|
Q
|
uán hủ tiếu của Ba Tô nằm ngay chợ
Bình An. Khu đất bằng phẳng lưa thưa vài nóc nhà, sát ngã ba đường đi xa mát.
Con lộ trước nhà suốt ngày lầm bụi. Nó vốn là con đường tráng nhựa từ hồi Pháp
thuộc. Mấy mươi năm nắng mưa lớp nhựa bên trên không còn dấu tích. Lại chinh
chiến liên miên chưa ai nghĩ tới chuyện tu bổ lại nó. Mặt đường lồi lõm đẩy ổ
voi, ổ gà. Nước đọng từng vũng. Thỉnh thoảng một chiếc xe tải chạy qua. Bùn đất
bắn tèm lem sang hai bên đường. Phải xuống tới Phú Giáo con đường mới được trải
nhựa phẳng phiu. Càng đi xa về Phước Long con đường càng tệ. Mùa mưa đi trên đường
còn đỡ. Mùa nắng gió bụi không mở được mắt. Chốc chốc cơn lốc cuốn rác rưởi, lá
cây, khói bụi lên cao thành cái hình phễu khổng lồ. Hàng quán bán hai bên đường
ngày phải lau bụi luôn. Ngồi trong quán có thể nhìn rõ qua bên kia đường khu
nhà của Nông trường cao su. Nó cũng giống hầu hết các nông trường cao su khác ở
vùng này. Công nhân chín người, mười tỉnh, đều cảnh áo ngắn như nhau. Cùng vì một
hoàn cảnh ngặt nghèo nào đó nơi quê cha, đất tổ mà tới đây. Kẻ Băc người Nam,
trăm người trăm tính. Họ là thượng đế khó chiều của quán ông Ba. Trong nông trường
cũng có căng tin bán đủ thứ. Nhưng họ chỉ mua hàng mấy ngày. Những ngày cuối
tháng căng tin nông trường buồn hiu, rất vắng khách. Sở dĩ có chuyện đó lý do
cũng thực đơn giản. Căng tin nông trường không bán chịu. Muốn mua " Thiếu
" thứ gì đó, người ta phải ra quán ông Ba. Bà Ba Tô cũng là người mát
tính. Không bao giờ hỏi " Ngang hông " như các quán khác. Khi nào đó
trả đỡ chút đỉnh, chưa có, mua thêm cũng không sao. Công nhân cao su lương chậm
hàng tháng là chuyện thường. Mà lương bổng đâu có nhiều nhặn gì. Tính cách của
họ cũng thật lạ. Có lẽ do tác phong sinh hoạt lang bạt, kỳ hồ từ nhiều năm trước
còn đọng lại. Không có tiền thì thôi. Củ mì luộc, vài con khô mắm, đôi xị rượu
cũng xong. Có tiền nhậu vài bữa chết bỏ. Còn chút chút trả nợ quán. Trên dưới một
tuần lại vô sản từ trên xuống dưới. Cháy túi. Trắng tay. Chẳng ai lấy đó làm buồn.
Hoặc là buồn là buồn theo cách của họ. Cũng giống như người nông dân vùng này.
Gạo thiếu quanh năm, nhưng mùa gặt được bao nhiều gạo lúc bán bằng hết. Không
nhà nào trữ thóc gạo trong nhà. Nếu có thì hiếm hoi mới thấy có nhà đóng bịch
chứa thóc. Gạo ăn tới đâu mua tới đó. Kêu rằng như vậy mới có gạo mới, gạo
ngon. Mất công chi trữ lúa nhọc công phơi, sàng sẩy! Cuộc sống tự nhiên như nhiêu
giúp cho họ có tâm hồn phóng khoáng, cởi mở, chân thực. Nhưng cũng nhiều khi cười
ra nước mắt.
Khải nghĩ trong
nhiều nguyên nhân dẫn đến cái nghèo của xứ sở này có lẽ có một phần không nhỏ của
tính cách ấy tạo nên. Nó là dấu vết tạm bợ trong cuộc di dân qua nhiều thế hệ.
Anh đã quen dần
với nếp sống ở vùng này. Quen cả cái nóng bức bối, khô khát. Quen nét lãnh đạmn
như không ai chú ý đến ai. Ai cũng chăm chăm làm rồi ăn, rồi ngủ như không cần
biết còn có gì xảy ra, diễn ra trên đời. Nhưng Khải không sao quen được cuộc sống
thiếu thông tin đến mức trầm trọng như ở nơi đây. Dọc hai bên đường không hiếm
chỗ quán xá ca nhạc ỉ eo, rầu rĩ. Cái không khí ấy khác hẳn với đất Bắc quê
anh. Người ta mở máy nghe nhạc từ mờ sáng cho đến đêm thâu. Những cuộn băng cũ
ngắc ngứ tua đi tua lại không biết chán. Những bài ca nghe quá nhiều trở thành
nhàm chán, không gây ấn tượng. Thật khó khi muốn kiếm một tờ báo hay một cuốn
sách để đọc. Mọi chuyện người xung quanh dường như không ai để ý đến chuyện đó.
Không có nó cũng chẳng chết ai bởi vì chưa ai có thói quen này. Lâu lâu anh lại
phải về chỗ nhà ông Võ mượn lên vài cuốn sách. Ông Võ là người dửng dưng với mọi
thứ tiện nghi vật chất nhưng lại đặc biệt giữ gìn coi trọng sách. Vài tháng một
lần gom được chút tiền ông về thành phố mua sách bằng hết. Đây cũng là nguyên
nhân khiến cho bà vợ khó chịu. Ông ăn thế nào, mặc thế nào cũng xong. Có khi
khoác trên người cái áo cũ rộng lùng thùng sứt hết đường may, có lúc chui vào
cái áo quầy ngắn cũn cỡn. Đầu tóc, râu ria ông cũng ít để ý tới. Hàm răng đều
đáng ra rất đẹp nhưng luôn ố vàng ám khói thuốc vì ông có khi nào cầm cái bàn
chải đánh răng. Vợ con nhắc ông cũng chỉ cầm cái bàn chải sục vài cái qua loa.
Đôi dép của ông luôn bị đứt quai và hai bên mỗi bên một cỡ. Khải ít thấy có ông
bác sĩ nào lại có bề ngoài và tác phong như ông Võ. Họ thường là những người chỉn
chu, ăn mặc chải chuốt, lịch lãm. Ông Võ ngược lại. Ông giống như thầy thuốc đời
xưa đi ở ẩn, không để tâm đến mình. Nhưng ông chăm sóc những cuốn sách rất cẩn
thận. Cuốn nào ông cũng tự tay đóng bìa cứng, bọc vải phết nhựa cây bảo vệ cẩn
thận. Ngoài ra rất ít người được mó tới những cuốn sách này.
Khải thật không
ngờ BaTo cũng là người có thói quen và sự say mê đọc sách giống anh. Chính cái
bề ngoài lần tiếp xúc đầu tiên đã khiến Khải nghĩ như thế. Vẻ ngoài dễ dãi cởi
mở, nhưng để ý thấy có sự tinh quái ranh mãnh ngầm. Thường đám mọt sách ít ai
có cái bề ngoài như vậy. Họ thường có bề người ưu tư hay day dứt điều gì. Nếu
không cũng là vẻ lơ ngơ như đầu óc đang để đâu đâu.
BaTô là con người
khác hẳn. Ban ngày ông tươi cười niềm nở cùng vợ bán hàng, phục vụ khách. Hoặc
là chạy mánh mối đâu đó là chuyện than củi. Ban đêm chong đèn đọc sách đến
khuya.
Một hôm BaTô làm
Khải thực sự bất ngờ. Ông đưa cho anh một tập bản thảo nói là bản dịch một cuốn
sách khoa học nhân văn. Cuốn “ Theo dòng lịch sử ” của một tác giả người Pháp.
Những điều viết trong cuốn sách làm anh sửng sốt. Nó phản bác những công trình
có từ trước tới nay, vạch ra hướng nghiên cứu hoàn toàn mới mẻ, đến nỗi khó
tin. Trong những luận chứng trước đây người ta rất đề cao nền văn minh Hoa Hạ.
Coi đó là cái nỗi, là trung tâm có tầm ảnh hưởng lan toả khắp lục địa á - Châu.
Người Trung Hoa rất tự hào về điều đó. Hoá ra không hoàn toàn đúng như thế.
Theo tác giả: Tộc người Viêm Việt mới là tộc người khai mở nền văn minh á Châu
hàng vạn năm trước. Nền văn minh Hoa Hạ chỉ là một bộ phân của nó mà thôi. Mãi
về sau nó mới ảnh hưởng ngược lại, đi dần xuống vùng Đông Nam Châu á. Đó là bước
trở về cội nguồn của Tổ tiên, chứ không phải nơi khởi đầu như người ta vẫn tưởng.
Mà dấu vết còn để lại rải rác bán đảo Đông Dương như khu đền Ăng Cô, tháp chàm
Ninh Thuân.. Người ta vẫn cho rằng Chúa Nguyễn có công khai mở đất đai về
phương Nam, mở rộng bờ cõi. Thực ra thì ông chỉ thực hiện công việc theo dòng
chảy tìm về dấu vết người xưa. Tộc người Viêm Việt, còn để lại bao điều bí ẩn,
cho đến ngày nay người ta mới chỉ lờ mờ nhận ra nó. Chưa có công trình nào khả
dĩ có tính thuyết phục đủ tầm vóc về Tổ tiên từ lục địa Châu Phi theo sườn phía
Tây Nam Châu á tới những đất nước ngày nay. Hoá ra lịch sử nhân loại chính là lịch
sử của những làn sóng di dân. Di dân đã làm nên lịch sử hiện đại. Trong dòng chảy
ấy, thân phận con người chỉ là những hạt bụi nhỏ nhoi không đáng kể gì. Dù rằng
“ bay ngược “ hoặc “ bay xuôi ” nhiều khi cũng chỉ là vô nghĩa. Rất hiếm hại bụi
để lại ấn tượng gây nên sự lấp lánh, rạng rỡ trong đời. Khải nghĩ BaTô dù sao
cũng là một hạt bụi đáng kể. Cho dù cuộc đời ông ta có những khúc quanh. Những
bại thành ngoài ý muốn. Kể cả những tháng ngày rỗng không, những ngày nham nhở.
Những ngày tối đen. Những ngày buồn vui đáng kể hoặc không đáng kể gì…
Nghĩ lan man Khải
chợt nhớ tới phận mình. Anh không khỏi nén một tiếng thở dài. Mặc dù trong thâm
tâm Khải rất trọng ông Ba, anh cũng ít lui tới quán. Anh ngại những cuộc ăn nhậu,
đàn ca vô bổ nơi đây. Bản thân việc uống rượu không có hại. Nhưng quá đà lại
không hay. Anh đã từng thấy những người còn trẻ tuổi rượu đã làm cho dặt dẹo, mất
hết tính người. Những cuộc cãi vã không đâu rồi dẫn đến ẩu đả.
Khải chỉ đến những
khi thực rỗi rãi, quán vắng khách, ít người. Ngồi nhâm nhi tách cà phê trò chuyện
với ông Ba một lát rồi về. Thường là những khi ấy anh mang tới cho BaTô một cuốn
sách hoặc mượn của ông ta cuốn sách nào đấy. Dù bận tới đâu BaTô cũng dành thời
gian trò chuyện với anh. Giữa họ với nhau đã mất dần khoảng cách e ngại, gìn giữ
ban đầu. Đã có thể bộc bạch đôi điều mà nếu như đối với người khác còn phải giữ
gìn.
Nhưng mấy hôm gần
đây thái độ BaTô hoàn toàn khác hẳn. Khi Khải tới ông ta vẫn mỉm cười, chào hỏi.
Nhưng làm ra vẻ bận rộn ông không ngồi riêng với Khải như mọi khi. Để mặc anh
dùng hết tách cà phê, hút tàn điều thuốc rồi về. Kể cả lúc không có khách ông
cũng hí húi như bận công chuyện gì đó, không tiếp anh. Đến khi Khải về ông nói
với theo:
- Công việc lu
bu quá, thông cảm nghe.
Khải thấy trong
cách xã giao ấy có điều gì gượng gạo. Hẳn BaTô có điều gì đó không bằng lòng. Vậy
đó là điều gì? Anh đã làm việc gì để ông ta phật ý? Kể từ lần đầu gặp BaTô ở
công an huỵên Đắc – Cơ anh đã gây được cảm tình. Rồi những ngày làm than trong
rừng Mã Đà anh vẫn giữ được tình cảm ấy. Anh chưa làm gì để ông ta tổn thương cả
vật chất lẫn tinh thần. Xưa nay Khải chưa bao giờ muốn mình làm gánh nặng cho bạn
bè. Anh muốn cầu thân chứ không cầu lợi. Coi đó là niềm vui là hạnh phúc trong
đời. Kẻ không biết mình, Khải không quan tâm. Không cố giải thích, lấy lòng để
mua chuộc ai. Nhưng ai đã biết, đã cảm thông với mình anh không muốn tình cảm ấy
mất đi. Trong cuộc sống, con người ta cũng thật lạ lùng. Ngay cả khi ăn cùng
mân ngủ cùng giường thực chất cũng chưa hiểu hết về nhau. Thực tâm quý trọng
nhau một cách vô tư không vì một điều gì, để có được sự chân thành. Giả dối là
một thuộc tính khó bỏ của phần đông nhân loại. Người ta thích “ diễn ” hơn là “
biểu hiện thực tâm ”. Hàng ngày sống chung, chuyện trò, công việc, nói cùng một
ngôn ngữ mà như người không đồng thế giới. Tính cả thể rất riêng ấy làm cho xã
hôịi muôn màu muôn vẻ. Nhưng cũng chính nó gây nên không ít chuyện đau lòng.
Đáng buồn là ở chỗ dù có tiến hoá đến đâu điều này cũng không thay đổi được. Nó
như là nghiệp căn, định mệnh của con người. Nếu không mọi sự đã không phức tạp,
đáng ngờ!
Chuyến đò nên
nghĩa. Đối với BaTô Khải là người chịu ơn ông trong những ngày lưu lạc xứ người.
Anh là kẻ mang vận áo xám, ông chẳng cần cầu cạnh ở anh thứ gì. Nên tình cảm ấy
không thể nói là không trong sáng vô tư. Cũng như trong đời Khải đã từng chịu
ơn nhiều người khác mà chưa trả được. Thế giới này không phải toàn điều bạc bẽo.
Còn rất nhiều những con người tốt. Họ lẫn trong vô vàn quân đểu giả, bất nhân.
Giống như Ngọc nằm trong đất, Vàng trong cát, viên than đỏ dưới lớp tro tàn. Mất
gì thì mất, Khải không muốn mất những con người ấy. Dù thế nào anh cũng phải
tìm ra chỗ vướng mắc từ đâu?
Tách cà phê nguội
lạnh. Anh thấy nó đắng ngắt như lần uống một thứ lá cây nào đó mà người bạn tù
mang về. Lần ấy Khải bị trận sốt rét rừng. Nếu không có bát thuốc ấy có lẽ giờ
Khải đã không ngồi đây. Người ấy sau này gặp sự trớ trêu. Anh ta chữa khỏi bệnh
cho bao nhiêu người. Mà không chữa được cho mình. Nhờ có nghề thuốc gia truyền
anh ta ở tù không giống ai. Vẫn được đi lại, ra vào trại tự do. Chỉ phải về buồng
vào buổi tối. Ban ngày sống như người ngoài xã hội. Hàng ngày vào rừng tìm cây
thuốc cho trại. Chính anh lại bị mắc chứng sơ gan cổ chướng. Căn bệnh anh từng
chữa cho nhiều người. Khải chứng kiến những ngày cuối cùng của anh. Người ta xếp
cho anh một căn phòng nhỏ ở một mình. Chỗ này vốn dành cho phạm nhân có bệnh
truyền nhiễm, cách lý với người khác. Bụng anh to như bụng con bò. Không quần
áo nào mặc vừa. Sàn nằm rải đầy vôi bột. Những con đau quằn quại khiến anh kêu
khóc, rên rỉ, vật vã. Bột vôi trắng xoá khắp đầu tóc chân tay. Chẳng khác nào một
sinh vật lạ lùng chưa ai nhìn thấy. Cuối cùng cái bụng ấy nổ tung. Lênh láng nước
vàng, mủ bồ quân… Bây giờ nhớ lại, Khải chưa hết bàng hoàng. Nét mặt BaTô có
cái gì đó hao hao giống người này. Cái trán ngắn phủ vài sợi tóc lưa thưa,
khuôn mặt tròn, mũi dẹt. Đặc biệt hai tai to, dái tai rất dày. Quan sát nét mặt
BaTô, nhớ lại người bạn cũ. Khải tự dưng nảy ra ý nghĩ không đâu vào đâu: Giá họ
có cái mũi cao hơn, lỗ mũi rộng hơn có lẽ cuộc đời họ sẽ khác? Đấy là ẩn ý. Thượng
đế dành cho vài người. Ngài thật hóm. Ngài luôn để lại tì vết trong mỗi viên ngọc. Đến như A Sin còn chỗ kém ở
gót chân! Nhưng ý nghĩ ấy chỉ thoảng qua như làn gió hoang. Khải trở về với ý
nghĩ hiện tại. Anh nghĩ: Nếu có hỏi BaTô, chưa chắc ông đã nói. Con người này vẫn
vậy. Ai có làm cách nào, ông ta cũng sẽ không nói. Cứ lặng thinh, điều gì cần
nói, khắc nói. Có hỏi cũng bằng thừa.
Khải uể oải đứng
lên, chào vợ chồng Ba Tô, ra cửa. Nét mặt đăm chiêu. Bấy giờ Ba Tô mới lên tiếng:
- ủa, chú định về
thiệt sao? Có câu chuyện nãy giờ tôi định nói cho chú biết, lại sợ chú buồn,
nên chưa tiện:
Nói rồi ông chùi
tay vào cái khăn cũ móc vào cái đinh trên cột, lấy áo treo gần đó mặc vào người.
Hồi nào tới giờ ông có thói quen chỉ mặc áo ba lỗ, cởi trần không mặc áo dài
tay. Chỉ khi đi đâu, hay có công việc gì quan trọng ông mới mặc áo ngoài. Khải
đoán câu chuyện Ba Tô sắp nói là việc hệ trọng. Nếu không ông đã không có cử chỉ
vừa rồi.
Một toán năm bảy
người khách bước vào quán kêu đồ nhậu. Ba Tô mời họ ngồi vào bàn: “ Xin lỗi
nghen, bà xã nhà tôi mang tới liền ” Ông kêu bà làm, còn mình chỉ Khải ra lối
sau nhà. Chỗ đó có cây vú sữa xum xuê. Mùa này trái cây hãy còn xanh/ Ngay gần
đó có giếng nước ăn, miệng giếng quây bằng những tấm tôn dày uốn cong. Hai cây
dừa lửa lá vàng quá nửa, còn vài lá xanh chìa lên trời trông như những chiếc lược
khổng lồ. Xa hơn một chút là vườn cây mì tốt đều ngun ngút. Không biết vợ chồng
Ba Tô làm vào lúc nào mà có được đám mì rộng và tốt như vậy. Phải khi khác Khải
đã hỏi. Anh có thói quen để ý đến những sự khác lạ xung quanh. Nhưng vào lúc
này Khải thấy hỏi như vậy không phải lúc. Nó có vẻ xã giao, giả dối không đúng
lúc. Hai người ngồi đối diện qua chiếc bàn sắt hình tròn. Mấy cái ghế cũng bằng
sắt, có cái đã han gỉ. Có lẽ đây là những thứ còn sót lại ở một căn cứ quân sự
nào đó. Những người lượm nhặt ve chai tha về, bán sỉ.
Ba Tô pha gói
trà Cô Ba. Hương trà thơm ngào ngạt. Trà này cũng là thức Khải nghiền. Sáng nào
anh cũng phải uống vài tách trước lúc đi làm. Có thể không ăn bữa sáng. Nhưng
trà không thể bỏ. Tuy nó không đậm, được nước như trà Bắc. Nhưng uống riết rồi
cũng quen. Ba Tô rót trà rồi bắt đầu câu chuyện. Một câu chuyện buồn. Không phải
ngẫu nhiên mà Ba Tô có vẻ lãnh đạm với anh mấy ngày qua. Cũng không phải vô cớ
mà Khánh Hà vắng nhà. Cô mang con đi cả tuần này không tin tức. Khánh Hà đi được
ba ngày thì Khải về. Cô không nói với ai rằng mình đi đâu. Hỏi ông hàng xóm người
Miên là Thạch Sáng, ông cũng lắc đầu kêu không biết. Mấy người trong khu xóm chợ
quen thân với cô cũng không biết là cô đi đâu. Ngay cả Ba Tô khi được hỏi cũng
chỉ nói vu vơ:
- Không chừng nó
lên Định Quán, chỗ con Huyền làm lò đường.
Khải hỏi thăm đường
để đi tìm thì ông bảo:
- Là tui đồ chừng.
Không chắc trúng. Mà chỗ đó túi có tới hồi nào đâu mà biết đường. Chỉ nghe hồi
nào cô Năm nói. Tốt nhứt chú ráng chờ xem sao. Không có địa chỉ rõ ràng biết
đâu mà tìm…
Nhưng Khải đã
quyết định đi tìm Hà cho kỳ được. Đường là ở miệng người ta chứ ở đâu. Anh nghĩ
vậy! Cứ lên tới Định Quán tìm tới các lò đường thể nào cũng gặp. Chính vì thế
Khải mới tới quán Ba Tô sớm nay. Định hỏi xong là đi luôn. Thấy vẻ mặt Ba Tô
lúc đầu Khải cho rằng có hỏi cũng không kết quả. Anh định không hỏi nữa, quay
trở về nhà lấy thêm mấy thứ. Khi nào có xe đi Định Quán ngang qua là quá giang
luôn. Vừa lúc Ba Tô kêu ở lại.
Ông bắt đầu câu
chuyện sau khi nhâm nhi tách trà.
Vợ chồng ông Cơ
chuẩn bị về Bắc thì có người ở ngoài ấy vào. Con gái lão Đởm mang hai đứa con
nhờ ông xin vào nông trường cao su. Nó là bà con bên ngoại ông Cơ. Mẹ đẻ ông Cơ
và mẹ đẻ ra Hải là chị em họ con chú con bác. Kể ra cũng không phải họ hàng xa
lắm. Những hồi ở nhà ông Đởm đối xử với ông chẳng ra gì. Đã không giúp thì chớ
ông còn gây khó dễ lần ông Cơ kết nạp vào Đảng. Nếu không có thành tích ngoài
chiến trường, chỉ căn cứ theo nhận xét của địa phương có lẽ ông Cơ lúc này chưa
là đảng viên. Trong quân đội điều này vô cùng hệ trọng. Nó là sinh mệnh chính
trị. Có tiến bộ, thăng quan tiến chức hay không đây là tiêu chuẩn được xét đầu
tiên. Khi thấy cô ta nói là con lão Đởm, Hai Cơ không mấy cảm tình. Nhưng rồi
nghĩ lại ông cho đó là cái hạn chế chung của một thời. Căn nguyên là ở chỗ dốt
nát và lạc hậu. Con người xét đoán mọi thứ đều do cảm tính, cảm tình. Vừa ngộ
nhận, chủ quan lại vừa vô đoán. Ngay cả đến ông Thước là chú ruột mình cũng còn
mắc phải. " Quan điểm " " Lập trường " tính nọ, tính kia là
một mớ bòng bong. Nhận thức hạn chế lại hết sức bảo thủ. Lớp người công cũng
không ít, mà tội kể ra cũng nhiều. Cái tội hẹp hòi, thiển cận đến thành ác ý đã
cản trở, thậm chí dập vùi bao nhiêu số phận. Độc đoán, chuyên quyền mà không có
khả năng, kém hiểu biết thì tai vạ gây nên không nhỏ.
Nhưng
dù sao những việc như thế cũng đã qua đi. Nếu bây giờ mình từ chối, không giúp
đỡ con lão chẳng hoá ra mình là người hẹp hòi, trả thù cá nhân? Cuối cùng ông
bàn với vợ lui lại ít ngày. Mặc dù thủ tục về hưu của ông đã hoàn tất, giấy tờ
cũng đã xong xuôi.
Chính
những ngày ông chạy lên chạy xuống để làm giấy tờ cho con gái lão Đơm ông phát
hiện ra một việc: Thằng em họ ông âm thầm lấy vợ và sắp có con mà ông không hay
biết gì. Nếu không có thằng Thảo người cùng quê lại cùng đơn vị trước đây nói với
ông, ông cứ yên trí nó làm ăn đâu xa lắm. Ai dè nó vẫn quanh quẩn ở đất này. Lấy
ai không lấy lại lấy đàn bà giá có con riêng? Tệ hơn nữa nó lại là vợ ngụy quân
đã di tản đi nước ngoài? Gần đây mới có chính sách đoàn tụ gia đình theo chương
trình OHO ký kết giữa ta và Mỹ. Một ngày nào đó nó theo chồng sang Hoa Kỳ thì
sao? Thằng em ông đúng là đứa nông nổi. Muốn lấy vợ thiếu gì chỗ? Còn mẹ già con nhỏ ngoài Bắc nó tính sao mà lại lấy
một người như thế. Càng nghĩ ông càng giận. Nó qua mặt ông, một việc như vậy mà
không nói với ông một lời. Thà ông không biết sự có mặt của nó ở trong này! Ông
sẽ không để yên cho nó. Đó là trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ tình cảm mà một
người như ông phải làm. Dòng họ Nguyễn nhà ông xưa nay không ai lấy vợ, lấy chồng
kiểu như nó. Là kẻ có ăn có học không lẽ nó không biết đấy là điều sỉ nhục,
mang tiếng gia đình dòng họ hay sao?
Ông
tạm gác mớ giấy tờ xin việc của con Hải sang một bên. Xin việc vào nông trường
cao su là việc không khó. Đến như ngụy quân ngụy quyền đi cải tạo về người ta
còn nhận. Huống chi ông đứng ra bảo lãnh? Việc này chỉ còn là vấn đề thời gian.
Ông phải xem lại chuyện của thằng em họ ra sao đã. Câu chuyện hai vợ chồng ông
Cơ nói với nhau, Hải nghe thủng. Cô biết Khải đang ở đây. Ngày anh ta còn ở
làng cô còn nhỏ tuổi. Sau này chỉ nghe người làng đồn thổi. Bố cô thêm thắt
vào. Cô hình dung con người này không đơn giản. Nghe nói anh ta đã vượt biên ra
nước ngoài trước khi gây một chuyện gì đấy ghê gớm lắm. Nếu không bỏ trốn có thể
bị tù rất nặng. Lời đồn đại xưa nay vẫn vậy. Nó như vẽ rồng thêm chân. Có khi
thoạt tiên bằng con se sẻ. Qua miệng nhiều người bỗng nhiên hoá thành diều hâu,
cú vọ. Rồi từ cú vọ đến thành yêu quái, trằn tinh. óc tưởng tượng của người đời
về cái thiện thì eo hẹp. Mà khi hình dung cái ác thì phong phú và độc địa không
biết đâu là bến là bờ. Những chuyện về Khải qua miệng con lão Đởm làm bà Cơ
kinh sợ. Bà là người xưa nay quanh quẩn trong làng, giờ mới theo chồng vào đến
đây. Cũng chỉ quanh quẩn chục cây số trong vùng quanh nông trường. Ngay khi ở
nhà bà cũng không quan tâm đến mọi việc xung quanh. Nên nghe Hải nói bà rất bất
ngờ.
Nghe
vợ nói ông Cơ không ngạc nhiên lắm. Ông chẳng lạ gì lề thói người làng. Những
câu chuyện đồn đại ác ý thì nhiều, thiện tâm thì ít. Hình như người ta cảm thấy
thích thú trước việc không may của kẻ khác. Mặc cho kẻ ấy không gây hại gì cho
mình. Cũng không cần tìm hiểu đầu cua tai nheo ra sao, cứ nói cho sướng miệng.
Làm như lăng nhục được kẻ khác là cách tôn vinh mình lên.
Những
câu chuyện ấy có bao nhiêu phần trăm sự thật còn phải xem sao đã. Mà dù là có
thật như thế ông cũng chẳng bỏ nó được. Dẫu sao cũng là máu mủ, ruột già. Người
khác có thể quay mặt đi chứ ông không thể. Từ ngày nó vào đây, khó khăn như vậy,
nhưng nó có làm điều gì xằng bậy đâu? Nó không đói ăn bậy, túng làm càn. Ông
tin là nó không làm những việc như vậy. Nhưng thằng này số đào hoa thì hẳn rồi.
Không chừng quan hệ trai gái là nguyên nhân của những thất bại, trái ngang của
nó.
Ông
cũng không bỏ ngoài tai tất cả câu chuyện của Hải. Ông hỏi nó cặn kẽ, rồi gật
gù không nói gì.
Còn
ít ngày nữa là bàn giao để trở về miền Bắc, ông Hai Cơ ra thành phố. Đưa con
ông đã theo mẹ nó sang Mỹ định cư theo diện OHO. Việc này khi ra tới nơi ông mới
được biết qua vài người quen. Căn nhà có giàn hoa lý trước sân cửa đóng im lìm.
Cánh cửa sắt có ổ khoá hoen rỉ vì đã lâu không có người đụng đến. Không biết
mai này một người nào đó sẽ về làm chủ căn nhà này? Nhưng điều đó với ông không
còn ý nghĩa gì nữa. Ông đứng lặng hồi lâu. Thế là hết. Biền biệt phương trời,
biết có còn ngày gặp lại? Chỗ đau ông giấu kín trong lòng, giờ nhức nhối. Ông ý
thức được rằng mình là kẻ có lỗi. Mình đã làm điều gì đó không phải với cả hai
người đàn bà. Một người cha mẹ lấy cho khi hơn chục tuổi đầu. Một người tự mình
có mối cảm thương sau bao chiến trận. Không phải con người ta lúc nào cũng sáng
suốt, vững vàng. Lý và tình đôi khi như hai mối chỉ rối vào nhau. Mọi hạnh phúc
và bất hạnh cũng từ đấy mà ra. Cho đến khi từ giã cõi đời, con người cũng không
có cách nào hiểu được rành mạch mọi điều rõ ràng. Vẫn còn lại rất nhiều chuyện
mơ hồ, bối rối. Vì thực ra với sự hiện hữu ngắn ngủi của kiếp người, chỉ có thể
đến gần chứ không thể qua được ngưỡng của sự minh triết.
Ông
Cơ tần ngần hồi lâu trước ngôi nhà quen thuộc trên đường Nguyễn Tri Phương.
Trên đường đang cuồn cuộn người đi. Nhưng ông cảm thấy không nghe thấy gì,
không có ai cả… Rồi ông chợt nhớ tới Khải. Nó cũng có người đàn bà cảnh ngộ
tương tự như thế này. Mấy hôm trước được biết tin, ông đã định cho qua. Mặc dù
trong bụng ông rất giận Khải. Nhưng ông lại nghĩ không nên đụng đến chuyện
riêng tư của nó. Thằng em từ ngàn cây số vào đây ông đã chẳng giúp được gì. Vẫn
để nó phải vật vờ, bươn trải. Ông lấy tư cách gì để răn dạy nó đây?
Nhưng
chuyện xảy ra vừa rồi đối với ông đã làm ông nghĩ khác. Nếu điều đó lại xảy ra
với nó thì sao?
Với
ông chỉ là vợ mọn, con thêm. Ông còn vợ con, gia đình yên ổn không to lắm dẫu
gì ông cũng có vị trí trong xã hội. Còn nó? Nếu điều đó xảy ra với nó lúc này
không biết sẽ dẫn đến chuyện gì. Nó như phế binh còn mỗi bên chân. Gãy nốt thì
đứng lên bằng cái gì đây? Ông thấy mình không thể bỏ qua việc này được. Ngay tức
khắc ông phải gặp nó. Nó phải nhanh chóng rút ra khỏi bãi lầy này, trước khi
tình cảm trở thành sâu nặng. Hai đứa chỉ mới biết nhau gần đây, việc ấy còn kịp.
Nghĩ vậy ông quay về đơn vị, không về nhà. Ông mượn chiếc xe Zép cũ chiến lợi
phẩm, tự mình lái lên thẳng khu Bình An gặp Khải.
Người
đầu tiên ông Cơ gặp là Ba Tô. Điều đó cắt nghĩa lý do vì sao mà Ba Tô có vẻ
khang khác sau này khi gặp Khải. Quả thực kinh nghiệm của ông Cơ khá chính xác.
Muốn tìm một địa chỉ hoặc một người nào đó tốt nhất tìm đến cái quán trong
vùng. Ông đã hỏi đúng chỗ và lại đúng người. Ba Tô vừa là người quen trước đây
của Khải, vừa là anh họ Khánh Hà. Cuộc thăm viếng đột ngột của ông Cơ làm cho
Ba Tô ngại ngần. Vậy mà quen biết, trở thành người nhà đã lâu mà ông không thấy
Khải nói gì về chuyện này. Hoặc giả có nói mà Ba Tô không để ý. Công việc của
ông hàng ngày gặp rất nhiều người. Nghe biết bao câu chuyện. Những người chưa gặp
bao giờ, chuyện của họ cũng không gây ấn tượng lắm để nhập vào đầu óc.
Thấy
một sĩ quan mũ miện tề chỉnh, súng ngắn ngang hông, chân mang giày da đen, lúc
đầu Ba Tô lúng túng. Liệu còn chuyện gì mắc mớ phức tạp sau khi ông ở trại cải
tạo về đã lâu?
Đến
lúc ông Cơ bắt tay tự giới thiệu, Ba Tô mới thở phào nhẹ nhõm. Ông mời khách ngồi.
Tự tay Ba Tô pha một ly cà phê mang lại. Khách xua tay:
-
Có rượu cho một xị!
-
Loại nào thưa ông Hai, chỉ có Mạc ten và Đế thôi à!
-
Cho xị rượu Đế, bình dân mà ông chủ!
Khách
vui vẻ nên chủ quán cũng cởi mở:
-
Thưa có dùng mồi không?
-
Thôi khỏi. Tôi uống chút ấm dạ thôi mà. Ông chủ ngồi luôn tôi có câu chuyện muốn
hỏi…
Ba
Tô lại thoáng băn khoăn:
-
Chuyện chi, thưa ông?
-
Tôi là anh em chú con bác với chú Khải. Phiền ông cho hỏi thăm nhà cô người yêu
nó ở gần đây không?
Ba
Tô sợ có chuyện lầm lẫn chi đây vội đính chính:
-
Dạ thưa ông Hai họ đã là vợ chồng, không còn là tình yêu đâu ạ!
Ông
khách nhéo mày, vẻ không bằng lòng:
-
Kỳ quá ta! Cưới hỏi hồi nào mà kêu vợ chồng. Người Bắc chúng tôi chưa quen kiểu
kết hôn trong này!
-
Dạ! Họ đã đến uỷ ban chuẩn bị đăng ký rồi ạ!
-
Tầm bậy tầm bạ. Tôi nói ông Ba cảm phiền nghen. Kể cả như vậy cũng không thể
coi là vợ chồng được. Ngoài tôi vợ chồng lấy nhau phải có hai bên cha mẹ, bà con
xóm làng. Trước khi làm đám cưới còn phải dạm hỏi. Đâu có ngang tắt được. Bây
giờ đời sống mới, cũng vẫn phải có thủ tục ấy. Chỉ bớt xa hoa, lãng phí không cần
thiết thôi!
Ba
Tô cảm thấy có điều không ổn. Ông lặng im không nói. Mà có muốn nói thì nói gì bây
giờ? May mà ông Hai Cơ chuyển làn luôn:
-
Vậy ông Ba cho người kiếm giúp thằng em tôi hiện nó đang ở đâu? Tôi muốn gặp nó
một chút!
-
Việc này có lẽ không được, ông cảm phiền. Chú ấy ở cách đây chừng ba chục cây số,
đang làm vườn nọc tiêu cho người ta. Có nhắn cũng không tới nơi. Tui thì không
đi được.
-
Vậy phiền ông chỉ giúp nhà con nhỏ gọi là vợ nó cho tôi có được không? Tôi muốn
coi nó mặt ngang mũi dọc ra sao?
Ba
Tô toan chỉ đường mà không cùng đi. Nghĩ lại, ông mặc cái áo dài bên ngoài cái
ba lỗ, ra cửa. Dù sao mình cũng là bà con, không thể không sang nhà cô em họ
khi người bên chồng tới thăm nó. Nhân thể xem câu chuyện rồi diễn biến tới đâu?
Ông Cơ định mở máy xe, Ba Tô vội bảo:
-
Liền kề ngay đây mà. Mời anh Hai qua bên một chút rồi về tui nhậu lai rai chút
đỉnh. Dẫu sao tôi cũng là chỗ liên gia mà!
Ba
Tô làm như không thấy cái nhìn khó chịu của ông Cơ. Hai người đi qua hai khu vườn
của nhà người khác thì tới nhà Khánh Hà. Ông cơ có vẻ ngạc nhiên khi thấy khu
vườn rộng mấy héc ta. Xung quanh vườn đổ cọc bê tông giăng dây kẽm gai như kiểu
doanh trại quân đội. Lối vào có cái cổng gỗ khá xinh xắn. Người Nam ít ai rào
vườn, làm cổng ngõ thế này. Ba Tô đọc được ý nghĩ đó liền bảo:
-
Chú Hai Khải mần ăn giỏi lắm đa. Vườn này hồi ông bà già con Hà vẫn để trống
trơn. Hắn về đây mới kiếm cột, kẽm gai ở cứ cũ quân Mỹ đem về rào lại hẳn hoi.
Có bàn tay đàn ông nhà cửa coi khắc hẳn. Hôm rồi có người bà con ở miền Tây lên
còn sợ coi nhầm nhà…
Ông
Cơ không nói gì. Trong bụng ông lại nghĩ: " Bộ thằng này định ăn đời ở kiếp
ở đây sao? ".
Ngôi
nhà làm theo kiểu nam. Mái sau dài rộng hơn mái trước tuy vẫn lợp cỏ tranh giống
phần đông nhà cửa trong vùng. Nhà lợp ngói vùng này hãy còn hiếm hoi. Chỉ có
người thực khá giả mới có được cái nhà cột kèo làm bằng gỗ, thứ gỗ tốt không
kém gì gỗ Nghiến thường thấy ngoài Bắc. Xung quanh thưng bằng ván dầu. Coi bộ cửa
nhà cũng khá khang trang. Không thấy những thứ bừa bộn xung quanh nhà như những
hộ canh nông khác. Không hiểu cô ả làm nghề gì? Ông cơ thoáng có chút băn
khoăn. Nghe có tiếng người, Khánh Hà từ trong nhà chạy ra cửa. Tay cô vẫn cầm mảnh
vải nhỏ, lòng thòng kim chỉ. Nhìn cô mang bầu, ông Cơ biết ngày là cô ta đang
chuẩn bị sanh nở. Một tình huống mà ông không ngờ tới trước khi ông đến đây.
Không biết chúng quan hệ từ hồi nào mà mau đến vậy? Không thể nói câu chuyện
như vừa rồi ở quán Ba Tô. Như vậy nhẫn tâm quá! Nhưng không lẽ lại không nói
gì, im lặng ra về?
Ba
Tô trỏ Khánh Hà:
-
Năm Hà là em họ tui. Cả nhà đi di tản. Năm đó bà thím tui bịnh nên nó ở lại. Bà
mới mất được mấy năm. Còn đây là ông Hai Cơ, anh con chú Bác với thằng Khải đó:
Cô
gái cúi đầu:
-
Dạ em chào anh Hai. Mời anh Hai sơi nước!
Ông
cơ đưa mắt nhìn quanh ngôi nhà. Đồ đạc trong nhà sơ sài không có gì đáng kể
ngoài cái tủ cao trên có bức ảnh thờ. Phía dưới kê bộ ván ngựa bằng gỗ nguyên tấm.
Góc nhà có chiếc máy may che đậy bằng tấm bạt cũ. Ông Cơ hỏi:
-
Sao nhà có máy mà lại may bằng tay, cô Năm?
-
Dạ thưa máy bị hư em chưa có điều kiện kêu thợ sửa ạ!
- Thằng lớn nhà tôi cháu cũng học may. Nó lại
biết sửa máy. Để hôm nào tôi bảo nó lên sửa giúp nghe!
Thấy
ông Cơ cởi mở, dễ gần, Khánh Hà bớt vẻ băn khoăn lúc đầu:
-
Được vậy thì hay quá. Em có nghe anh Khải nói anh chị và các cháu ở gần đây,
nhưng chưa tiện tới thăm vì sợ đường đột. Chị và các cháu mạnh không anh Hai?
-
Bà ấy với mấy đứa cũng thường. Suốt ngày giục tôi thu xếp về Bắc. Tôi là con cả
trong gia đình mà. Chú Khải đi khi nào về cô Năm?
-
Dạ, em cũng không rõ. Nghe nói cũng sắp xong công việc rồi. Khi nào rảnh về em
kêu xuống gặp anh Hai liền à!
Đột
ngột ông Cơ chuyển hướng câu chuyện:
-
Chú Khải cũng là con đầu như tôi. Mà chú ấy nhà chỉ có một mình. Thằng em, là
bà thím tôi về sau xin thêm về nuôi. Không biết nó nghĩ thế nào mà lại tính
chuyện ở luôn trong này. Chú tôi mất sớm, được mỗi mình nó. Lẽ ra nó phải ở
ngoài đó mới đúng. Chuyện vợ con ngoài đó không biết đã dứt hẳn chưa? Tôi đi
lâu ngày, anh em lại ở hai nơi cũng chưa tường tận thế nào. Tỷ dụ như nó buộc
phải về ngoài đó, cô Năm có ra cùng không?
- Dạ! Điều này em cũng chưa nghĩ tới. Anh Hai để
thư thư tụi em tính…
Ông
Cơ đứng dậy, đội mũ, nói:
-
Thôi có khi để bữa khác tôi tới. Tôi phải về, ở nhà còn nhiều công chuyện gấp lắm.
-
Anh Hai ở lại trưa nay dùng cơm với anh Ba em.
Ba
Tô cũng sốt sắng:
-
Thôi khỏi, trước khi qua đây tôi đã kêu bà xã chuẩn bị rồi. Cả cô Năm nữa, qua
bên tôi. Mây khi được hội ngộ như vầy.
Ông
Cơ một mực từ chối. Ba Tô nằn nì thế nào ông cũng không chiu. Khi xe ông Cơ đi
khỏi, Ba Tôi hỏi Năm Hà:
-
Đó, chuyện là như vậy, giờ cô tính sao?
Khánh
Hà thẫn thờ:
-
Em khổ lắm anh Ba ơi! Em đâu ngờ mọi chuyện lại ra thế này. Giờ em cũng không
biết tính sao nữa. Hoàn cảnh anh ấy cũng tội nghiệp. Mà em cũng thiệt là éo le.
Lẽ ra chúng em đừng gặp nhau có khi lại hay. Giờ dang dở thế này, có lẽ em bỏ
chỗ này đi thôi anh Ba à!
-
Cô nghĩ quẩn mất rồi, tính vậy sao được? Dù sao cũng chờ chú ấy về coi sao đã.
Khánh
Hà ngồi ôm gối, tấm tức khóc. Cô không nói thêm câu nào. Ba Tô nóng ruột như lửa
đốt, chẳng biết nói thêm câu gì. Ông ngồi thừ ra hồi lâu rồi nói:
-
Cô Năm hãy bình tĩnh, để từ từ tính, rồi đâu sẽ vào đó!
Ông
đứng lên ra về. Nói là nói vậy chứ tính cách nào thiệt tình nếu phải là mình
ông Ba cũng không biết tính sao! Hai người hai cảnh đời trái ngang, dang dở lại
thêm kẻ Bắc người Nam. Tính sao đây?
Ngày
hôm sau như có linh tính, Ba Tô quay trở lại. Nhà Khánh Hà cửa đóng im ủm. Mấy
chữ viết bằng than " Nhà đi vắng ". Cô ta đi đâu? Sao không nói mình
một lời. Ba Tô đinh ninh Năm Hà lên chỗ Khải làm, ai dè không phải như vậy. Đó
là câu chuyện Ba Tô bây giờ kể lại cho Khải. Anh choáng váng ù đặc hai tai, mọi
cảnh vật trước mặt như nhoà đi. Khải thất thểu quay ra đường. Ba Tô nhìn theo vẻ
ái ngại. Chiếc xe khách chạy bằng hơi nước chạy qua chuyến cuối cùng. Nghe nói
từ đây trở đi nó không còn chạy qua đây nữa. Cái ống khói nham nhở cao như ông
khói lò gốm của nó khuất dần. Đã đến lúc người ta thay thế hệ xe khác. Nó để lại
những hạt than rơi xuống mặt đường, xèo xèo cháy…
Ngày
hôm sau lại có người đến quán Ba Tô tìm Khải. Người này không phải ai khác,
chính là bà Tâm vợ ông Võ. Dạo này có tiền bà ta ăn mặc diêm dúa, nhuộm móng
tay, mắt tô chì. Chỉ riêng đôi mắt mí lộn vành là vẫn chưa chữa được. Chính nó
làm cho khuôn mặt khi còn trẻ tuổi dễ coi, giờ nom phù phiếm. Bà Tâm mọi khi đi
chích thuốc dạo ít khi ghé quan Ba Tô. Bà hay ghé quán bà sau gạo ngay kề bên.
Ông Ba Tô một thời gian đã làm y tá. Nhà có bệnh đau thường tự chữa lấy không
kêu người ngoài. Vả lại người cùng nghề thường không ưa nhau. Lần này đến là do
có người bệnh đang điều trị ở nhà bà nhờ tìm Khải.
Chuyện
này mãi đến khi ra Bắc, nửa năm nữa Khải mới biết. Quảng vô mao khi ấy trở về kể
lại. Ông ta bị một kẻ bịt mặt chặn đường lúc sâm sẩm tối trên quãng đường vắng.
Hắn ta đòi nộp tất cả tiền bạc Quảng mang trong người. Quảng giả bộ làm theo rồi
bất ngờ lao thẳng đầu vào hắn. Ông ta định đánh gục hắn, tìm đường tháo lui.
Không ngờ hắn là đứa có nghề. Hắn chỉ khẽ tránh qua một bên chụp lẹ được hai
tay Quảng bẻ ra sau. Cái búa giắt trong người hắn lấy ra đập mạnh vào sau ót Quảng.
Số ông ta chưa chết. Quảng không còn thứ gì mang trên người. Cô gái trẻ đi cùng
nhờ người chở xe ngựa đưa Quảng tới nhà ông Võ với cái đầu sũng máu. Cô ta nói
là sẽ quay lại vào sáng hôm sau. Nhưng rồi một đi không trở lại. Quảng vô mao tỉnh
lại nhờ bà Tâm đi tìm Khải. Bấy giờ ông Võ mới biết ông ta ở gần nhà anh. Phần
nữa, đã lâu không biết Khải đang làm ăn, sinh sống ra sao… Ông cũng đang muốn
nhờ anh cất cho ngôi nhà mới. Ba ông về già hình như ông cụ nghĩ lại. Ông cụ đột
ngột đến thăm rồi cho anh một số tiền nói là " Phải cất ngay ngôi nhà cho hai
đứa nhỏ ". Không kịp để ông nói câu nào. Cụ đặt bọc tiền xuống bàn rồi ra
xe bảo anh lái đi ngay.
ó
ó ó
Khải
đã không kịp làm giúp căn nhà cho ông Võ như đã có lúc dự định. Mãi sau này anh
còn áy náy về nơi ăn chốn ở của ông. Nhưng lúc đó anh chẳng còn bụng dạ nào ở lại
nơi này. Anh đã đi khắp nơi, lên Định Quán, xuống miền Tây cả tháng trời mà
không tìm thấy Hà. Bóng chim tăm cá. Nước non ngàn trùng biết tìm cô ở đâu khi
Hà cố ý tránh mặt? Cõi phù du này có thể họ chỉ gặp nhau lần duy nhất trong đời.
Càng nghĩ càng day dứt. Khải trở ra Bắc với tâm trạng ấy. Vậy là anh đã đi một
vòng để trở về nơi cũ với hai bàn tay không sau bốn năm trời. Như người ta nói:
Đi vòng tròn có khi không bằng đứng ở tâm. Số phận chọn mỗi người, không ai chọn
được số phận. Dẫu sao đi nữa Khải còn nơi để trở về. Cũng có thể nơi ấy mở cho
anh một ngả đường khác trên nền của những muộn phiền, đau khổ năm xưa.
Anh
ân hận đã không đến chào hỏi từng người trước lúc chia tay. Đinh ninh rằng sẽ
có ngày gặp lại những người thân quen từng cưu mang mình những ngày lận đận.
Nhưng khi đó phải là lúc anh có thân phận rõ ràng. ít nhất là làm được điều gì
sau mọi sự đã qua.
Khải
nhìn trời đất phương Nam, chưa bao giờ anh thấy nó đẹp như lúc này. Nắng bạc,
mây vàng những cánh đồng màu ngọc bích!
Chuyến
tàu ra Bắc khởi hành vào đúng Ngọ. Vừa hết nửa ngày. Một ngày mà sau đó, nhiều
người tính là ngày khởi đầu: Thời Kỳ Đổi Mới.
(Hết )
|
10.2007
|
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét