Khổng Đức Thiêm
I . KHU VỰC NGƯỜI TÀY – NÙNG1.1. Người Tày – Nùng và chính sách dân tộc của nhà nước phong kiến
Là một trong những dân tộc, những chủ nhân đầu tiên có mặt từ thời kỳ Văn Lang – Âu lạc, do đó từ xa xưa, người Tày đã được mệnh danh là Thổ dân, dân Thổ trước trên một dải biên thùy, suốt một mạch từ Tuyên Quang, Hà Giang đến Cao Bằng, Lạng Sơn. Đây cũng là những danh xưng khẳng định về tính chất bản địa lâu đời của người Tày trên đất Hà Giang.
Người Nùng tuy cùng gốc nhóm với người Tày nhưng lớp đến trước hầu như đã bị Tày hóa còn lớp đến sau xuất hiện ở địa phương muộn tới hàng chục thế kỷ, chia thành nhiều nhóm khác nhau như Nùng Díntập trung nhiều ở Hoàng Su Phì, Xín Mần, Vị Xuyên; Nùng Xuồng ở Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ; Nùng An ở Vị Xuyên, Bắc Quang.
Tựa lưng vào núi rừng, hướng về phía thung lũng, tập hợp vài ba dòng họ với nhau, người Tày – Nùng dựa nên các bản với độ dăm, ba chục nóc nhà, có đường ranh giới riêng. Mỗi một bản như thế nơi thì nhà cửa nối dài rải rác, nơi thì mật tập quy tụ theo sông suối. Nhiều bản trong một khu vực hợp nhau thành mường. Mối quan hệ giữa bản này với bản khác tạo thành mối quan hệ liên bản – đồng đẳnggiữa các đơn vị xã hội đồng cấp. Dần dần, cùng với tiến trình lịch sử, nhiều bản – mường liên kết với nhau, tạo ra mối quan hệ siêu bản, điều này có nghĩa là bên cạnh các đơn vị xã hội đồng cấp còn có mô hình chính trị – xã hội lớn hơn, hay nói khác đi là mô hình sơ khai của nhà nước đã xuất hiện với tên gọi khá quen thuộc trong xã hội người Tày – Nùng, đó chính là chế độ Quằng. Quằng là biểu hiện, là hệ quả tất yếu của mối quan hệ siêu bản, tuy được hình thành trên cơ sở vài ba chục bản nhưng đều có phạm vi lãnh thổ và hệ thống luật tục riêng. Đứng đầu các liên bản, siêu bản (mường, châu) là các Quằng thế tập, các chúa đất và chủ linh hồn của toàn khu vực, dù cho về mặt danh nghĩa, người Tày – Nùng không có lãnh thổ riêng nhưng mỗi bản làng truyền thống đều có một phạm vi cư trú được xác định bao gồm đất ở, đất canh tác, các loại rừng và đất rừng, các nguồn nước.
Chế độ Quằng xuất hiện trong xã hội người Tày – Nùng trước khi nhà Lý ra đời. Nhờ điều kiện địa lý và lịch sử có những nét khác biệt so với khu vực trung châu, bên cạnh đó là trình độ về kinh tế và xã hội còn thấp nên các Quằng – thường được gọi là Thổ tù hoặc Tù trưởng vẫn đóng vai trò lớn trong việc kiểm soát toàn bộ quyền lực ở khu vực miền núi phía Bắc. Cho nên ta không lầy làm ngạc nhiên, nhà Lý vẫn để các Tù trưởng cai quản địa phương theo tập quán pháp – luật tục của họ. Để duy trì ảnh hưởng của mình đến các khe động dọc theo biên giới, vua Lý chủ trương kết thân với các Tù trưởng, Động trưởng, Tộc trưởng thông qua việc ban chức tước cao cho họ (Giáp Thừa Quý ở Lạng Châu, Vi Thủ An ở Tô Mậu, Hoàng Kim Mãn ở Môn Châu, Nùng Tồn Phúc ở Thảng Do, Nùng Tồn Lộc ở Vạn Nhai, Dương Đạo ở Vũ Lặc, Nùng Trí Cao ở Tư Lăng, Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, Hà Hưng Tông ở Vị Long). Hơn thế nữa, như học giả Hoàng Xuân Hãn đã chỉ ra trong biên khảo Lý Thường Kiệt: “Vua Lý không chia rẽ Hoa Di và đã lợi dụng sự hôn nhân để liên kết các dân tộc biên thùy”[1].
Nhận định trên của Hoàng Xuân Hãn là chân xác. Momoki Shiro – Phó giáo sư tại Đại học Osaka (Nhật Bản) trong luận văn Gia đình các vua nhà Lý và sự xuất hiện của Vương triều phụ hệ ở Việt Nam trình bày tại Hội thảo Quốc tế lần thứ nhất về Việt Nam học (7-1998) xác nhận thêm:
“Vai trò chính trị của các phụ nữ, kể cả các con gái nuôi, trong gia đình các vua Lý nhiều khi được coi là công cụ cho chính sách liên minh nhờ vào các cuộc cưới gả cho những nhân vật có thế lực ở địa phương (Châu mục, Thủ lĩnh v.v…). Qua việc này, vua có thể xây dựng và duy trì quan hệ đồng minh với các thế lực địa phương. Hiện tượng “đồng minh hôn nhân” với thế lực ở Lạng Châu (Bắc Giang và Lạng Sơn ngày nay), là thế lực khống chế đường bộ đi Quảng Tây, đã được các tài liệu ghi chép nhiều nhất. Năm 1027, Lý Công Uẩn (Thái Tổ) ra lệnh cho một người em trai đánh vào lãnh tổ Trung Quốc ở vùng Quảng Tây với sự hướng dẫn của con rể Công Uẩn là Thân Thừa Quý – theo Việt Sử lược, Bình Dương công chúa cưới Thân Thiệu Thái là Lang Châu mục (năm 1029), và con trai của bà là Thân Đạo Nguyên cưới Thiên Thành công chúa vào năm 1066. Năm 1059, Thánh Tông đã đến thăm nhà của phò mã là Thân Cảnh Nguyên. Năm 1167, Thiên Cực công chúa (con gái của Anh Tông?) cũng cưới một nhân vật mang tước hiệu Lang Châu mục Hoài Trung hầu. Ngoài ra, Dương Cảnh Thông, người được bổ nhiệm làm Lang Châu mục (Việt Sử lược), cũng được gọi là Phò mã lang (Đại Việt Sử ký toàn thư).
Như đã giới thiệu, con gái nuôi của Thánh Tông được gả cho họ Lê ở Chân Đăng châu, và mẹ đẻ của Anh Tông cũng thuộc họ này. Năm 1036 (Việt Sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư), Khánh Thành công chúa (hoặc Kim Thanh), cưới Phong Châu mục (Phong Châu nằm ở bên cạnh Chân Đăng châu) là Lê Thuận Tông. Phía sau họ Lê ở vùng Vĩnh Phú ngày nay có họ Hà ở Vị Long châu (Tuyên Quang ngày nay), khống chế đường bộ đi Vân Nam. Ở đấy, Hà Di Khánh đã cưới Khâm Thánh công chúa (em gái của Nhân Tông), và Hà Công Phụ đã cưới Hoa Dương công chúa (Việt Sử lược). Giữa họ Hà còn có Hà Thiện Lãm là Thượng Uy châu mục (không rõ ở chỗ nào), đã cưới Trường Ninh công chúa (Đại Việt Sử ký toàn thư). Ở các vùng khác, Dương Tự Minh, một thủ lĩnh của Phú Lương châu (Thái Nguyên ngày nay), cưới được hai công chúa là Diên Bình công chúa (năm 1127) và Thiều Dung công chúa (năm 1142 – đều theo Đại Việt Sử ký toàn thư).
Khi cưới Khâm Thánh công chúa, Hà Di Khánh mới lên mười tuổi. Đồng minh hôn nhân có ý nghĩa quyết định để vua có thể khống chế các địa phương bởi vì các thành viên nam của gia đình vua thời Lý, khác với thời Tiền Lê và thời Trần ít khi đóng ở địa phương. Do đó các cuộc cưới gả giữa những người con trai thuộc các dòng họ có thế lực với các công chúa có thể được tiến hành ngay từ khi họ còn rất ít tuổi. Hơn nữa, sự điều động của con rể và qua đó những người cùng họ và thuộc hạ, có ý nghĩa quan trọng ngay cả ở thủ đô, như trường hợp Dương Tự Minh cầm đầu lực lượng chống lại Đỗ Anh Vũ vào nửa đầu đời Anh Tông”[2].
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Q.II.33) cũng ghi nhận: “Năm Kỷ Tỵ (1029)… thời bấy giờ không đặt tiết trấn; các việc quân sự và dân sự ở các châu đều do Châu mục cai quản. Các châu miền thượng du lại giao cho bọn Tù trưởng địa phương quản lãnh. Nhà vua sợ khó khống chế được họ nên mới kết mối giao hảo bằng cuộc hôn nhân để ràng buộc họ, từ đó việc gả công chúa cho châu mục trở thành lệ thường của nhà Lý”[3].
Dưới thời Trần, thế lực của các Quằng vẫn được giữ vững. Ngoài việc Trần Thái Tông (Trần Cảnh) đem gả toàn bộ các cung nhân và con gái tôn thất nhà Lý cho Tù trưởng các khe động để phủ dụ, thu phục, chính sách đối với khu vực miền núi đã có những chuyển động khác biệt. Lệ gả công chúa cho các Châu mục được bãi bỏ, thay vào đấy là việc cử những người am hiểu phong tục các dân tộc đến cai trị các địa phương vùng núi hay nơi biên cảnh song song với việc phong tước trao quyền cho các thủ lĩnh.
Nhiều người trong hoàng tộc hoặc quan lại đã hoàn thành xuất sắc trọng trách triều đình giao phó. Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật tinh thông nhiều tiếng địa phương được dân chúng vùng Đà Giang, Tuyên Hóa kính trọng. Trần Khánh Dư thì giữ yên một vùng biển đảo Yên Quảng. Thiều Thốn, Nguyễn Công Ngân vỗ về dân chúng một dải biên cương Đoàn Thành – Thất Nguyên (Lạng Sơn).
Dưới thời Lê, triều đình vẫn tiếp tục tuân thủ những quy củ có từ các triều đại trước đối với các dân tộc thiểu số. Các chức Đoàn luyện, Thủ ngựu, Tri châu, Đại tri châu được đặt ra để bổ dụng các Tù trưởng, dành cho họ nhiều quyền hạn rộng lớn, để họ toàn quyền cai quản địa phương tuân theo tập quán pháp. Đối với các vùng biên ải, nhà nước ngày càng quản lý chặt chẽ hơn. Ngoài việc các Thổ tù nhận được sắc phong của triều đình, nhiều quan lại là người Kinh được cử lên trấn giữ miền núi. Không ít người ở vùng xuôi đã nối đời cai trị tại địa phương, trở thành phiên thần của triều đình.
Đến cuối thời Lê, nhìn chung chính sách của nhà nước đối với vùng núi và các dân tộc thiểu số không có nhiều xáo trộn. Triều đình tiếp tục ban chức tước cho các tù trưởng địa phương như Tri châu, Cai châu, Đồng tri châu, Tuyên úy sứ, Chiêu thảo sứ, Phòng ngự sứ. Nhân dân gọi chung những người được hưởng các chức tước kể trên là Phụ đạo.
Chính sách dân tộc dưới thời Nguyễn có bước biến chuyển quan trọng. Ngay sau khi lên ngôi, tháng 8-1802 Gia Long đã cho phép các phủ, huyện, châu ở Tuyên Quang (gồm cả Hà Giang sau này), Quảng Yên, Thái Nguyên (gồm cả Bắc Cạn sau này), Hưng Hóa (sau chia thành Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái và một phần Phú Thọ), Lạng Sơn, Cao Bằng và Thanh, Nghệ được phép lấy người dân tộc thiểu số làm Thổ quan, Quản lĩnh. Về phép tuyển lính, các trấn kể trên cứ 10 đinh lấy 1, đặt làm các Thổ binh, cho các Thổ mục cai quản. Đến tháng 10 năm ấy, nhà vua lại ra chỉ dụ ban quan tước cho các Thổ tù ở Bắc Hà (các phiên thần ở Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên là Nông Phúc Liêm, Ma Thế Cố cho làm Tuyên úy đại sứ); Ma Sĩ Trạch, Nguyễn Quảng Chiến, Nguyễn Khắc Trương, Ma Thế Nhị, Đinh Công Vương, Đinh Công Trinh cho làm Tuyên úy sứ; Đinh Công Kiên cho làm Chiêu thảo sứ; Phan Bá Phụng làm Khâm sai các đội; Cầm Nhân Nguyên làm Phòng ngự đồng tri; Lê Kim Công làm Phòng ngự thiêm sư. Mấy tháng sau (12-1802) khi phiên thần các trấn Tuyên Quang, Sơn Tây, Thái Nguyên, Cao Bằng như Đinh Công Thể, Ma Thế Cố vào bái yết ở hành tại, Gia Long còn cho các đình thần bàn luận để ban quan tước cho họ theo các thứ bậc khác nhau.
Cuối năm 1804, Gia Long chuẩn y lời tâu của quan Bắc Thành, cho Nguyễn Hựu Trấn làm Cai đội, Trần Đăng Viên làm Bình luận ở châu Vị Xuyên vì đây là khu vực trọng yếu nơi biên cương; cho họ đem thủ hạ lập làm 2 đội Am Sơn để đóng giữ đất ấy. Nhà vua còn sai Thổ mục sở tại ghi chép về những người còn bị bỏ sót thuộc hai châu Đại Man (nay là Chiêm Hóa) và Bảo Lạc (nay thuộc Cao Bằng).
Tháng 5-1810, triều đình cho kê khai danh sách các Phiên thần, Phụ đạo ở Tuyên Quang và 5 ngoại trấn thuộc Bắc Thành để nhà nước xem xét lại việc cấp chỉ và bằng cũng như việc cho cai quản Thổ binh.
Tháng 3-1811, chiểu theo nguyện vọng của dân chúng sở tại, triều đình cho Chánh thuộc Hùng nhất Ma Doãn Điền lãnh chức Châu trưởng châu Đại Man. Để đề phòng Thổ mục châu Vị Xuyên là Nguyễn Thế Niệm có thể khởi loạn, ngoài việc sai trấn thần chia dân số 3 tổng Tiên Yên, Mục Hà, Lâm Đường và 2 xã Tụ Long, Phấn Võ làm 7 thuộc, chọn 7 người giỏi làm Cai thuộc, triều đình còn cử Ma Doãn Điền về cai quản thêm các Cai thuộc của châu Vị Xuyên.
Tháng 11-1821, dưới thời Minh Mệnh, viên Tuyên úy đồng tri trấn Tuyên Quang là Nguyễn Thế Nga cùng nhiều Thổ tù các châu dọc biên giới Bắc thành vào Huế chầu lạy, được nhà vua ban cấp triều phục, y phục hoặc bạc tiền theo thứ bậc khác nhau. Tại Kinh thành, các Thổ tù được sai vẽ đồ bản cương giới và kê sơ thế hệ truyền nối để tâu lên nhà vua. Các Thổ ty của trấn Tuyên Quang là Nguyễn Quảng Khải, Nông Văn Vân được bổ làm Thổ tri châu và Thổ tri huyện, trật Chánh cửu phẩm và Thổ lại mục, cho cai quản dân trong vùng để nộp thuế cho nhà nước. Để từng bước xóa bỏ chế độ Thổ quan nhằm thực thi chính sách người Kinh và người Thổ cùng cai trị vùng núi, Minh Mệnh đã nghị chuẩn việc cho tạm đặt ra các chức vụ mới như: Cai châu, Phó châu và Lại mục chuyên quản các châu ở nơi biên trấn. Những chức này, triều đình cho phép các quan đứng đầu trấn chọn người có năng lực ở địa phương làm. Đến năm 1827, Minh Mệnh xóa bỏ các chức quan: Tuyên úy đại sứ, Tuyên úy sứ, Chiêu thảo sứ, Phòng ngự đồng tri, Phòng ngự thiêm sự… trao cho các Thổ tù cai trị ở miền núi được đặt ra từ đầu thời Nguyễn thay bằng các chức Tri phủ, Tri huyện, Huyện thừa như ở vùng người Kinh, nhưng các viên quan này đều do người địa phương phụ trách có thêm chữ Thổ đằng trước (Thổ tri phủ thì bậc tòng Lục phẩm; Thổ tri huyện thì bậc tòng Thất phẩm; Thổ huyện thừa thì bậc tòng Bát phẩm; Thổ lại mục thì bậc tòng Cửu phẩm).
Năm Minh Mệnh thứ 9 (1828), nhằm hạn chế bớt quyền lực của các Thổ tù, tên gọi các chức quan được chuẩn đinh lại như Thổ tri phủ đổi làm Thổ tri châu bậc tòng Thất phẩm; Thổ cai châu đổi làm Thổ tri châu bậc tòng Thất phẩm; Thổ cai huyện đổi làm Thổ tri huyện bậc tòng Thất phẩm; Cai châu (chưa vào ngạch) đổi làm Thổ lại mục bậc tòng Thất phẩm; Phó châu (chưa vào ngạch) đổi làm Thổ lại mục bậc tòng Cửu phẩm.
Tháng 7-1829 nhân việc khuyết Thổ tri châu ở Hàm Yên và Thổ ty các châu Lục Yên, Thu Châu, Đại Man, Vị xuyên, Bảo Lạc già yếu xin cho thế tập, Minh Mệnh cho bãi bỏ lệ Thổ ty thế tập ở Bắc Thành. Kể từ đây, các châu, huyện thuộc các trấn Tuyên Quan, Thái Nguyên, Quảng Uyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hưng Hóa tùy theo công việc ít nhiều, dân số đông thưa mà đặt ra Thổ tri châu, Tri huyện, Huyện thừa, Lại mục trong số những người thanh liêm, tài năng, cần cán, được dân tin phục, không cứ là Thổ ty, Hào mục.
Theo quy định, cứ số đinh từ 5000 người, số ruộng từ 500 mẫu trở lên thì ở châu đặt 1 Thổ tri châu, huyện đặt 1 Thổ tri huyện cùng Thổ lại mục; cứ số đinh 100 người, số ruộng 100 mẫu trở lên thì châu đặt 1 Thổ tri châu, huyện đặt 1 Thổ huyện thừa; đinh điền không đủ 100 chỉ đặt 1 Thổ lại mục theo đúng chỉ dụ của Minh Mệnh:
“Các châu huyện thuộc trấn Tuyên Quang, Thái Nguyên, Quảng Yên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hưng Hóa trong thành hạt, theo công việc nhiều hay ít, dân số đông thưa, nên đặt Thổ tri châu, Tri huyện, Huyện thừa, Lại mục thì nghĩ định rõ ràng; không cứ Thổ ty, Hào mục, cứ trong hạt ai là thanh liêm, tài năng cần cán vốn e dân tin phục thì chọn cử tâu lên không được theo trước xung là tập quản”[4]. Mãi tới đầu năm 1831, Minh Mệnh mới giải thích rõ thực chất của việc bãi bỏ chế độ Thổ ty thế tập ở các trấn biên giới như sau: “Vì lệ thế tập đời xưa, là để đền công. Nhưng con cháu công thần, nếu có người hư hỏng triều đình phải truất bãi thì lại thương tổn đến ân điển. Ví như nhà Hán phong các tước hầu chỉ núi vạch sông mà thề nhưng mới một vài đời chỉ còn có ban, bốn người thì sách thề cũng chỉ là hão? Chẳng gì bằng luận công phong tước cho công thần ấy, còn con cháu thì tùy tài trao chức, thế là giữ cho trọn vẹn, cứ gì phải thế tập mới là đền công”[5]. Có thể gọi đây là cuộc cải cách lớn chia đặt các đơn vị hành chính ở địa phương trong phạm vi cả nước. Minh Mệnh coi cuộc cải cách này là một phen quy hoạch lớn lao khiến cho nước nhà có phên dậu giữ gìn, yên như thái sơn bàn thạch.
Cũng từ năm 1831, để tập trung nhiều hành vào tay triều đình, Minh Mệnh chia cả nước làm 29 tỉnh và 1 phủ Thừa Thiên; tất cả đều trực thuộc chính quyền trung ương. Các tỉnh do Tổng đốc đứng đầu, có Tuần phủ, Bố tránh, Án sát giúp việc.
Các đơn vị hành chính dưới là phủ, huyện (ở miền núi là châu), tổng, xã. Đứng đầu phủ là Tri phủ, đầu huyện là Tri huyện, đầu tổng là Chánh tổng, đầy xã là Lý trưởng. Đối với các châu ở miền núi, Tri châu thường được chọn lựa trong các Tù trưởng, Thổ tù, Lang đạo. Ở miền thượng du, tình hình chính trị thường không ổn định, nên các vua nhà Nguyễn đặt một chế độ kèm cặp và kiểm soát các quan chức người địa phương, trao cho các quan lại người Kinh từ trung ương cử về thực hiện, có nhiệm vụ chủ yếu là đốc xuất việc thu thuế, do thám và đàn áp các âm mưu phản loạn. Một số tù trưởng trung thành và tin cậy ở các địa phương xa xôi và hiểm yếu được triều đình dựa vào và trao cho quyền hạn đặc biệt, phong làm phòng ngự sử. Bên cạnh phòng ngự sử thì thường đặt một viên quan người Kinh gọi là Chiêu thảo sứ hoặc Phủ Man sứ. Các quan chức này gọi là lưu quan.
Chính sách lưu quan được Minh Mệnh mô phỏng từ chính sách thời Ung Chính 91723-1735) – triều Thanh Thế Tông theo đề xuất của Tổng đốc Vân – Quý Ngạc Nhĩ Thái và đem áp dụng lần đầu tại vùng dân tộc Miêu thuộc Vân Nam và Quý Châu (Trung Quốc).
Minh Mệnh cho rằng chính sách này, “quyền hành nặng, nhẹ kiềm chế lẫn nhau, chức tước lớn, nhỏ ràng buộc lấy nhau, thực là một chính sách hay trong việc giữ nước trị dân. Nếu mô phỏng mà làm có lợi nhiều lắm”.
Để ngăn chặn và hạn chế sự chống đối của lực lượng Thổ quan, Minh Mệnh dụ vỗ về: “Các phủ, huyện, châu Thổ ở các tỉnh Cao Bằng, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, hiện có Thổ tri huyện, Thổ tri châu, Thổ huyện thừa, thì cho đều ở lại chức cũ, hợp lực theo quan do Chính phủ bổ đến (lưu quan) để làm việc”. Song song với những việc làm kể trên, Minh Mệnh còn cho đổi toàn bộ các mường, động thành xã để thống nhất đơn vị hành chính cấp cơ sở trên toàn quốc. Ngoài ra lại đặt những đơn vị hành chính giữa các xã và huyện châu đó là tổng giống như các tỉnh miền xuôi. Thông qua chế độ lưu quan, nhà Nguyễn đã trực tiếp với tay xuống tận các châu huyện miền núi biên giới phía Bắc trực tiếp quản đất, thu tô thuế và bắt lính, lao dịch.
Tháng 4-1835, triều đình bắt đầu cho thực thi đặt chức lưu quan ở các tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng vì Minh Mệnh cho rằng những nơi này nhiều năm không yên đều do Thổ huyện, Thổ châu lợi dụng địa thế xa vắng thường họp nhau nổi loạn. Đồng thời, triều đình cũng thuận cho việc đem chia huyện Vị Xuyên làm 2 huyện Vị Xuyên và Vĩnh Tuy với lý do núi khe hiểm trở, địa thế xa khơi. Chánh đội trưởng Ma Doãn Đô được thăng quyền lãnh Thổ tri huyện Vĩnh Điện; Ma Doãn Cang làm Bang biện huyện vụ; Hoàng Kim Quy, Mai Văn Đạo hiệp đồng cai quản công việc ở đồn An Châu.
Tháng 4-1836, thổ ty các tỉnh Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên được vào chầu ở Huế nhân dịp khánh tiết dự lĩnh ban ơn. Thổ tri phủ Nguyễn Văn Biểu, Suất đội cơ Thái Hùng Nông Văn Văn và 8 người khác được ở lại kinh làm việc. Lại cho tỉnh Tuyên Quang chọn 1-2 người Thổ và 5-6 con em sĩ dân cho đi học chữ và tiếng nói để về dạy cho dân Để Định, Vĩnh Điện ven biên giới. Ngoài ra triều đình còn cho Lễ khoa cấp sự trung Hà Thúc Chương đến An Lạc, Ngọc Mạo để xét hỏi sự trạng. Sau khi khảo sát, Hà Thúc Chương dâng sớ lên triều đình xin đặt mỗi trạm 1 người Kinh biết chữ và được cấp lương để trừ tệ quan quân đi lại sách nhiễu còn đối với việc tuyển người vào các chức vụ ở phủ huyện thì phải hết sức cẩn thận vì ở Tuyên Quang chỉ có Tri phủ Yên Ninh là Phạm Dược phần nào còn biết chính thể trị dân, dân sợ mà mến; Nguyễn Đăng Tuyển ở Vị Xuyên, Kiểu Năng Thân ở Vĩnh Tuy thì dung túng thuộc hạ sách nhiễu; tỉnh phải giảm việc sung quân và đày lính đến Vĩnh Điện, Để Định; miễn cho việc thu thuế bỏ thiếu; cho người địa phương vào ngạch thổ dõng mà không tuyển vào biền binh; thưởng hậu cho người bắt được giặc dã. Triều đình phải chú trọng kén người trung hậu, hiểu việc quân như Nguyễn Khắc Khoan, Mai Văn Đạo và đừng coi thường vì họ là người Thổ; đặt thêm lính ở phủ, chứa đủ lương thực, đóng quân ở đồn Vân Trung để khống chế đường quan yếu đến An Lạc, Ngọc Mạo.
Nói về vị trí chiến lược và tầm quan trọng của vùng đất Hà Giang, ngay sau cuộc tiến quân lần thứ nhất đánh dẹp Nông Văn Vân tại châu Bảo Lạc vào cuối năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), trên đường về, Nguyễn Công Trứ dã dâng tập “Thỉnh an” lên vua, trình bày vị trí chiến lược của vùng đất An Biên, Hà Giang, xin đặt tỉnh thành tại đây, để chế ngự vùng thượng du miền Bắc.
“Thỉnh an” tuy có nghĩa là hỏi sức khỏe vua, nhưng thực chất là bản báo cáo hàng tháng, do các Tổng đốc dâng lên triều đình. Mở đầu “Thỉnh an” tác giả trình bày yếu tố về địa lý, từ thành Tuyên Quang men theo dòng sông Lô đến đồn An Biên đối ngạn với Hà Giang (tương đương với đoạn quốc lộ số 2 ngày nay, từ tỉnh lỵ Tuyên Quang đến tỉnh lỵ Hà Giang) phải mất 8 ngày đường; từ đó tiến đến châu Bảo Lạc (tương đương với đường 34 ngày nay, từ tỉnh lỵ Hà Giang đến huyện lỵ Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng), sào huyệt của Nông Văn Vân, lại phải mất thêm 8 ngày; đó là chỉ kể đường đi, không phải đánh nhau, cũng phải mất đến nửa tháng:
“Thự Tổng đốc Hải Yên là Nguyễn Công Trứ có nói trong tập thỉnh an rằng: “Tỉnh Tuyên Quang tiếp giáp với huyện Hùng Quan thuộc phủ Đoan Hùng, tỉnh Sơn Tây. Từ tỉnh đến đồn An Biên hết 8 ngày đường; từ đồn An Biên do đường An Định, Bắc Nhự đến Vân Trung (Bảo Lạc) thì hết 5 ngày; nếu do đường Đại Miện, Tiểu Miện đi Vân Trung thì hết 8 ngày. Tính suốt ra, từ tỉnh thành (Tuyên Quang) đến châu Bảo Lạc, đi được yên lành cũng đã hơn nửa tháng”[6].
Với đường giao thông xa xôi khó khăn như vậy, mọi sự tiếp tế lương thực, tiếp viện quân lính, lại chỉ dựa vào tỉnh Sơn Tây tại cuối dòng sông Lô; nên trong quá khứ gặp nhiều sự trở ngại, như đồn An Biên tại Hà Giang mấy lần bị mất không kịp cứu, vùng châu Bảo Lạc Nông Văn Vân nổi dậy, không dập tắt được kịp thời:
“Núi sông hiểm trở, đều thuộc đất của Thổ ty, khi có việc xẩy ra, chờ được tin báo thường quá chậm không kịp việc. Phương chi những việc quan trọng đều do tỉnh Sơn Tây điều khiển, sự đi lại và điều động phải hàng tuần hàng tháng mới xong. Công việc có khi bị trở ngại và lầm lỡ cũng do vì tình thế cách trở xui nên thế”[7].
Đích thân hành quân qua vùng An Biên, Hà Giang; thự Tổng đốc Hải Yên Nguyễn Công Trứ nhận định rằng đất này có vị trí chiến lược đủ để khống chế các vùng xung quanh; lại có khả năng tự túc, tự cường lập tỉnh thành lớn.
Riêng về mặt địa hình quân sự, ông nhận định rằng vị trí An Biên rộng rãi, trước có sông Lô ngăn chặn, ba mặt núi đá ôm quanh; các phía phải, trái, núi hiểm có thể làm quan ải chặn giữ. Về an ninh xa có các sông Đại Miện, Tiểu Miện; hoặc các vùng An Định, Bách Đích có thể xây đồn để chặn giữ:
“An Biên là nơi trung độ nhất của Tuyên Quang, mặt trước có dòng sông ngăn chặn, ba mặt có núi đá ôm quanh, quãng giữa rộng rãi, chứa được vài vạn người, có thể lập tỉnh thành. Tòng Tạo bên hữu, Lạp Lĩnh ở bên tả có thể xây dựng quan ải, phía nam con sông có núi đất, xây pháo đài để phòng thủ được nghiêm. Như thế tự thành một nơi hiểm trở có thể ở được. Ngoài ra các nơi xung yếu như Đại Miện, Tiểu Miện, mỏ son Bách Đích và An Định đều đắp đồn để ngăn chặn; những chỗ bị nghẽn lấp quanh co, chật hẹp thì cho khai đào, sửa phẳng để dễ đi lại”[8].
Từ vị trí chiến lược này, giống như cái trục của cỗ xe, có thể lần theo nan quạt, tỏa ra bốn phương; hoặc theo đường 34 hiện nay để đến các châu Mèo Vạc, Bảo Lạc; hoặc theo sông Gâm, sông Năng đến hồ Ba Bể (Bắc Cạn) thuộc vùng đất tỉnh Thái Nguyên thời đó; hoặc xuôi dòng sông Lô qua tỉnh lỵ Tuyên Quang ngày nay để đến tỉnh thành Hưng Hóa, hoặc ngược sông Lô đến châu Vị Xuyên để kiểm soát vùng mỏ Tự Long (vùng này sau Hiệp ước Thiên Thân 1885 nằm trong bản đồ Trung Quốc).
“Như vậy thì mặt tây có thể chống giữ Bảo Lạc, Lục Yên, mặt đông có thể trấn áp Đại Man, Vị Xuyên, mặt nam có thể khống chế Hưng Hóa, mặt bắc có thể thông với Thái Nguyên; thực được cái thế ở chỗ trọng mà trị chỗ khinh, chẳng khác gì thân người sai khiến chân tay vậy. Vận động đã nhanh, tin tức lại nhậy, có thể ngăn chặn được cái chưa nảy mầm, tiêu trừ những cái không yên tĩnh”[9].
Điều quan trọng là vùng đất chiến lược này có thể tự túc, tự cường; Nguyễn Công Trứ ước tính cần bỏ ra 3 năm cải tạo, đưa dân vào khuôn phép, để về lâu về dài không còn mối lo biên giới:
“Rồi thay đặt những kẻ đầu trưởng để cai trị vỗ về dân, khiến chúng noi khuôn theo phép, tai thấm, mắt nhuần, thì không quá 3 năm có thể biến đổi thói man thành phong tục người kinh, lâu dài tuyệt được mối lo biên giới”.
Về lực lượng quân sự, thì ngoài số quân hiện hữu, cho mộ thêm 2 cơ binh địa phương, khuyến khích ban chức tước để khích lệ người chiêu mộ:
“Hơn nữa, trước giờ, số biền binh thuộc tỉnh được phái đi nã giặc đến gần một nửa, số hiện còn tại ngũ, sợ điều khiển không đủ. Nhưng thổ mục trong tỉnh và những thủ hạ của thần, gặp khi có việc quân, kể cũng đắc lực. Nay cho xin mộ người lập làm 2 cơ binh, mỗi cơ 600 người. Kẻ nào mộ được 69 người, thì cho làm suất đội, kẻ nào mộ được 10 đội cho làm quản cơ. Số lính mộ trong đám lậu đinh này không những có thể dùng để sai phái, mà những kẻ không có căn cước ghi trong sổ sách cũng được quản thúc. Như vậy cũng là một cách tăng thêm quân và dẹp yên giặc”.
Về mặt kinh tế, Nguyễn Công Trứ thấy được tiềm năng nông nghiệp của vùng châu thổ sông Lô quanh Hà Giang. Là chuyên viên về dinh điền, ông đề nghị chỉ cần tiếp tế 6 tháng lương thực để giúp cho dân khẩn hoang, sau đó có thể tự cung cấp được:
“Nói về nhu phí: Hạt này đất màu mỡ; núi, chỗ nào cũng gieo trồng được. Vừa rồi những chỗ thần đi qua thấy thóc lóa để lộ trong rừng, trong gò. Hơn 4000 binh dõng đi trận chuyến này, suốt từ tháng 10 đến tháng chạp, mà một xã Vân Quang cung cấp không thiếu thốn, thì đủ biết những nơi khác. Xét ra, ruộng ở đây không có sổ điền và cũng không nạp thuế. Những đất có thể gieo trồng được còn bỏ hoang rất nhiều. Vậy thì chỉ phải chuyển vận lương thực một lần đủ dùng nửa năm. Sau này, chiêu mộ những dân xiêu tán ở các xã khai khẩn, rồi chiếu những đất thực đã trồng cấy được, châm chước thu thuế, chứa lại để chi dùng, có thể đầy đủ, không sợ thiếu thốn”.
Về công cuộc khai mỏ, thế mạnh của vùng thượng du miền Bắc, ông chủ trương nên kiểm soát chặt chẽ, không cho người Thanh thao túng; làm được như vậy sẽ giúp cho ngân quỹ dồi dào và an ninh được củng cố:
“Lại nữa, các sở mỏ vàng, mỗi năm nộp thuế từ 1 đến 4 lạng, mỗi lạng tính ra 80 quan tiền. Những người Thanh làm mỏ, mỗi nơi tụ tập để kiếm ăn trên dưới 700, 800 người, đều là những kẻ du đãng trốn tránh. Chúng đào xẻ mạch đất, quấy nhiễu dân địa phương, thường gây ra xích mích. Ngày nọ, giặc Vân đi đến đâu, chém giết bừa bãi đến đấy, đều do bọn này hùa đảng, giúp nó làm bậy cả. Số thuế vàng thu nhập ấy, có hay không, đều không đáng kể. Nay xin tạm bắt các mỏ vàng đóng cửa. Đuổi hết về nước những người Thanh tụ tập kiếm ăn tại đây. Sau này, có ai xin trưng, cứ quan địa phương xét thực, sẽ chiếu theo cái lệ “Hộ làm vàng” ở Quảng Nam mà đánh thuế. Rồi thường cho kiểm soát, không để chúng tự giấu bớt như trước. Như vậy, đã dứt được cái lo bất ngờ, mà lại làm dồi dào thêm việc tiêu dùng của nhà nước”.
Nhắm phản bác luận điệu chống đối việc dời tỉnh thành (từ tỉnh lỵ Tuyên Quang đến tỉnh lỵ Hà Giang hiện nay) vì cho rằng nước độc; Nguyễn Công Trứ nêu bằng chứng tại phố chợ tại Hà Giang người Kinh, người Thanh buôn bán sầm uất. Lại theo niềm tin lúc bấy giờ cho rằng nơi nào nước nặng là độc, nước nhẹ là lành; ông cất công cân thử nước sông Lô tại hai vùng, thì thấy không xê dịch mấy, nên kết luận rằng thực chất những lời phản đối chỉ vì ngại đường xa đó thôi:
“Có điều là dời đổi tỉnh thành là việc người ta lấy làm ngại, có hai cớ: Một là ở An Biên lam chướng nặng; hai là đường vận chuyển lương thực khó khăn. Thần đã hai ba lần trù tính: An Biên đối ngạn với Hà Giang, ở đây chợ phố liên tiếp, người Kinh, người Thanh ở lẫn với nhau được phồn thịnh. Vả lại, từ An Biên đến Tuyên Quang cùng ăn một con sông, đã cho cân nghiệm thì nước hai nơi không nặng nhẹ hơn bao nhiêu. Nay cho lam chướng, chẳng qua người ta thích gần, ngại xa đó thôi”[10].
Bản “Thỉnh an” của Nguyễn Công Trứ đưa lên, vua Minh Mệnh cho là có lý, tuy nhiên “Hãy chờ sau này biên giới yên tĩnh, sẽ bàn chưa muộn“[11], nhưng rồi bỏ qua; đó là một điều đáng tiếc. Giả sử lúc bấy giờ (1833) tỉnh thành Hà Giang được thiết lập; có một lực lượng quân sự đủ mạnh để chế ngự vùng thượng dụ và trung du Bắc Kỳ, thì những vụ nổi loạn liên miên của giặc Khách (Tàu) dưới thời Tự Đức được đàn áp kịp thời, đất nước không lâm vào cảnh kiệt quệ. Tuy nhiên giá trị chiến lược của Hà Giang không vì thế mà mai một, sau khi chiếm Việt Nam, thực dân Pháp thấy được sự cần thiết, đã cho lập tỉnh vào đầu thế kỷ 20 (1900), rồi vị thế tỉnh Hà Giang tiếp tục tồn tại cho đến ngày nay[12].
Sau một số năm thực thi trên đất Tuyên Quang – Hà Giang chế độ lưu quan bắt đầu tỏ rõ sự bất cập và bất lực, điều này thể hiện rõ trong những lời tâu bầy của Nguy Khắc Tuần, Bùi Duy Kỳ, Nguyễn Đăng Giai và Phạm Phủ Thứ.
Tháng 6-1851, Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên là Ngụy Khắc Tuần kêu xin với triều đình 3 việc – trong đó có 2 việc liên quan:
“- Các tổng thuộc hạt ấy hiện đã đặt mỗi tổng 1 Cai tổng, nay xin đặt thêm một Phó tổng, phàm các công việc binh, lương ở trong tổng, do Cai tổng chuyên làm, duy việc xét bắt kẻ gian phi, phòng xét bọn trộm cướp thì do Phó tổng chuyên làm, để có chuyên trách.
– Các huyện, châu đòi đặt lưu quan, chi đến trú ngụ ở ngoài thành, các việc kiện tụng giấy tờ thuế khóa, thường do Tổng Lý làm thay, chỉ có tiếng mà không có sự thực. Nay xin vẫn đặt Thổ quan như trước, để bớt việc, tiền cho dân”[13].
Tự Đức đã giao cho các Bộ bàn bạc để tìm giải pháp. Cuối cùng các Bộ đều đồng tình với đề nghị trên, nhà vua cũng duyệt y nhưng đáng tiếc sự việc chỉ dừng lại ở đấy mà không được thi hành.
Tháng 9-1851, Kinh lược sứ Nguyễn Đăng Giai tâu bầy kế hoạch về biên giới, trong đó đề cập tới vấn đề lưu quan như sau:
“Thổ quan các tỉnh ven biên giới là phên che cho trung châu. Trước đây nhân giặc Vân sinh việc đổi đặt lưu quan, cũng là một việc sửa sang đại đoạn của đại thánh nhân. Nhưng xem ra, giặc Vân nổi loạn, chỉ vài tháng tự có thể dẹp yên, thực vì sào huyệt của giặc có thể trừ bỏ được, mà đất ta, dân ta, hô cũng nhanh, thì mối lo còn ít. Từ khi thi hành phép đặt lưu quan, Thổ ty, Thổ mục nhất khái bỏ đi hết thì quân với dân tiếng nói không giống nhau, phong thổ khác hẳn. Lúc ngày thường thì cho người Mán là dễ nói dối, mượn quân pháp để dọa nạt, tham nhũng tàn khắc, không cái gì là không làm. Thổ dân ở đấy lấy làm giận mà không dám nói ra. Tới khi có việc hô ứng không linh động, làm việc gì là bị ngăn trở, thổ dân vẫn mang lòng giận ghét, ai chịu có lòng thân với người trên, chết vì người trưởng. Thế thì cái tệ lưu quan gấp hai thổ quan, không biết đến thế nào. Xin lượng đặt Thổ quan để trông coi đốc suất dân họ, đoàn kết dân Thổ, bắt phải ngăn chống giặc, mới là mưu chước quân khẩn để yên nơi biên giới.
Lại tỉnh Hưng Hóa, Thái Nguyên, Tuyên Quang đều là nơi địa đầu tiếp giáp, không khỏi bị quân giặc ấy nhân khi sơ hở lại đến cướp bóc. Xin sắc xuống cho các tỉnh ấy dự trước sức giục bọn Thổ mục, Thổ hào cũ đều tự cai quản đốc suất dân họ cùng đoàn kết với nhau, sai ngăn ngừa trước khi có việc, cho yên nơi biên giới. Sau khi việc đã yên rồi, chọn người nào giỏi hơn bổ cho làm thổ huyện úy, hoặc làm thổ huyện thừa; người nào giỏi vừa, bổ cho chức thiên hộ bá hộ, làm việc gọi lính nộp thế, mới là mưu chước yên rỗi lâu dài”[14].
Vua chuẩn cho giao xuống bộ Binh xét. Sau khi lắng nghe, Tự Đức lại cho rằng, lưu quan đặt ra là vốn muốn đổi Thổ quan quy về lưu quan. Duy 2 tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng gần đây có việc ở nơi biên giới, cần khiến cho đoàn kết khi việc yên, trao chức cho, cũng là việc làm theo thời nghi. Còn các tỉnh khác cũng bất tất vội sinh sự đoàn kết làm gì.
Tháng 7-1854, Án sát Tuyên Quang là Bùi Duy Kỳ vào Huế được nhà vua vời vào cung để tham vấn sự tình, nhất là những chính sách đối với người dân các tỉnh nơi biên viễn. Bùi Duy Kỳ tâu:
“Thần xét trong tỉnh hạt, dân Mán, Mèo ở xen lẫn nhau, kỹ nghệ về võ, dân nào cũng đều có người giỏi. Nghĩ xin sức xuống Thổ mục, Thổ hào, Man trưởng, Bang trưởng, đều cho phép chúng được mộ dân làm hương binh. Người nào mộ được 50 tên, bổ thụ cho chức Cai đội, được 500 tên, bổ thụ cho chức Quản cơ, cùng trông coi thống thuộc nhau. Khi vô sự thì cùng nhau yên nghiệp cày cấy, hữu sự thì bắt họp lại hết cả, tính ngày cấp lương, cho đi bắt giặc, thì nơi biên giới có thể vô sự được”. Vua cho là lời tâu ấy có thể dùng được, sai thể theo thế mà thi hành cho khéo[15].
Kỳ lại nói: “Địa hạt tỉnh ấy ở miền thượng du, lúc quốc sơ, phủ, huyện, châu đều dùng Thổ quan; khoảng năm Minh Mệnh đổi lại, đặt ngạch lưu quan. Nhưng vì đất hạt ấy ở nơi biên giới xa, khí độc nặng quá, các viên phủ huyện, vừa mới đến chỗ lỵ sở, liền bị ốm đau, rồi lập tức về tỉh thành điều dưỡng. Thế là có cái danh lưu quan mà không có sự thực lưu quan, muốn cho dân Man Thổ được tập nhiễm dần phong tục dân Kinh, cũng ít lắm! Thần nghĩ: Nên lại đặt thêm 1 viên Thổ huyện thừa, khiến cho thay đi đổi lại, cùng ràng giữ nhau. Dân cư mỗi ngày một đông, thì thủy thổ mỗi ngày lành, sẽ lại chỉ đặt một chức lưu quan thôi thì cũng tiện”[16].
Những đề xuất của Bùi Duy Kỳ tuy được các tỉnh thần các tỉnh biên giới đem ra hội bàn, nhưng đa số vẫn dựa dẫm vào ý chỉ nhà vua nên cuối cùng thống nhất cho rằng: “Từ khi đặt lưu quan đến nay, mỗi khi ở chỗ nào thủy thổ hơi lành, lưu quan ở đó không nhiễm bệnh gì, mà nhân dân cũng đã tập quen, dần nhiễm được phong tục người Kinh. Nay đặt thêm Thổ huyện thừa thì không tiện”[17].
Nghe quần thần tâu bầy, Tự Đức lại quyết cứ giữ chế độ lưu quan.
Tháng 9-1866 trong lời tâu kín về triều đình, Phạm Phú Thứ “lại xin đặt Thổ tù được thế tập mà liệu đánh thuế, khiến cho con em cha anh cùng nhau chống giữ, không như người Kinh chẳng biết tình thế thì đến lúc đó có việc mới mong được việc”[18].
Bao nhiêu lời tâu bầy hợp lẽ nhưng cuối cùng triều đình vẫn cứ cứng nhắc, chẳng hề cải cách và nghe theo.
Việc thi hành chế độ lưu quan của nhà Nguyễn phần nào chứng tỏ sức mạnh của nhà nước đã lan tới các vùng biên viễn, dẹp bỏ được tình trạng cát cứ của không ít Thổ tù, Thủ lĩnh người dân tộc. Tuy nhiên, chính sách này ngay từ đầu đã tỏ ra không phù hợp với phương thức quản lý xã hội cổ truyền của đồng bào các dân tộc, đụng chạm nảy lửa đối với các tập quán pháp khiến cho mâu thuẫn giữa địa phương và nhà nước trung ương ngày một gia tăng.
1.2. Chế độ Quằng và những hệ quả xã hội
Trong khảo luận Văn hóa Việt Nam đa tộc người, Đặng Nghiêm Vạn cho rằng:
Trước đời Lê, các chúa đất miền núi phía bắc đã thiết lập những nhà nước với cấp độ hành chính bậc 3, thậm chí bậc 4, lệ thuộc theo hình thức ki-mi vào triều đình Việt Nam một cách lỏng lẻo, bằng những cuộc thăm viếng, bằng cống nạp, qua quan hệ hôn nhân, nhận chức tước… Đến thời Lê, bộ máy cai trị truyền thống của các “nhà nước” đó được chồng lên trên bởi hệ thống hành chính thống nhất cả nước, nhưng trên thực tế hai chính quyền đó tuy là một nhưng vẫn là hai. Chế độ Thổ quan được thực hiện, chấp nhận sự tồn tại các đơn vị hàng châu, hàng tổng tương ứng với mường lớn, hàng xã với mường nhỏ, bổ nhiệm các Tù trưởng địa phương làm quan chức triều đình, làm bồi thần cai trị thần dân. Tiến lên một bước, triều đình thực hiện chế độ lưu quan. Theo chế độ này, các quan lại người Việt được phái lên cha truyền con nối làm chúa đất một vùng, dưới danh nghĩa một quan chức của triều đình. Họ dần dần bị bản địa hóa, trở thành người địa phương cùng với các tù trưởng gốc bản địa, cai trị dân một vùng. Đó là trường hợp của chế độ Quằng, đồng thời cũng còn là chế độ Thổ ty ở vùng Đông Bắc, vùng Tày – Nùng, chủ yếu ở vùng dọc biên giới và vùng hẻo lánh. Ở Tây Bắc, chế độ lưu quan chỉ thành công một phần ở vùng lưu vực sông Hồng với các chúa đất vùng Tày, còn thất bại ở vùng Mường và Thái. Các quan lại người Việt được cử không dám trực tiếp xuống nhiệm sở, chỉ luẩn quẩn ở trấn Hưng Hóa, thỉnh thoảng đi kinh lý, mặc nhiên chấp nhận sự tồn tại chế độ Lang đạo và Phìa tạo. Các chúa đất Thái và bộ máy cai trị truyền thống vẫn tồn tại cho đến khi Pháp sang và được người Pháp bổ nhiệm dưới danh nghĩa một viên chức chính quyền thực dân.
Khác với vùng Trường Sơn – Tây Nguyên, ở miền núi phía bắc, các tổ chức xã hội cấp trên bản (làng) vẫn có điều kiện xuất hiện sớm một cách vững chắc, nhờ các bản được cố kết với nhau thành một mường nhỏ, các mường nhỏ thành mường lớn và… nhờ việc canh tác ruộng nước được liên kết với nhau bằng một hệ thống thủy lợi theo kiểu mương, phai, lái, lín. Những vùng lớn trong một khu vực; có lúc, có nơi lại chịu sự chỉ đạo của chúa đất một khu vực mà tiêu chuẩn là trung thành với triều đình, có uy tín và thế lực trong vùng, được triều đình tín nhiệm coi là bồi thần, tự cai quản, thu cống nạp, thực hiện binh dịch với triều đình khi cần thiết, giữ vững an ninh trong vùng như các tù trưởng họ Hà, họ Nông; họ Vi, họ Nguyễn, họ Giáp, họ Thân, họ Ma Doãn, họ Bế ở vùng Lao – Hà – Tuyên và Cao – Bắc – Lạng, họ Sa, họ Cầm, họ Đèo vùng Tây Bắc, họ Đinh, Quách, Bạch, Hà ở các mường lớn vùng Hòa Bình, họ Sầm vùng Nghệ An…
Chúa đất các mường lớn (mường hàng châu) thay mặt nhà vua nắm quyền các “nhà nước” nhỏ bé này, với bộ máy cai trị truyền thống của mình, được triều đình chấp nhận bằng cách thay đổi dần trong từng vùng cụ thể, hợp nhất trên hình thức vào hệ thống tổ chức chung của cả nước một cách hợp lý. Trên nguyên tắc ở mỗi mường lớn, tất cả đất đai, rừng núi, sông suối, ruộng rẫy và kể cả con người sinh sống trong các bản làng thuộc lãnh thổ của mường, là thuộc về cộng đồng, thuộc về mường. Nhưng chúa đất đã thành công trong việc nhất thể hóa bản thân mình với cộng đồng, đã đồng nhất số phận của bản thân với số phận toàn dân. “Mường là tạo, tạo là mường”; “có mường phải có tạo, có tạo mới có mường”. Sự đồng nhất hóa người đứng đầu cộng đồng với toàn thể cộng đồng đã ra đời từ thời xã hội bộ lạc, thời còn quan niệm “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”. Người tù trưởng là đại diện cho ý chí thống nhất của bộ lạc trong tất cả mọi việc từ sản xuất đến chiến đấu, từ việc thường ngày đến việc tín ngưỡng tôn giáo. Sự việc đó chỉ trở nên tệ hại khi người đại diện toàn dân đã lợi dụng các hình thức “công cộng”, tự tha hóa, trở thành người bóc lột đồng tộc, tự tách ra khỏi người đồng tộc”[19].
Cũng vẫn Đặng Nghiêm Vạn, tại luận văn Về vai trò của chúa đất trong xã hội tồn tại chế độ Thổ ty, Lang đạo, Phìa tạo xác nhận rằng, từ những năm cuối thế kỷ XIX trở về trước, những chế độ trên ở vùng núi phía bắc đã từng tồn tại song song với tổ chức chính quyền trung ương. Xem xét một cách kỹ lưỡng ta thấy hình như tác giả dùng khái niệm Thổ ty để chỉ chế độ Quằng trong thực thể xã hội người Tày – Nùng. Ở đây, chính tác giả đã chỉ ra rằng, trong những mức độ khác nhau, các chúa đất với những tên gọi khác nhau đã nắm giữ quyền hành điều phối công việc theo các thể chế cũ với một phạm vi nhất định, được triều đình phong kiến trung ương công nhận là bồi thần của mình và phong chức tước tương ứng lãnh thổ mà chúa đất đang cai quản. Quyền hạn và trách nhiệm của chúa đất và giai cấp thống trị ở địa phương được ghi lại trong tập quán pháp hoặc qua sách vở, truyền miệng.
Cách đây 80 năm, trên tờ Đông Pháp, các số ra từ ngày 7-1 đến 31-1-1934, Nguyễn Văn Huyên trong loạt bài viết về Những giống người và chế độ Thổ ty ở châu Chiêm Hóa đã cho biết sau khi đặt ra một loạt câu hỏi: “Xét nguồn gốc và định nghĩa Thổ ty: Thổ ty là gì? Thổ ty có từ bao giờ? Tác giả cho rằng, đó là câu hỏi ta cần phải giải đáp trước khi nói đến chế độ Thổ ty. Vì sách vở thiếu sót, lai lịch thất truyền nên xét nguồn gốc và định nghĩa Thổ ty là một sự rất khó hiểu. Nhưng xét trong quốc sử các tiên triều như Lý, Trần, Lê đều phong tước cho các Tù trưởng Thổ Mán trên thượng du.
Nguyên khi xưa người Thổ cũng là một giống người hay di cư, nên cũng họp thành bộ lạc. Một bộ lạc có nhiều họ (familla), mỗi họ có một người tộc trưởng (patriarche). Trong những người tộc trưởng lại bầu lên lấy một người bộ lạc trưởng (chef de tribe). Như vậy, một hạt thường có nhiều bộ lạc ở, nên phải có một người đứng đầu cả các bộ lạc ấy mà cai trị, nên chi người ta mới họp các Bộ lạc trưởng lại mà bầu lấy một người làm “chùm” trong xứ gọi là Tù trưởng.
Cái chế độ ấy cũng tương tự như chế độ Quan lang ở hạt Hòa Bình, mà vị Tù trưởng nói đây cũng như ông Chánh Quan lang vậy.
Các vị Tù trưởng ấy được quyền lập pháp, hành chính, tùy theo phong tục hạt mình mà cai trị, thật cũng như một nước con con có quyền tự trị (anlonomi) đặt dưới quyền kiểm sát của triều đình.
Cứ đem các điều thuộc về lịch sử để làm luận. Chúng ta có thể xét được nguồn gốc Thổ ty nhưng cứ theo ý kiến thông thường của Thổ dân ở đây thời các họ Thổ ty ở Chiêm Hóa là những họ vì có công tạo bản mà được nhà vua biệt đãi, dân gian tôn kính, mà đời đời lập tước làm quan đầu hạt chứ cũng không do ở những câu chuyện hoang đường như các họ làm quan lang hạt Hòa Bình.
Xem trong gia phả họ Ma Doãn thì đời Lê Thái Tổ (1428) ông Ma Doãn Thịnh vì có công giúp đánh giặc Minh, phục hưng đất nước, được dự hàng khai quốc công thần, phong làm Quý Lộc hầu, quản trị miền Chiêm Hóa. Suy lẽ đó, thời những ý kiến kể trên vị tất đã là không phải mà ta cũng có thể ức đoán được rằng, chế độ Thổ ty có ở Chiêm Hóa từ đời trung cổ.
Các tiền triều như nhà lê thì phong là Phụ đạo ty, về Hoàng triều Nguyễn thị thì đức Minh Mệnh phong là Phiên thần, mà hai chữ Thổ ty xuất hiện từ đời đức Dực tôn Hoàng đế vậy.
Kể tới nay đã hơn 500 năm, các người trong họ Thổ ty vẫn được mang ơn sâu ấy, giữ chính quyền trong hạt, phục tùng triều đình, theo chính thể toàn quốc, nhưng vẫn tùy theo phong tục tập quán bản hạt mà cai trị cho hợp với dân tình cho nên cũng có thể gọi là một chế độ được vậy.
Các họ Thổ ty ở Chiêm Hóa – Ở Chiêm Hóa hiện nay có 3 họ Thổ ty là:
a) Họ Nguyễn Quảng ở làng Côn Lôn, tổng Côn Lôn.
b) Họ Ngô Văn ở làng Vĩnh Yên, tổng Vĩnh Yên.
c) Họ Ma Doãn ở làng Khúc Phụ, tổng Thổ Bình.
Kể trong ba họ ấy thì 2 họ Ngô Văn và Nguyễn Quảng vì đã lâu nay không có ai làm nên công việc gì xuất chúng, tuy cũng vẫn đeo danh hiệu là Thổ ty nhưng xem tình trạng ngày nay đã hầu mất gần hết các quyền lợi riêng, mà sự tín ngưỡng của dân bản hạt đối với 2 họ ấy cũng theo với thời gian mà tiêu tan đi mất rồi. Cho nên tuy có là dòng dõi Thổ ty nhưng tựu trung không có quyền lợi gì đặc biệt làm tiêu biểu cho tính cách Thổ ty của mình.
Còn họ sau là Ma Doãn đang ở thời kỳ thịnh đạt, trên được nhà nước tin dùng, dưới được dân gian mến phục, còn giữ được chút ít tục lệ và quyền lợi riêng làm tiêu biểu cho Thổ ty của mình, thiết tưởng theo đúng chân nghĩa của 2 chữ Thổ ty mà nói thời hiện nay ở Chiêm Hóa chỉ còn có một họ Ma Doãn ấy là đáng kể vậy”[20].
Theo Daitudien.net, Thổ ty là chế độ quy định cho các Tù trưởng hay chúa đất ở các dân tộc thiểu số được cha truyền con nối, cai quản một vùng đất nhất định với điều kiện chịu thần phục triều đình trung ương. Ở Việt Nam, chế độ Thổ ty được các triều đình áp dụng đối với các dân tộc vùng Bắc và Đông Bắc. Ở vùng người Tày Việt Bắc gọi là chế độ Quằng, ở vùng người Thái Tây Bắc – chế độ Phìa tạo; ở vùng người Mường Hòa Bình và Thanh Hóa – chế độ Lang đạo; ở vùng người Thái Thanh Hóa và Nghệ An – chế độ Chúa đất. Các Tù trưởng và các Chúa đất được gọi là Thổ quan. Thổ ty bóc lột nông dân trong phạm vi quản lý của mình dưới các hình thức tô lao dịch và tô hiện vật. Chế độ Thổ ty ở Việt Nam về cơ bản còn tồn tại cho đến năm 1954.
Đàm Thị Uyên trong Tầng lớp Thổ ty của người Tày ở Cao Bằng đầu thế kỷ XX cho rằng: “Ở Cao Bằng trước năm 1945 đã tồn tại một chế độ xã hội gọi là chế độ Thổ ty, người Tày gọi là Quằng. Thổ ty là danh từ mượn của chữ Hán. Theo Từ Hải, Thổ ty là chế độ phong tước cho người địa phương thế tập quản lĩnh các vùng dân tộc thiểu số của các vương triều phong kiến Trung Quốc, khởi đầu từ thời Nguyên, Minh. Theo các cụ già làng ở Bảo Lạc, Bảo Lâm – Cao Bằng, thuật ngữ Thổ ty được sử dụng từ thời Nguyễn. Sau Cách mạng Tháng 8-1945, trong văn kiện của Liên khu ủy Việt Bắc và được các cán bộ chính trị công tác ở vùng dân tộc thiểu số sử dụng phổ biến, Thổ ty là chỉ những chúa đất cát cứ trong các dân tộc Tày, Nùng, Mông ở Việt Bắc.
Quằng (Thổ ty) từng tồn tại ở vùng Bảo Lạc miền Tây Cao Bằng, Đồng Văn – Yên Minh thuộc miền Đông Hà Giang, Mường Giàng (Chiêm Hóa) – Mường Lôm (Na Hang) thuộc miền Đông Bắc Tuyên Quang hay gọi là vùng giáp ranh của ba tỉnh: Cao Bằng – Hà Giang – Tuyên Quang, một khu vực núi non hiểm trở, giao thông trắc trở, thế lực của các Thổ tù lớn mạnh, vào những thập niên 30 của thế kỷ XIX, đã từng liên kết với Nùng Văn Vân, Tri châu Bảo Lạc tiến hành cuộc khởi nghĩa chống lại vua Minh Mệnh, vì thế các Thổ tù ở đây vẫn còn duy trì địa vị của mình cho đến đầu thế kỷ XX, và thậm chí tàn dư của chế độ này còn kéo dài cho đến tận những năm sau Cách mạng Tháng 8-1945[21].
Nguyễn Tuấn Liêu trong Mấy nét tình hình và nhận xét về chế độ Quằng trong dân tộc Tày ở Hà Giang cũng chỉ rõ: “Từ Cách mạng Tháng 8-1945 trở về trước và cho mãi đến năm 1949, trong dân tộc Tày ở Hà Giang đã tồn tại một chế độ xã hội, theo tiếng nói của đồng bào gọi là Quằng (có nơi phát âm là Quăng hoặc Quánh). Chế độ Quằng từ trước tới nay chưa được ai nghiên cứu tới, hơn nữa, có thể nói nó chưa hề được nhắc tới tên trong các sách báo, tài liệu nghiên cứu về vấn đề dân tộc bao giờ. Đôi khi trong các văn bản của các cấp Đảng bộ địa phương, chúng ta có nhắc tới chế độ xã hội này nhưng không phải bằng chính tên của nó mà bằng cái tên chung Chế độ Thổ ty để chỉ các hình thức chế độ phong kiến cùng kiểu có ở trong tất cả các dân tộc ở miền núi… Thổ ty là danh từ mượn từ chữ Hán được cán bộ chính trị công tác ở vùng dân tộc thiểu số (Thái, Mường, Tày, Mèo v.v…). Thổ ty không phải tiếng vốn có của người Tày hoặc người Mèo Hà Giang”[22].
Quằng là người đứng đầu và đại diện của bản mường trong tổ chức xã hội cổ truyền của người Tày, được thế tập từ đời này qua đời khác, chỉ tập trung ở một số dòng họ trong một số khu vực nhất định như họ Nông ở Bảo Lạc (Cao Bằng), họ Nguyễn ở Đồng Văn, họ Hoàng ở giáp Hoàng Su Phì (Hà Giang), họ Vi ở Lộc Bình (Lạng Sơn), họ Ma Doãn ở Chiêm Hóa (Tuyên Quang), họ Đinh, họ Lý (Bắc Cạn, Lạng Sơn).
Ngược tìm về nguồn gốc và sự ra đời của chế độ Quẳng ở Hà Giang ngay từ hơn nửa thế kỷ trước, Nguyễn Tuấn Liêu đã tự đặt ra câu hỏi: Chế độ Quằng trong dân tộc Tày hình thành từ bao giờ rồi tự trả lời, điều này chưa rõ nhưng có điều chắc chắn là chế độ này đã có từ lâu đời. Trong dân gian, người Tày đến nay còn lưu lại những truyện về mối giao thiệp giữa triều đình phong kiến Việt Nam từ đời Lê với nhà Quằng. Theo lời các cụ già ở huyện Đồng Văn kể lại thì dưới triều Lê nhân dân miền núi giáp biên giới Việt – Trung có nhiều lần nổi dậy chống triều đình phong kiến Việt Nam. Để ổn định tình hình, triều Lê lúc bấy giờ đã phong hầu cho 7 dòng họ Quằng và cho mỗi một dòng họ được cai quản một vùng biên cương, gọi là Thất tộc phiên thần phân chia họ Nông ở Bảo Lạc (Cao Bằng) có thế lực nhất, họ Nguyễn ở Đồng Văn (trước kia là châu Đồng Quang thuộc châu Bảo Lạc); họ Hoàng ở Tu Lung, giáp Hoàng Su Phì ngày nay; họ Ma ở Chiêm Hóa (Tuyên Quang, trước kia là châu Vị Long), họ Đinh, họ Lý, họ Vi (Bắc Cạn, Lạng Sơn ngày nay). Trong những dòng họ Quằng kể trên, có họ Nông, Ma, Nguyễn còn giữ được địa vị thống trị mãi tới cả thời Pháp thuộc và mấy năm sau Cách mạng tháng Tám. Trong công trình nghiên cứu của mình về chế độ Quằng ở Hà Giang, Nguyễn Tuấn Liêu đã chú ý đến chính sách kimi có từ thời Lý và cho rằng chế độ Quằng cũng như chế độ Lang, Phìa có từ trước thời Lý nhưng cụ thể có từ bao giờ thì điều này phải có cả một công trình tiếp tục nghiên cứu. Tác giả cũng dẫn ra một số sự kiện xảy ra tại Hà Giang vào thời vua Lê chúa Trịnh để thấy rằng mấy họ nhà Quằng như Nông, Hoàng, Nguyễn khi đó đã là phiên thần của triều đình, phù hợp với các huyền tích dân gian ở vùng Đồng Văn. Một số dòng họ Quằng khi đó còn tồn tại đến trước và sau Cách mạng tháng Tám (Nông, Nguyễn, Ma), trong khi có một số dòng họ khác đã suy tàn (Hoàng, Vi). Nếu như dưới các triều đại phong kiến Việt Nam, chế độ Quằng đã tồn tại khắp các vùng dân tộc Tày thì đến thời Pháp thuộc, phạm vi tồn tại của nó đã bị thu hẹp. Riêng ở Hà Giang tuy cùng chung bối cảnh nhưng ảnh hưởng của nhà Quằng còn tương đối rộng so với những nơi khác bởi còn bắt gặp ở tất cả các xã có người Tày thuộc huyện Đồng Văn, một số xã phía bắc huyện Vị Xuyên (Yên Phú, Quản Bạ, Thuận Hòa), hai xã ở huyện Hoàng Su Phì (Tụ Nhân, Tân Tiến). Những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, lợi dụng việc chính quyền cách mạng mải đối phó với Quốc dân Đảng, trình độ dân trí còn thấp, một số nhà Quằng ở các xã Yên Ninh, Đồng Văn, Niêm Sơn đã cấu kết với vài nhóm thổ phỉ người Mông tìm mọi cách chiếm đoạt quyền lực ở địa phương núp dưới các danh nghĩa Chánh, Phó Chủ tịch, Ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính xã. Ở các xã như Yên Phú, Thuận Hòa, Quản Bạ tuy chính quyền không nằm trong tay các thế lực cũ ở địa phương nhưng uy thế của nhà Quằng còn rất lớn trong dân chúng. Hầu hết đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính trị của Quằng vẫn được duy trì.
Diễn giải về thực trạng này, Đăng Nghiêm Vạn đã chỉ ra rằng, bản thân chúa đất và dòng họ tự cho mình đứng trên người dân, kể cả chức dịch, chỉ thuộc về một dòng họ duy nhất, cha truyền con nối. Ở vùng Mường, trong mỗi mường chỉ có một trong bốn dòng họ được làm Lang: Đinh, Quách, Bạch, Hà, trong khi tất cả dân chúng và chức dịch đều thuộc một dòng họ duy nhất: họ Bùi. Ở người Thái Đen, nếu truy về nguồn gốc, đó là họ Lò, Lò luông hay Lò lớn (sau đổi thành họ Cầm, Khẳn, Sầm, Ngân, Hoàng, Bạc Cầm…). Ở Mộc Châu, họ Sa tự nhận là họ Vi hay Cà; ở Mai Châu họ Hà gốc từ Mường Hước Pước Khà tức Bắc Hà (Lào Cai) về. Ở vùng Tày, là họ Hoàng, họ Hà, họ Nông, họ Vi, họ Thân, họ Giáp, họ Nguyễn… Lại còn những dòng họ từ nơi khác đến đuổi các dòng họ thế tập. Các quan lại dưới xuôi được cử lên làm lưu quan lấy con gái chúa đất cũ, mặc nhiên thành chúa đất một vùng. Đó là trường hợp: họ Đèo ở Mường Lay, Mường So; họ Nguyễn ở Văn Bàn, Yên Bái; họ Hoàng, họ Lục ở Lào Cai; họ Ma Sĩ, họ Nguyễn, một phần họ Hoàng ở Hà Giang.
Họ tự nhận là sinh ra từ một chất liệu riêng, không từ quả bầu chui ra, mà là con út của trời, tình cờ ăn lầm đùi trâu người trần dâng lên xin vua trời cử người xuống trị dân, buộc phải dời bỏ thiên giới xuống trần dạy dân (Thái), nên họ tự xưng là con trời, lụ phạ, là con của rồng (lụ luống) hay nhận rồng làm cha đỡ đầu như trường hợp họ Nông ở Bảo Lạc nhận là con thần thuồng luồng ngã ba sông Gâm, sông Neo và sông Nho Quế (hay Tà Lèng), vì vậy hàng năm đứa con yêu phải hiến tế cho vua thuồng luồng một chàng trai tơ. Các chúa đất khác tùy từng nơi tôn rồng làm thần văn hóa như người sáng tạo ra lúa, vải (me nâm, me mương)[23].
Không khái quát và luận giải mang tính khoa học được như Đặng Nghiêm Vạn, trong bài viết của mình, Nguyễn Tuấn Liêu nhìn nhận theo những niêm luật cũ và có phần giản đơn và quy kết có phần nặng nề hơn. Tác giả cho rằng, Quằng là giai cấp thống trị trong dân tộc Tày xưa kia. Có nhiều thuyết khác nhau về Quằng nhưng tựu trung nó mang tinh thần cơ bản là: ngày xửa ngày xưa, ở miền núi chưa có dân cư ở, rừng núi còn hoang vu. Nhờ có Quằng không biết từ đâu tới (có truyền thuyết nói từ đất Kinh lên, có truyền thuyết nói từ những địa phương cụ thể như Mường Giàng, Tam Tổng v.v…) có công đi tìm nơi đất tốt. Vừa đi Quằng vừa khấn trời đất, chỗ nào tốt thì báo cho dừng lại, chỗ nào không tốt thì báo cho biết là nơi này không nên ăn, đất này không nên ở (Mương nay bố pên kin/ Đin nay bố nkin dú) để tiếp tục đi tìm nơi khác. Quằng đi bằng thuyền đồng (lưa toòng) nên đến trước được đất tốt, Chảu đi bằng thuyền gỗ (lưa mạy) đến thứ hai còn dân đi bằng thuyền da (lưa năng) đến sau gặp đất xấu. Khi đã định cư, Quằng lại che chở cho dân trước nạn giặc cướp, ma quỷ. Vì thế, bất cứ ở đâu có dân là phải có Quằng. Quằng là người có công tạo lập ra bản mường, biến rừng hoang thành ruộng. Sự sống còn của Quằng quan hệ đến sinh mạng của mọi người dân. Chính vì thế mà trong nhân dân luôn truyền nhau câu cửa miệng: Nước cạn không bỏ thuyền, chạy hổ không bỏ Quằng (Nậm bốc bấu tà lưa/ Ni thưa bấu tà quằng)”[24].
Tổ chức xã hội truyền thống cao hơn bản ở vùng dân tộc Tày là Mường. Mường được hình thành bởi một khối bản nằm trong một thung lũng, một cánh đồng cùng sử dụng một dòng nước, có nhu cầu cần cho việc huy động nhân lực xây dựng và quản lý thủy lợi chung, giải quyết những tranh chấp sử dụng nguồn tài nguyên (đất đai, rừng núi, nguồn nước) giữa các nhóm bản. Theo Đàm Thị Uyên thì, việc xuất hiệnMường không những chỉ do yêu cầu tất yếu của các điều kiện sản xuất, mà nó còn xuất hiện từ quá trình lịch sử phát triển xã hội của dân tộc Tày. Sự chuyển biến từ cư dân khẩn hoang mở rộng không gian sinh tồn (mở rộng chinh phục vùng đất mới), từ cuộc sống không ổn định sang định cư ổn định lâu dài, xác lập quá trình thống trị bản mường của các tù trưởng, thủ lĩnh. Các tù trưởng, thủ lĩnh sau khi đã dẫn dắt đồng tộc giành được những vùng đất mới nghiễm nhiên đã được thừa nhận là người có công khai phá, đứng đầu điều khiển việc dựng bản dựng mường – khai khẩn đất đai, xây đắp những công trình thủy lợi (mương, phai, lái, lìn…). Tiêu biểu cho ý chí thống nhất của cộng đồng trong tất cả các việc từ sản xuất đến chiến tranh, từ công việc hàng ngày đến cúng lễ, được gọi là “việc mường”. Sự kết hợp chức năng xã hội (điều khiển quản lý việc mường) với chức năng thống trị đã nâng cao uy quyền của chế độ Tộc trưởng, Thủ lĩnh – người đứng đầu Mường và thiết chế xã hội Mường, mang chức năng xã hội bị Tù trưởng, Thủ lĩnh thao túng biến thành bộ máy thống trị trong vùng. Người đứng đầu Mường (Quằng), về nguyên tắc không chỉ thuộc về một dòng họ nhất định và có thể bị thay thế nhưng trên thực tế điều đó không bao giờ xảy ra[25].
Lý giải về vấn đề này, Nguyễn Tuấn liêu cho rằng, Quằng là giai cấp phong kiến cát cứ trong dân tộc Tày, một dân tộc thiểu số có dân số đông nhất các dân tộc thiểu số, nhưng dân cư ở phân tán, xen kẽ với nhiều dân tộc khác, không được tập trung như dân tộc Mường, Thái. Quằng trước kia phải thần thuộc vua quan phong kiến người Kinh. Thông thường phạm vi thống trị của một Quằng không lớn lắm. Tình hình đó khiến cho quy mô tổ chức bộ máy thống trị của nó nhỏ bé, hình thức tổ chức giản đơn và thường là không thống nhất giữa các địa phương, ngay cả hai địa phương gần nhau như xã Yên Minh và xã Quản Bạ. Nhưng xét về tính chất thì nó vẫn có đầy đủ tính chất của một bộ máy nhà nước, một công cụ áp bức giai cấp. Nó là một nhà nước phong kiến nho nhỏ ở tuổi sơ kỳ[26].
Từ những đặc điểm của Mường trong mối quan hệ giữa Mường với triều đình phong kiến vừa mang tính chất “tự trị” lại vừa lệ thuộc triều đình. Tù trưởng – Quằng, vừa mang danh nghĩa là bồi thần triều đình, vừa mang danh nghĩa là người chủ của Mường cũng được thể hiện trong thiết chế xã hội – chính quyền hay thiết chế chính trị – xã hội ở các cấp: Mường và Châu Mường.
