Tuyên huấn Vịt
Ai ở ngoài bắc thời kỳ đóng cửa, sẽ không quên được loa truyền-thanh.
Nó là hệ thống truyền thanh kéo đến từng khu tập thể, vào tận hộ gia đình. Loa không cần pin hay điện, tự nó kêu. Cũng không có nhiều “kênh” để lựa chọn, chỉ có một nút để chỉnh to nhỏ.
Hồi đấy tất nhiên không có internet. Không cả truyền-hình.
Chỉ có “Đài tiếng nói Việt Nam – phát đi từ Hà Nội”. Mãi sau này có thêm các đài địa phương và sau nữa là FM.
Ngoài dùng mắt để đọc báo Nhân Dân, toàn dân chỉ có một kênh thông tin duy nhất để nhập liệu bằng tai. Mọi người phải nghe một thứ giống nhau.
Ngây ngô thế mà lại hay phát nhạc …cổ điển. Có giới thiệu đàng hoàng. Tên nhạc sĩ toàn nghe bằng tai, không biết mặt chữ thế nào. Văn hóa này kéo dài mãi về sau, ngay cả khi đã có truyền hình và sóng ngắn FM để nghe qua radio nhập khẩu của Nhật.
Có một bài hát rất oách, các bác thử đoán xem là bài gì. Là bài “Khúc hát Nàng Son Vếch” trong vở “Piếc Guyn” của nhạc sĩ “Gờ-Rích” do Lê Dung trình bày. Hay vãi chưởng. Sau này có youtube, lên nghe tây hát “Solveig’s song” trong “Peer Gynt”, so với họ mới biết trình Lê Dung chưa bằng lỗ đít con vi trùng. Nhưng mà nhớ lại vẫn thấy hay.
Sau có mạng, mới dò từ Grieg ra Ibsen, rồi từ Ibsen ra Kierkegaard (bác Ibsen hăng hái lăng xê bác Kierkegaard). Bác Kierkegaard này chết rất lâu rồi mới nổi. Chết năm 1855 mà hình như đến 1910 mới được dịch ra tiếng Đức. Nghe đồn Kafka đọc xong phát mê tít. Bác Kier nay được coi là tổ sư hiện sinh. Bạn nào đọc Huyền thoại Sisyphus (NXB Trẻ dịch là Thần thoại Sisyphus) sẽ thấy bác Kier đứng cùng lố nhố một lô các bác sư tổ hiện sinh. Cuốn này, phần kết thúc, Camus viết một đoạn dài về Kafka, hay vãi đạn.
Tinh thần hiện sinh ở khía cạnh đề cao cá nhân và tự do của bác Kier xuất hiện ở khá nhiều nơi, mà có khi ta không để ý. Ví dụ câu nói “bám lề là việc của bầy cừu không phải việc của con người tự do” rất gần gũi với tư tưởng của bác Kier. Bác Kier nếu còn sống và biết đi xe máy, hẳn sẽ đánh võng như điên.
Bác Kier kính Chúa mà ghét nhà thờ (giáo hội). Giáo hội đã quá xa rời quần chúng, biến báo thông điệp của Chúa để ru ngủ giáo dân và bảo vệ quyền lực độc tôn của mình.
Để đả phá nhà thờ bác ấy viết truyện “Tuyên Huấn Vịt”. Bản tiếng Anh gúc chữ “Duck Church” là ra. Có hai từ khóa của câu chuyện rất vắn này:một là wings (đôi cánh), hai là waddle (đi lạch bạch).
Bản tiếng Việt như sau.
Có một xứ sở anh hùng, dân toàn là Vịt. Chi bộ cũng toàn Vịt, tất nhiên. Bí thư, tuyên huấn cũng là Vịt, và được trả lương để quạc quạc.
Một ngày đẹp trời, lũ vịt lạch bạch kéo nhau đi họp.
Bí thư mở nghị quyết ra đọc. Nghị quyết nói về món quà quý giá mà Người đã ban cho loài Vịt: Đôi cánh.
Với đôi cánh, Vịt bí thư đọc, dân Vịt chúng ta có thể vỗ cánh bay cùng cường quốc năm châu, quạc vang bảy tầng trời. Chúng ta thoát khỏi gông cùm nô lệ để sống đời hạnh phúc tự do. Chúng ta phải biết ơn Người, đã cho ta đôi cánh vịt.
Dân Vịt cảm xúc trào dâng, đứng thẳng trên đôi chân, hô to “Muôn Năm”.
Rồi tất cả dân Vịt quay lưng lạch bạch bước về nhà, không nhớ mình đã được ban cho đôi cánh.
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét