, cụ trưởng họ nhắn mình về quê gấp vì lần này đón được một nhà ngoại cảm lừng danh, từng tìm đúng hàng vạn mộ, trong đó có hàng trăm mộ thân nhân “các đồng chí lãnh đạo”, nên chắc chắn cuộc truy tìm sẽ… thành công tốt đẹp!
Mà không “tốt đẹp” sao được, khi nhà nữ ngoại cảm hùng hổ dẫn mấy ông già làng họ tộc mình tới một cụm cao ốc gồm hai, ba khối vuông mười mấy tầng ở thị xã X, rồi chỉ vô trong biểu hài cốt ông Ba nhà ta nằm ngay dưới cái nền đất đó… Vậy phải làm sao? Ai nấy ngơ ngác! Chập sau cụ trưởng họ nghiêm chỉnh phát biểu “Ta phải quyết tâm”; ý cụ ấy là đi vận động đào nhà người ta lên! Mình nói đây là chú ruột tôi, có thương nhớ thì tôi để trong lòng, chứ không thể làm như thế được. Dù sao cũng nửa thế kỉ rồi, có khi đào lên chẳng có gì, ngoài đất, lại thêm rách việc.
Ấy vậy mà tới giờ, các vị trong “thường vụ gia tộc họ Nguyễn” của mình vẫn không bỏ ý định tìm hài cốt chú Ba. Bởi vì, cả họ có mỗi mình ông ấy hoạt động cộng sản và là liệt sĩ cách mạng. Còn ông anh cả của ông Ba tuy có công với nước nhưng chẳng được ai quan tâm, bởi lẽ ông là đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng, bạn thân ông Nguyễn Thái Học. Năm ba mươi ông Học bị chém, thì ông Cả Đoàn thọ án chung thân, đày Côn Đảo.
Một đàng muốn tìm cho ra bộ xương khô để đem về quê lập mộ cho to, làm sự vẻ vang. Còn mình, không viết được cái truyện ngắn, cũng chả sao. Mai mốt xin lỗi, và khất ông bạn nhà báo thân thiết vào một dịp thuận tiện khác. Còn bây giờ, anh em bè bạn đứa cản, đứa chọc, đứa phê bình góp ý… Mệt quá! Song chủ yếu là vợ. Kinh tế gia đình đang lúc khó khăn rệu rã thì cũng chả yên tâm mà ngồi viết.
Không lẽ để mình bả lo?!…
Thân thiết gửi bạn chung lớp thất 2 Phan Tấn Hải
Phần nhận xét hiển thị trên trang