Đứng đầu Mường có Quằng Mường thuộc dòng họ chính thống đầu tiên đến lập nghiệp, mang tính chất thế tập. Quằng Mường nào có tuổi tác hoặc có uy thế lớn còn được dân gọi một cách kính trọng làHầu. Quằng Mường là Quằng lớn nhất.
Giúp việc cho Quằng Mường là bộ phận chức dịch gồm:
– Quằng Họ là người cùng họ với Quằng Mường, được giao cai quản một vùng nào đó trong khu vực thống trị của Quằng Mường.
– Quằng Khiến do Quằng Mường phái đến cai trị một vùng nào đó mà ở đấy dòng Quằng cũ đã tuyệt tự hoặc không xứng đáng như Quằng ở thôn Đồng Văn và xã Yên Phú là thuộc loại Quằng Khiến, vì gốc gác là do Quằng ở xã Mậu Duệ cử đến.
Ở xã Quản Bạ cũng chia làm mấy loại Quằng, nhưng tên gọi và chức trách cũng có khác ít nhiều. Đó là Quằng Bản (lớn nhất); Quằng Thoa Luây (nhỏ hơn), Quằng Thiêng Làu (thấp nhất).
Bộ máy giúp việc Quằng có các Chẩu. Chẩu là người thuộc dòng họ dân, gia tư khá giả, khôn ngoan, được Quằng lựa chọn cho làm. Những người này cũng có những quyền lợi nhất định: được Quằng phân chia cho một số ruộng chức dịch, ngoài ra còn dựa vào thế lực của Quằng để bóp nặn nhân dân, được nhiều hay ít là tùy cương vị cụ thể từng người. Thông thường mỗi Quằng có độ năm đến bảy Chẩu. Đối với Quằng Mường có phạm vi thống trị rộng thì số Chẩu còn nhiều hơn. Chẩu chia ra làm nhiều cấp:
– Chẩu Mường là Chẩu lớn nhất, thừa lệnh Quằng xem xét mọi công việc từ nội trị đến ngoại giao, điều khiển các Chẩu khác, có quyền thay Quằng khi Quằng đó đi vắng giải quyết mọi công việc đột xuất nảy sinh.
Chẩu Mường trực tiếp thừa lệnh Quằng xem xét mọi việc từ nội trị đến ngoại giao, từ sản xuất, trị an đến hiếu hỉ, lễ bái của Quằng. Dân chúng sợ Chẩu không kém gì sợ Quằng.
– Chẩu Sảng là Chẩu lớn thứ hai sau Chẩu Mường, cùng Quằng Mường điều hành công việc chung.
– Chẩu Họ phụ trách việc huy động dân phu, phục dịch cho nhà nước phong kiến; đôn đốc huy động lao dịch, coi việc cày cấy của nhà Quằng.
– Chẩu Chướng phụ trách đôn đốc việc biếu xén trong các dịp lễ tốt, tổ chức việc ma chay, cưới xin, cúng bái cho nhà Quằng.
– Chẩu Khiến phụ trách công việc trật tự trị an (bắt giữ tội phạm, chỉ huy dân binh lùng bắt khi có giặc cướp)…
Dưới Chẩu, có các Tàn những người không có quyền lợi gì đáng kể, chỉ là lũ người đầu sai của Quằng và Chẩu. Ở Quản Bạ không có Tàn.
Ngoài ra còn phải kể đến một tầng lớp nữa có vai trò đặc biệt quan trọng trong bộ máy thống trị của Quằng, đó là các ông Mo, ông Tạo giúp việc cúng bái cho Quằng. Riêng ở xã Quản Bạ, bộ máy phục vụ việc cúng bái của Quằng có từ 6 đến 12 người do Quằng chỉ định, mỗi người thuộc một họ nhà dân khác nhau như sau: ông Chẩn (họ Lương) cúng bái ngày tết, ngày hội Lồng Tổng, khi có người nhà chết;Pú Chả (họ Viên) cúng khi hạn hán phải cầu đảo; Chẳng Pha Reo (họ Chú), vác kiếm dẫn đường đám ma nhà Quằng từ nhà đến mộ, cúng phật ở chùa cho Quằng; quan Quành (họ Nguyễn), ngồi cúng và nhận đồ phúng viếng của nhân dân khi Quằng chết; hai người Pà Cò (vác cờ): ngày hội Lồng Tồng vác cờ cùng những thầy cúng khác rước Quằng đi quanh bản, v.v…
Quằng có đội dân binh, mọi người trong lãnh địa phải thay phiên nhau có nghĩa vụ làm binh dịch. Và phương châm tĩnh vi dân, loạn vi binh được quán xuyến thực hiện triệt để.
Dưới Mường có Bản và Động, có Chẩu bản và Chẩu động. Theo thứ bậc đẳng cấp xã hội của cư dân thuộc bản mình cai quản, các Chẩu này có nhiệm vụ đôn đốc thực hiện nghĩa vụ đối với Quằng, nghĩa vụ việc mường và với chính quyền phong kiến.
Về tổ chức Châu Mường, theo Đàm Thị Uyên, thì Châu Mường tương đương với một châu hay một huyện trong thiết chế hành chính phong kiến Việt Nam. Ở Bảo Lạc, thổ tù họ Nông được nhà Lê phong chức Đại tri châu thế tập nắm giữ thiết chế chính trị – xã hội địa phương này cho đến đầu thế kỷ XX. Bộ máy hành chính được cấu trúc như sau:
Đứng đầu Châu Mường là Quằng họ Nông đảm nhận chức Tri châu mà nhân dân địa phương gọi là Quản Chúa, hay Chúa Công, hoặc Chiếng Cấn, nắm quyền tối cao về hành pháp, tư pháp và quân sự. Giúp việc cho Quản Chúa gồm có:
– Tam Quản giúp việc cho Tri châu về các mặt hành chính, nội trị, ngoại giao, truyền lệnh của Quản chúa đến các chức dịch khác, tạm thay quyền Tri châu khi Tri châu đi vắng.
– Một số chức dịch gọi là Chẩu được tuyển chọn từ họ hàng thân thích của Quằng hay từ những nhà dân được Quằng tin cẩn. Mỗi người đảm nhận một công việc cụ thể từ việc sản xuất đến lễ tiết, một biên dịch coi giữ kho tàng, và một Sứ Dề (thư ký của Tri châu).
– Tuần Tổng: huấn luyện và chỉ huy quân đội.
– Quản Chiêu: theo dõi công việc các dân tộc không phải là Tày.
Châu có lực lượng vũ trang mặc dầu không phải quân đội thường trực, nhưng tất cả tráng đinh đều được kinh qua các đợt tập huấn và tổ chức biên chế thành các đội ngũ đứng đầu là một cai đội. Hàng ngũ dân binh này được chia thành hai loại: một loại gọi là Nội quân, được tuyển chọn từ những họ hàng thân thích hoặc các gia nô của Nhà chúa biên chế thành và do chức Cai quân nội chỉ huy, có nhiệm vụ truy nã, đàn áp bắt bớ, giam giữ những kẻ chống đối hay phạm pháp và Ngoại quân được phân thành 5 đội (Tả, Hữu, Tiền, Hậu, Trung quân), do chức Cai quân ngoại chỉ huy, lúc thời bình thì ở nhà sản xuất, khi có chiến tranh thì đi đánh dẹp và thay nhau tuần phòng canh giữ các đồn ải.
– Mo Then: đứng đầu là Mo Tổ chuyên chủ trì những đám lễ cho nhà Quằng, họ nhà Quằng. Thứ đến là Mo Slang chuyên viết tụng văn kể công lao của Quằng đối với con người và cảnh vật, cuộc sống ở địa phương, trong những dịp hội hè tế lễ chung và còn một số loại mo khác mỗi người một việc. Then cùng phối hợp với Mo chủ trì và tiến hành tế lễ trong các đền thờ Ma Quằng (mỗi lãnh địa có một đền thờ Ma Quằng). Có thể nói đây là bộ phận giúp việc đắc lực cho quản chúa thực hiện chuyên chính về mặt tinh thần tư tưởng đối với nhân dân, duy trì quyền uy hiện thực của chúa đất.
Dưới châu là cấp tổng mà đứng đầu là Cai tổng và một Phó cai tổng. Dưới tổng là xã, đứng đầu là một Trưởng xã và một Phó xã (hay gọi là Lý trưởng, Phó lý). Dưới xã là bản có một Trưởng bản đứng đầu và một viên giúp việc gọi là Poọng.
Những chức dịch cao cấp cũng được cha truyền con nối, có khi còn có cả một số bản Lục Slườn, cả việc lợi dụng chức quyền bóc lột nhân dân. Đối với các chức dịch trong dòng họ Quằng, thì được miễn gánh vác, miễn phu phen và được hưởng ruộng đất, ngược lại các chức dịch không phải quý tộc cao cấp thì không được hưởng quyền lợi đó.
Theo tục lệ dân có quyền bãi bỏ Quằng khi Quằng tỏ ra “không còn xứng đáng” và thay thế bằng Quằng khác. Nhưng trong thực tế, do tổ hợp gồm nhiều yếu tố liên kết chặt chẽ, trường hợp mất chức, mất quyền rất hiếm khi xảy ra[27].
Viết về vấn đề này, Đặng Nghiêm Vạn cũng cho rằng, sự đồng nhất bản thân chúa đất với cộng đồng còn ở chỗ buộc toàn dân phải coi lai lịch dòng họ chúa là lai lịch của toàn mường; đàn ông dòng họ chúa có tên gọi riêng, là Tạo là Quằng, là Chẩu…; phụ nữ là Nàng, Mế nàng (bà) hay là Phẻ (Bảo Lạc). Dân phải xưng với chúa là Vài (trâu), là Mu (lợn), gọi con mình là Thác (châu chấu), là Nộc (chim – Bảo Lạc); coi việc mường vì loạn lạc mà vắng chúa là điều không thể có được, phải tìm mọi cách để chúa hiện diện nhằm yên lòng dân. Đặc biệt, mỗi lần chúa mới lên thay chúa khác cầm quyền, kể cả trong trường hợp chiếm đoạt, nếu thuộc dòng họ khác, thì phải đổi họ[28].
Sơ đồ bộ máy hành chính của Quản chúa (trường hợp họ Nông ở Bảo Lạc)[29]
(cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX)
Ở những vùng có chế độ Quằng xã hội phân hóa thành hai tầng lớp rõ rệt: tầng lớp thống trị gồm dòng họ Quằng, các chức dịch cao cấp và tầng lớp bị thống trị gồm các dòng họ nhà dân của các dân tộc. Tầng lớp Quằng có nhiều quyền uy về kinh tế, chính trị và xã hội.
Tầng lớp Quằng là chủ sở hữu về ruộng đất và các sản vật địa phương. Quằng là một chúa đất có quyền uy tuyệt đối, không những là chủ sở hữu đất canh tác, còn sở hữu cả đất đai, rừng núi, sông nước, muông thú và mọi sản vật trong phạm vi lãnh địa quản lý.
Theo luật lệ quy định thì các khu rừng gỗ quý, các sản vật quý ở trong rừng, tổ ong cánh kiến, hươu nai, gấu, báo, các khúc sông nhiều cá lắm tôm đều thuộc nhà Quằng, nếu ai muốn động đến phải nộp cho nhà Quằng những thú quý và một phần sản phẩm, như phát nương thấy tổ ong không được đụng tới, bắn được hổ phải nộp cả con, bắn được gấy phải nộp mật và bốn chân, được hươu nai phải nộp hai lườn thịt thăn nguyên vẹn, nếu có nhung phải nộp cả bộ, được lợn rừng phải nộp một chân trước, khúc sông gần chặng có cá của Quằng không ai được lai vãng đến đó bắt cá và ai bắt được cá ở sông suối thì con to nhất phải mang nộp cho Quằng…
Từ công việc sản xuất đến ăn, ở, mặc, cưới xin, ma chay… của nhà Quằng đều do nông dân lệ thuộc đảm nhận và cung cấp.
Trước thời Pháp thuộc, trong chế độ Quằng xã hội phân chia thành hai giai cấp theo ranh giới huyết tộc rõ rệt: một bên là dòng họ quý tộc gọi là quằng, nắm quyền thống trị mọi mặt, một bên là những dòng họ nông dân lao động – thực chất là nông nô – gọi là người Thổ (tiếng thổ ở đây không có nghĩa là người dân tộc Thổ, mà chỉ có nghĩa là tầng lớp bình dân, lao động). Quằng trực tiếp chiếm hữu một số ruộng đất tốt. Để canh tác số ruộng đất này và làm các công việc phục vụ khác trong nhà, quằng bắt nhân dân trong vùng nó thống trị lần lượt đến làm không công cho chúng, hoặc có nơi chúng giao hẳn cho những hộ – gọi là Tiểu gia (Yên Minh) trong một xóm, một thôn nhất định phải hoàn toàn chịu trách nhiệm làm không công cho chúng từ khi cày cấy đến khi đổ thóc vào bịch. Những Tiểu gia này được miễn những nhiệm vụ lao dịch khác. Ngoài số ruộng trên đây, còn một loại ruộng nữa tuy chúng phân chia cho những người làm việc trong bộ máy cai trị của chúng, và một phần nhỏ được phân chia cho những người nông nô hàng ngày phải đến phục vụ các công việc khác trong sinh hoạt của nhà quằng. Tên những ruộng này được gọi tùy theo việc mà người nông nô phải phục vụ: ruộng hầu khách (nà soài pát), ruộng trải chiếu (nà pái phục), ruộng mắc màn (nà khang sút), ruộng giặt gối (nà mon), ruộng coi cối giã gạo (nà lang tôi), v.v… Quằng có thể rút bớt số ruộng này về để trực tiếp canh tác hoặc phân chia cho con cháu nếu thiếu. Như vậy là, đối với loại ruộng này, Quằng không những chỉ có quyền phân phối, mà trên thực tế còn có quyền chiếm hữu nữa. Phần ruộng đất còn lại được phân phối cho dân chúng. Ban đầu họ chỉ có quyền sử dụng, về sau lại có quyền để lại cho người trực tiếp thừa kế. Dân chúng ngày càng khai phá thêm ruộng đất của mình. Người ta có quyền bán lại những ruộng đất này như là ruộng tư của mình. Nhưng bất kỳ là sử dụng ruộng đất công hay ruộng đất tư do mình khai phá, hoặc do cha ông khai phá để lại cho mình, nếu ruộng đất đó thuộc khu vực thống trị của Quằng, người nông dân đều phải làm tròn một số nghĩa vụ đối với Quằng. Những nghĩa vụ này có khi được ghi thành văn bản:
– Hàng năm phải đi lao dịch phục vụ Quằng: cày cấy, cắt cỏ, chăn trâu, làm nhà cửa v.v… gọi là đi làm Tung đãi hay Tiểu gia. Mỗi năm trung bình một hộ phải phục vụ ít ra cũng 2, 3 tháng.
– Phải làm nhiệm vụ binh dịch khi có giặc cướp.
– Hàng năm phải chia nhau đóng góp để cung phụng tất cả những nhu cầu về sinh hoạt mà Quằng cần thiết: bông để may mặc, trầu cau để ăn, trâu bò lợn gà để chi dùng khi có ma chay, cưới xin, trong những ngày tết v.v… Ngoài những khoản cung phụng thường kỳ như trên, ở mỗi nơi mỗi dòng họ Quằng còn đặt ra những khoản cung phụng khác nữa.
– Người nông dân ở đây không phải chỉ phải đem nộp một phần sản phẩm thu hoạch được trên ruộng đất của mình mà ngay cả thú vật săn bắn được trên rừng, tôm cá bắt được ở dưới sông, dưới suối cũng phải mang biếu Quằng một phần.
Mỗi một khoản cung phụng trên đây đều được quy định cụ thể: một năm mỗi hộ phải nộp bao nhiêu con cú bông, bao nhiêu lá trầu; săn được hươu nai thì phải nộp mấy đùi, đùi trước hay đùi sau v.v… Nếu người nông dân nào không làm đầy đủ nghĩa vụ đối với Quằng sẽ phải chịu nhiều hình phạt khác nhau, trong đó có cả hình phạt tịch thu ruộng đất, trục xuất đi nơi khác. Trong trường hợp người nông dân chết đi, không có người thừa tự (không có con hoặc chỉ có con gái) thì ruộng đất của người đó sẽ bị Quằng thu hồi và sử dụng: trực tiếp canh tác hay phân phối cho những nông dân nào nhận làm đầy đủ nghĩa vụ đối với Quằng. Những hình thức cung phụng trên đây chính là các hình thức khác nhau của địa tô lao dịch và địa tô hiện vgật mà bọn Quằng tiến hành bóc lột nông nô. Đó là hai hình thức địa tô xuất hiện ở giai đoạn đầu và giai đoạn giữa của lịch sử phát triển của chế độ phong kiến nói chung. Điều đó chứng tỏ rằng dưới chế độ Quằng, ngay đối với phần ruộng đất do ông cha để lại cho hoặc do mình mua hay khai phá được, người nông dân tuy về danh nghĩa có quyền sở hữu, nhưng cũng không có quyền sở hữu hoàn toàn. Thực chất số ruộng đất đó vẫn thuộc quyền sở hữu của Quằng. Điều đặc biệt nữa là Quằng không những chỉ có toàn quyền chi phối về ruộng đất, mà có quyền chi phối ngay cả bản thân con người nông dân nữa, có quyền nhường lại, bán họ lại cho kẻ khác: Quằng họ Nông ở Bảo Lạc trước ia có con gái lấy chồng Quằng họ Nguyễn ở Đồng Văn đã cắt cả xã Sơn Vĩ (trước thuộc Bảo Lạc, nay thuộc Đồng Văn) cho con gái làm của hồi môn khi về nhà chồng; từ đó nông dân Sơn Vĩ phải theo con gái họ Nông về phục vụ Quằng họ Nguyễn. Ở nhiều nơi như xã Quản Bạ, nhà Quằng còn đặt ra tục lệ sơ dạ là, bất kỳ con gái nhà dân nào trước khi về nhà chồng đều phải về ngủ với Quằng ba tối. Có như vậy người con gái sau này mới gặp điều may mắn, nếu ai không chịu sẽ bị trăm bề khốn quẫn, không mất trâu, mất ruộng thì cũng bị phạt vạ nặng nề.
Rõ ràng, Quằng là người sở hữu tối cao toàn bộ ruộng đất, núi rừng, sông suối và sản vật trong vùng chúng thống trị, đồng thời cũng là người chiếm hữu không hoàn toàn người nông dân. Quằng đã thuộc về tầng lớp phong kiến cát cứ còn người nông dân là những nông nô lệ thuộc. Chính vì những lẽ trên đã nảy sinh ra một thực tế là: chỉ có những người xuất thân từ dòng họ quý tộc cha truyền con nối. Người thuộc dòng họ chúng dân bất kể trong trường hợp nào cũng không bao giờ có thể được làm Quằng. Nếu nơi nào dòng họ Quằng tuyệt tự, phải đi đón dòng họ Quằng khác về thay thế. Như trường hợp Quằng họ Nông ở Bảo Lạc tương truyền từng có đời tuyệt tự, phải lấy con rể Quằng họ Nguyễn ở Đồng Văn về kế vị là vì thế.
Dựa trên cơ sở ruộng đất công, các chúa đất ở địa phương nắm quyền phân phối ruộng đất. Đất đai từ hình thức “Nà cúa háng mường, dân slo kin bjoóc” (ruộng của hàng mường, dân xin ăn hương hoa tức là ruộng thuộc quyền sở hữu của mường còn người dân chỉ có quyền chiếm hữu có điều kiện mà thôi), chuyển thành “Nà của háng mường, đin của chúa” (Ruộng của háng mường đất của chúa, tức là mặc dù trong quan niệm ruộng vẫn là của công, nhưng nằm trong lãnh địa của chúa đất đã trở thành sở hữu của chúa). Cư dân trong lãnh địa trở thành thần dân của lãnh chúa. Uy quyền lãnh chúa phụ thuộc vào địa vực khống chế rộng hay hẹp. Địa vực khống chế càng rộng thì thế lực càng lớn. Các mường ở cạnh nhau có sự lệ thuộc nhau – mường nhỏ, thổ tù thế lực yếu, thần phục mường lớn, thổ tù thế lực mạnh, thần phục thế lực mạnh. Ví dụ, thổ tù họ Nông Bảo Lạc với mường trung tâm là Mường Muồn chiếm toàn bộ phần đất rộng lớn miền đông Bảo Lạc, các chủ mường khác như: Quằng Ma Sĩ ở Mường Bang, Quằng Dương Đình ở Mường Đin… thuộc Tây Nam Bảo Lạc, Quằng các họ Nguyễn ở Đồng Văn, Yên Minh thuộc Hà Giang, Quằng họ Ma Doãn ở Chiêm Hóa, Quằng họ Nguyễn ở Na Hang… thuộc Tuyên Quang đều phải thần phục… Về sau dần dần bị thu hẹp ở châu Bảo Lạc, Cao Bằng.
Căn cứ vào thế lực khống chế địa vực rộng hẹp ở vùng Đông Bắc, chúa đất chia ra làm hai loại sau:
– Cai quản một châu mường tương đương với một châu hoặc lớn hơn chút ít mà dân địa phương gọi là Quản chúa hay Chúa công.
– Cai quản một vùng mường tương đương một tổng hoặc một xã. Cũng được nhà nước phong chức tước, nhân dân địa phương gọi là Quằng mường.
Như vậy, Quằng với danh nghĩa là người đại diện cho bản mường, được triều đình phong kiến phong chức tước, cho cai quản một vùng, thực chất là lãnh chúa phong kiến trong vùng, nắm toàn quyền sở hữu đất đai trong phạm vi chúng thống trị. Cho nên dù ruộng công hay ruộng tư, thì số ruộng đất đó vẫn thuộc quyền quản lý của Chúa đất – Quằng[30]. Dưới thời Pháp thuộc, chế độ Quằng để tồn tại được thì nó phải có những biến đổi mới. Về căn bản, Quằng vẫn duy trì những đặc quyền đặc lợi bóc lột cũ, ngoài ra nó còn kết hợp cả những hình thức bóc lột mới của địa chủ phong kiến (phát canh thu tô) hoặc của tư bản nông thôn (thuê nhân công, nuôi người ở, cho vay nợ lãi, buôn bán, đầu cơ v.v…). Nghiên cứu một số gia đình Quằng ở xã Yên Phú huyện Vị Xuyên trước Cách mạng tháng Tám thì thấy rõ tình hình đó.
Nguyễn Thế Ru:
a/ Về ruộng đất:
– Chiếm hữu 1800 bó mạ (độ chừng 150 bó mạ bằng một mẫu Bắc Bộ). Ruộng trực tiếp canh tác bằng cách sử dụng không phải trả công sức lao động của nhân dân.
– Chiếm hữu 1500 bó mạ ruộng – mà ở địa phương gọi là ruộng công – phân cho những gia đình nông dân phục vụ hầu hạ gia đình y. Số ruộng này được phân chia cụ thể như sau:
– Ruộng hầu khách 150 bó mạ
– Ruộng đón dâu 120 bó mạ
– Ruộng mắc màn 300 bó mạ
– Ruộng làm cối nước giã gạo 100 bó mạ
– Ruộng làm phướn đưa ma 240 bó mạ
– Ruộng làm cơm sáng 300 bó mạ
– Ruộng trải chiếu 300 bó mạ
– Ruộng thực sự Nguyễn Thế Ru phải bỏ tiền ra mua (cố nhiên cũng chỉ là hình thức chiếm đoạt khéo) gọi là ruộng tư chỉ có 950 bó mạ.
b/ Về rừng: Trực tiếp chiếm hữu 10 mẫu (4 mẫu ở Nà Liêng, 3 mẫu ở Nà Mén, 3 mẫu ở Nà Pi Ia) để lấy gỗ, vầu, cọ và các lâm sản khác.
– Nguyễn Đình Thừa: a/ Về ruộng đất:
– Chiếm hữu trên 1000 bó mạ để trực tiếp canh tác.
– Chiếm hữu 1570 bó mạ, phân chia cho các gia đình nông dân hầu hạ gia đình y. Trước Cách mạng tháng Tám, y đã rút trong số ruộng này lấy 600 bó mạ để phát canh thu tô và 300 bó mạ để làm của hồi môn cho con gái đi lấy chồng.
– Ruộng do Quằng thực sự bỏ tiền ra mua chỉ có 350 bó mạ.
– Ngoài các hình thức bóc lột cũ của chế độ Quằng, nhà Quằng còn dựa vào thế lực của nhà nước để vơ vét của nhân dân bằng phù thu lạm bổ, hối lộ, phạt vạ, giữ độc quyền bán muối với giá cắt cổ. Ngoài ra, Quằng còn tiến hành bóc lột bằng đầu cơ buôn bán (chủ yếu là buôn thuốc phiện lậu), cho vay nặng lãi, thuê mướn nhân công, nuôi người ở.
Trong 30 năm, Nguyễn Đình Thừa đã nuôi 16 cặp vợ chồng người ở.
Nông thôn ở đây, về cơ bản vẫn có sự phân hóa thành một bên là phong kiến cát cứ – Quằng -, một bên là nông dân, thực chất là nông nô. Bên cạnh sự phân hóa cũ, lại song song tồn tại một sự phân hóa giai cấp mới. Nông thôn không phải chỉ có hai giai cấp thuần nhất (Quằng và nông nô) như dưới chế độ Quằng trước thời Pháp thuộc. Cùng với chế độ bóc lột của Quằng còn có tác động của quan hệ tiền tệ – hàng hóa, dần dần thúc đẩy nội bộ nông dân phân hóa theo hai chiều: số đông bị đẩy xuống địa vị cố nông, bần nông và trung nông, số ít trở thành phú nông và địa chủ, những giai cấp bóc lột mới[31].
Còn một số đặc trưng nữa như Đàm Thị Uyên cho biết là, dòng họ Quằng nắm giữ các chức vụ quan trọng trong bộ máy hành chính, dựa vào đó bóc lột nông dân. Trong sinh hoạt hàng ngày, giữa dòng họ Quằng và dòng họ nhà dân có sự cách biệt ngặt nghèo.
Con trai dòng họ Quằng có thể lấy năm thê bảy thiếp con gái nhà dân, trái lại, con trai nhà dân không được lấy con gái nhà Quằng. Dân phải gọi Quằng là Chúa là Quằng, gọi vợ Chúa là Phè. Người vợ xuất thân từ dòng họ Quằng được gọi là Phè, xuất thân từ họ nhà dân chỉ được gọi là A. Bố mẹ vợ gọi con rể (xuất thân từ dòng họ Quằng) là Ông Khươi chứ không được gọi là Lục Khươi, hoặc con gái làm dâu nhà Quằng cũng phải gọi là Nàng Lùa chứ không được gọi trống không là Lục Lùa. Con cái nhà Quằng dù đang còn ẵm ngửa, dân cũng phải gọi là Ông Báo, Bà Nàng, dân tự xưng là Khỏi. Đi đường gặp Quằng dân phải xuống ngựa, ngả mũ nón, đứng né sang bên đường, chắp tay kính cẩn vái chào, khi đi qua trước cửa nhà Quằng, dân phải cúi đầu, ngả nón đi thật nhanh, không được ngó ngang liếc dọc.
Công việc dù vội, dù khẩn cấp đến mấy, nhưng thấy Quằng đang đi đằng trước cũng không được vượt lên. Những thứ như nhà, giường, áo… của Quằng dân không được bắt chước làm theo (như dân không được làm nhà cột kê trên đá tảng, cột nhà dân phải luôn nhỏ hơn cột nhà Quằng, không được lợp ngói, lá ván phẳng lì như nhà Quằng; không được mặc áo lụa là, mặc quần trắng, đội khăn xếp, chỉ được mặc quần màu chàm, chít khăn bó hay chít khăn mỏ rìu…).
Cách thức thống trị của Quằng là lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo một cách triệt để nhất, sâu sắc nhất, rộng rãi nhất, hay nói cách khác Quằng sử dụng thần quyền để ràng buộc, áp chế tư tưởng tinh thần phản kháng của quần chúng nhân dân, buộc phải cam chịu cảnh đời bị áp bức, bóc lột.
Có thể nói rằng tôn giáo tín ngưỡng là chỗ dựa tinh thần của chế độ Quằng và chính lực lượng tinh thần này có tác dụng thực sự mạnh mẽ, vững chắc như lực lượng vật chất.
Quằng bịa đặt ra rằng tổ tiên và bản thân họ có sức mạnh Ma Na (uy lực siêu nhiên) che chở, vi phạm vào chúng là vi phạm đến siêu nhiên, vi phạm vào sự thịnh vượng của bản mường, vào sự phong đăng của mùa màng, sinh sôi nảy nở của gia súc. Chỉ có Quằng mới là người liên hệ giữa thần linh ma quỷ với con người, để cầu xin giáng phúc, giáng họa, kể cả việc cầu xin lực lượng huyền bí hoặc giết chết một người nông dân lương thiện nào đó dám trái lệnh, phản kháng. Mo, Then cũng chỉ là người giúp việc cho Quằng chứ không thể trực tiếp liên hệ với thần linh.
Nhân dân lao động tùy theo mức độ khác nhau mà sự lệ thuộc vào Quằng cũng khác nhau. Cụ thể có các loại sau:
– Tầng lớp Tày: Nguồn gốc lịch sử họ là thành viên của công xã nông thôn trước đây, khi xã hội bước vào thời kỳ phong kiến, thì tầng lớp này cũng bị phong kiến hóa dần, trở thành những người nông dân tự do, và dưới chế độ Quằng, họ là thành viên tự do trong vùng, được phân phối ruộng đất công và được tự do khai phá thêm đất hoang để làm ruộng rẫy trồng trọt khi đã được chúa đất đồng ý cho phép. Lúc đầu ruộng đất công hay ruộng đất tư được bản mường cấp hoặc tự khai phá… họ chỉ có quyền chiếm hữu và sử dụng có điều kiện theo nguyên tắc là “Nà của háng mường, đin của chúa, dân so kin bioóc” (ruộng của háng mường, ruộng đất của quan, dân xin ăn hương hoa) nên không có quyền sở hữu. Về sau họ có quyền cho con cháu kế thừa. Đối với ruộng đất do tổ tiên để lại họ cũng có quyền được bán nữa. Hàng năm người nông dân Tày phải làm tròn một số nghĩa vụ cho Quằng như:
+ Lao dịch: sửa chữa, mương phai, công nghệ nước, cày cấy, chăm sóc và thu hoạch mùa màng, chăn dắt trâu ngựa… Khi Quằng làm nhà, phải nộp nguyên vật liệu: hoành, kèo, cột, gianh, ngói máng, tre gỗ ván làm sàn, làm vách… (tất cả những thứ đó đem đến phải được Quằng chấp nhận nếu không ưng phải tìm cái khác). Các hình thức lao dịch trên, tục địa phương gọi là “di phiên” mỗi phiên khoảng 10 ngày.
+ Phải cung phụng cho nhu cầu của gia đình Quằng: bông để kéo sợi, trầu cau để ăn; trâu, bò, lợn, gà trong những dịp lễ tết, hội hè, ma chay, cưới xin… và khi chúa cần là có. Một số địa phương có đặc sản quý như cá óc thơm, vải, tuyết lê, thuốc quý… đều phải nộp cho gia đình Quằng.
+ Phải làm nghĩa vụ “binh dịch” khi có giặc dã phải thường xuyên canh gác nhà trại của Quằng.
Ngoài nghĩa vụ đối với Quằng, người dân còn phải làm một số công việc chung của bản mường: đào mương, đắp phai, làm đường xá, tham gia và đóng góp vào các buổi tế lễ chung, khi có giặc, toàn dân đều là binh.
Những hình thức phục dịch và cống nạp trên đây “là thể hiện sự khác nhau của tô lao dịch và tô hiện vật mà bọn quằng đã tiến hành bóc lột. Đó là hai hình thức địa tô xuất hiện ở giai đoạn đầu và giai đoạn giữa lịch sử phát triển của chế độ phong kiến nói chung.
– Tầng lớp Lục Slườn: Lục Slườn có nơi gọi là Thủ hạ (Chiêm Hóa, Tuyên Quang). Đây là tầng lớp nông nô bị lệ thuộc nhiều hơn vào Quằng và địa vị xã hội thấp hơn tầng lớp Tày, có thể gọi họ là loại nông dân bán tự do trong xã hội phong kiến tương tự như loại Cuông, Nhốc ở người Thái Tây Bắc, hoặc Thin ở vùng người Mường Hòa Bình.
Về nguồn gốc lịch sử, Lục Slườn là những người đồng tộc từ nơi khác đến ngụ cư trên lãnh địa của chúa đất hoặc những tù binh bị bắt trong chiến tranh, từng biến thành gia nô của các tổ tù địa phương.
Trong tầng lớp Lục Slườn có cả những người Tày vì một lý do nào đó (mắc nợ Quằng hoặc không làm đủ nghĩa vụ…), phải làm Lục Slườn.
Không chỉ Quằng mới có Lục Slườn, mà các chức dịch trong bộ máy thống trị của Quằng cũng có.
Lục Slườn tuy có tài sản riêng, cuộc sống gia đình riêng nhưng chúa có quyền can thiệp vào cuộc sống riêng tư của họ như khi tuyệt tự thì tài sản quy vào nhà của chúa. Lục Slườn từ đời này qua đời khác đều phụ thuộc vào chúa, họ chỉ được phép lấy những người trong cùng một đẳng cấp, nếu lấy những người ở đẳng cấp Tày, thì nếu người vợ hay người chồng thuộc đẳng cấp trên, cũng phải chịu thân phận làm Lục Slườn hoặc phải mất một số tiền lớn nộp cho nhà chúa. Địa vị xã hội của Lục Slườn cũng có thể được nâng lên, nếu như có thế mạnh về kinh tế và nộp cho chúa đất một số tiền nhất định hoặc được người Tày trong bản đồng ý.
Lục Slườn là tầng lớp thấp kém trong xã hội, vì trên danh nghĩa họ là người của nhà chúa, không phải tham gia những công việc công cộng, phu phen, tạp dịch. Cũng không phải làm nghĩa vụ “binh dịch”, không được tham gia vào các công việc chung của bản mường như hội hè hay những hoạt động tôn giáo chung, không được tham gia chức vụ gì trong bộ máy cai trị địa phương.
– Tầng lớp Khỏi Slườn có nơi gọi là Lục Khỏi (hay còn gọi là gia nô) là những người mắc nợ phải mang thân đi bán hoặc đi ở để gán nợ, những người vi phạm luật tục (những kẻ loạn luân, thông dâm không đủ tiền phạt vạ), xúc phạm đến chúa đất và những người không nơi nương tựa phải đi ở… Khỏi Slườn chủ yếu làm những công việc nội trợ và hầu hạ trong nhà, họ không tham gia lao động sản xuất nông nghiệp, không làm các nghề phụ gia đình… Họ không có nhà cửa, tài sản riêng, sống trong nhà và phụ thuộc hoàn toàn vào nhà chủ. Nhà chủ coi họ như một thứ tài sản riêng, một loại “công cụ lao động”, biết nói, tùy ý sai khiến, đánh đập, chửi mắng và tùy ý xử lý (như có quyền đem bán hoặc nhượng lại cho người khác…). Chủ cũng cho phép Khỏi Slườn chuộc mình, tự giải phóng như người nào không trả được nợ hay nộp được vạ phải đi ở ba đời (đời mình, đời con và đời cháu) mới được giải phóng và trở thành người dân tự do. Hai người nô lệ nam nữ muốn lấy nhau thì phải thêm một đời nữa tức là đến đời chắt mới được giải phóng.
Người nô lệ muốn làm một người dân tự do thì phải trả xong nợ, nộp xong vạ hay cho người khác đi ở thay mình, nếu không thì người vợ hay người chồng mới cưới, dù là dân tự do cũng biến thành nô lệ. Luật lệ này rất khắt khe, ít trường hợp Khỏi Slườn được giải phóng trước thời hạn. Nếu Khỏi Slườn muốn lấy vợ hay chồng thuộc đẳng cấp khác thì phải nộp cho chủ 50 đồng bạc trắng (1 con trâu giá từ 3 đến 5 đồng bạc). Đây là một khoản tiền mà họ không thể có được. Khỏi Slườn lại không có kinh tế riêng, nên hoàn toàn nương nhờ vào sự rộng lượng của gia chủ cho giải phóng trước thời hạn.
– Tầng lớp Lục Lùng bao gồm các dân tộc khác với lãnh chúa Quằng sống trong khu vực khống chế của Quằng… Họ là những dân tộc di cư đến muộn hơn như Nùng, Mông, Dao, Lô Lô, Sán Chay… Những dân tộc này nói chung là làm nương rẫy, muốn khai phá đất đai trồng trọt họ phải xin phép lãnh chúa và phải chịu sự bóc lột của lãnh chúa bằng tô hiện vật và tô lao dịch. Những dịp nhà chúa có ma chay, cưới xin, làm nhà mới, lễ tết sinh nhật… phải đến phục dịch và mang lễ vật theo quy định. Mặc dù các dân tộc này có tổ chức xã hội riêng nhưng họ vẫn phải phụ thuộc vào các cấp chính quyền của lãnh chúa như mọi người dân khác trong vùng. Các Lục Lùng cũng có sự phân biệt đối xử cao thấp khác nhau tùy theo địa vị kinh tế xã hội của từng dân tộc: Như người Nùng ngoài sản xuất nông nghiệp họ còn biết làm một số ngành nghề thủ công khác như rèn, mộc, giấy dó, nung vôi, làm hương, làm ngói… nên được đối xử như người Tày. Còn người Mông bị đối xử thấp kém hơn.
Các tầng lớp trên do bị phụ thuộc nên người lao động không được tự do sáng tạo, hưởng thụ thành quả lao động, không được tự do tư duy nên đã làm cho xã hội càng trì trệ hơn.
Hiểu được đặc điểm này, ta mới giải thích được tại sao trước đây, một số vùng ở Bảo Lạc, Đồng Văn cho đến những năm trước và một thời gian sau Cách mạng tháng Tám 1945, tuy chế độ Quằng không còn tồn tại trên danh nghĩa nhưng nhiều gia đình vốn thuộc dòng họ Quằng xưa vẫn duy trì sự bóc lột về kinh tế và có ảnh hưởng mạnh mẽ trong nhân dân như mỗi khi trong bản xã có người được làm chức dịch nhưng vẫn phải đến xin ý kiến mới xong. Đến vụ gieo cấy nhân dân vẫn đến làm giúp Quằng, trai gái thành hôn vẫn mời Quằng đến chứng kiến, trong nhà có người chết vẫn phải báo cho Quằng biết, sau đó mới được đón tào, mo về lo liệu ma chay…[32].
Trong diễn trình lịch sử, xã hội truyền thống của các Quằng Mường vẫn được duy trì, có quan hệ chặt chẽ với định chế chính trị chung của quốc gia, giống như việc Thổ tù mặc dầu mang chức tước của triều đình nhưng vẫn thế tập dòng họ, bộ phận chức dịch vẫn mang tên gọi truyền thống thực hiện những chức năng thống trị của Quằng, nhưng lại nằm trong một hệ thống chính quyền thống nhất từ trung ương cho đến địa phương. Lãnh thổ địa phương của các cấp hành chính cũng thay đổi theo sự phân chia lại của các vương triều, đơn vị mường trước đây có thể nằm trong một xã, cùng chung trong một tổng hay bị phân chia lệ thuộc vào nhiều xã, nhiều tổng khác nhau.
Các vương triều phong kiến Việt Nam ý thức được vị trí chiến lược xung yếu của miền biên giới phía Bắc, đã thi hành nhiều chính sách dân tộc – miền núi thích hợp và có hiệu quả. Chính sách nhu viễn cươngđược sử dụng như là quốc sách hàng đầu, việc cử các quan lại miền xuôi lên trấn trị miền núi được thực hiện từ thời Lý – Trần, được mở rộng dưới thời Lê Sơ và Nguyễn, nhất là khi Minh Mệnh thực hiện chính sách Cải thổ quy lưu. Kết quả đã góp phần tích cực trong sự nghiệp củng cố quốc gia thống nhất, giữ vững biên cương lãnh thổ, đẩy lùi những thế lực cát cứ và can thiệp từ bên ngoài.
Thực hiện quyền quản lý đất nước, các vương triều phong kiến Việt Nam đã thiết lập định chế chính trị nhà nước trên địa bàn lãnh thổ miền núi. Các đơn vị hành chính cấp Châu hay còn gọi là Châu Mường có thể đã được thiết lập trên cơ sở lãnh thổ của một số mường vốn có quan hệ lệ thuộc, chi phối trước đó, Quản chúa hay Chúa công lãnh luôn chức Tri châu. Lãnh thổ của từng Mường có thể đã chuyển thành các đơn vị tổng hoặc xã, các Quằng Mường kiêm luôn chức tổng trưởng, xã trưởng ở địa phương[33].
Từ những năm 30 của thế kỷ trước, khi bình luận về chế độ Thổ ty, Nguyễn Văn Huyên trong loạt ghi chép về Những giống người và chế độ Thổ ty ở châu Chiêm Hóa đã viết: “Không dám nói rằng chế độ Thổ ty sẽ vĩnh viễn ở đất này, thời cái chế độ ấy không phải là không hay. Vì sự tín ngưỡng đó đã nảy mầm mọc rễ trên 5 thế kỷ nay, lại có cái tính cách tôn giáo lạ lùng ấy nữa nên một vị quan Thổ ty ở trong mắt dân gian như một Thần sống chứ không phải là một quyền luật sống ở con mắt dân hạt khác. Họ phục tùng một cách sâu xa mật thiết có tỏ lòng kính cẩn ở trong chứ không phải do luật lệ xã giao bắt buộc gì. Bởi sự tín ngưỡng của dân đối với mình là thế nên quan Thổ ty bao giờ cũng coi dân mình như con em trong một tộc họ vậy. Quan dân tương ái tương thân như thế, cho nên việc hành chính rất dễ dàng […].
Nói tóm lại, theo chế độ Thổ ty, miễn người cầm quyền có đủ tư cách làm cha mẹ dân, trên giúp Chính phủ, dưới mưu hạnh phúc cho con em trong hạt, thì cái lòng tín ngưỡng Thổ ty ấy ở trong óc người dân Chiêm Hóa không bao giờ kém đi hay mất đi được.
Đó là theo tâm lý dân tình người bản hạt, thuật – giả có mấy lời suy đoán thế thôi còn sự thay đổi chế độ đó kết quả thế nào, thì không sao nói quyết được, đó là một điều bí mật của tương lai sẽ giải đáp cho ta nhưng cứ theo lẽ thông thường thì ở đời không gì là tuyệt đối”[34].
II . KHU VỰC NGƯỜI MÔNG – DAO
Cách ngày nay trên 300 năm, vào cuối thời Minh, đầu đời Thanh, hàng trăm gia đình họ Lù, họ Giàng của người Mông từ Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây (Trung Quốc), thoát ra ngoài phong trào chống Cải tù quy lưu (xóa bỏ Tù trưởng người Mông, đưa lưu quan người Hán đến cai tri) đến định cư ở các vùng đất ngày nay thuộc các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc. Độ một thế kỷ sau đó, nhiều người Mông thuộc các dòng họ Vàng, họ Lý di chuyển tới Đồng Văn; những người khác cũng thuộc họ Vàng hoặc họ Lù, Chấu, Sùng, Hoàng, Vừ thì đến khu vực Si Ma Cai, Bắc Hà ngày nay thuộc Lào Cai hoặc đi xa hơn, đến tận Lai Châu, Sơn La. Sau khi phong trào Thái Bình Thiên quốc (1840-1868) thất bại, hàng vạn người Mông cũng từ các địa phương trên của Trung Quốc tràn đến hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta. Từ đó về sau này, người Mông vẫn lẻ tẻ di cư vào Việt Nam theo ngả Đồng Văn. Chính vì vậy, với sự có mặt của khoảng 800.000 người trên toàn lãnh thổ, thì Hà Giang đã có tới trên 180.000 người Mông, đông nhất tỉnh với các khu vực có mật độ cao như Đồng Văn, Mèo Vạc, Quản Bạ.
Xếnh, Xông tức dòng họ là hạt nhân căn bản của cấu trúc xã hội cổ truyền trong dân tộc Mông. Trên quy mô rộng lớn, người Mông quan niệm tất cả những người cùng mang một họ, dù cư trú ở bất kỳ đâu là chung một nguồn, cùng ma, đều được sinh ra từ một ông tổ. Ngoài tính cố kết rộng lớn này, họ còn có thể nhận ra nhau qua những kiêng kỵ trong ăn uống, qua nghi thức cúng ma khô, cúng ma buồng, cách đặt người chết, hướng mộ và cách làm ma tươi.
Người Mông coi Ôu Thờu – Trưởng họ là linh hồn của tất cả mọi thành viên trong dòng họ vì ngoài khả năng tổ chức, Trưởng họ phải là người giầu kinh nghiệm trong sản xuất, quan tâm đến đời sống và bảo vệ lợi ích cho dòng họ, truyền dạy lệ tục cho con cháu. Với trách nhiệm duy trì mọi sinh hoạt trong dòng họ (tổ chức khai hoang, hướng dẫn việc hiếu hỉ, làm nhà mới), giao tiếp với bên ngoài và chính quyền, dàn xếp tranh chấp, tổ chức cúng lễ đầu năm v.v..
Phâux – Bà cô cũng có vị trí quan trọng trong dòng họ của người Mông khi ra những quyết định thay đổi tập quán pháp còn Cho đáng khô – Người cầm quyền ma quyền khách đảm nhiệm những việc liên quan đến tôn giáo và đối ngoại.
Trưởng họ – Bà cô – Người cầm quyền ma quyền khách tạo nên bộ máy tự quản hữu hiệu trong xã hội truyền thống của người Mông.
Người Mông thường cư trú theo dòng họ nên nhiều bản chỉ có một dòng họ. Ở các bản các dòng họ cư trú xen kẽ, dòng họ nào có công khai phá, lập bản thường có quyền lợi lớn hơn như được cử người làm Trưởng bản, được chủ trì lễ cúng đuổi ma, cúng thổ thần. Người cùng dòng họ có thể chết trong nhà của nhau, giúp nhau mưu sinh hay khi gặp hoạn nạn, lúc làm nhà. Tính cố kết chặt chẽ thông qua quan hệ huyết thống, những mối liên hệ và tín ngưỡng do đó dòng họ và vai trò Trưởng họ đối với người Mông là vô cùng hệ trọng.
Người Mông tụ cư thành từng Jaol – tức là Bản, trung bình có từ 10 đến 30 nóc nhà, bố trí từ lưng chừng lên đến đỉnh núi. Tuy không quy định về hướng nhưng người Mông kiêng không quay lưng nhà ra suối, khe hoặc vực sâu. Thông thường, các ngôi nhà thường dựa lưng vào núi, xung quanh có hàng rào đá bao quanh.
Ranh giới giữa các Jaol có thể là một bìa rừng, một ngọn núi hay một con suối, một cây lớn, tuy mang tính ước lệ nhiều hơn nhưng được duy trì và công nhận. Đất đai, rừng rú, ruộng nương, nguồn nước, muông thú trong phạm vi ranh giới, Jaol có quyền sở hữu, quản lý, bảo vệ và sử dụng.
Đứng đầu Jaol là Chư dò (Chư dinh) – Trưởng bản, người đứng ra thực hiện tập quán pháp và đôn đốc mọi người thực hiện. Chư dò thường được bầu từ những dòng họ lớn, dòng họ cư trú lâu đời tại địa bàn. Cũng có những nơi chức vụ này luân phiên giao cho Ôu Thờu của các dòng họ với điều kiện người này giỏi ứng xử, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, miệng nói tay làm. Những điều kiện chọn lọc khắt khe kể trên nhằm giúp cho dân trong Jaol tìm được đúng người giỏi giang trong việc điều hành công việc chung, giữ gìn an ninh, phân phối công bằng đất đai, giải quyết tốt các xung đột nảy sinh, xử phạt nghiêm minh các sai phạm. Ôu Thờu được miễn đóng thuế thuốc phiện, chỉ phải đóng một phần thuế nông nghiệp, miễn phu dịch.
Do sự có mặt ở Việt Nam muộn, lại chia thành nhiều đợt, lúc thì ồ ạt, khi thì lẻ tẻ cộng với lối cư trú phần lớn xen kẽ, sản xuất phần nhiều theo lối du canh, du cư cho nên trong xã hội người Mông ở Hà Giang không có thiết chế chính trị riêng mà phụ thuộc hoặc đúng hơn là bị cuốn hút vào chế độ Quằng của người Tày, do đó chỉ nảy sinh ra tầng lớp Mã phải, Seo phải ở cấp Jaol mà thôi.
Mã phải – Mo phìa là người đứng đầu và quản lý một Jaol, được người tiền nhiệm chọn lựa hoặc do dân chúng bầu lên với tiêu chuẩn phải là người giầu có, được mọi người tín nhiệm. Họ có thể giữ chức vụ này đến trọn đời nếu làm tốt, còn không sẽ bị thay thế. Tầm kiểm soát và quyền hạn của Mã phải bao gồm việc quản lý dân cư, đất đai, thuế khóa, trật tự trị an. Khi mỗi gia đình trong Jaol có việc hiếu, hỷ, cúng tế, đều phải trình báo và hầu như phải có sự chứng kiến, chủ trì của Mã phải. Mã phải được sử dụng con dấu.
Seo phải – So phìa là những người giúp việc cho Mã Phải ở các lĩnh vực như liên lạc, truyền đạt, triệu tập dân chúng khi có những công việc lớn. Thông thường mỗi Mã phải có 2 – 3 Seo phải là trợ thủ.
Mã phải, Seo phải vẫn trực tiếp tham gia công việc nương rẫy với gia đình.
Giữa thế kỷ XIX, thế lực của người Mông ở Hà Giang lớn mạnh đến mức dần dần thoát khỏi sự kiềm tỏa của chế độ Quằng. Ở cấp liên Jaol – tương đương với cấp Mường của người Tày, người Mông có người đứng đầu với chức danh Thống lý. Xã hội cũng phân chia thành giai cấp một cách rõ rệt theo ranh giới huyết thống. Thống lý với danh nghĩa là kẻ sở hữu tối cao đã nắm giữ toàn bộ ruộng đất và trực tiếp sở hữu số ruộng đất tốt nhất. Nhân dân trong vùng phải đến làm không công trong việc canh tác đất đai, cày cấy, thu hoạch và phục vụ việc nhà cho Thống lý, Mã phải. Kể từ đây Thống lý, Mã phải hợp thành tầng lớp Thổ ty cai quản trực tiếp về kinh tế, con người và phân công lao động xã hội, phân bổ lực lượng trai tráng tham gia vào các đội vũ trang. Nhằm triệt để hưởng thụ các đặc quyền, đặc lợi, tầng lớp Thổ ty người Mông đã sử dụng khá nhiều Tỷ súng cho các công việc tạp dịch như chăn ngựa, đun nước, từ 5 đến 10 Thúc dung (dân dõng) thay phiên nhau bảo vệ. Khi gia đình Thổ ty có việc hiếu, ngoài việc được thổi kèn, đánh trống, mổ nhiều gia súc, gia cầm họ còn được mọi người nhà cắt cử người đến phục vụ.
Cuộc thiên di của người Mông đến giữa thế kỷ XIX tại Hà Giang cũng đánh dấu một cột mốc quan trọng khác – đó là sự hình thành những Thổ ty, được ghi nhận là những Vua Mèo trong các dòng họ Vàng, họ Dương, họ Ma, họ Đào… Ở mỗi dòng họ này, ngoài những tập tục riêng, những thói quen thờ cúng riêng lại có những thủ lĩnh riêng nổi lên nhận trách nhiệm bảo vệ sự an nguy và sức sống của cả dòng họ, trong đó hầu hết xuất thân từ những gia đình danh giá, giàu có nhất trong dòng họ.
Ở người Mông, trong một họ lại chia ra từng dòng khác nhau. Để nhận biết được điều này phải thông qua một số tập tục riêng của từng họ, từng dòng. Chẳng hạn trong họ Vàng, có dòng cúng tổ tiên 33 bát (mâm cỗ cúng phải có 33 bát), dòng cúng tổ tiên 13 bát, dòng làm ma cho người chết bằng chòi cỏ gianh để che quan tài, dòng làm chòi bằng cành cây, dòng ăn nhạt. Họ Mã thì chôn người chết nằm ngang, họ Đào và một số họ khác phải chôn dọc. Trong họ Dương, có dòng thì kiêng ăn tim động vật, có dòng lại kiêng ăn lá lách. Những tập quán pháp kể trên đã khiến cho người Mông vừa gắn bó nhưng cũng vừa tách biệt nhau. Những người đứng đầu dòng họ có quyền năng rất lớn, hình thành nên một bộ phận chỉ đạo rồi từ đó chọn ra một thủ lĩnh tối cao thông qua sự nhất trí của cộng đồng mà ta quen gọi là Vua Mèo.
Vào thời ấy, Thổ ty Dương Tụ Nghĩa vốn xuất thân từ một gia đình danh giá ở Quý Châu (Trung Quốc), khi tới Đồng Văn, Mèo Vạc, gia tộc họ Dương này có nhiều nương thuốc phiện và nắm giữ quyền lực lớn nhất trong vùng. Đúng vào thời điểm này, người Pháp nổ súng đánh chiếm Việt Nam còn triều đình Mãn Thanh cũng cho quân tràn đến Hà Giang nhằm tiêu diệt các nhóm người Mông vì lo sợ mối nguy hiểm vùng biên giới. Tại Đồng Văn, sau khi thủ lĩnh Vừ Phán Lùng bị sát hại, Vàng Dí Tủa được dân chúng cử lên thay thế nhưng rồi ông cũng bị bệnh, sớm qua đời. Kể từ đây, sự nghiệp được trao vào tay Vàng Dúng Lùng.
Chiếm được Hà Giang từ năm 1887, người Pháp lập ra ba đồn Bạch Đích, Yên Minh và Đường Thượng nhưng vẫn phải tìm mọi cách dựa vào tầng lớp Thổ ty ở địa phương để củng cố nền thống trị của mình, đồng thời chia ra:
– Khu vực phía bắc, ngày nay thuộc huyện Mèo Vạc giao cho Thổ ty Dương Tụ Nghĩa cai quản.
– Khu vực giữa, ngày nay là huyện Đồng Văn giao cho Thổ ty Nguyễn Chánh Quay quản lý.
– Khu vực kế tiếp từ Sà Phìn đến Phố Bảng do Thổ ty Vàng Dúng Lùng chiếm cứ.
– Khu vực phía nam, ngày nay là huyện Yên Ninh nằm trong tay Thổ ty Nguyễn Chánh Tư và Nguyễn Doãn Quý.
Ngoài ra, tại khu vực đồn Đường Thượng, Thổ ty Đào Văn Át được giao làm Bang tá trong một số năm.
Mặc dù đã có sự thỏa hiệp với các thủ lĩnh địa phương nhưng cuộc đấu tranh chống Pháp vẫn tiếp diễn. Nghĩa quân người Mông dưới sự chỉ huy của Sùng Mì Chảng đã lập căn cứ ở vùng núi Tú Sán, từ năm 1903 đến năm 1905 đã gây cho Pháp nhiều thảm bại nhưng cuối cùng bị đánh dẹp do âm mưu cài cắm, mua chuộc của đối phương.
Được Pháp làm hậu thuẫn, Thổ ty Dương Tụ Nghĩa không ngừng thâu tóm quyền lực, tự nhận là Vua Mèo, cho thuê thợ từ châu Vân Sơn (Vân Nam – Trung Quốc) xây dựng tòa lâu đài đá Sùng Chà để gây thanh thế.
Trong khi đó, Vàng Dúng Lùng với đội nghĩa binh hươu nai sau khi tiêu diệt hết tàn tích của Thanh phỉ, lại tiếp tục giương cao ngọn cờ kháng Pháp và âm mưu lấn chiếm của nhà Thanh. Suốt 9 năm trời, Thổ ty Vàng Dúng Lùng đã dựa vào địa hình hiểm trở liên tục bẻ gẫy những cuộc tấn công của binh lính Pháp lên Đồng Văn. Năm 1909, đứng trước một binh lực lớn của Pháp, Vàng Dúng Lùng lui vào rừng núi, tiếp tục mộ binh chiến đấu. Với chiến thắng vang dội tháng 10-1913 Vàng Dúng Lùng buộc Pháp phải ký hòa ước, chấp nhận triệt thoái lực lượng quân sự ra khỏi Đồng Văn, trả địa phương cho người Mông cai quản thông qua chế độ tự trị. Thắng lợi lớn lao này đã khiến cho uy danh của Vàng Dúng Lùng lên cao, đánh bạt ảnh hưởng quyền lực của Dương Tụ Nghĩa và con trai ông ta là Dương Trung Nhân kế vị sau này:
Vàng Dúng Lùng sinh ra trong một gia đình nghèo thuộc chi út (chi thứ 6) của họ Vàng dòng 33 bát, mồ côi cha từ nhỏ. Khác hẳn với người anh là Vàng Trá Pò vốn hiền lành và có phần nhút nhát, Vàng Dúng Lùng tính cách khá mạnh mẽ, cương cường mặc dù phải sống lang thang nay đây, mai đó và trong cảnh đội quân Thanh phỉ dưới trướng Hà Quốc Trường ngày đêm cướp bóc, tàn sát khắp vùng Hà Giang. Có mặt trong đội nghĩa binh của Vừ Phán Lùng rồi Vàng Dí Tủa – người họ Vàng chi thứ 4 dòng 33 bát, Vàng Dúng Lùng sớm trở thành một chỉ huy tài giỏi và cơ mưu, xứng đáng tiếp tục đảm đương sự nghiệp dang dở do 2 thủ lĩnh để lại với tên gọi Vương Chính Đức trong giao thiệp với người Pháp và dân chúng sau này. Vàng Dúng Lùng được người Mông tôn làm Chiv Vax – Chính Vương, nhà Nguyễn phong tặng Biên chính khả phong Đại thần.
Được Bách trưởng Cư Trống Lù mách nước, Vàng Dúng Lùng đã tìm được nơi đắc địa để dựng dinh lũy đảm bảo được các yêu cầu về công và thủ ở Sà Phìn. Với thế đất kim quy, xung quanh là những cung núi bao bọc đã tạo ra sự sâu rễ, vững bền mãi mãi. Đầu tiên là ngôi nhà trình tường, mái ngói mọc lên. Sau khi ngôi trung dinh hoàn thành, các ngôi nhà khác tiếp tục được xây dựng kéo dài từ năm 1923 đến năm 1926. Bao quanh khu dinh thự là các bức tường cao 2,5 – 3m xây bằng đá phiến và xi măng, dày từ 60-80cm, có hai chòi gác trổ lỗ châu mai phía sau. Nhìn trên tổng thể, toàn bộ khu dinh thự khép kín trong khuôn viên 46´22m, chia làm 3 cấp; phù hợp với đối tượng sử dụng, sinh hoạt. Các phòng trong cấp nhà đầu tiên được dành để tiếp các dòng họ, dân chúng, binh dõng từ các nơi tụ họp, ăn uống, nghỉ ngơi. Cấp nhà thứ hai cao hơn, tầng dưới dùng làm chỗ ở cho các bà vợ, con cái, người hầu hạ còn tầng trên dùng để tiếp quan lại Pháp – Nam. Cấp nhà thứ 3 cao hơn đến 10 mét so với mặt bằng trước cổng là nơi Vàng Dúng Lùng ngồi làm việc, bàn việc cơ mật với bộ tham mưu.
Vật liệu chính tham gia vào việc tạo ra khu dinh thự này là đá xanh, gỗ thông, gỗ pơmu, ngói nung già được chạm trổ tinh vi. Dinh thự được chia thành 13 khu: cổng ngoài, nhà cổng, tiền dinh, trung dinh, hậu dinh, trạm gác, nhà vệ sinh, chuồng ngựa, chuồng bò, sân lát đá, nhà bếp, nhà kho, nhà cánh, bể nước lớn do hàng trăm thợ giỏi tuyển từ Vân Nam, Quảng Tây (Trung Quốc) và trong người Mông. Khi đó, ngoài Vàng Dúng Lùng, còn có họ Ngô ở Lùng Chá Tổng, họ Ngô ở Cẩu Phì Lũng và họ Cống người Pu Péo ở Phố Là cũng dựng nên nhiều dinh thự cao đẹp. Bên cạnh đó là những ngôi nhà khang trang, mái lợp ngói hoặc ván gỗ tạo nên phố cổ Đồng Văn ngày nay, cũng được xây dựng vào khoảng thời gian này. Tất cả đều nhờ cây thuốc phiện mà các Thổ ty giầu lên. Vào đầu thế kỷ XX, tổ chức xã hội cổ truyền của người Mông hầu như được tăng cường để cấu trúc lại. Người Mông đã được tham gia vào bộ máy quản lý hành chính đến cấp châu. Ở những châu lớn như Đồng Văn (nay bao gồm các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh và một phần huyện Quản Bạ), người Pháp chia làm 2 phân khu bắc và nam. Nếu như ở cấp châu, bên cạnh viên Đại lý người Pháp là một Thống lý người Mông, quyền hạn ngang Tri châu thì ở Phân khu bắc và Phân khu nam, bên cạnh người Pháp là các Thống lý người Mông làm nhiệm vụ của Bang tá. Để được cử làm Tri châu, Bang tá – những người này phải có thời gian cộng tác với người Pháp.
Từ cấp tổng trở xuống, người Pháp không tham gia vào bộ máy quản lý hành chính nữa. Người Mông tự đảm nhiệm các chức trách Tổng giáp, Tổng đoàn ở cấp tổng; Mã phải (binh thầu), Pừ chá ở cấp bản; Seo phài, Xì chá ở cấp xóm và Lèng Tháu – Ban cháng ở cụm các hộ gia đình.
Sơ đồ bộ máy quản lý hành chính của người Mông thời Pháp thuộc
Cấu trúc bộ máy quản lý vùng người Mông trong thời kỳ phong kiến:
Cấu trúc bộ máy hành chính vùng người Mông dưới thời Pháp thuộc:
Như vậy, bộ máy quản lý ở vùng người Mông đã được Pháp bổ sung nhưng về cơ bản vẫn giữ nguyên mô hình quản lý truyền thống để tiện lợi cho việc củng cố ách thống trị của chúng[35].
Cuộc sống đa số người Mông hầu như chẳng có gì thay đổi, mặc dù địa vị của tầng lớp Thổ ty, Mã phải trong dân tộc mình được cải thiện nhiều. Họ vẫn phải nộp thuế (thuế họ, thuế nương rẫy, thuế chợ, thuế thuốc phiện), đi phu, đi lính và phục dịch cho các gia đình chức dịch trong việc cày cấy, gặt hái, xây dựng dinh thự. Chẳng may, trong cuộc sống hàng ngày, người dân mắc tội hay phạm phải lỗi lầm gì, họ cũng phải biện bạc trắng, gà, lợn, thuốc phiện đến cầu cứu Mã phải. Thậm chí, để được khai phá nương rẫy, kiện cáo lẫn nhau hay săn được thú quý trong phạm vi địa phận họ cũng phải biếu xén. Trong nội bộ xã hội người Mông ở Hà Giang, nhiều Thổ ty được dân yêu quý nhưng cũng không ít người luôn luôn tàn bạo với đồng tộc của mình, điển hình như Sùng Chúa Đà.
Sùng Chúa Đà sinh ra ở đất Đường Thượng, tên thật là Chứ Đà, người mà Trung tá Bonyfacy – kẻ đã từng dẫn quân truy đuổi Đề Thám ở Yên Thế những năm cuối cùng khi đang làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Khố đỏ Bắc Kỳ số 1, trong một đợt khảo sát vùng Đại Miện, Tiểu Miện, Yên Minh, Đường Thượng ở Hà Giang với tư cách là Chỉ huy trưởng Đạo quan binh số 3 đã xác nhận: “Vua Mèo Sùng Chứ Đà từ năm 1863 đã xây dựng ở đầu thung lũng Khuây Booc một trại tập trung được bao học bằng các bức tường đá có trổ nhiều lỗ châu mai, kéo dài tới tận đèo Pia Nan. Vua Mèo đã từng đốt phá, cướp bóc Mường Chà, sát hại hàng chục người Thổ”.
Sùng Chứ Đà vốn là một phù thủy. Sau khi trở thành thủ lĩnh tối cao trong vùng, ông ta càng tận dụng những thủ thuật phù phép của mình để khuất phục dân chúng, nắm trong tay những cánh đồng rộng lớn và bằng phẳng ở khu Đường Thương. Cây cột đá ông ta cho dựng lên trong dinh thự của mình được dùng để trừng trị người chống đối đến nay vẫn còn.
Cùng với sự hiện diện của Đạo quan binh thứ 3, Hà Giang bị người Pháp thống trị theo lối quân quản thì bộ máy hành chính do người Mông điều hành cũng tuân thủ theo sự điều hành đó. Tổ chức dân dõng được phiên chế thành Tiểu đội (7 người), Trung đội (20 – 40 người), Đại đội (3 Trung đội), Tiểu đoàn (10 Đại đội). Mã phải được lập Trung đội, tuyển trong số trai tráng từ 18 tuổi trở lên. Giúp việc cho Mã phải là một Xỳ tra lo về giáo huấn và nắm về tư tưởng để báo cáo lại cho Bang tá. Ngoài việc được trang bị vũ khí, dân dõng còn thường xuyên được huấn luyện để đảm đương việc bảo đảm nhiệm vụ trị an ở địa phương.
Trở thành vua Mèo, Vàng Dúng Lùng chính thức đổi gọi là Vương Chính Đức. Khi quyền lực của ông ta ngày càng trở nên mạnh mẽ thì cũng là lúc gia tộc của Dương Tụ Nghĩa ngày càng suy yếu. Để cứu vãn tình thế, không còn cách nào khác là gia tộc họ Dương phải kêu gọi người Mông lựa chọn chính thức thủ lĩnh cho mình. Tuy nhiên, tính toán của Dương Tụ Nghĩa đã sai lầm vì đa số người Mông vẫn tôn Vương Chính là Vua Mèo, chính điều này đã tạo thêm độ thâm thù giữa hai dòng họ. Cuộc chiến quyền lực giữa cha con Dương Tụ Nghĩa – Dương Trung Nhân và Vương Chính Đức – Vương Chí Sình nổ ra.
Dương Trung Nhân sinh năm 1912 còn Vương Chí Sinh, lúc nhỏ được gọi là Vàng Seo Lử, sinh năm 1885, giỏi cả tiếng Pháp và tiếng Hán, có mối quan hệ khá rộng rãi. Khi Vương Chính Đức già yếu và bị Pháp bắt, Vương Chí Sình đứng ra chèo lái nhà họ Vương, dân chúng vẫn coi như Vua Mèo đệ nhị.
Dương Trung Nhân được sự hậu thuẫn của người Pháp vì họ sớm nhận ra sự bất phục tùng của gia tộc họ Vương Sà Phìn. Nhìn rõ dã tâm của người Pháp trong việc muốn nuốt trọn khu vực Đồng Văn, Vương Chính Đức – Vương Chí Sình bí mật tái vũ trang. Đầu những năm 30 của thế kỷ trước, Vương Chí Sình được phụ thân giao quyền mua sắm vũ khí, ngựa chiến. Đầu năm 1936, người Pháp ráo riết mộ lính, xây đồn ở Đồng Văn. Với quyết tâm liên thủ hạ vi cường, Vương Chí Sình đã chỉ huy dân dõng tập kích đoàn tiếp vận của Pháp tại đèo Lao Va Chải (nay thuộc Yên Minh), diệt gọn địch quân, thu nhiều chiến lợi phẩm. Người Pháp vờ làm ngơ rồi tìm cách lừa bắt Vương Chính Đức và nhiều thủ lĩnh người Mông giam cầm tại Hà Nội. Đứng trước tình thế đó, Vương Chí Sình phải dùng cách tạm thời hòa hoãn, bí mật về Hà Nội tìm cách cứu cha. Giữa năm 1938, Vương Chính Đức và các thủ lĩnh người Mông được tự do. Hai năm sau, cuộc giao tranh giữa gia tộc họ Dương và gia tộc họ Vương diễn ra ác liệt. Rốt cuộc họ Dương tổn hao nhiều lực lượng, tiền của và thua cuộc. Dương Trung Nhân phải đưa cả gia quyến chuyển về Hà Nội sống một thời gian, sau đó sang Mỹ.
Khi Nhật vào Đông Dương, nghe theo lời con rể là Mã Học Văn, Vương Chí Sình đã quyết định bất hợp tác. Tháng 3-1945 Nhật hất cẳng Pháp, tiến lên Hà Giang. Theo kế sách của Mã Học Văn, Vương Chí Sình tự mình dẫn một trung đội dân dõng chốt chặn ở Lao Va Chải, đánh tan đội quân tinh nhuệ của Nhật khiến chúng phải tăng cường viện binh để chiếm bằng được Phố Bảng. Chúng tiếp tục bị chặn đánh và thiệt hại lớn.
Người Dao ở Hà Giang tập trung tại các huyện Vị Xuyên, Bắc Quang, Hoàng Su Phì, Bắc Mê, Yên Minh, Quản Bạ, Xín Mần, Mèo Vạc, Đồng Văn và thành phố Hà Giang, chia thành 4 nhóm là Dao Đỏ (Đại Bản), Dao Áo Dài (Dao Chàm), Dao Tiền (Tiểu Bản) và Dao Quần Trắng. Nhóm Dao Quần Trắng vào Việt Nam từ thời nhà Trần, thế kỷ XIII.
Quần tụ với nhau thành làng (người Dao Đỏ gọi là Lang, Lổng; người Dao Áo Dài gọi là Giắng, Giằng), tùy theo điều kiện tự nhiên từ vài ba hộ cho đến 40-50, thậm chí đến hàng trăm hộ, như ở Tham Vê, xã Cao Bồ, huyện Vị Xuyên chẳng hạn. Đứng đầu mỗi làng như thế là một vị Chẩu con (Dao Đỏ), Giằng Châu (Dao Áo Dài) được bầu ra trong giới trai làng từ 18 tuổi trở lên, nhiệm kỳ khoảng 1 năm. Để được giữ nhiệm vụ này, người được bầu phải có uy tín, công tâm, am hiểu tập tục, nắm vững các mối quan hệ họ hàng, biết cúng bái để chủ trì các nghi lễ của làng, quản lý các nguồn nước và tài nguyên, chăm lo đến cộng đồng theo tập quán pháp, biết dựa vào già làng, trưởng họ, các chủ miếu. Sau này, người Pháp gọi là Quan bản. Xã hội cổ truyền của người Dao chì có vậy và đơn giản hơn các dân tộc khác nhiều lần.
Chú thích:
[1] Hoàng Xuân Hãn. Lý thường Kiệt – lịch sử, ngoại giao và tôn giáo của triều Lý. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996, tr.98.
[2] Nomoki Shiro – Gia đình các vua nhà Lý và sự xuất hiện của Vương triều phụ hệ ở Việt Nam, in trong Các nhà Việt Nam học nước ngoài viết về Việt Nam. Nxb. TG, Hà Nội, 2002, tập I, tr.176-177.
[3] Quốc sử quán triều Nguyễn. Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007, tập một, tr.288.
[4] Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục. Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2006; tập hai, tr.862.
[5] Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục. Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2006; tập ba, tr.189.
[6] Đại Nam thực lục. Chính biên, tập IV, tr.92, Nxb. Hà Nội, Hà Nội, 2007.
[7] Sđd, tập IV, tr.92.
[8] Sđd, tập IV, tr.92-93.
[9] Sđd, tập IV, tr.93
[10] Sđd, tập 4, tr.94.
[11] Sđd, tập 4, tr.94.
[12] Hồ Bạch Thảo. Vị trí chiến lược vùng đất Hà Giang qua đánh giá của Nguyễn Công Trứ. vanchuongviet.org.
[13] Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục, Sđd, tập bẩy, tr.202.
[14] Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục, Sđd, tập bẩy, tr.219.
[15] Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục, Sđd, tập bẩy, tr.319.
[16] Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục, Sđd, tập bẩy, tr.319.
[17] Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục, Sđd, tập bẩy, tr.320.
[18] Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục, Sđd, tập bẩy, tr.1007.
[19] Đặng Nghiêm Vạn. Văn hóa Việt Nam đa sắc tộc. trieuxuan.info.
[20] Nguyễn Văn Huyên. Những giống người và chế độ Thổ ty ở châu Chiêm Hóa. Báo Đông Pháp, 27-1-1934.
[21] Đàm Thị Uyên. Tầng lớp Thổ ty người Tày ở Cao Bằng đầu thế kỷ XX. Nghiên cứu lịch sử, số 4 (360)/2006.
[22] Nguyễn Tuấn Liêu. Mấy nét về tình hình và nhận xét về chế độ Quằng trong dân tộc Tày ở Hà Giang. Nghiên cứu lịch sử số 44/1962.
[23] Đặng Nghiêm Vạn, Sđd, trieuxuan.info.
[24] Nguyễn Tuấn Liêu. Sđd.
[25] Đàm Thị Uyên. Sđd.
[26] Nguyễn Tuấn Liêu. Sđd.
[27] Đàm Thị Uyên, Sđd.
[28] Đặng Nghiêm Vạn. Sđd. Trieuxuan.info.
[29] Đàm Thị Uyên. Sđd.
[30] Đàm Thị Uyên. Sđd.
[31] Nguyễn Tuấn Liêu. Sđd.
[32] Đàm Thị Uyên, Sđd.
[33] Đàm Thị Uyên, Sđd.
[34] Nguyễn Văn Huyên. Sđd. Báo Đông Pháp, 31-1-1934.
[35] Phùng Thị Sinh. Tổ chức xã hội và tín ngưỡng, tôn giáo của người Mông ở Đồng Văn (Hà Giang) trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Việt Nam. Đại học Thái Nguyên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét