Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 29 tháng 5, 2014

Đọc Nghiên cứu lịch sử:


Trung Quốc của Mao Trạch Đông


Trung Quốc của Mao Trạch Đông
Trung Quốc của Mao Trạch Đông
Cay RadeMacher
Phan Ba dịch
MAO TRẠCH ĐÔNG, người sau này trở thành nhà cách mạng, sinh ngày 26 tháng 12 năm 1893 trong ngôi làng Thiều Sơn hẻo lánh ở tỉnh Hồ Nam giữa Trung Quốc. Đó là một thế giới còn nguyên thủy, giữa những ngọn đồi thoai thoải và những khu rừng rộng lớn trên núi, một thế giới mà trong đó có một vài trăm gia đình nông dân trồng lúa, trà và tre, đặt con trâu đi trước cái cày như trước đấy hàng trăm năm.
Bức ảnh gia đình này được chụp ngay sau khi người mẹ qua đời: Mao, bác, cha và em (từ phải sang trái). Ảnh: GEO EPOCHE
Không có đường bộ, không có đường sông dẫn vào trong thung lũng, nơi có lợn rừng, báo và thỉnh thoảng cũng cả hổ đi ngang qua. Làng Thiều Sơn hẻo lánh tới mức tin về cái chết của hoàng đế Quang Tự chỉ đến với người dân làng sau nhiều năm.
Cha của Mao, một cựu quân nhân của quân đội tỉnh, đã khá giả lên nhờ trồng lúa và ngũ cốc. Trong khi phần lớn các gia đình trong Thiều Sơn sống trong những ngôi nhà bằng đất sét và mái rơm thì gia đình Mao sống trong một ngôi nhà sáu phòng với mái ngói. Người con trai Trạch Đông của họ còn có cả một phòng riêng, một sự xa hoa khác thường cho con của một nhà nông.
Tuy vậy, cả trong gia đình này cũng không có nước máy – cho tới cuối đời, Mao vẫn thích kỳ cọ thân thể với một cái khăn được làm ướt bằng hơi nước, hơn là tắm rửa với xà phòng, và súc miệng bằng trà thay vì dùng một cái bàn chải đánh răng.
Bên cạnh nhà, những cánh đồng ruộng bậc thang của gia đình cao dần lên. Mao, cũng như tất cả những đứa bé khác trong làngg, phải phụ giúp làm việc ngay từ lúc còn nhỏ: thường ông phải chăn trâu bò hay chăn vịt.
Lúc tám tuổi, ông đi học trường làng; tiền học mà cha của ông ấy phải đóng nhiều bằng nửa năm lương của một người công nhân. Nhưng ông ấy vẫn trả – hẳn vì ông ấy hy vọng rằng người con trai sau này sẽ lo ghi chép sổ sách cho ông ấy.
Người thầy chỉ dạy cho Mao biết đọc và biết viết. Học trò, cũng như thần dân phái nam dưới triều nhà Thanh, luôn luôn phải thắt tóc bím, trích dẫn các tác phẩm kinh điển của Khổng Tử: những tác phẩm đã có từ nhiều thế kỷ, của chính triết gia đấy hay của các học trò ông ấy. Chúng nói về sự siêng năng, trung thực và về sự cải tiến liên tục tính chất cá nhân, cũng như về sự kính trọng cha mẹ.
Với 13 tuổi, Mao rời trường; theo ý của cha, ông cần phải làm việc trong trang trại và sau này trở thành người buôn gạo.
Thế nhưng người con đã khám ra một thế giới riêng cho mình từ lâu, thế giới của sách vở. Hàng đêm, bên ánh đèn dầu, ông ấy đọc biên niên sử, những quyển tiểu thuyết kể về những băng cướp, những cuộc nổi dậy và những chuyến đi hành hương. Ông lúc nào cũng che cửa sổ lại, để cho người cha không biết đến những lần đọc sách bí mật đấy.
Mao căm ghét con người gia trưởng nóng tính đấy, người cho rằng đọc những quyển sách đó chỉ là phí thời gian mà thôi và thường xuyên đánh đập ông. Qua những lần va chạm, người con đang lớn lên nhanh chóng có được một trải nghiệm đặt dấu ấn lên ông: nếu đối xử khúm núm, người cha chỉ đánh đập ông càng nhiều hơn. Ngược lại, nếu như bướng bỉnh thì ông lại có thể nhận được nhượng bộ bởi sự ương ngạnh của mình.  Khi người cha già mắng nhiếc ông là lười biếng và vô dụng trước mặt khách đến thăm, người thiếu niên đấy đã chạy đến một cái hồ và dọa sẽ tự tử. Người cha nhượng bộ và hứa sẽ không quát mắng ông nữa.
Thế nhưng người trưởng gia đình đấy ép buộc chàng trai 14 tuổi phải bước vào một cuộc hôn nhân đã được hứa hẹn trước với một người chị họ xa, lớn hơn ông bốn tuổi, [La] Nhất Tú. Nhưng Mao chưa từng bao giờ nhìn người chị họ này, người đã dọn vào ở trong gia đình (nhưng qua đời ba năm sau đó), như là người vợ của mình – và có lẽ cuộc hôn nhân cũng không bao giờ được tiến hành trọn vẹn.
Ông ấy thích học hơn. Có một quyển sách thu hút ông một cách đặc biệt: “Những lời cảnh báo về một kỷ nguyên của sự thừa thãi”. Trong quyển sách đó, nhà cải cách người Trung Quốc Trịnh Quan Ứng thúc giục người dân của mình hãy thích ứng với thế giới hiện đại với đường sắt, điện tín, thư viện và quốc hội của nó, trước khi các chính phủ ngoại quốc bóc lột toàn Trung Quốc. Những quyển sách mỏng như quyển sách này đã gợi lên nhận thức chính trị của Mao và khơi dậy trong ông lòng tự hào dân tộc.
Với 16 tuổi, ông rời ngôi làng quê hương năm 1910 và tự đăng ký đi học tại một trong những trường cải cách mới ở làng cạnh bên, loại trường mà thời gian vừa qua đã có hơn 100 trong tỉnh: một cố gắng tuyệt vọng của triều đình để thu ngắn khoảng cách tụt hậu của Trung Quốc so với Phương Tây.
Ở đấy, một thế giới mới mở ra cho Mao, ngay cả khi ông ấy bị nhiều ngươi đồng học – phần lớn là con trai của địa chủ – cười chê như người nhà quê vì trang phục nông dân của ông. Ông chỉ có một bộ quần áo duy nhất: một cái áo khoác bằng bông vải và một cái quần đã cũ.
Khác với những trường còn lại trong Trung Quốc, có trong thời khóa biểu  là những môn học như khoa học tự nhiên, lịch sử thế giới, tiếng Anh và âm nhạc. Lần đầu tiên, Mao được nghe về những nhân vật như George Washington, Abraham Lincoln, Napoleon Bonaparte: những con người đã thành lập, thống nhất hay dẫn dắt quốc gia đến một tầm vóc to lớn.
Người cha chỉ miễn cưỡng trả tiền học cho người con trai sắp trưởng thành. Và hẳn đã không nghĩ rằng ông ấy sẽ vĩnh viễn xa rời cái chật hẹp của một cuộc đời nhà nông.
Vì Mao không trở về ngôi làng quê hương nữa. Ông muốn được đi xa, vào tỉnh lỵ Trường Sa cách đó 50 kilômét, một thành phố lớn với 300.000 dân. Vì nghe rằng ở đấy có trường học còn tốt hơn nữa, ông lên đường đi đến đấy năm 17 tuổi.
Một bức tường thành bằng những khối đá màu xám lâu đời hàng thế kỷ bao bọc lấy Trường Sa. Dân quân đầu quấn khăn xanh canh gác những cánh cổng khổng lồ. Ngõ hẻm giống như đường hầm dẫn qua mê cung của thành phố, đến hai ngôi đền thờ Khổng Tử khổng lồ, biệt thự của quan lại, những người sống sau các bức tường cao, và khu phố mua bán với các cửa hàng,
Trên đường đi không nhìn thấy ô tô, không nhìn thấy xe đạp, xe lôi, thay vào đấy người ta bắt gặp những người gánh nước, ăn xin và các chiếc kiệu của người giàu.
Đấy là năm 1911, đêm trước của cuộc cách mạng Trung Quốc. Lực lượng đối kháng chống lại triều nhà Thanh đang nổi dậy trong hầu hết các tỉnh của đất nước này, phe đối lập yêu cầu triệu tập một quốc hội cho quốc gia.
Mao chăm chú theo dõi các sự kiện qua nhiều tờ nhật báo chính trị, những cái mới đây đã được in ra. Qua đó, ông biết về nhà đối lập cực đoan Tôn Dật Tiên, “Liên minh Cách mạng” của ông ấy – và về một cuộc nổi dậy trong thành phố cảng Quảng Châu mà có 72 người nổi dậy đã chết trong lúc đó.
Một đầy tớ thắt bím cho chủ. Theo lệnh của triểu nhà Thanh, tất cả đàn ông Trung Quốc đều phải để bím tóc. Ảnh: GEO EPOCHE
Mao, cho đến thời điểm đấy là một người trung thành với triều đình, người cho rằng nhà vua và các quan lại của vua là những người thông thái và chính trực, lúc đầu còn hy vọng rằng triều đình sẽ tiếp tục tồn tại trong một chế độ quân chủ lập hiến.
Thế nhưng chỉ sau một vài tuần ở Trường Sa, ông ấy đã suy nghĩ cực đoan hơn: ông thảo một tuyên ngôn mà trong đó ông yêu cầu hoàng đế thoái vị và Tôn Dật Tiên trở thành tổng thống Trung Quốc – và dán nó lên tường của ngôi trường ông đang theo học.
Như một dấu hiệu của sự phản đối, Mao cắt bím tóc của mình đi. Một hành động mà theo truyền thống trong vương quốc của nhà Thanh sẽ phải chịu hình phạt tử hình. Khi một vài học sinh ngần ngừ không chịu làm theo. Mao đã cầm lấy kéo và dùng bạo lực giải phóng họ khỏi cái bím tóc.
Những người Trung Quốc trẻ tuổi ở các trường khác cũng dám làm điều ghê gớm đó – rõ ràng là hiện giờ các cơ quan của hoàng đế đã thiếu uy quyền để truy xét việc làm phạm tội đấy.
Trong tháng 10 năm 1911, khi binh lính nổi dậy chống triểu đình trong thành phố Vũ Xương cách đó gần 300 kilômét về phía Bắc, Mao cùng một vài người bạn quyết định đi đến đấy để trợ giúp cho những người làm cách mạng. Nhưng ông ấy không đi ngay. Vì nghe nói rằng trời hay mưa ở Vũ Xương nên đầu tiên ông lên đường đi tìm giày không thấm nước – và vì vậy mà đã bỏ lỡ lần lật đổ.
Không có ông, cuộc cách mạng vẫn tiếp tục lan ra ngày càng rộng khắp và cuối cùng về đến Trường Sa. Mao tham gia lực lượng cách mạng, phục vụ vài tháng như một quân nhân, nhưng không bắn đến một phát súng duy nhất.
Năm 1920, Mao (thứ ba từ trái sang) cùng với một phái đoàn từ Hồ Nam về Bắc Kinh để phản đối một tư lệnh quân đội chuyên quyền ở địa phương. Ảnh: GEO EPOCHE
Sau lời tuyên bố thành lập nền cộng hòa và tuyên bố thoái vị của hoàng đế trẻ con Phổ Nghi trong tháng 2 năm 1912, con người 18 tuổi đấy tin rằng cuộc cách mạng đã thành công và bây giờ là thời gian để quay trở về với sách vở; thế nào đi nữa thì nhiều quân nhân cũng bị nhà nước sa thải để tiết kiệm tiền.
Bây giờ, vào mỗi buổi sáng, ông ấy đi đến thư viện thành phố của Trường Sa và nghiên cứu các tác phẩm của những nhà tư tưởng châu Âu, trong đó là các tác phẩm của Adam Smith, lý thuyết gia đầu tiên của Chủ nghĩa Tư bản, của Jean-Jacques Rousseau, người khai sáng, và của Montesquieu, người đấu tranh cho tam quyền phân lập. Ở đây, lần đầu tiên Mao cũng nhìn thấy một tấm bản đồ thế giới.
Đó là một thời gian đọc sách vô phương thỏa mãn cũng như chẳng theo kế hoạch nào: người đàn ông trẻ tuổi đọc sách “như một con trâu lẻn vào vườn rau và ngốn ngấu ăn tất cả những gì mọc ở đấy”, như ông ấy sau này nhớ lại. Ông chỉ cho phép mình nghỉ vào giờ trưa, để ăn hai chiếc bánh làm từ gạo.
Với gần 20 tuổi, ông ấy vẫn còn chưa được đào tạo, không có nghề nghiệp, không có mục đích cho cuộc sống. Vì cha ông đe dọa không gửi tiền nữa nên Mao ghi danh học sư phạm năm 1913. Thêm năm năm học nữa bắt đầu.
Đó là một thời kỳ hỗn loạn, say sưa. Vì trong khi nước Cộng hòa tan rã, ảnh hưởng của chính phủ trung ương ở Bắc Kinh tan biến dần và các warlords chiếm lĩnh quyền lực – các tư lệnh độc lập, những người phần lớn đã từng là chỉ huy quân đội trước đây – thì những tư tưởng mới bắt đầu đến với đất nước này.
Cùng với bạn đồng học, Mao đã thảo luận nhiều về Chủ nghĩa Vô chính phủ, Chủ nghĩa Dân tộc, cách mạng.
Và về con đường tương lai của Trung Quốc. Lần đầu tiên, ông nghe được từ “Chủ nghĩa Cộng sản”, thế nhưng nó không để lại một ấn tượng gì đặc biệt. Còn phải qua nhiều năm nữa, cho tới khi ông quan tâm thật sự đến nó.
Nhiều điều là mới đối với ông, nhiều điều hỗn độn. Ông có, ông sẽ nói như thế sau này về thời gian đấy, “một hỗn hợp kỳ lạ” trong đầu: ông tuy tin rằng Trung Quốc phải học tập ở Phương Tây, nhưng cũng muốn rằng nó đừng khước từ truyền thống của nó trong lúc đó. Ông là một người có tư tưởng tự do cởi mở với cả thế giới – nhưng đồng thời ông lại hâm mộ những nhà cai trị đặc biệt tàn bạo trong lịch sử Trung Quốc.
Bốn vòng tường thành đồ sộ bao bọc lấy trái tim của thủ đô Bắc Kinh. Ở phía Nam là cổng thành mang tên "Vĩnh Định Môn". Ảnh: GEO EPOCHE
Cuối cùng, một trong những người thầy đã để ý đến người con trai nhà nông đấy, người phác thảo những lời bình luận về tác phẩm của một triết gia đạo đức người Đức cũng như những bài thơ đa cảm. Ông ấy cho rằng con người ham học từ tỉnh lẻ đấy là một người có tài: “Gia đình nông dân thường là nơi xuất phát của những tài năng khác thường nên tôi khuyến khích anh ấy”, ông ấy viết. Và: “Tìm được một người thông minh và chân thật như anh ấy không phải dễ”.
Mao tiếp nhận từ người nâng đỡ mình thói quen huấn luyện không chỉ tinh thần mà cả thể xác nữa, thích nhất là trần truồng hay chỉ mặc ít quần áo trong lúc đó – một niềm say mê cho tới cuối đời.
Mỗi buổi sáng, ông ấy đi đến một cái giếng và dội nước lạnh như băng lên người. Trong những kỳ nghỉ, ông đi dạo thật lâu với bạn bè, tắm nắng hay chạy bộ trong mưa, ngủ ngoài trời lúc có sương giá, bơi qua những con sông lạnh như băng trong tháng 11.
Khi cuối cùng rồi Mao cũng nhận được bằng sư phạm với 24 tuổi, ông ấy vẫn chưa có kế hoạch nào cho tương lai cả. Ông không tìm được việc làm trong Trường Sa. Vì thế nên ông đi theo người thầy, người năm 1918 được triệu về Bắc Kinh để nhận chức vụ giáo sư và đã tạo cho ông một việc làm như người phụ việc trong thư viện ở trường đại học.
Qua đó, Mao đã đến tới trung tâm của lần khởi đầu ở Trung Quốc.
Nằm cách không xa các giảng đường là Quốc Hội mới, cơ quan các bộ cũng như “Tử Cấm Thành” mà hoàng đế trẻ con Phổ Nghi đã thoái vị vẫn còn sống ở sau những bức tường của nó, có hàng trăm thái giám ở xung quanh. Trong năm cách mạng 1912, lãnh tụ quân đội bảo thủ Viên Thế Khải đã trở thành tổng thống Trung Quốc. Năm 1913, khi đảng dân tộc của Tôn Dật Tiên, Quốc Dân Đảng, thắng lớn trong các cuộc bầu cử tự do đầu tiên, Viên cấm tổ chức đó hoạt động, đẩy Tôn đi lưu vong và giải tán Quốc Hội. Năm 1916, Viên qua đời, người trước đó còn tuyên bố mình là hoàng đế của một triều đại mới. Tổng thống mới của Trung Quốc tập họp lại Quốc Hội đã được bầu.
Bắc Kinh. Ảnh: GEO EPOCHE
Tháng 6 năm 1917, một tướng lĩnh trung thành với hoàng đế làm đảo chính và lại đưa Phổ Nghi lên. Thế nhưng hai tuần sau đấy, các tướng lĩnh khác hành quân về Bắc Kinh và chấm dứt chế độ quân chủ vĩnh viễn. Nền cộng hòa được cứu thoát.
Nhưng kể từ lúc đấy, Trung Quốc chỉ có một chính phủ trung ương yếu ớt và tham nhũng, các tư lệnh quân đội tiếm quyền ở nhiều vùng trong nước.
Ở cuối “Tử Cấm Thành” về phía Nam, ở “Thiên An Môn”, có một công viên mà sinh viên thảo luận ở đấy về tình trạng của đất nước.
Bắc Kinh là thành phố triệu dân. Ô tô chạy trên những đại lộ có từ nhiều thế kỷ, 20.000 xe kéo làm nghẽn đường phố, và có cả những đoàn lạc đà đi buôn cũng đi xuyên qua thành phố.
Mao phấn khởi. “Bắc Kinh là một cái nồi nung chảy hòa hợp tất cả mà ở trong đó người ta chắc chắn sẽ bị biến đổi”, ông ấy viết sau khi đến. Ông thường hay đi lang thang qua các khu vườn của hoàng đế, những cái vừa được mở cửa cho người dân, và xúc động vì vẻ đẹp của chúng: “Trong các khu vườn, tôi nhìn mùa Xuân miền Bắc mới bắt đầu, nhìn thấy hoa mận trắng, trong khi băng trên hồ Bắc vẫn còn rắn. Tôi nhìn thấy những cánh đồng bị phủ đầy tinh thể băng như hàng chục nghìn cây mận đang nở hoa.”
Ông sống trong một khu phố tồi tàn ở phía Tây của Cấm Thành. Ông chia sẻ một căn hộ – và giường ngủ – cùng với bảy sinh viên khác. Họ ngủ trên một cái bục bằng gạch có phủ nỉ, có thể sưởi ấm được. Vì thiếu tiền để mua than nên những người đàn ông trẻ tuổi nằm sát vào nhau: “Thường tôi phải báo trước với người ngủ ở hai bên mỗi khi tôi muốn trở mình”, Mao nhớ lại sau này.
Trong thời gian ở Bắc Kinh, ông thường xuyên đọc tờ “Tân Thanh Niên”, tạp chí hiện đại nhất của đất nước. Học giả của trường đại học viết ở trong đấy về Thuyết Tương đối, Chủ nghĩa Hòa bình, giải phóng phụ nữ và cuộc Cách mạng Thánh Mười. Mao cũng công bố một trong những bài viết đầu tiên của mình ở đấy: “Luyện tập thân thể”.
“Quốc gia của chúng ta thiếu sức mạnh”, ông viết. “Nếu thân thể của chúng ta không khỏe mạnh, chúng ta sẽ run rẩy trước những người lính của đối phương. Vậy thì làm sao chúng ta có thể đạt được những mục đích của chúng ta?”
Dương Khai Tuệ
Thế nhưng dù ông có cố gắng kết bạn với các tác giả của tờ “Tân Thanh Niên” cho đến đâu đi chăng nữa – giới trí thức không hề để ý đến con người phụ việc trong thư viện đấy; một sự xúc phạm mà hàng chục năm sau này ông vẫn còn nhớ đến: “Đối với phần lớn bọn họ, tôi không phải là một con người.”
Ông không hạnh phúc ở Bắc Kinh. Cũng vì ông đã yêu cô con gái xinh đẹp của người đỡ đầu mình.
Dương Khai Tuệ trẻ hơn ông tám tuổi, một người phụ nữ đẹp được giáo dục theo lối Phương Tây, nhạy cảm và hùng biện, người được nhiều học trò của cha cô hâm mộ. Khai Tuệ khước từ các tập tục cưới hỏi cổ xưa, nhưng có những yêu cầu cao về tình yêu: “Thà chẳng có gì khi không toàn hảo”, là châm ngôn của cô. Cô làm ngơ trước sự theo đuổi của Mao, có lẽ là cô ấy nghi ngờ sự thật tình của ông ấy.
Mùa Xuân năm 1919, Mao thất vọng quay về Trường Sa. Ở đấy, ông tìm được việc làm là thầy giáo dạy Sử – và vì thế mà thêm một lần nữa lại bỏ lỡ mất một sự kiện lịch sử.
VÌ VÀO CHIỀU ngày 4 tháng 5 năm 1919, 3000 sinh viên ở Bắc Kinh đã đổ về “quảng trường Thiên An Môn” trước Cấm Thành. Đó hẳn là cuộc biểu tình lớn đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Ngay trước đó, người trong thành phố vừa mới biết được về một quyết định của Hội nghị Hòa bình Versailles: các thế lực chiến thắng của Đệ nhất Thế chiến đã thỏa thuận không giao phần nguyên là tô giới của Đức trên bán đảo Sơn Đông ở cạnh Hoàng Hải trở về cho Trung Quốc. Triều đại hoàng đế cuối cùng đã phải cho Đức thuê dãy đất đó năm 1898.
Những người sinh viên tức giận: đó là phần thưởng cho việc Trung Quốc tuyên chiến với Đế chế Đức năm 1917 hay sao? Tuy Bắc Kinh không gửi người lính nào sang các chiến trường châu Âu, nhưng thay vào đấy là gần 100.000 người làm công nhật, những người đã đi lấy xác chết, đào hầm hố, tháo đạn dược, xây trại lính và bệnh viện. Ngược lại, Trung Quốc đã nhận được từ đối thủ của Đức trong chiến tranh, nước Nhật, khoản tiền cho vay tổng cộng là 145 triệu Yen.
Bây giờ, khi chiến tranh đã chấm dứt, người Nhật đòi vùng đất mang tầm quan trọng về chiến lược đó về cho họ: như một phần thưởng cho sự giúp đỡ trong chiến tranh của họ, họ muốn đóng quân lính riêng của họ ở Sơn Đông và giữ lấy toàn bộ thu nhập của một tuyến đường sắt sẽ được xây xuyên qua bán đảo.
Mãi đến Versailles, thành viên của phái đoàn Trung Quốc mới biết rằng người Anh, người Pháp và người Ý ủng hộ người Nhật.
Thiên An Môn
Còn gây sốc hơn nữa là phát giác, rằng ngay trước khi đình chiến, một chính phủ Trung Quốc trước đây đã nhận hối lộ để bí mật bảo đảm rằng lời yêu cầu đấy sẽ được chấp thuận. Vì hiệp định đấy có hiệu lực về mặt pháp lý nên cuối cùng rồi Hoa Kỳ cũng đồng ý. Các thành viên của phái đoàn Trung Quốc bất lực và vắng mặt trong lúc ký kết để phản đối.
Căm phẫn vì sự phản bội của phe Đồng minh và tức giận chính phủ của chính mình, nhiều người xuống đường cả trong các thành phố khác. Sinh viên, công nhân và thương gia kêu gọi tẩy chay hàng hóa Nhật.
Ở Bắc Kinh, số đông đã thông qua một bản tuyên ngôn do một lãnh tụ sinh viên xướng lên: “Ngày hôm nay, chúng tôi thề với tất cả đồng bào của chúng tôi hai lời thề trang nghiêm: Lãnh thổ Trung Quốc có thể bị xâm chiến, nhưng không thể bị từ bỏ. Thứ nhì: Dân nhân Trung Quốc có thể bị thảm sát, nhưng không bao giờ đầu hàng.”
Rồi những người biểu tình kéo đến nhà của một trong số các bộ trưởng tham nhũng và bị căm ghét, xông vào nhà và phóng hỏa nó. Chính trị gia này bỏ trốn – nhưng trong lúc ấu đả với cảnh sát đã có một sinh viên bị thiệt mạng.
NGÀY THÁNG CỦA NHỮNG CUỘC PHẢN ĐỐI, ngày 4 tháng 5 năm 1919, đã trở thành tên và biểu tượng của một phong trào nhanh chóng lan ra khắp nước. Bây giờ, đối với nhiều nhà trí thức Trung Quốc, các giá trị Phương Tây lại mang vẻ đáng ngờ, họ kêu gọi hãy quay trở lại với quốc gia của họ.
Cả Mao cũng chia sẻ sự căm phẫn của những người phản đối. Và lần này thì ông ấy không rút lui vào trong thế giới của những quyển sách.
Ông thành lập một tờ tuần báo, để cung cấp thông tin cho người dân trong tỉnh quê hương của ông ấy về những sự kiện ở Bắc Kinh cách đó hơn 1300 kilômét và truyền cho họ sự phấn khởi về cuộc biến đổi chính trị – “phần đóng góp để giải phóng nhân loại” của ông ấy, như ông gọi nó về sau này.
Công nhân và thành viên công đoàn ở Thượng Hải
Mao tin rằng chỉ một liên minh từ nông dân, công nhân, sinh viên và giáo viên mới có thể ép buộc được một sự cải mới dân chủ. Ông từ chối dùng bạo lực để lật đổ, như người Bolshevik ở Nga đã tiến hành. Ông vẫn còn là một người có tư tưởng tự do và vô chính phủ, nhưng không phải là một người cộng sản.
2000 bản của số phát hành đầu tiên được bán sạch trong một ngày. Tại số sau đó, Mao cho in 5000 bản.
Chỉ sau bốn số, thống đốc quân đội, người cầm quyền ở Hồ Nam, đã cấm tờ báo.
Mao không tuân theo. Ông ấy có nhớ lại những lần xung đột với cha ông ấy không? Ngay lập tức, ông bắt đầu làm biên tập viên cho một tạp chí phê phán khác. Nhưng tờ tạp chí này cũng bị cấm chỉ sau một số dưới sự lãnh đạo của ông ấy. Từ đấy, Mao công bố các bài viết của mình trên tờ nhật báo lớn nhất của Trường Sa.
Khi một người phụ nữ trẻ tuổi tự tử trong chiếc kiệu đón dâu của mình, Mao đã viết một loạt bài chống lại hôn nhân cưỡng ép. Người con trai nông dân đấy, người mà ngày xưa cũng đã bị ép buộc cưới vợ, bây giờ yêu cầu rằng phụ nữ Trung Quốc phải được phép tự chọn lấy người bạn đời của mình.
Lần đầu tiên, Mao cũng chứng tỏ tài khéo léo của một nhà hoạt động chính trị: trong tháng 12 năm 1919, ông tổ chức một cuộc đình công chống nhà cầm quyền Trường Sa (tuy vậy, không phải những cuộc chống đối của ông ấy mà là sự kình địch với các tư lệnh khác cuối cùng đã khiến cho vị tướng lĩnh đó phải bỏ chạy). Một thống đốc mới nắm lấy quyền lực, người cùng với nhiều doanh nhân khá giả đấu tranh cho một tỉnh Hồ Nam độc lập. Vì Trung Quốc chìm trong hỗn loạn nên trong nhiều vùng đất ngày càng có nhiều nạn nhân của những nhà cai trị quân đội. Kể từ năm 1913, chỉ riêng trong Hồ Nam đã có hàng chục nghìn người chết qua các cuộc chiến của các viên tư lệnh.
Mao cũng ủng hộ phong trào độc lập. Nhiều khả năng hoàn toàn mới mở ra cho ông trong Trường Sa: ông trở thành hiệu trưởng của một trường học, thành  lập “Cộng đồng sách văn hóa”, cái tạo khả năng cho con người tiếp cận với sách, luận thuyết và báo chí. Bây giờ, ông ấy có một cuộc sống gần như trung lưu. Thời gian này, Dương Khai Tuệ cũng đã ưng thuận ông. Sau khi thành hôn, họ sống trong một ngôi nhà ở ngoại ô thành phố, chẳng bao lâu nữa, đứa con trai đầu của ba người con trai sẽ được sinh ra đời.
Trong thời gian này, lần đầu tiên Mao quan tâm thật sự đến Chủ nghĩa Cộng sản. Cũng như nhiều trí thức khác, những người thuộc “Phong trào 4 tháng 5″, tính khiêm tốn vẻ ngoài của nước Cộng hòa Xô viết trẻ tuổi đã gây ấn tượng cho ông: chính phủ cách mạng dưới quyền của Lenin tuyên bố từ bỏ các vùng đất là tô địa cũ của Nga hoàng trong Trung Quốc.
Mao suy nghĩ liệu có nên học tiếng Nga, cân nhắc xem có di cư sang nước Nga Xô viết, nghiên cứu “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” của Karl Marx và Friedrich Engels vừa mới được dịch sang tiếng Trung – và gặp Trần Độc Tú ở Thượng Hải, một trong những người phát hành tờ “Thanh Niên Mới”, trí thức Mácxít quan trọng nhất của Trung Quốc.
Trần có thời là trưởng khoa ở Đại học Bắc Kinh. Ông là một nhà đạo đức và cải cách dễ nổi giận. Sau những lần phản đối của ngày 4 tháng 5, ông bị bắt giam ba tháng vì đã yêu cầu toàn bộ các bộ trưởng theo Nhật phài từ chức cũng như yêu cầu tự do ngôn luận và quyền được tụ tập. Sau khi được trả tự do, Trần về Thượng Hải, nơi ông ấy thành lập một nhóm đầu tiên của những người xã hội trong tháng 8 năm 1920. Bây giờ ông muốn thành lập một Đảng Cộng sản.
Trần Độc Tú
Ngược lại, Mao do dự và hoài nghi. Ông cho rằng một cuộc Cách mạng theo gương mẫu Nga vẫn còn là việc không thể được trong Trung Quốc; Lenin – Mao tin một cách sai lầm như thế – đã có thể dựa trên hàng triệu đảng viên. Con đường của những cải cách dân chủ vẫn còn có triển vọng nhiều hơn cho trung Quốc.
Nhưng rồi tinh thần khởi dậy chấm dứt trong Hồ Nam: viên thống đốc không ủng hộ phong trào độc lập nữa, vì các nhà hoạt động, trong đó có Mao, yêu cầu “dân chủ và Chủ nghĩa Xã hội”.
Chẳng bao lâu sau đấy, viên thống đốc bị một địch thủ lật đổ. Kể từ lúc đấy, nắm quyền lực trong Hồ Nam lại là một tư lệnh độc tài, đàn áp giới đối lập và làm tiêu tan tất cả mọi hy vọng biến đổi.
Trong tháng 12 năm 1920, Mao viết trong một bức thư gửi cho một người bạn: “Trên nguyên tắc, tôi ủng hộ ý tưởng dùng phương cách hòa bình để đạt đến hạnh phúc cho tất cả, nhưng tôi e rằng điều đấy không thể thực hiện được trong thực tế.”
Lịch sử đã chứng minh rằng không bao giờ mà một kẻ chuyên quyền lại tự nguyện rút lui, ông ấy khẳng định. Mao cho rằng đã đến lúc phải đi một con đường mới. Ông viết cho bạn ông, ông “rất tán thành việc sử dụng mô hình Nga để cải cách Trung Quốc”.
Trong tháng 1 năm 1921, khi các thành viên hợp tác xã sách của ông biểu quyết về đường hướng chính trị, Mao đã giơ tay mình lên cho Chủ nghĩa Bolshevik.
Với 27 tuổi, một nhà có tư tưởng tự do đã trở thành một người Cộng sản – nhưng là một tín đồ phi chính thống, người không hiểu nhiều về lý thuyết của Marx.
Đầu năm 1921, Trần Độc Tú gửi cho ông bản thảo chương trình cho một đảng cộng sản Trung Quốc. Cả Moscow cũng thúc giục thành lập một ĐCS.
“Quốc tế Cộng sản”, thành lập năm 1919 và do những người Bolshevik chiếm thế áp đảo, có trách nhiệm giúp các nhà cách mạng ở khắp nơi trên thế giới thành lập tổ chức và qua đó lan truyền đi ngọn lửa của sự nổi dậy càng xa càng tốt – cũng là để tạo đồng minh cho Liên bang Xô viết đang bị cô lập. Sứ giả của Quốc tế Cộng sản đã đến gặp Trần ở Thượng Hải và thúc giục ông ấy phải nhanh lên.
Mao và các nhà hoạt động khác của hợp tác xã sách đã tạo ấn tượng cho Trần nhiều đến mức ông ấy đã đưa Trường Sa vào trong danh sách của các thành phố mà trong đó các chi bộ Đảng cần phải được thành lập. Mao đã tự chứng tỏ mình có can đảm, nhiều năng lực và khéo ăn nói. Rõ ràng là người con trai nhà nông đấy đã khiến cho giới trí thức ở Bắc Kinh và Thượng Hải phải thích thú.
Hendricus Sneevliet
Phái viên của Quốc tế Cộng sản Hendricus Sneevliet. Ảnh: GEO EPOCHE
Tháng 6 năm 1921, một phái viên của Quốc tế Cộng sản đến Thượng Hải, người Cộng sản Hà Lan Hendricus Sneevliet: một người có tác phong độc đoán và nhiều danh tính (trong chuyến đi bí mật của ông ấy, ông tự gọi mình là là “Maring” hay “Andresen”).
Sneevliet đã nhận 4000 bảng Anh từ Moscow mà lúc đến ông đã tiêu 2000 cho vợ mình và mất 600 vì một ngân hàng phá sản. Số tiền 1400 bảng Anh còn lại là vốn liếng khởi đầu để đốt lên ngọn lửa cách mạng trong Trung Quốc.
Các nhóm ở Thượng Hải và Bắc Kinh đã chuẩn bị kế hoạch cho hội nghị thành lập đảng cộng sản. Sneevliet, có một nhân viên của cơ quan tình báo quân đội Xô viết đi cùng, phối hợp các hoạt động; giấy mời được gửi đi – một trong những tờ đó là cho Mao ở Trường Sa.
Vào ngày 23 tháng 7 năm 1921, 13 đại biểu và cả hai phái viên kia gặp nhau lần đầu. Sneevliet chọn lớp học của một trường nữ làm nơi gặp gỡ bí mật, trường mà đã đóng cửa vì nghỉ hè. Người Hà Lan nắm quyền chỉ huy – khiến cho những người Trung Quốc rất tức giận, những người mà bây giờ biết rằng mình phải báo cáo thường xuyên cho người của Moscow này.
Trung thành với các chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Sneevliet thúc giục những người Trung Quốc đầu tiên hãy liên minh với giới trung lưu để tạo nên một cuộc cách mạng quốc gia. Nhưng đồng thời, những người đồng chí này cần phải xây dựng những nhóm công nhân để sau này có thể đánh bại được giai cấp tư sản.
Các đại biểu thảo luận một tuần dưới sự giám sát của ông ấy về đường lối và tổ chức đảng của họ. Vào ngày kế cuối, bất thình lình có một người lạ phá rối cuộc họp và giả vờ rằng mình đã vào nhầm cửa. Sneevliet nghi ngờ và giải tán cuộc gặp gỡ ngay lập tức. Chẳng bao lâu sau đó, một nhóm cảnh sát đi xe đến và lục soát tòa nhà – nhưng không có kết quả.
Nhóm người Trung Quốc quyết định gặp nhau trong ngày hôm sau đó ở ngoài thành phố và không có hai người nước ngoài: vì lo sợ rằng sự hiện diện của họ có thể khiến cho cơ quan nhà nước nghi ngờ. Vì thế mà họ đã đi đến Hồ Uyên ương và mướn một chiếc du thuyền.
Đầu tiên, Đảng Cộng sản chỉ nên hoạt động trong bí mật, giữ kín danh sách thành viên của mình. Một ủy ban trung ương ở Thượng Hải sẽ giám sát tài chính và công việc của Đảng; các đại biểu đã chọn Trần Độc Tú làm người đứng đầu tổ chức – mặc dù ông ấy không xuất hiện tại hội nghị – ông ấy làm việc cho thống đốc của Quảng Châu và có lẽ đã không thể bỏ rơi chức vụ của mình được.
Mao Trạch Đông trở về Trường Sa với nhiệm vụ thành lập một tổ chức Đảng ở đó. Ông hào hứng đặt mình dưới quyền lực của ĐCS. Sau những năm tìm kiếm, cuối cùng ông cũng đã tìm thấy sứ mệnh của mình. Ông xin thôi chức vụ hiệu trưởng và thành lập một “Đại học tự học”, một cơ sở ngụy trang để kết nạp thành viên mới (ông ấy còn xin được tài trợ từ chính quyền của tỉnh cho viện đào tạo này).
Mao Trạch Đông
Sau khi thành lập ĐCS vào ngày 31 tháng 7 năm 1921 Mao trở về tỉnh. Ảnh: GEO EPOCHE
Lúc đầu, việc kết nạp diễn tiến chậm chạp. Mao phải thuyết phục vợ ông là Dương Khai Tuệ, cả hai người em trai cũng như những người họ hàng khác từ làng quê của ông gia nhập Đảng. Thế nhưng trong vòng một năm, ông đã có thể trình ra 30 thành viên mới theo như yêu cầu của Trung ương Đảng.
Cũng đến từ Thượng Hải là chỉ thị, rằng Mao phải gây ảnh hưởng đến các công đoàn ở địa phương. Nền công nghiệp Trung Quốc đã tăng trưởng nhanh trong các thập niên vừa qua.  Công nhân trong các mỏ than, trong nhà máy thép và nhà máy nấu chì cũng như thợ xếp chữ, thợ in, công nhân xây dựng, công nhân điều khiển máy và công nhân đường sắt đã tập hợp lại trong các hội liên hiệp của họ từ lâu rồi.
Tháng 9 năm 1921, Mao đi sang An Nguyên ở bên cạnh, một vùng than đá rộng lớn mà ở đấy công nhân mỏ phải làm việc theo ca cho tới 15 tiếng đồng hồ. Ông thành lập những trường học ban đêm ở đó, và trong mùa Thu 1922, khi những người thợ mỏ ở An Nguyên đình công, Mao chỉ huy cuộc đình công từ trong hậu trường.
Với thành công: chủ mỏ phải tăng lương, áp dụng ngày làm việc tám giờ và tài trợ cho các trường học ban đêm. Một chiến thắng cho Mao, vì nhiều thợ mỏ đã gia nhập Đảng.
Vào đầu năm kế tiếp theo sau đó, công nhân tuyến đường sắt Vũ Hán – Bắc Kinh đình công và thể theo sự thúc giục của Đảng Cộng Sản đã thành lập một công đoàn. Thế nhưng lần này thì một tư lệnh đã dùng bạo lực để đập tan các cuộc phản kháng, có 35 công nhân chết.
Thất bại này khiến cho Moscow càng tin rằng cánh tả của Trung Quốc còn quá yếu để có thể dẫn đầu một phong trào cách mạng ở trong nước chống lại các tư lệnh vẫn còn thống trị ở trong nhiều vùng.
Ngay trong mùa Hè 1922, Bộ Chính trị, nhóm chỉ huy cốt lõi của ĐCS Xô viết, qua phái viên Sneevliet đã thúc đẩy tiến đến một mặt trận thống nhất giữa Đảng Dân tộc Chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên, Quốc Dân Đảng, và những người Cộng sản.
Đảng viên ĐCS cần phải đồng loạt gia nhập đảng của Tôn Dật Tiên. Trần Độc Tú phản đối, cả Mao cũng chống lại liên minh không cân xứng đấy.
Thế nhưng ĐCS Trung Quốc với cho tới lúc đấy là 195 đảng viên vẫn còn chưa đủ mạnh để tồn tại đơn độc (Quốc Dân Đảng có 50.000 người). Và nó phụ thuộc tài chính vào Quốc tế Cộng sản.
Học sinh của "Trường nữ sinh yêu nước" đang tuyên truyền cho những người Cộng sản
Học sinh của “Trường nữ sinh yêu nước” đang tuyên truyền cho những người Cộng sản. Ảnh: GEO EPOCHE
Vì thế mà những người đồng chí đấy chịu khuất phục và gia nhập Quốc Dân Đảng như một “khối nội bộ”, ĐCS vẫn tiếp tục tồn tại; cả Mao cũng là đảng viên của Quốc Dân Đảng năm 1923.
Thêm vào đó, ông được bầu vào Ủy ban Trung ương, ủy ban lãnh đạo bao gồm chín người, cũng như được bổ nhiệm làm thư ký của ban thường vụ còn quan trọng hơn nữa, bao gồm năm cán bộ điều khiển công việc hàng ngày của Đảng.
Ý nghĩa của một mặt trận thống nhất tuy bị tranh cãi trong số những người cộng sản – thế nào đi nữa thì nó cũng có lợi cho Quốc Dân Đảng. Vì bây giờ Moscow trợ giúp đối tác liên minh mới của ĐCS với tiền bạc và vũ khí, những cái Tôn Dật Tiên đang hết sức cần cho lực lượng quân sự của ông ấy.
Đầu năm 1923, Quốc Dân Đảng thành công trong việc xây dựng một cơ sở lớn ở gần thành phố Quảng Đông trong miền nam Trung Quốc. Với tiền từ Moscow cũng như sự giúp đỡ của cố vấn Xô viết, Tôn Dật Tiên thành lập một học viện quân sự trên một hòn đảo ở giữa sông cách Quảng Đông tròn 15 kilômét: một lò đào tạo sỹ quan cho lực lượng quân đội tương lai của “Quân đội Cách mạng Quốc gia”. Liên bang Xô viết cung cấp súng máy, đại bác và máy bay.
VÀO THỜI GIAN này, bất thình lình Mao chạy trốn khỏi trường chính trị. Trong tháng 12 năm 1924, ông đầu tiên về Trường Sa và sau đó về lại làng Thiều Sơn quê của ông ấy. Gần một năm trời, ông không tham gia cuộc họp nào của ĐCS hay của QDĐ, dần dần mất tất cả các chức vụ trong Đảng. Ông báo cho giới lãnh đạo biết rằng ông đã làm việc quá nhiều, bị trầm cảm, mất ngủ, đau đầu, chóng mặt và cao huyết áp. Có thể là ông ấy hoài nghi về liên minh với Quốc Dân Đảng trong thời gian này.
Thế nhưng mười tháng sau đó, trong tháng 19 năm 1925, ông trở về với chính trị và được bổ nhiệm làm thư ký ban tuyên truyền của QDĐ ở Quảng Đông; rõ ràng là ông ấy đã chấp nhận mặt trận thống nhất giữa những người Cộng sản và những người Dân tộc Chủ nghĩa.
Trong thời gian này, ông quan tâm ngày càng nhiều đến nông dân Trung Quốc: trong các chuyến đi qua nông thôn, niềm tin của ông ấy ngày càng tăng lên, rằng những người nghèo trong số họ (theo định nghĩa của Mao là tròn 70% của dân cư nông thôn) có thể là động lực cho cuộc cách mạng. Ông ghi lại những quan sát của mình trong các bản báo cáo và qua đó thách thức cấp trên của ông. Vì nông dân cho tới lúc đấy hầu như không đóng một vai trò nào trong suy nghĩ của giới lãnh đạo ĐCS ở Thượng Hải cả.
Mao Trạch Đông
Năm 1926, Quân đội Cách mạng Dân tộc đã đủ mạnh để tấn công địch thủ – cũng nhờ sự giúp đỡ của Xô viết. Đứng đầu quân đội là Tưởng Giới Thạch, một quân nhân chuyên nghiệp có quan hệ với giới tội phạm ở Thượng Hải. Tưởng là người chỉ huy học viện quân sự và là người kế nhiệm Tôn Dật Tiên khi người này qua đời năm 1925 vì ung thư gan.
Tưởng 38 tuổi nguyên thuộc cánh tả của Quốc Dân Đảng, nhưng thời gian sau này đã trở thành một địch thủ không khoan nhượng của những người Cộng sản. Nhiều sỹ quan trung thành với ông cũng hoàn toàn không có thiện cảm với tư tưởng Marx. Nhưng Quân đội Cách mạng Dân tộc vẫn còn phải dựa vào sự giúp đỡ của Liên bang Xô viết.
Vào ngày 9 tháng 7, Tưởng cùng 75.000 người lính xuất phát từ Quảng Đông đi lên phía Bắc. Ông muốn đẩy lùi các tư lệnh trong nhiều tỉnh, lật đổ quyền lực trung ương yếu ớt ở Bắc Kinh (từ 1911 chính phủ đã thay đổi 40 lần) và tái thống nhất Trung Quốc. Để hỗ trợ cho “Chiến dịch phương Bắc” này, Mao cần phải huy động các chiến binh nông dân ở nông thôn.
Ngay trong tháng 7, quân lính của Tưởng Giới Thạch đã chiếm Trường Sa, trong mùa Thu, tỉnh Hồ Nam quê của Mao được giải phóng. Đến cuối năm, Quân đội Cách mạng kiểm soát được bảy tỉnh với 170 triệu dân.
Trong tháng 1 năm 1927, Mao du hành qua vùng mới chiếm đóng. Trong một bản báo cáo gửi cho lãnh đạo ĐCS, ông hân hoan mô tả việc nông dân khắp nơi đã nổi dậy chống lại những người chủ đất của họ như thế nào và trả thù cho sự đàn áp và bóc lột như thế nào. Họ đặt những cái mũ nhọn lên đầu những người bị hành hạ để hạ nhục, trói họ xua qua làng, hỏi cung hay còn đánh chết họ như thế nào. Bất cứ người nào có một mảnh đất đều có thể trở thành nạn nhân của những hành động thái quá đó.
Ông cũng đi qua vùng đất là quê hương của cha ôg, người đã qua đời trong thời gian vừa qua – là người có trang trại, ông ấy hẳn sẽ phải gánh chịu sự tức giận của những người bị đàn áp.
Nhưng bạo lực không làm cho Mao cảm thấy khó chịu, ông chào mừng nó như một hành động giải phóng.
Và ông xem thường các vụ hãm hiếp những người con gái hay người vợ, các vụ hành quyết công khai. “Khi một hay hai người bị đánh chết thì đấy không phải là việc lớn”, ông nhận xét vắn tắt trong bản báo cáo của mình.
Và công việc làm là lời bào chữa cho sự khủng bố đó đấy chứ? Bây giờ, cuối cùng Mao cũng tin rằng vận mệnh đất nước Trung Quốc nằm trong tay của người nghèo ở nông thôn chứ không phải ở trong tay của giới công nhân thành thị:
“Chỉ ít lâu nữa thôi, sẽ có hàng trăm triệu người nông dân nổi dậy trong khắp các tỉnh. Họ sẽ cuồng nhiệt và không thể kìm chế được giống như một cơn bão. Người ta có nên đứng đầu họ để lãnh đạo họ không? Người ta phải lê bước đi theo sau họ để phê bình họ? Hay người ta cần phải đứng ra ngăn cản họ, để đấu tranh chống lại họ? Mỗi một người Trung Quốc đều có quyền tự do lựa chọn một trong ba con đường này, nhưng diễn tiến của các sự kiện sẽ bắt buộc bạn phải nhanh chóng lựa chọn.”
Mao đã quyết định cho mình: ông muốn tịch thu toàn bộ đất đai thuộc tư hữu và chia mới lại. Thế nhưng giới lãnh đạo của ĐCS ở Thượng Hải không chấp thuận chính sách cực đoan này – họ vẫn không muốn dựa trên nông dân và muốn trước hết là kích động giới công nhân trong các thành phố.
Cả nhiều phần của Quốc Dân Đảng cũng bộc lộ sự bực tức về những hành động bạo lực thái quá của các chiến binh nông dân được Mao khen ngợi. Vì thuộc trong giới những người ủng hộ đảng dân tộc chủ nghĩa đấy là nhiều địa chủ, doanh nhân, nhà tư bản công nghiệp và chủ ngân hàng. Thêm vào đó, Tưởng Giới Thạch lo ngại rằng đảng của ông ấy có thể bị thâm nhiễm bởi ĐCS nhỏ hơn.
Sau khi thâu tóm Thượng Hải bằng quân đội của mình, viên tướng đấy đánh cú đầu tiên vào đồng minh không ưa thích: theo lệnh của ông, trong tháng 4 năm 1927 thành viên của một hội kín mang tính mafia cũng như quân lính của Quân đội Cách mạng đã giết chết hơn 400 công nhân và người công đoàn bị nghi ngờ có thiện cảm với Cộng sản. Trên khắp nước, trong những tháng tiếp theo sau đó, khoảng chừng 34.000 người Cộng sản thật sự hay bị cho là Cộng sản đã là nạn nhân của sự khủng bố từ Quốc Dân Đảng và các lực lượng quân đội đồng minh.
Mặt trận thống nhất tan vỡ. Moscow đổ lỗi cho Trần Độc Tú và tước quyền lực của người Tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản. Theo chỉ thị của Josef Stalin, từ khi Lenin qua đời là người có nhiều quyền lực nhất trong Điện Kreml – bây giờ ĐCS cần phải tuyển mộ một lực lượng quân sự riêng.
Người có thiện cảm với ĐCS bị bắt giam ở Thượng Hải năm 1931
Cả Mao cũng nhận ra rằng không có một quân đội mạnh thì những người Cộng sản sẽ không có khả năng chống cự: “Mỗi một người Cộng sản đều phải hiểu rõ sự thật này: quyền lực chính trị đến từ những nòng súng”, ông ấy viết.
Mao, người không có kinh nghiệm về quân sự, thời gian vừa qua đã được bầu làm ủy viên dự khuyết của Bộ Chính trị ĐCS, cần phải tổ chức một cuộc nổi dậy chống lại quân đội Quốc Dân Đảng trong tỉnh là quê hương của mình.
Với ba trung đoàn Cộng sản được trang bị không tốt, ông liều tấn công vào Trường Sa. Cuộc tấn công trở thành một thảm bại. Hơn phân nửa của 3000 chiến binh đã hy sinh hay đào ngũ.
MAO CHỈ CÒN cách chạy trốn cùng với lực lượng của mình. Cuối tháng 9 năm 1927, ông dẫn số người của mình, trong đó có nhiều người chỉ được trang bị bằng giáo hay gậy gộc, đi về miền Nam. Đích đến của ông ấy là vùng đất của quân cướp: vùng núi Tỉnh Cương Sơn, do các băng đảng có vũ khí thống trị, nằm cạnh ranh giới của hai tỉnh và là nơi mà quân đội thù địch khó tiếp cận.
Ông dùng súng để hối lộ hai đầu đảng và sau đó được phép rút lui vào trong vùng đất của giới giang hồ.
Chỉ có đường mòn dẫn lên dãy núi này. Các ngọn núi cao lên cho đến gần 1000 mét, rừng thông và tre mọc trên các sườn núi đá lởm chởm, lúc nào cũng có những làn sương mù dầy đặc phủ kín. Thác nước chảy xuống vực sâu. Giữa các ngọn núi là những vùng cao nguyên nhỏ mà người dân sống ở đấy trong những ngôi nhà nghèo nàn bằng gỗ hay bằng bằng đá.
Phần lớn thời gian, Mao cùng với người của ông ấy đóng quân trong một thành phố nhỏ ở chân của dãy núi. Chỉ khi áp lực của quân đội Quốc Dân Đảng – bao vây vùng Tỉnh Cương Sơn – quá lớn, ông ấy mới lui lên trên cao.
Trong trường hợp khẩn cấp, từ đấy có những con đường đào thoát sang các tỉnh kế cận: đường mòn có bụi rậm che phủ, dầy đến mức người đuổi theo hầu như không thể nào nhìn thấy được.
Mao, người vẫn còn ăn mặc như một thầy giáo, bây giờ là một lãnh tụ du kích chỉ huy một lực lượng vũ trang bao gồm những người lính rách rưới, công nhân và nông dân, những kẻ lang thang và quân cướp giật. Những đơn vị mà chẳng bao lâu sau đó “Hồng Quân” sẽ thành hình từ đấy.
Thiếu quân phục và y phục ấm cho mùa Đông, thuốc cho thương binh, thiếu tiền, vũ khí và đạn dược. Nhiều chiến binh kiệt quệ, mắc bệnh tiêu chảy hay sốt rét.
Người lãnh tụ của họ không hề ngại ngùng khi biến những nhà cách mạng của ông ấy thành kẻ cướp. Và lực lượng của ông ấy chẳng bao lâu sau đó cũng đã đủ mạnh để ông cố tìm cách đặt hai tướng cướp đấy dưới quyền chỉ huy của ông. Một trong hai kẻ tội phạm đấy trước sau gì thì cũng là đảng viên ĐCS, người kia có thiện cảm với những người Cộng sản, nhưng vẫn còn dè dặt.
Nhưng sau khi chiến thắng được dân quân của một địa chủ, tướng cướp còn ngần ngừ kia cũng đặt các chiến binh của mình dưới mệnh lệnh của Mao. Thêm vào đó, chỉ huy du kích quân cũng đề nghị giảng dạy quân sự cho những kẻ sống ngoài vòng pháp luật.
Mao thường cho người của mình tỏa ra các tỉnh lân cận để cướp bóc. Họ tấn công hay giết chết các địa chủ, tịch thu tài sản của họ. Họ tống tiền các thương gia bằng cách đe dọa phóng hỏa đốt các cửa hàng của họ.
Mao đã bước qua một ngưỡng cửa nữa. Ông không chỉ bào chữa cho sự khủng bố mà còn ra lệnh thực hiện nó nữa.
Liên lạc với giới lãnh đạo Đảng trong lúc này đã bị cắt đứt. Thế nào đi nữa thì giới đứng đầu của ĐCS cũng kinh hoàng về “tính cách tương tự như kẻ cướp” của quân lính ông. Trong tháng 11 năm 1927, Mao bị khai trừ ra khỏi Bộ Chính Trị, cái mà ông vừa  được bầu vào ba tháng trước đấy, nhưng vẫn còn là thành viên của Trung ương Đảng.
Hạ Tử Trân là người vợ thứ ba của Mao
Nhà cách mạng giống như đã từ bỏ cuộc đời trước đây của mình. Chẳng bao lâu sao đó cũng không còn có liên lạc cả với Dương Khai Tuệ nữa, người trong thời gian đó đã sinh cho ông đứa con trai thứ ba. Từ trên núi, Mao chỉ viết cho vợ mình một lá thư duy nhất mà trong đó ông than phiền về một vết thương ở chân.
Ông đã tìm thấy một người bạn đồng hành mới từ lâu: người nữ Cộng sản 19 tuổi Hạ Tử Trân, xuất thân từ một gia đình học giả và đã bí mật gia nhập ĐCS ngay từ lúc 16 tuổi.
Những người Cộng sản đã tạm thời đã thất bại trong cuộc đấu tranh giành các thành phố. Theo một chỉ thị của Stalin, các Hồng Quân cần phải chiếm giữ những vủng đất nhỏ ở nông thôn, những cái mà họ gọi là “Xô viết”, theo các hội đồng công nhân và quân nhân dẫn đầu cuộc cách mạng trong nước Nga. Tháng 4 năm 1928, một tướng Cộng sản với hàng nghìn chiến binh đến được với Mao. Bây giờ họ cùng nhau chỉ huy bốn trung đoàn với 8000 quân lính và kiểm soát nửa triệu dân.
Tháng 12 năm 1928, Mao cảm thấy đủ mạnh để bắt đầu một cuộc cải cách ruộng đất trong vùng do ông chiếm đóng. Ông phân chia đất về cho nông dân nghèo và quân nhân và cho giết chết địa chủ. Thế nhưng khi gặp phải sự đối kháng của những người nông dân giàu và những người cầm quyền ở địa phương, ông tạm thời bãi bỏ các kế hoạch chia đất quá cực đoan của mình.
Trong lúc đấy, Tưởng Giới Thạch cùng với đồng minh của ông ấy đã chiếm được Bắc Kinh; tháng 10 năm 1928, ông tuyên bố thành lập chính phủ riêng ở Nam Kinh – một thành phố lớn cách Bắc Kinh 900 kilômét về phía Nam được ông ấy tuyên bố là thủ đô mới của Trung Quốc. Ngay sau đấy, ông cho 25.000 quân lính hành quân về Tỉnh Cương Sơn; giữa tháng 1 Mao phải rút chạy khỏi dãy núi. Với gần 3000 chiến binh, ông ấy trốn thoát về phía Đông vào vùng ranh giới giữa hai tỉnh Phúc Kiến và Giang Tây, nơi ông chiếm lấy một thành phố và lấy đó làm cơ sở hoạt động mới cho mình.
Trong thời gian này, thanh thế của ông trong giới lãnh đạo ĐCS đã được cải thiện nhiều vì các thành công về quân sự của ông ấy. Giới lãnh đạo ĐCS hy vọng họ có thể sử dụng được đội quân của Mao để tấn công các thành phố lớn hơn. Ngoài những việc khác, Mao phải tấn công Trường Sa, thành phố mà Khai Tuệ vợ ông vẫn còn sống ở đấy với ba người con.
Cuộc bao vây Trường Sa – mà trong thời gian đó Mao không có liên lạc với Khai Tuệ – thất bại sau chỉ vài tuần; người Cộng sản rút lui. Khi một tướng của Quốc Dân Đảng biết được rằng vợ của người lãnh đạo du kích quân nổi tiếng sống trong Trường Sa, ông ấy cho người bắt Dương Khai Tuệ vào ngày 24 tháng 10 năm 1930. Bà có thể được tự do nếu như chịu công khai từ bỏ Mao.
Vẫn còn yêu chồng, Khai Tuệ từ chối.
Ba tuần sau đấy, bà bị trói dẫn đi trên đường phố của Trường Sa và bị bắn chết. Tướng Quốc Dân Đảng cho chặt đầu xác chết và bêu đầu của Khai Tuệ ở một cổng thành như một chiến công. Các người con được bạn bè bí mật mang về Thượng Hải đưa vào trong một trại trẻ mồ côi.
Khi Mao, người lại rút lui về tỉnh Giang Tây, hay tin về cuộc hành quyết, ông đã tỏ lòng thương tiếc. “Tôi có chết đến một trăm lần thì cũng không thể nào bù đắp được” cho cái chết của Khai Tuệ, ông ấy viết trong một bức thư.
Vào thời gian này, Mao cuối cùng cũng đã bước qua ranh giới của bạo lực không khoan nhượng. Với tư cách là người chỉ huy quân sự, trong mùa Xuân năm 1930 ông ra lệnh bắt đầu chia lại ruộng đất ở Giang Tây. Thế nhưng lãnh đạo Đảng ở địa phương chống lại kế hoạch của ông ấy.
Điều đấy là đủ để khiến cho họ trở thành những kẻ thù trong mắt ông. Ông quả quyết rằng Đảng Cộng sản ở Giang Tây đã bị địa chủ, nông dân giàu có và người của Quốc Dân Đảng thâm nhập. Họ phải được thanh trừng và “Bolshevik hóa”.
Ảnh hưởng của ông đã đủ để lập một ủy ban đặc biệt ở Giang Tây. Mao cho xử tử những người chống ông như là những kẻ “phản cách mạng”, hàng trăm đảng viên bị khai trừ ra khỏi Đảng.
Lần đầu tiên, ông ấy đã phá bỏ điều cấm kỵ, giết chết đồng chí. Và cho tới lúc đó, ông cũng đã đủ vô lương tâm để che đậy cuộc đấu tranh giành quyền lực này bằng những khái niệm của hệ tư tưởng.
Mao Trạch Đông
Con người có tư tưởng tự do từ Hồ Nam đã đi qua một đoạn đường dài. Vào lúc đầu, ông từ chối mọi hình thức bạo lực, rồi đối với ông, nó ngày càng mang tính hợp pháp hơn trong cuộc đấu tranh chống lại những người đàn áp. Trong năm trước đó, ông còn ra chỉ thị rằng sự khủng bố chỉ được phép hướng đến những kẻ thù giai cấp. Nhưng bây giờ, ông luôn dịch chuyển mới ranh giới giữa bạn và thù.
Và vì thế mà những cuộc hành quyết do Mao ra lệnh chỉ là lần khởi đầu của một sự cuồng nhiệt tự hủy hoại, kéo dài nhiều tháng liền và ngày càng tăng lên, cái cũng lan sang cả Hồng Quân: chẳng bao lâu sau đấy, mỗi một đại đội đều truy tìm những kẻ phản bội trong hàng ngũ của mình. Chỉ trong một tuần duy nhất, 2000 sỹ quan và quân lính của một đội quân tiền phương đã bị bắn chết, trong số 4400 người bị cáo buộc có liên quan đến những kẻ phản cách mạng dưới áp lực của các cuộc hỏi cung.
Trong thành phố Phúc Điền, các ủy ban đã điều tra bằng cách tra tấn ép buộc những người bị cho là phản cách mạng phải nhận tội: tay sai đắc lực đã trói tay họ lại, đánh họ bằng gậy tre hay đốt cho họ bị bỏng. Hay họ dùng đinh đóng tay của những người phạm tội xuống bàn và đẩy những mảnh tre nhọn vào dưới móng tay.
Không biết được con số chính xác của các nạn nhân cuộc “thanh trừng” này, có lẽ là hàng chục nghìn người đã chết trong những tháng đó. Mao thúc đẩy người của ông tiến hành giết người và đã nhiều lần bảo vệ họ– biết rõ rằng ông hy sinh những người vô tội để chiếm lấy quyền lực.
Cả giới lãnh đạo Đảng cũng chấp thuận tra tấn và giết người.
Về một mặt hẳn là từ nỗi lo sợ “khủng bố trắng”: vì tay sai của Tưởng Giới Thạch truy lùng người Cộng sản trong thành phố; dân quân của các tư lệnh đánh đuổi họ ra khỏi thôn quê, đốt cháy những làng mà họ nghi là có người Cộng sản ở trong đó. Và quân đội Quốc Dân Đảng cố gắng bao vây Hồng Quân.
Trước bối cảnh đấy, nhiều cấp cao trong Đảng cho là lời quả quyết của Mao cũng đáng tin cậy, rằng những người có thiện cảm với Quốc Dân Đảng đã thâm nhập vào trong Đảng.
Về mặt khác, dưới ảnh hưởng của Quốc tế Cộng sản, quan điểm của Stalin ngày càng thắng thế trong ĐCS Trung Quốc, rằng bất kỳ người đồng chí nào mà hoài nghi mệnh lệnh của Đảng thì cũng phải được xem như là kẻ thù.
Vì thế mà các cuộc thanh trừng cứ tiếp tục diễn ra. Nhất là khi mối đe dọa từ quân đội của Tưởng Giới Thạch giữ cho nỗi lo sợ hoang tưởng luôn luôn hiện diện. Phải khéo léo lắm Mao mới có thể luôn trốn thoát được những cuộc tấn công của Quốc Dân Đảng.
Mùa Thu 1931, thế lực áp đảo dường như trở nên quá mạnh. Nhưng rồi ngày 18 tháng 9 năm 1931, quân đội Nhật bất ngờ tiến quân vào Mãn Châu, tỉnh giàu nguyên liệu ở miền Bắc của Trung Quốc. Tưởng Giới Thạch rút các lực lượng của mình về để bảo vệ vùng biên giới đó.
Những người Cộng sản được cứu thoát.
VÀO NGÀY 7 THÁNG 11 NĂM 1931 – ngày kỷ niệm Cách mạng tháng Mười – ĐCS Trung Quốc thành lập quốc gia riêng ở Giang Tây. 600 cán bộ Đảng tập họp lại trong một gian sảnh đẹp được trang hoàng bằng biểu ngữ ở giữa một khu rừng nhỏ đầy cây long não lâu năm. Các đơn vị của Hồng Quân diễu binh, pháo hoa được đốt.
Mao long trọng tuyên bố: “Từ bây giờ trở đi có hai quốc gia hoàn toàn khác nhau trên lãnh thổ Trung Quốc. Một quốc gia là cái được gọi là Cộng hòa Trung Hoa, công cụ của Chủ nghĩa Đế quốc. Quốc gia khi là Cộng hòa Xô viết Trung Hoa, quốc gia của số đông công nhân, nông dân, quân nhân và người lao động bị bóc lột và đàn áp.”
Xô viết Giang Tây bao gồm một vùng đất với gần sáu triệu người dân. Mao Trạch Đông được bổ nhiệm làm sếp của chính phủ quốc gia lâm thời.
Mười năm sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc được thành lập, người thầy giáo dạy Sử kín đáo đấy đã thăng tiến lên cao. Tuy ông vẫn còn đứng dưới giới lãnh đạo Đảng ở Thượng Hải – thế nhưng trong Vương quốc Đỏ của Giang Tây, lần đầu tiên những người dưới quyền đã xun xoe gọi ông khác đi: là “Mao Chủ tịch”.
Ông sẽ giữ danh hiệu đấy cho đến khi qua đời.

Cuộc chạy trốn qua núi

1934 – 1935: “Vạn lý Trường chinh”
Cuộc tổng tấn công của những người Quốc Dân Đảng trong tháng 10 năm 1934 bắt buộc Hồng Quân phải bỏ chạy. Một cuộc phiêu lưu vô định kéo dài mười hai tháng trời bắt đầu mà hàng chục ngàn người đã chết trong lúc đó. Những người sống sót sẽ quyết định tương lai. Người dẫn đầu họ: Mao Trạch Đông.
Đây là lịch sử của một chuyến lưu lạc lập nên một huyền thoại. Một hành trình dài hơn 8000 km xuyên qua một vài vùng đi lại khó khăn nhất của Trái Đất: cuộc trốn chạy của 80.000 người Cộng sản trước những người truy nã họ, quân đội của Tưởng Giới Thạch.
Những người lính của Hồng Quân hành quân cả một năm trời và trung bình chỉ sau 200 kilômét mới nghỉ một ngày. Họ đi bộ theo một hình vòng cung khổng lồ xuyên qua Trung Quốc, qua 18 dãy núi, 24 con sông lớn, chiếm 62 thành phố, đáng 300 trận và bước vào những vùng mà không một quân đội Trung Quốc nào đặt chân đến đó từ nhiều thế hệ qua.
Vạn lý Trường Chinh
Những ai đương đầu với tất cả những nguy hiểm đó, người đấy bị hành hạ bởi chứng vàng da, sốt, đói. Và trong mười người chỉ có một người đến được đích.
Những người sống sót sau này góp phần của họ vào trong một thiên anh hùng ca mà vẫn còn có ảnh hưởng cho đến ngày hôm nay: một truyện kể về những người anh hùng và những kẻ đê tiện, thảm họa và chiến thắng, người thắng và kẻ thua – cả trong hàng ngũ của chính họ.
Chỉ một người trong số họ sẽ chiến thắng vào lúc cuối: Mao Trạch Đông.
Trong khi đấy thì vào lúc bắt đầu cuộc hành quân ông ấy là người yếu nhất trong tất cả các đối thủ.
VÀO NGÀY 18 THÁNG 10 NĂM 1934, KHI MAO bước ra khỏi nhà của ông ấy trong thành phố Vu Đô, gương mặt của ông ấy nhợt nhạt, cơ thể gầy ốm. Trong những tháng trước đó, ông bị sốt rét, ông vẫn còn cảm nhận được căn bệnh đó.
Nhưng nếu bây giờ không khởi hành thì ông có nguy cơ rơi vào tay kẻ thù đáng sợ nhất của ông ấy: Tưởng Giới Thạch. Thêm vào đó, ông sẽ mất liên lạc với nhóm dẫn đầu đã ra đi.
Từ tre, dây thừng và một mảnh vải bạt, ông tự tạo cho mình một cái cáng, phòng trường hợp ngất xỉu dọc đường. Một trong những người cận vệ sau này sẽ nhớ lại rằng Mao chỉ mang theo hai tấm chăn, một khăn trải giường, một tấm vải dầu, một cái áo choàng, một cái ô đã hỏng và một bó sách. Người vợ đang mang thai, Hạ Tử Trân, đã đi trước. Mao để đứa con trai hai tuổi tên Tiêu lại cho người em trai.
Từ nhiều ngày qua, các đơn vị của Hồng Quân đã kéo ngang qua thành phố nhỏ nhà trong Xô viết Giang Tây – vùng đất tròn 50.000 kilômét vuông ở miền Đông Nam Trung Quốc do người Cộng sản thống trị từ 1929.
Nhưng không chỉ có quân nhân là đang trên đường đi: hơn 5000 phu khuân vác mang theo gạo, vũ khí, thiết bị kỹ thuật và thuốc men, hồ sơ lưu trữ của Đảng, máy in và máy may. Thêm vào đó là hậu cảnh của nhà hát tuyên truyền, một máy chiếu X-quang đã được tháo rời ra, một thư viện cũng như kho báu quốc gia: hàng tấn vàng và bạc.
Nhân viên hành chính của Xô viết, cán bộ, nhân viên của Ngân hàng Nhà nước – tất cả họ đã nhận chỉ thị hãy sẵn sàng lên đường trong vòng vài ngày.
Vì giới lãnh đạo chắc chắn một điều: người Cộng sản sẽ không thể nào giữ được vùng đất của mình lâu hơn nữa trước quân đội của Tưởng Giới Thạch.
Bây giờ tất cả phải được tiến hành nhanh chóng. Nhiều người chỉ còn một vài ngày để chuẩn bị cho cuộc hành trình.
Binh lính của Hồng Quân tụ họp lại trên bãi cỏ cạnh bờ của một con sông gần Vu Đô. Nhóm người của đội tuyên truyền hát những bài ca cách mạng, dép rơm nhưng cả giày cũng được phân phát cho những người lính, quân phục và nón tre. Mỗi người nhận khẩu phần gạo cho hai tuần.
Nhà nước Xô viết, cái mà Mao 40 tuổi đã đấu tranh để có nó, bị giải tán. Ông nhìn lỗi lầm cho việc này ở ba người đã hất ông ra khỏi quyền lực.
BA NĂM TRƯỚC ĐÓ, Mao, nguyên thủ của nước Cộng hòa Xô viết Trung hoa vừa mới được thành lập, còn có thể cảm nhận mình như là người cầm quyền độc nhất. Vì trong một loạt các lãnh thổ do người Cộng sản kiểm soát ở nhiều miền đất Trung Quốc thì vùng do ông lãnh đạo trong tỉnh Giang Tây là vùng lớn nhất và quan trọng nhất. Việc ông đứng dưới quyền của Trung ương Đảng ở Thượng Hải hầu như không mang ý nghĩa gì: khi có một mệnh lệnh nào đến mà ông không đồng ý với nó thì ông cứ phớt lờ nó càng lâu càng tốt.
Cùng với thủ lĩnh quân đội Chu Đức to khỏe của mình, Mao có uy tín rất lớn trong giới nông dân và nắm chặt lấy vùng Giang Tây trong tay mình. Ông đã xây dựng nhà nước Xô viết đó. Bằng khủng bố, bạo lực nhưng cũng cả bằng sức thu hút của mình, ông nắm giữ lấy quốc gia Cộng sản nhỏ bé đó.
Đội Hồng Quân của Mao Trạch Đông tiến hành một cuộc chiến tranh phòng thủ không khoan nhượng chống lại quân đội Tưởng Giới Thạch. Và thỉnh thoảng cũng chiến thắng: Mao dẫn dụ quân lính của Tưởng Giới Thạch tiến sâu vào trong vùng Xô viết để phục kích tiêu diệt họ.
Thế nhưng giới lãnh đạo Đảng ở Thượng Hải đòi hỏi nhiều hơn nữa. Quân đội Cộng sản cuối cùng cũng phải tấn công các thành phố lớn, để thúc đẩy cuộc cách mạng ở đó. Mao cố xoa dịu. Ông biết quân đội của mình yếu đến đâu. Chiến thuật của ông là chỉ tấn công kẻ địch ở nơi có thể gây tổn thương cho nó.
Nhưng chẳng bao lâu sau đó, ông phải đặt mình dưới một người đến Giang Tây vào cuối năm 1931: thành viên Bộ Chính trị Chu Ân Lai 33 tuổi.
Người con của một gia đình viên chức có học là hình ảnh trái ngược lại của Mao: ông ấy đã sống ở Paris và Berlin, được cho là một người theo Chủ nghĩa Thế giới. Khiếu tổ chức của ông ấy, và tài không gây thù kết oán với bất cứ người nào, được đánh giá cao trong ĐCS. Chính bản thân Chu lại tuân theo tất cả các chỉ thị hết sức nghiêm ngặt.
Khác với Mao, ông không bao giờ biểu lộ tham vọng giật lấy quyền lực cao nhất. Ông ấy là người thứ nhì toàn hảo – chỉ là ông ấy chưa tìm thấy được người thứ nhất của mình.
Chu ở trong vùng Xô viết càng lâu thì lại càng có thiện cảm với Mao và chiến lược của ông ấy. Nhưng ông ấy quá là cán bộ để mà công khai chống lại ý muốn của giới lãnh đạo.
Trong một hội nghị vào tháng 10 năm 1932, giới này muốn bắt buộc người đứng đầu chính phủ bướng bỉnh kia phải tuân lời. Đại diện của họ khiển trách Mao là “biếng nhác”, lúc nào cũng chờ đợi kẻ địch tấn công. Thêm vào đó, họ buộc tội ông không tôn trọng Trung ương ở Thượng Hải. Những người đồng chí cũng phê bình Chu Ân Lai – người này để cho Mao bị đẩy ra khỏi ban lãnh đạo quân đội của Cộng hòa Xô viết.
Tháng 1 năm 1932, toàn bộ giới lãnh đạo ĐCS chạy trốn về Giang Tây: tổ chức Đảng ở Thượng Hải và trong các thành phố khác sụp đổ, cán bộ bị lộ, bị bắt, bị hành quyết.
Những người mới đến chẳng coi Mao, người tự xưng là lãnh tụ của nông dân, ra gì. Ông và người bạn chiến đấu Chu Ân Lai của ông ấy, người ta cho rằng họ đã châm chọc như thế, chẳng khác gì những tên cướp được ca ngợi. Mao phải giao lại chức vụ đứng đầu chính phủ, ông chỉ còn lại danh hiệu “Chủ tịch Ủy ban Điều hành trung ương của Cộng hòa Xô viết Trung Hoa” – nhưng không còn có quyền lực thật sự gắn liền với nó nữa.
Bây giờ, bên cạnh Chu Ân Lai, thống trị trong Thụy Kim, thủ đô của Cộng hòa Xô viết, là bí thư Đảng Bác Cổ.
Bác Cổ, một con người trẻ 26 tuổi, hơi vụng về, là học trò Stalin gương mẫu. Ông có chức vụ đấy là nhờ vào sự tận tâm với Quốc tế Cộng sản – tổ chức do Liên bang Xô viết chiếm thế thống trị, cái có nhiệm vụ điều khiển các đảng Cộng sản trong các nước khác.
Cũng như nhiều cán bộ Trung Quốc, ông ấy đã học ở Moscow; ông ấy biết các học thuyết của Marx và Lenin, nhưng ông hầu như chẳng hiểu gì về chiến lược quân sự cả.
Vì thế mà Bác Cổ tin vào một cố vấn quân sự do Quốc tế Cộng sản gửi đến, người Cộng sản Đức Otto Braun 34 tuổi, người mà ông ấy trên thực tế đã đưa lên làm chỉ huy Hồng Quân – bên cạnh Chu Ân Lai.
Với chiều cao 1,80 mét, Braun hầu như cao hơn tất cả mọi người ở Giang Tây. Mặc dù ông có thanh thế rất lớn do là người của Moscow gửi sang, nhưng con người quê ở Thượng Bayern là một người ngoài cuộc: ông không nói được một từ của thổ ngữ tiếng Trung địa phương, sống trong một căn nhà cô lập giữa những cánh đồng lúa.
Ông dựa trên những chiến dịch hành quân cổ điển như đã học được tại Học viện Quân sự ở Moscow, với những hoạt động được điều phối chặt chẽ và kỷ luật tuyệt đối của từng người một. Thế nhưng trong mùa Xuân 1934, Hồng Quân dưới sự lãnh đạo của Bác Cổ và Braun đã chịu nhiều chiến bại đau đớn và mất những vùng đất rộng lớn.
Nhiều người – trước hết là Mao – đã nhanh chóng tìm thấy kẻ có lỗi cho thảm họa đấy: người Đức kiêu căng đấy, không có khả năng thích hợp với các tình thế ở địa phương.
Thật sự thì các tổn thất đó bắt nguồn từ một chiến lược mới của Tưởng Giới Thạch: thay vì tiếp tục trực tiếp tấn công lãnh thổ Xô viết, ông siết vòng vây ngày một chặt lại. Chúng hình thành từ hàng nghìn lô cốt nhỏ bằng bê tông với tường dầy cho tới sáu mét mà trong đó một phần có đủ chỗ ẩn nấp cho cả một tiểu đoàn.
Trước kia, Hồng Quân có thể dẫn dụ những người tấn công vào các nơi đã phục kích sẵn. Thế nhưng bây giờ mặt trận cứ nhích dần lên mà không chận lại được. Quân đội Tưởng yểm trợ những cuộc tiến công của họ bằng hỏa lực pháo bin từ trong các lô cốt, và họ rút lui ngay lập tức vào trong sự bảo vệ của chúng khi Hồng Quân tấn công.
Trong mùa hè năm 1934, Xô viết Giang Tây đã teo lại còn khoảng phân nửa của vùng đất ban đầu. Chu Ân Lai, Bác Cổ và Otto Braun bây giờ không còn nhìn thấy giải pháp nào khác hơn là tháo chạy. Có lẽ ba người này đưa ra quyết định một mình. Mao chỉ được báo cho biết. Toàn thể bộ máy phải đi theo, cái cần thiết để nhanh chóng xây dựng một nhà nước ở nơi khác: hành chính, ngân hàng nhà nước kể cả máy in tiền, báo Đảng, cơ xưởng và nhà máy sản xuất đạn – tất cả các thiết bị không dễ dàng thay thế được.
Tất cả đều diễn ra trong vòng bí mật nghiêm ngặt; mỗi một người chỉ biết những gì chính mình cần phải làm.
Những ai không nhất thiết được cần đến đều phải ở lại: trẻ con, hầu hết phụ nữ, người già, cán bộ làng và khoảng 20.000 người bị thương. Cũng như tròn 10.000 người lính có nhiệm vụ đóng giả sự hiện diện của một đạo quân ở mặt trận. Tất cả họ đều bị phó mặc cho sự trả thù của Quốc Dân Đảng.
80.000 người kia phải phá vỡ các vòng vây và thành lập một căn cứ mới ở đâu đó – có thể là cùng với các đạo quân Cộng sản khác cũng đã tháo chạy khỏi các căn cứ của họ.
Một kế hoạch điên rồ. Vì đoàn người kéo dài ra đến tròn 30 kilômét. Nhiều người phu phải khuân vác quá nặng, những người mang vác nặng nhất hầu như không thể đi hơn 20 kilômét trong một ngày.
Khi cuối cùng rồi Mao cũng lên đường vào ngày 18 tháng 10 thì nhóm tiên phong đã đi trước từ nhiều ngày. Trong ánh hoàng hôn, ông đến một được một trong năm chiếc cầu phao mà công binh đã xây dựng một phần từ tre và cánh cửa. Ông vượt con sông đang lặng lẽ chảy đi. Và chờ cho đến giờ của mình.
Vào lúc đầu, Hồng Quân chỉ hành quân về đêm, khi họ không bị máy bay ném bom, trong ánh sáng của những cây đuốc, lên núi, xuống núi, xuyên qua rừng rậm. Họ phải vượt qua bốn vòng vây công sự của Quốc Dân Đảng. Trong những ngày đầu tiên, không có dấu hiệu nào cho thấy Tưởng đã phát hiện ra cuộc tháo chạy của họ.
Mao Trạch Đông / Vạn lý Trường chinh
Vì vào lúc ban đầu những người đang hành quân không gặp nhiều kháng cự: lãnh đạo của họ đã chọn một vùng không có quân đội của chính phủ trung ương đóng ở đó, mà hầu như chỉ có quân lính của các thống đốc tỉnh – những viên tư lệnh hoạt động phần lớn là độc lập, thích để cho những người Cộng sản kéo qua càng nhanh càng tốt hơn là ủng hộ Tưởng Giới Thạch. Vì ai kìm giữ Hồng Quân ở trên lãnh thổ của mình thì lại cung cấp lý do cho Quốc Dân Đảng gửi quân đội của họ vào tỉnh đấy.
Nhưng tính nhẫn nại của các warlord này có giới hạn: trong lúc vượt qua vòng vây thứ nhì, có một người tấn công hậu quân của Hồng Quân. Chậm nhất là bây giờ thì nhiều người lính hoảng sợ, những người mới đây bị những người Cộng sản ép buộc phải phục vụ trong quân đội và vẫn còn chưa biết được mục đích của mình. Ngày càng có nhiều người biến mất vào trong bụi rậm.
Thế nhưng ai trở về Giang Tây là rơi vào trong địa ngục. Vì chỉ vài tuần sau khi Hồng Quân rút đi, chiến binh của Quốc Dân Đảng đã tràn vào vùng Xô viết. Ai rơi vào tay họ đều bị giết chết, thường là bị tra tấn trước đó. Người Quốc Dân Đảng phóng hỏa đốt trụi nhiều làng để hun khói các du kích quân đang ẩn nấp, “những kẻ cộng tác với địch” có nguy hiểm bị cưỡng bức lao động một cách dã man, phụ nữ bị hãm hiếp. Trong số những Hồng Quân bị bỏ lại chỉ có một vài trăm người là sống sót.
Khi Tưởng phát hiện ra rằng lực lượng chính của ĐCS đã rời vùng đấy, ông cho quân đội đuổi theo.
Vào cuối tháng 11, Hồng Quân đến được sông Tương. Mặc dù quân địch đã vào vị trí chiến đấu, công binh vẫn xây được cầu phao tại nhiều nơi.
Khi địch thủ tấn công, người ta đã phải trả giá đắt cho việc giới lãnh đạo ĐCS cương quyết gói ghém cả một nhà nước trong những thùng hàng: các đơn vị thiện chiến nhất phải bảo vệ nơi vượt sông chống lại những cuộc công kích bốn ngày liền, cho tới khi đoàn vận tãi chậm chạp đấy cùng với giới lãnh đạo cuối cùng cũng đến tới bờ sông.
Nhưng hỗn loạn đã xảy ra ở đấy sau những cuộc tấn công: súng lớn, máy móc và thiết bị mà người ta đã cực nhọc mang theo bị quẳng lại hay rơi xuống nước. Nhiều ngàn người chết.
Qua đó, người Cộng sản đã mất hơn phân nửa chiến binh của họ chỉ sau sáu tuần kể từ lúc lên đường. Cộng thêm vào số những người đã hy sinh ở sông Tương là nạn nhân của các trận đánh dọc đường, những người bị thương (chỉ sĩ quan cao cấp mới được cáng theo), những người kiệt sức rơi lại sau, những người lạc đường, mất liên lạc. Và những người đào ngũ – hẳn là hơn 10.000 người lính cũng như hầu hết 5000 phu khuân vác đã bỏ trốn.
Tổng cộng, Hồng Quân đã thu nhỏ lại còn khoảng 40.000 người.
Thêm vào đó, đường đi về phía Bắc đã bị khóa lại, vì Tưởng Giới Thạch và người cầm quyền của tỉnh Hồ Nam đang chờ ở đấy với 100.000 người lính. Hy vọng hợp nhất với  một đạo quân Cộng sản thứ nhì bây giờ là điều không thể.
Otto Braun / Vạn lý Trường chinh
Tinh thần của quân lính buồn chán ảm đạm. Cả giới lãnh đạo cũng chán nản: theo một tường thuật, Bác Cổ thường đùa nghịch với khẩu súng lục của mình, dí nó vào đầu và rồi giả vờ bóp cò. Và Otto Braun bị cho rằng đã đánh mất tính chuyên quyền của ông ấy.
Và tuy vậy: Hồng Quân đã đạt được mục đích đầu tiên của họ và đã thoát được vòng vây. Nhưng bây giờ phải làm gì?
Trong khoảng khắc của sự mất phương hướng này, Mao nhìn thấy thời cơ của mình đã đến. Trong cuộc hành trình cho tới lúc này, ông đi qua đoàn quân, nghe ngóng đây đó một ít, nói chuyện với người này và người khác. Ông tạo liên kết mới và đã lôi kéo hai thành viên của giới lãnh đạo Đảng cũng như nhiều chỉ huy và bí thư cấp cao về phía mình, những người mà ông quen biết từ thời còn cùng nhau đánh du kích.
Bây giờ, trong các hội nghị của giới lãnh đạo Đảng và quân đội, ông không còn nhẫn nhịn nữa. Khi Bác Cổ và Otto Braun đề nghị cứ chờ cho tới khi tìm được một lối thoát về phía Bắc thì ông lại đề nghị thay vì vậy tiếp tục đi về hướng Tây, vào tỉnh Quý Châu. Người ta cho rằng quân đội của viên tư lệnh ở đấy chỉ là một nhóm vô kỷ luật của những người nghiện thuốc phiện, vì thế mà chắc là sẽ không có kháng cự.
Và thật sự: cả Chu Ân Lai cũng tán đồng ý kiến của Mao. Điều này đã mang lại quyết định. Sau hai năm bị khinh thường, lần đầu tiên Mao lại cùng bàn thảo tại một câu hỏi mang tính quyết định.
Nhưng cuộc thanh toán vẫn còn ở phía trước.
NHƯ MAO ĐỀ NGHỊ, Hồng Quân đi qua Quý Châu trong những tuần cuối cùng của năm 1934. Trong mỗi một thị trấn, các nhóm tuyên truyền tỏa ra, dán áp phích lên hàng rào, vẽ khẩu hiệu có chữ to lên tường: “Chỉ Chủ nghĩa Cộng sản mới có thể cứu thoát được Trung Quốc” và “Đả đảo Tưởng Giới Thạch”. Cán bộ hỏi tìm nông dân giàu có và những người buôn thuốc phiện, rồi nhân danh Cách mạng tịch thu toàn bộ tài sản của họ.
Đầu tháng 1 năm 1935, Hồng Quân chiếm Tuân Nghĩa mà không cần phải chiến đấu, nơi ngự trị của người đang cầm quyền tại địa phương trong miền Bắc của Quý Châu, thêm vào đó là nhiều thành phố lân cận. Ở đây còn có nhà với đèn điện nữa.
Giới lãnh đạo tuyên bố sẽ thành lập một căn cứ Cộng sản mới ở đây. Ngay lập tức các cán bộ bắt đầu làm việc, tổ chức các cuộc mít tinh, khuyến dụ người tình nguyện, thành lập các ủy ban cách mạng.
Hồng Quân chọn tòa nhà đẹp nhất thành phố để làm trụ sở chính của họ: ngôi biệt thự của một thương gia giàu có. Ở đấy, giới lãnh đạo Đảng và quân đội đã họp lại vào tối ngày 15 tháng 1 năm 1935.
Chu Ân Lai / Vạn lý Trường chinh
20 người đàn ông ngồi trên những chiếc ghế mây quanh một cái bàn gỗ nặng nề trong ánh sáng của một cây đèn dầu, được sưởi ấm bởi một cái lò nhỏ bằng sắt.
Các sự kiện vừa qua cần phải được thảo luận: các hoạt động thất bại chống cuộc bao vây của Tưởng Giới Thạch, nhiệm vụ của vùng Giang Tây – và cả thảm họa ở sông Tương.
Mao đã tổ chức cuộc hội nghị nhờ sự giúp đỡ của những người đồng minh thân cận nhất của ông ấy và đã chuẩn bị tất cả để nó diễn ra theo ý của ông.
Bác Cổ là người đầu tiên phát biểu và lý giải chiến bại ở Giang Tây với quân đội chiếm ưu thế của Tưởng Giới Thạch cũng như với các công sự. Liệu cả giới lãnh đạo ĐCS cũng thất bại hay không, ông ấy không nói về việc đó.
Kế tiếp theo, Chu Ân Lai cất tiếng nói. Về nguyên tắc ông đồng ý với Bác Cổ, nhưng rồi lại nêu ra các sai lầm chiến thuật của năm vừa rồi – những cái tất nhiên là ông cũng đều cùng chịu trách nhiệm cho tất cả. Chu có thể tự phê bình mình như thế. Vì ông đã thỏa thuận từ lâu với Mao và những người liên kết với ông ấy rằng cần phải quy lỗi chính về cho ai: Otto Braun và Bác Cổ.
Chính Mao đảm nhận điều đấy: cả hai người đều đã không tuân theo các quy tắc tiến hành chiến tranh cơ động mà lại chọn một chiến thuật phòng ngự sai lầm dẫn đến mất vùng đất Xô viết. Mao nói càng lâu, một người phiên dịch sau này sẽ nhớ lại, thì Braun hút càng nhiều thuốc lá, người ngồi ở cạnh bàn như một bị cáo – nhưng ông ấy không bao giờ mất sự tự chủ.
Đa số người tham dự đồng quan điểm với Mao. Ông được nhận vào trong giới lãnh đạo Đảng cao nhất và được bổ nhiệm làm trợ tá cho Chu, người chịu trách nhiệm cao nhất về mặt quân sự.
Bộ ba Chu, Bác và Braun thế là bị phá vỡ, Mao thăng tiến trong hệ thống cấp bậc của Đảng và lại tham gia lãnh đạo về mặt quân sự. Braun và Bác tiếp tục đi cho tới hết cuộc hành trình – nhưng chấp nhận bị đẩy lùi ra sau.
Đối với Mao, việc ông bị tước quyền lực cả một thời gian dài bây giờ lại trở thành ưu thế của ông ấy: ông có thể bác bỏ tất cả mọi lỗi lầm về phía mình.
Hội nghị vẫn còn diễn ra khi nhận được báo cáo có quân đội đang tiến đến: 100.000 quân lính của Tưởng Giới Thạch. Vào ngày 20 tháng 1 Hồng Quân rời thành phố.
Những người Cộng sản bây giờ cách xa mục đích của họ hơn bao giờ hết: ý tưởng xây dựng một căn cứ tạm thời trong Tuân Nghĩa, có lẽ là còn cả một Xô viết mới nữa, đã trở thành ảo tưởng. Đồng thời, từ Trùng Khánh chỉ cách đó 200 kilômét về phía Bắc, Tưởng Giới Thạch huy động ngày càng nhiều lực lượng để chận đường đi của họ. Ở Giang Tây và ở sông Tương, ông đã không thể tiêu diệt được Hồng Quân, ông muốn nắm bắt lấy cơ hội kế tiếp – ở đây trong Quý Châu – bằng mọi giá.
Giới lãnh đạo Đảng bây giờ dự định vượt qua con sông lớn của Trung Quốc, Trường Giang, chảy xuyên qua đất nước này từ Tây sang Đông. Cho tới nay, họ di chuyển ở phía Nam của con sông hướng về nguồn – thế nhưng họ biết rằng có một đạo quân cộng sản đang ở đâu đấy trên phía Bắc, trong tỉnh Tứ Xuyên, đạo quân mà đã chạy trốn khỏi vùng Xô viết của họ từ năm 1932.
Nhà trong hang động
Trên thực tế, Mao đã nắm lấy quyền chỉ huy, Chu để cho ông ấy làm. Quân đội bây giờ hành quân thành từng đơn vị nhỏ, tách rời khỏi nhau.
Mao cho rằng các trung đoàn đang truy đuổi theo ông là không mạnh lắm. Theo lệnh của ông, một phần lực lượng quay trở lại và tấn công. Mãi đến lúc đấy, người lãnh đạo quân đội mới nhận ra rằng ông ấy đã gặp phải một con số lớn những người lính được huấn luyện tốt và có kỷ luật. Trận đánh kéo dài một ngày liền, trước khi Mao bỏ chạy.
Đó là trận đánh đầu tiên của ông ấy kể từ khi lấy lại được quyền chỉ huy, và nó chấm dứt với hàng nghìn người chết. Kế hoạch vừa mới được đưa ra, vượt Trường Giang, lại bị hủy bỏ.
Nhưng ngay sau đó, người Cộng sản đấy đã đạt được một chiến thắng – và quyền lực chỉ huy của ông ấy tiếp tục được củng cố. Suốt hai tháng trời, Hồng Quân đi theo một vũ điệu điên rồ: Mao gửi họ đi trên những đường chữ chi, đường tròn và đường cong vòng vèo qua Quý Châu và tỉnh Vân Nam giáp ranh ở phía Tây.
Đó là một điển hình cho chiến thuật quân sự của ông ấy, cái dựa trên việc đánh lừa và làm cho đối phương bối rối, dấu kín các ý định của mình trước quân địch và thao túng nó. Suốt đời mình, ông ấy sẽ tự hào khoe khoang thành tích này. Nhưng đối với những người mà ông ấy đẩy qua lại trên sân chơi của ông ấy thì đó là một cơn ác mộng.
Vì những nơi vượt Trường Giang đều bị đối phương chận lại ở phía Bắc nên nhiều tuần liền ông đã tìm một con đường để đưa người của mình qua được quân đội của các tỉnh và của Quốc Dân Đảng, liên tục thúc giục họ đi qua những ngọn núi gồ ghề, rừng rậm và thung lũng đầy sương mù.
Trong thời gian này, Hạ Tử Trân vợ Mao sinh hạ một đứa con, ở đâu đấy trong một ngôi nhà tạm bợ. Bà ấy không được phép giữ nó, vì đấy sẽ là một gánh nặng cho quân đội. Người em chồng đã đưa đứa bé cho người duy nhất đã có thể tìm thấy ở gần đấy: một người đàn bà già cả và mù lòa. Mao chẳng buồn nhìn con gái của mình đến một lần.
Hồng Quân, thường hành quân về đêm, ngụy trang về ban ngày với cây cỏ. Lúc trời đẹp thường có máy bay ném bom bay đến và, còn tồi tệ hơn nữa, máy bay tầm thấp, những cái lơ lững hầu như không tiếng động quanh sườn núi và bắn họ bằng súng máy.
Mệt mỏi và trở nên lãnh đạm sau nhiều tuần, người của Mao thường chỉ còn nằm xuống tại chỗ thay vì tìm chỗ ẩn náu trong lúc bị không kích. Sau một lần bị ném bom, 18 mảnh bom đã xé nát lưng của Hạ Tử Trân. Bà ấy được mang theo trên một cái cáng, nhưng các y tá không thể làm gì nhiều hơn là đưa thuốc phiện cho bà ấy (sau này, bà ấy được bay sang Liên bang Xô viết để điều trị).
Ở đây không thiếu thuốc phiện. Trong nhiều vùng của Quý Châu, thuốc phiện được trồng nhiều hơn là lúa và rau cải. Hồng Quân tịch thu rất nhiều thuốc phiện, trả tiền cho những người phu khuân vác bằng thuốc phiện và đổi nó để lấy thức ăn. Họ không được phép lấy bất cứ vật gì từ những người nông dân bình thường mà không trả tiền, người ta rất chú ý đến điều đấy. Quân đội cần phải quảng cáo cho Chủ nghĩa Cộng sản và không được làm xấu hình ảnh của nó.
Nhưng thường thì người nông dân không có sự lựa chọn. Khi hàng nghìn người lính đói ăn đi vào một ngôi làng với vài chục căn nhà thì vườn tược và kho thóc chẳng mấy chốc đều trống trải. Một miéng bạc thì giúp ích được gì khi khắp nơi đều đã bi ăn sạch cả rồi? Hay đấy còn là một tờ tiền giấy của Ngân hàng Xô viết nữa?
Cuối tháng 3 năm 1935, Mao cho rằng thời điểm để rời miền Bắc của Quý Châu đã đến. Với những cuộc hành quân giả vờ trước đấy, ông cố để cho Tưởng tin rằng Hồng Quân vẫn còn tìm kiếm lối qua Trường Giang từ đây.
Hiện giờ mục đích là vượt qua con sông này ở xa dưới phía Nam, nơi nó còn là một con sông chảy xiết trên núi, tìm đường đi của nó từ Cao nguyên Tây tạng. Để làm việc đấy, Mao cho quân đội đầu tiên hành quân về phía Nam và giả vờ tấn công vào tỉnh lỵ Quý Dương, nơi đích thân Tưởng đóng trong tổng hành dinh của ông ấy ở đấy để “tiêu diệt những tên cướp”. Hoảng loạn xảy ra. Tưởng gọi quân đội của tỉnh Vân Nam láng giềng đến hỗ trợ.
Đó chính là mục đích của Mao: Vân Nam bây giờ không còn được canh giữ nữa, con đường tiến về phía Tây bị bỏ ngỏ. Để Tưởng không đoán ra được kế hoạch, Hồng Quân đi thành nhiều nhóm tỏa ra thành hình cánh quạt và thường hay quay lại hướng đối nghịch. Mao đã “đánh lừa được” Tưởng, một sĩ quan Quốc Dân Đảng sau này sẽ nói như thế.
Vào ngày 29 tháng 4, những người Cộng sản đầu tiên đến được bờ sông. Người dân địa phương dùng vài chiếc thuyền lớn chở quân lính sang bên kia sông, phải cần đến chín ngày.
Lần vượt Trường Giang sau này thuộc vào trong những hân hoan chiến thắng to lớn nhất của Hồng Quân. Vì người Cộng sản đã thành công trong việc mà Tưởng cố ngăn chận: họ thoát được về hướng Bắc. Từ lúc bắt đầu cuộc trường chinh, họ chưa từng bao giờ có nhiều tự do trong di chuyển như thế này. Nhưng những câu hỏi gây bất an lại tái xuất hiện: Mao tuy đã tạm thời cứu thoát được Hồng Quân – nhưng ông ấy có một kế hoạch cho tương lai không? Người ta có thể thật sự tin tưởng rằng ông ấy sẽ tìm được một cứ địa mới hay không?
Phần lớn những người lính đều cách xa quê hương của họ hơn 1000 kilômét, trong một tỉnh xa lạ mà họ không hiểu được tiếng địa phương của nó,
Trong một lò rèn trước thành phố Hội Lý, những người lãnh đạo Đảng và quân đội thảo luận về tình hình. Họ đã đi từ bảy tháng nay, và quân đội đã teo lại chỉ còn một phần tư của lực lượng ban đầu. Từ Tuân Nghĩa họ lại mất phân nửa thêm một lần nữa, gần 20.000 người, trong các cuộc chiến đấu nhưng trước hết là vì kiệt sức.
Người lãnh tụ quân đội 27 tuổi Lâm Bưu – một viên chỉ huy ít nói và gan dạ, chuyên gia cho những đòn nhử, phục kích và tấn công sườn – nổi giận vì trò chơi mèo và chuột chết người mà Mao dùng quân đội để chơi nó. Ông ấy yêu cầu giới hạn quyền chỉ huy của Mao,
Mao mắng nhiếc ông ấy: “Mày chỉ là một thằng bé!” Không ai phản đối. Tuy nhiều người hiện diện có cùng quan điểm với Lâm, nhưng Chu Ân Lai và những người đồng chí khác bằng mọi giá không muốn có một cuộc khủng hoảng lãnh đạo. Khi Mao đưa ra các ý định của ông ấy về con đường tiếp tục của Hồng Quân, tất cả mọi người đều đồng ý.
Ông ấy đã nhắm tới mục đích kế tiếp: tiếp tục đi về hướng Bắc qua vùng núi ở rìa cao nguyên Tây Tạng, càng nhanh càng tốt. Lại có một con sông là vật cản quyết định: lần này là sông Đại Độ, con sông mà chỉ có thể vượt qua được ở một vài nơi. Họ cách nó khoảng 300 kilômét – đường chim bay.
Vào ngày 24 tháng 5 Hồng Quân đến được con sông này, thế nhưng cuộc vượt sông bằng thuyền theo dự định tiến triển quá khó khăn. Mao chỉ còn một khả năng: họ phải đến cây cầu Lô Định, nơi một con đường mua bán cũ dẫn qua con sông đang hung dữ chảy xiết. Đó là một cây cầu treo lớn bằng dây xích sắt to, dài 100 mét và có nhà ở hai bên cầu.
Việc Đệ nhất Quân đoàn của Hồng Quân chiến đấu mở đường ở đây đã khiến cho nó trở thành cây cầu nổi tiếng nhất của Trung Quốc.
Trong lịch sử anh hùng của Đảng Cộng sản, một nhóm nhỏ hồng binh vừa đu trên dây trần trụi của cây cầu đã mất đi những tấm ván lót vừa bắn súng xung quanh mình trong lúc đó, không ngần ngừ lao vào một biển lửa ở đầu bên kia và rồi lại xuất hiện ra từ đó mà chỉ bị cháy sém tóc và chân mày, để rồi cuối cùng chiến thắng kẻ thù đông hơn nhiều trong cuộc đấu tay đôi.
Điều chắc chắn chỉ là đã không diễn ra như thế. Tuy quân lính của một viên tư lệnh từ Tứ Xuyên thật sự là đã cố cản đường họ – chắc hẳn là bằng cách đã lấy một phần ván lót bỏ đi. Trận đánh tuy vậy kéo dài không lâu.
Nhưng cả trong tình trạng đã được sửa chữa lại thì những người nào đấy trong đoàn đang hành quân cũng không thể nào vượt qua được cây cầu này: như người ta nói rằng chỉ huy Lâm Bưu phải được ba người dẫn qua vì ông ấy bị choáng váng; nhiều người khác phải bò qua.
Ở bên kia cầu đường lại lên núi cao. Vào giữa tháng 6, họ vượt một con đèo trên độ cao 4000 mét. Cuộc hành quân qua băng tuyết trở thành một trải nghiệm gây chấn thương tinh thần cho nhiều người. Đã từ lâu họ không còn sức lực nữa, giày và áo bông chần đã mòn cũ, hay họ đã quẳng chúng đi khi còn ở miền Nam nóng ấm.
Làm sao mà họ biết được những gì chờ họ ở phía trước. Bây giờ, họ phải cực nhọc đi trong tuyết dầy với những cái áo choàng mỏng bằng bông vải và giẻ quấn quanh chân. Nhiều người lính mắc chứng bệnh độ cao, có người ngồi xuống để nghỉ ngơi rồi không bao giờ đứng dậy nữa. Y tá phân phát một loại nước sắc ra từ gừng và ớt, cái được cho là trợ giúp được một ít. Mao, mang bệnh sốt rét, yếu đến mức phải cho người khiêng trên cáng qua đèo.
Vào ngày 12 tháng 6 năm 1935, những người đầu tiên bắt đầu xuống thung lũng – và nghe tiếng súng bắn, đó là ủy ban chào mửng của Đệ tứ Quân đoàn. Niềm vui mừng rất lớn. Thế rồi quân lính của cả hai quân đoàn tiến đến gần nhau và ngạc nhiên.
Người thì bị sốc khi nhìn thấy những hình dáng gầy gò, dơ bẩn, mắt tụt sâu vào trong hố, ăn mặc rách rưới, có người còn mặc cả quần lụa đã sờn hay áo hoa của phụ nữ. Người khác thì ngạc nhiên về những bộ quân phục không thể chê vào đâu được và những gương mặt cạo râu nhẵn nhụi. Đó là một quý ông!
Trương Quốc Đào, lãnh đạo của Đệ tứ Quân đoàn, đón chào những người khách như một chủ trại đón chào họ hàng nghèo của mình. Con người 37 tuổi đó cũng là thành viên thành lập Đảng Cộng sản như Mao, nhưng là thành viên của Bộ Chính trị lâu hơn rất nhiều. Ông ấy chỉ huy một căn cứ với một đạo quân tròn 70.000 người.
Trên thực tế, ông ấy là người làm chủ tình hình. Và vì ông ấy cũng thèm muốn quyền lực và cũng vô lương tâm như Mao nên ông ấy đã giành được quyền tổng chỉ huy quân sự của cả hai quân đoàn.
Kế tiếp theo sau đấy, ông ấy tranh cãi với Mao và Chu về việc một Xô viết mới cần phải được thành lập ở đâu.
Mặc dù quân đội của Trương mang vẻ có tính chiến đấu cao nhưng vài tháng trước đó họ đã phải rời bỏ vùng đất của họ trong miền Bắc Tứ Xuyên dưới áp lực của Quốc Dân Đảng –cũng như ba năm trước đó đã phải bỏ lại một căn cứ khác nằm về phía Đông.
Bây giờ, họ kiểm soát một vùng đất rộng lớn ở đây trên cao nguyên giáp rìa phía Tây của Tứ Xuyên. Nhưng dân cư, phần lớn là người Tây Tạng, thường trốn trong rừng và giới hạn chỉ tiếp xúc với những người Cộng sản qua những cuộc tập kích. Làng mạc thường bị bỏ trống, nhà cửa đóng kín và lương thực dự trữ được cất dấu. Chỉ lúa mạch chưa chín là còn trên những cánh đồng, và thỉnh thoảng, những nhóm được cử đi săn mới bắt được một con bò Tây Tạng hay một con cừu.
Mặc dù vậy, Trương muốn củng cố căn cứ của ông ở đây trong khi Mao khăng khăng đòi cả hai đạo quân phải tiếp tục đi về phương Bắc.
Cuối cùng, giới lãnh đạo Đảng – mà trong đó những người quanh Mao và Chu vẫn còn thống trị – quyết định khởi hành. Nhưng để thề thốt sự thống nhất, người ta tạo thành hai đoàn hành quân đi rời nhau nhưng được trộn lẫn từ cả hai đạo quân.
Căn cứ Diên An
Vào cuối tháng 8, đoàn của Mao với phần lớn quân lực từ Giang Tây cũng như nhóm lãnh đạo Đảng đi qua một vùng cao nguyên rộng lớn ở phía Bắc mà hầu như chẳng có một con đường mòn rõ ràng nào dẫn qua đó – và sau này đã trở thành biểu tượng cho ý chí chịu đựng của những người đang hành quân. Vì dưới cỏ cao là những lỗ bùn mà người và la chìm vào trong đó. Hầu như không thể phân biệt đất cứng với đầm lầy sền sệt, và ngoài một vài loại dâu thì những người lính không tìm được gì để ăn cả.
Họ đi qua vùng đất cỏ đó bảy ngày. Khi họ lại đặt chân lên mặt đất cứng, nhóm quân này nhận được tin báo qua vô tuyến: Trương với đoàn quân của ông ấy đang đứng trước một con sông không thể vượt qua được và phải quay trở lại. Và ông ấy ra lệnh cho nhóm khi cũng phải trở về.
Nhưng Mao và nhóm lãnh đạo Đảng không hề nghĩ đến việc đấy. Mâu thuẫn tiếp tục gia tăng cả tuần sau đấy, cho tới khi những người lãnh đạo Đệ nhất quân đoàn – đã từng khởi hành ở Giang Tây – theo lời đề nghị của Mao đưa ra một quyết định bí mật: họ muốn bỏ lại tất cả các đơn vị của Đệ tứ quân đoàn, những đơn vị cùng hành quân trong đoàn của họ, và khởi hành đi lên hướng Bắc mà không có họ.
Vào sáng sớm ngày 11 tháng 9, Mao và những người trung thành với ông ấy lặng lẽ rút đi. Nhưng ông không có khả năng liên lạc với 4000 người của Đệ nhất quân đoàn đang hành quân trong đoàn của Trương,
Khoảng khắc của lần quyết định cắt đứt với Trương và tạo nguy cơ gây ra một cuộc chiến tranh giữa hai đạo quân là giờ phút đen tối nhất trong cuộc đời của ông ấy, Mao sau này sẽ thuật lại như thế.
Tuy trận đánh huynh đệ tương tàn đã không xảy ra nhưng vẫn có một sự chia cắt nguy hiểm trong Đảng. Vì Trương bổ nhiệm một chính phủ Xô viết riêng và thành lập một Trung ương Đảng riêng.
Tuy vậy cố gắng chiếm đoạt một căn cứ mới trong tỉnh Tứ Xuyên của ông ấy thất bại: quân đội của Trương mất một nửa lực lượng, phần còn lại tiếp tục đi lên cao nguyên.
Khi một chuyến đi tiếp theo về hướng Tây chấm dứt với một thảm họa, Trương không còn lựa chọn nào khác hơn là tìm đến với Mao.
Người này ra vẻ rộng lượng, vì ông ấy biết con người kia không còn là mối nguy hiểm cho ông nữa (Trương sẽ thất vọng rời bỏ ĐCS trong mùa Xuân 1938 và chạy sang với Quốc Dân Đảng).
Thời gian này, Mao quyết định khởi hành đi đến một mục đích mới ở miền Bắc của tỉnh Thiểm Tây. Ở đó, những người Cộng sản địa phương – độc lập với các khu vực Xô viết ở miền Nam và hầu như không được giới lãnh đạo Đảng chú ý tới – đã thành lập một căn cứ riêng vài năm trước đó dưới chân Vạn lý Trường thành, với khoảng nửa triệu dân.
Ngay sau khi Mao cắt đứt với Trương Quốc Đào lại có thêm một đạo quân nữa đến Thiểm Tây: lực lượng này vào lúc ban đầu đã ở lại trong vùng Xô viết của Đệ tứ Quân đoàn, nhưng rồi cũng lên đường hành quân.
Có lẽ Mao biết họ đến được Thiểm Tây qua thông tin trong một tờ nhật báo của Quốc Dân Đảng. Bây giờ, ông dẫn đầu một đạo quân nhỏ – chưa tới 8000 người – qua vùng núi Dân Sơn, sông Vị và qua tỉnh Cam Túc, nơi họ phải chống lại các kỵ binh Hồi giáo.
Và rồi cuối cùng, vào ngày 19 tháng 10 năm 1935, họ đã đến đích. Ủy ban làng với cờ đỏ chào mửng những người mới đến. Cuộc chạy trốn đã chấm dứt cho quân đội Mao sau gần đúng một năm.
ĐOẠN ĐƯỜNG NÀO mà họ đã đi qua, ngày nay không ai có thể nói chính xác điều đấy được. Theo Mao, đấy là 20.000 lý, khoảng 12.500 kilômét. Nhưng nên hiểu con số đấy như một hình tượng, vì người Trung Quốc thường dùng lý không phải như một đơn vị có tiêu chuẩn mà là như một đơn vị “theo cảm nhận”. Các ước lượng thấp nhất xuất phát từ khoảng 8000 kilômét.
Cuối cùng thì điều đấy không đóng vai trò nào cả. Những người tham gia cuộc Vạn lý Trường chinh này đã không dự định trước thành tích đấy, họ hành quân và cứ tiếp tục hành quân, phải chịu đựng đau đớn, đói khát và sợ hãi. Vạn lý Trường chinh có ý nghĩa gì đối với họ, điều đấy thì những con số đó không thể nào thể hiện được.
Bây giờ, từ những ngọn đồi xanh tươi của Giang Tây với những cánh đồng ruộng và ao hồ nuôi cá, họ bị đẩy vào trong một vùng đất khô cằn màu vàng xám. Vực sâu chia cắt các cao nguyên không có cây cối, bụi ở khắp mọi nơi.
Làng mạc là những hang động mà con người đã đào sâu vào trong các sườn núi hoàng thổ. Bão cát từ sa mạc Gobi, hạn hán và ngập lụt thay nhau hoành hành ở vùng này, thu hoạch thấp và nạn đói không phải là hiếm.
Khi Mao đến Thiểm Tây, vùng Xô viết này hoàn toàn không an toàn. Các đường giao thông và thành phố quan trọng đều bị quân đội Quốc Dân Đảng kiểm soát. Và tuy vậy, nơi khô cằn này là chốn trú ẩn của những người Cộng sản cho đến hơn mười năm.
Tuy về mặt hình thức mãi đến năm 1943 Mao mới được bầu lên đứng đầu Đảng, nhưng đã từ lâu, quyền hành thống trị của ông ấy không còn được tranh chấp nữa. Tổng bí thư của ĐCS từ tháng 2 năm 1935 là Trương Văn Thiên, người mà ngay từ lúc rời khỏi Giang Tây đã thuộc vào trong số những người đồng minh ít ỏi của ông ấy.
Sức thu hút của Mao bắt nguồn từ huyền thoại của cuộc Vạn lý Trường chinh. Ngay sau khi đến Thiểm Tây, ông đã tiếp tục xây đắp thêm cho nó.
“Vạn lý Trường chinh là một chiến dịch mà lịch sử chưa từng biết đến”, ông ấy nói trong tháng 12 năm 1935. “Vạn lý Trường chinh là một bản tuyên ngôn, thông báo với cả thế giới rằng Hồng Quân bao gồm những người anh hùng, trong khi đế quốc và tay sai của chúng – tức Tưởng Giới Thạch và đồng bọn – chỉ là vô dụng. Vạn lý Trường chinh là một nhóm tuyên truyền giải thích cho nhân dân biết rằng chỉ có con đường của Hồng Quân mới là con đường giải phóng cho họ. Vạn lý Trường chinh là một cỗ máy gieo, đã gieo vô số hạt giống đã nẩy mầm, kết trái và trong tương lai sẽ mang lại một mùa thu hoạch.”
Từ những cựu chiến binh của cuộc hành quân bắt buộc đấy đã xuất hiện một giới tinh hoa quyết định vận mệnh của Trung Quốc trong vòng sáu thập niên tiếp theo sau đó. Những người sống sót trở thành bộ trưởng, chủ tịch nước, tổng bí thư và thống chế. Và tạo uy quyền của họ từ thời gian một năm đấy.
Mao và Chu gắn bó chặt chẽ với nhau nhất qua các trải nghiệm đấy. Cho tới ngay trước khi qua đời năm 1976, họ sẽ cùng nhau thống trị nước Trung Hoa Cộng sản: người con trai nhà nông nổi loạn đó và người bạn thực dụng của ông ta.
Ca kịch, thơ và phim sẽ ca ngợi các huyền thoại của Hồng Quân bất bại và sự sáng suốt của Mao chủ tịch – và biến cuộc Vạn lý Trường chinh trở thành một huyền thoại cách mạng to lớn, chỉ có thể so sánh được với lần chiếm ngục Bastille trong năm 1789 hay lần tấn công vào Cung điện mùa Đông năm 1917.
Đối với nhiều thế hệ người Trung Quốc, con đường đi của Đệ tứ Quân đoàn sẽ trở thành một sự khích lệ liên tục để sẵn sàng chịu đựng và vươn đến thành tích.
“Khi bạn thấy điều gì đó khó khăn”, người ta sẽ nói với họ như vậy, “thì hãy nghĩ đến cuộc Vạn lý Trường chinh.”

Trận đấu tay đôi vì Trung Quốc

1946 – 1949: nội chiến
Johannes Schneider
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO EPOCHE xuất bản
Người Quốc gia và người Cộng sản tranh giành quyền lực từ năm 1927 – chỉ lần người Nhật tiến vào là đã có thể bắt buộc họ liên kết lại với nhau. Sau Đệ nhị thế chiến, mối kình địch của các địch thủ ngày xưa lại bùng nổ ra.
Trước khi bay đến thành phố của kẻ tử thù Tưởng Giới Thạch của mình, Mao đứng cho chụp ảnh, ông ấy cười mỉm: người lãnh tụ của ĐCS Trung Quốc cố che đậy sự sợ hãi của mình.
Mao đã ngần ngừ cả một thời gian dài, đã từ chối lời mời của Tưởng Giới Thạch, thế nhưng cuối cùng, sau bức điện tín thứ ba, ông ấy cũng nhượng bộ và nhận lời.
“Người em của anh đang chuẩn bị để đến càng sớm càng tốt”, ông ấy trả lời Tưởng với sự lịch sự truyền thống ở Viễn Đông. Ông phải bay về Trùng Khánh – vào trung tâm quyền lực của Quốc Dân Đảng của Tưởng.
Bây giờ, vào ngày 28 tháng 8 năm 1945, ngay trước khi khởi hành, Mao đang hồi hộp. Ông ôm chầm lấy đứa con gái bé nhỏ của mình, hôn vợ từ giã. Ông cần phải vượt khoảng cách tròn 800 kilômét từ Diên An ở giữa Trung Quốc, căn cứ chính của những người Cộng sản, về đến Trùng Khánh nằm ở phía Nam bằng một chiếc máy bay cánh quạt mà Tưởng đã gửi đến cho ông.
Nhưng Mao, 51 tuổi, chưa từng bao giờ bay. Ông không tin vào kỹ thuật đấy, sợ rằng máy bay có thể bị phá hoại trước. Vì thế nên ông khăng khăng đòi Patrick Hurley, đại sứ Hoa Kỳ ở Trung Quốc, đi cùng với ông trong chuyến đi này. Người Mỹ là đồng minh của Tưởng. Có Hurley bay cùng, Mao cảm thấy yên tâm hơn.
Trên không, ông cố tìm cách sao  lãng, viết một bài thơ. Và thật sự thì chuyến bay diễn ra bình an vô sự, và sau một vài giờ, Mao đã nhìn thấy dãy núi quanh Trùng Khánh.
Trên sân bay, một phái đoàn của Tưởng đón tiếp ông. Hurley giới thiệu nhiều đại diện của chính phủ Quốc Dân Đảng cho Mao; người lãnh đạo ĐCS bắt tay, lại cười. Các nhà báo muốn biết ông nghĩ gì về máy bay. Mao ra vẻ từng trải: “Rất hiệu quả.”
Hẳn là không có quốc gia nào chăm chú theo dõi cuộc gặp gỡ giữa Mao và Tưởng như Hoa Kỳ – vì người Mỹ muốn có một Trung Quốc thống nhất là đồng minh ở châu Á.
Lần cuối cùng mà Mao ở trong một thành phố lớn như Trùng Khánh cách đây đã lâu rồi. Ở Diên An ông ấy sống trong một hang động qua những năm vừa rồi; bây giờ Hurley chở ông trên một chiếc Cadillac đến một ngôi nhà đầy tiện nghi.
Ngay sau đấy, hai đối thủ đứng đối diện nhau trong buổi ăn tối. Tưởng – khổ hạnh, gầy, đầu cạo trọc – mặc một bộ quân phục không chê vào đâu được; Mao mặc một chiếc áo khoác nhăn nheo. Từ 20 năm nay, đó là lần đầu tiên mà hai người đàn ông này nhìn vào mắt nhau.
Vào cuối buổi gặp gỡ, Mao nâng ly chúc người chủ nhà, gọi to: “Tưởng Giới Thạch muôn năm!”
Người đàn ông, người mà ông Chủ tịch uống để chúc tụng sức khỏe, đã săn lùng những người Cộng sản của ông ấy xuyên qua khắp cả đất nước. Ông ấy đã cho giết chết hàng chục ngàn người theo Mao. Từ khi Tưởng được bầu làm lãnh tụ của Trung Quốc Quốc Dân Đảng năm 1925, ông không theo đuổi một mục đích nào kiên trì nhiều năm hơn là tiêu diệt Đảng Cộng sản.
Nhưng bây giờ Mao và Tưởng tỏ ra thống nhất, cười, nâng ly chúc tụng nhau, đưa tay ra cho nhau. Nhưng đó không phải là một sự thay đổi ý kiến, cái mang họ lại với nhau, không phải niềm mong muốn có hòa bình. Mà là áp lực từ bên ngoài.
Đã một lần, tám năm trước đó, cả hai đối thủ này đã bắt buộc phải liên kết lại với nhau. Liên minh thời đó chỉ tồn tại được một thời gian ngắn.
THÁNG 12 NĂM 1936. Trong Quốc Dân Đảng, những lời yêu cầu người đàn ông đầy quyền lực của Trung Quốc, Tưởng Giới Thạch, hãy đánh đuổi người Nhật ra khỏi đất nước, ngày càng to tiếng hơn.
Tưởng Giới Thạch
Từ năm 1931, đảo quốc đấy chiếm giữ Mãn Châu, một vùng đất ở miền Đông Bắc của Trung Quốc. Năm 1932, người Nhật lập một chính phủ bù nhìn ở đấy và từ lúc đó đã kiểm soát nhiều vùng rộng lớn ở miền Bắc của Trung Quốc.
Nước Nhật là quốc gia hùng mạnh nhất châu Á, những người lãnh đạo nó muốn ngang hàng với các cường quốc châu Âu và thành lập một nước thuộc địa – với Trung Quốc là cốt lõi. Lực lượng chiếm đóng hành hạ người dân trong những vùng đất bị xâm chiếm, phá bỏ trường học, đại học, thánh vật của họ.
Trung Quốc trong thời gian này là một đất nước bị chia rẽ về chính trị và lãnh thổ. Ở đấy có người Nhật, đã xâm chiếm được miền Bắc; ở đấy là những người Quốc gia của Tưởng, thống trị các vùng đất rộng lớn ở miền Nam và miền Đông; ở đấy là những người Cộng sản, đã nắm giữ được nhiều lãnh địa ở miền Trung của nước này, trong số đó là căn cứ chính của họ ở Diên An; và còn một vài warlord nữa, những nhà cầm quyền địa phương, kiểm soát các miền đất rộng lớn ở phía Tây.
Từ nhiều tháng nay, các tướng lĩnh của Quốc Dân Đảng thúc giục Tưởng đừng chấp nhận cứ bị Tokyo làm nhục mãi. Thế nhưng người này không muốn tiến hành chiến tranh chống lại những kẻ chiếm đóng: ông ấy hoài nghi rằng quân đội của ông có thể đương đầu được với đối thủ. Thêm vào đó, ông muốn dùng quân đội của mình đế chống lại ĐCS hơn.
Ngược lại, Mao lâu nay đã yêu cầu Tưởng hãy cùng nhau chống lại nước Nhật. Quyền lợi của quốc gia bây giờ quan trọng hơn là cuộc đấu tranh giai cấp. Nhưng cho tới nay, lời yêu cầu của ông ấy không được xem xét đến.
Nhưng rồi vào tháng 12 năm 1936, hai tướng của Quốc Dân Đảng dụ Tưởng Giới Thạch về thành phố Tây An của hoàng đế và bắt giam ông ở đấy: họ muốn bắt buộc ông phải liên kết với những người Cộng sản. Sau hai tuần bị quản thúc tại gia, Tưởng nhượng bộ.
Các cuộc thương lượng với ĐCS kéo dài nhiều tháng trời. Chu Ân Lai, người được Mao tin cậy nhất, thường xuyên gặp Tưởng để trao đổi – hoài công. Con người chống Cộng sản quyết liệt đấy cố gắng gây trở ngại cho cuộc thống nhất bằng cách liên tục đưa ra các yêu cầu mới, ví dụ như quyền tổng chỉ huy các lực lượng thống nhất.
Ngay lúc Mao đe dọa hủy bỏ các cuộc đối thoại, người Nhật viện cớ một cuộc chạm trán nhỏ ở gần Bắc Kinh trong tháng 7 năm 1937 để tiếp tục tiến sâu vào Trung Quốc. Bây giờ thì Tưởng phải từ bỏ chiến thuật kéo dài thời gian của ông ấy, mối đe dọa cho toàn bộ đất nước trở nên quá lớn.
Và vì thế mà từ lúc đấy trở đi, những người Quốc gia và những người Cộng sản cùng nhau chống lại kẻ xâm lược.
Mặc dù vậy, họ vẫn bị bất ngờ bởi vận tốc tiến công của quân địch: người Nhật chiếm Thượng Hải trong tháng 11, chiếm Nam Kinh vài tuần sau đó, trụ sở chính phủ của Quốc Dân Đảng. Tưởng và các thành viên của bộ máy hành chính ông ấy chạy về Trùng Kháng.
Những người xâm lược hoành hành trong Nam Kinh. Quân lính Nhật làm ô nhục thành phố bảy tuần liền. Hơn 70.000 người bị giết chết.
Cuộc thảm sát đấy là màn mở đầu cho một cuộc chiến hầu như không thể nào tàn bạo hơn được nữa: cuộc kháng chiến đã cướp đi ít nhất là 15 triệu sinh mạng người Trung Quốc. Trong diễn tiến của nó, các tư lệnh người Nhật đã nghĩ ra một phương cách mà họ gọi là “ba lần tất cả”: cướp hết tất cả, đốt cháy hết tất cả, giết chết hết tất cả.
Quân đội Nhật Bản chiến thắng ở gần Thượng Hải
Trong vòng một năm, quân đội của Tokyo chiếm toàn bộ Đông Trung Quốc, giữ tất cả các thành phố công nghiệp và thương mại quan trọng cũng như vùng đất nông nghiệp màu mỡ nhất. Thế nhưng người Trung Quốc không đầu hàng.
Từ Trùng Khánh, Tưởng chỉ huy cuộc kháng chiến, liên tục lôi kéo người Nhật vào những trận đánh mới. Để trì hoãn cuộc tiến quân của họ, ông ấy cho phá đê trong nội địa: trận lụt làm ngập nhiều tỉnh, hàng trăm ngàn người Trung Quốc chết.
Trong khi người của Quốc Dân Đảng tiến hành những trận đánh lớn, nhiều tổn thất, để chống người Nhật thì người Cộng sản tấn công kẻ địch ở phía sau mặt trận: từ tỉnh Thiểm Tây là nơi trú ẩn của họ, họ tấn công đường tiếp tế của người Nhật với những đơn vị nhỏ, linh hoạt, bắn các đoàn xe, phá đường tàu hỏa.
Sâu trong lãnh thổ của kẻ địch, họ thành lập căn cứ mới và động viên người dân đứng lên chống những kẻ đang chiếm đóng. Vì người Nhật không có khả năng kiểm soát toàn bộ các vùng đất đã chiếm được – Trung Quốc quá rộng.
Tưởng nghi ngại theo dõi các hoạt động của người Cộng sản: trong khi vùng đất dưới quyền của ông ấy thu nhỏ lại thì dường như những người đồng minh lại hưởng lợi từ cuộc chiến. Họ dùng cuộc chiến tranh phòng ngự của họ ở phía sau chiến tuyến của người Nhật để tự phô diễn mình trước quần chúng như là những người yêu nước thật sự, và thêm vào đấy lại giảm bớt sự đóng góp cho những người nông dân nghèo nhất.
Với thành công: chẳng bao lâu sau đó, con số những người theo Cộng sản tăng vọt, cả lãnh thổ do họ kiểm soát cũng rộng lớn hơn nhiều, du kích quân của họ ngày càng có sức chiến đấu cao hơn.
Khi người của Mao còn bắt đầu chiếm cứ những ngọn núi ở phía Nam của Trường Giang – một vùng đất của những người Quốc gia –, quân đội Quốc Dân Đảng tấn công người đồng minh trong tháng 1 năm 1941, bắt buộc họ phải lui về phía Bắc. 3000 Hồng quân đã chết trong các trận đánh này. Bằng mọi giá, Tưởng muốn ngăn không cho người Cộng sản lan rộng ra.
Đối với Mao, cuộc tấn công đó rõ ràng là đã phá vỡ “mặt trận thống nhất”, hai tháng sau đó, ông tuyên bố chấm dứt liên minh.
Hai đối thủ bây giờ ra mặt trở thành địch thủ. Và cả hai đều đã có kế hoạch cả cho thời gian sau chiến tranh. Như Mao ra lệnh cho các viên chỉ huy của ông ấy không đưa hết toàn bộ các đơn vị vào trong cuộc chiến chống người Nhật. Quan trọng hơn về lâu dài là phải xây dựng một đạo quân có sức chiến đấu cao.
Nhưng ngay cả khi những người Cộng sản không hy sinh tất cả trong cuộc chiến chống người Nhật: những cuộc tấn công theo lối du kích của họ cũng góp phần quyết định để cho Trung Quốc có thể chống cự được với một địch thủ hùng mạnh. 53 tháng trời.
Thế rồi, vào sáng sớm ngày 7 tháng 12 năm 1941, người Nhật gửi 378 chiếc máy bay chiến đấu đến hòn đảo núi lửa Oahu ở Hawaii, đến cảng chính của Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ: Pearl Harbor.
Các chỉ huy ở Tokyo đã quyết định tấn công Hoa Kỳ, thế lực mà từ nhiều năm nay đã cho Tưởng, đối thủ của họ, vay bạc triệu; thế lực mà họ đã cảnh cáo một cách dứt khoát rằng không nên tiếp tục bành trướng ở châu Á nữa; và thế lực mà từ một vài tháng nay đã ban hành lệnh cấm vận dầu hỏa đối với đảo quốc của họ, điều bây giờ đang đe dọa làm tê liệt quân đội của Nhật hoàng.
Quyết định tấn công Pearl Harbor của người Nhật cũng được đưa ra bởi vì cuộc chiến chống Trung Quốc không thể kết thúc một cách nhanh chóng bằng một chiến thắng được  – và nó là một quyết định sai lầm lớn. Vì chỉ một ngày sau cuộc tấn công, Hoa Kỳ tuyên chiến công khai với đế chế. Bây giờ Trung Quốc có một cường quốc đứng cạnh mình.
Hoa Kỳ lo liệu sao cho Liên bang Xô viết và Liên hiệp Anh công nhận Trung Quốc là nước lớn và nhận đất nước này thêm vào nhóm tay ba đặc biệt của họ: bắt đầu từ năm 1942, từ câu lạc bộ của “Ba nước lớn”, các đồng minh quan trọng nhất trong cuộc chiến chống phe Trục của Đức, Ý và Nhật, đã trở thành “Bốn nước lớn”.
Trước khi Hoa Kỳ bước vào cuộc chiến, mục đích duy nhất của Quốc Dân Đảng là cố chống đỡ. Bây giờ thì dường như việc chiến thắng nước Nhật chỉ còn là câu hỏi về thời gian. Và Tưởng làm tất cả mọi việc để sau khi chiến thắng, ông ấy sẽ là người thống nhất Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của mình.
Ông luôn yêu cầu Hoa Kỳ giúp đỡ về mặt quân sự. Ông bi kịch hóa tình hình, nói rằng những lần cung cấp vũ khí – xe tăng, xe tải, đại bác, máy bay – là không đủ, ông còn cần nhiều hơn nữa.
Người Mỹ huấn luyện quân đội Tưởng, cấp tiền xây dựng đường băng cho máy bay chiến đấu loại mới. Năm 1944, họ còn thành công trong việc bảo đảm cho Trung Quốc có một  ghế thường trực trong Hội đồng Bảo an sắp được thành lập của Liên Hiệp Quốc.
Nhưng Tưởng không thể ngăn cản được việc một phái đoàn của Hoa Kỳ bay đến Diên An trong cùng năm, để gặp Mao và những người trung thành với ông ấy – cuối cùng thì cả những người Cộng sản cũng chiến đấu chống Nhật Bản, và người Mỹ tìm cách thống nhất tất cả các lực lượng Trung Quốc – nếu có thể thì dưới quyền lãnh đạo của một viên tổng chỉ huy người Mỹ.
Mao, người hy vọng sẽ nhận được vũ khí từ Washington, xuất hiện trước những người khách đến thăm trong Diên An, nơi phần lớn đã bị phá hủy bởi bom của người Nhật, như một nhà cải cách dung hòa chứ không phải là một nhà cách mạng cực đoan.
Ông chào mừng phái đoàn với một dàn nhạc quân đội, xin lỗi vì những ổ gà trên đường băng, cho phép những người đến thăm tự do đi lại trong trung tâm quyền lực của ông ấy. Ông ấy cho xe tải chở người Mỹ đến nơi cư ngụ của họ: hang động được đào sâu vào trong sườn núi dốc.
Vấn đề quan trọng nhất của ông ấy là lo cho người dân ở nông thôn được tốt hơn, Mao giải thích cho những người khách của ông ấy.
Ông ấy giữ kín những tiết học chính trị mà trong đó cán bộ của ông ấy giảng dạy cho người nông dân về các lý thuyết của Chủ nghĩa Cộng sản Xô viết. Ông ấy cũng dấu cả việc những thành viên mới của chính phủ không chính thức của ông ấy buộc phải đọc những bài luận văn về ý thức hệ ba tháng trời, do Stalin, Lenin và chính ông viết.
Thêm vào đó, ông cũng giấu giếm việc sử dụng các hình thức tra tấn để khuất phục những người hoài nghi đường lối chính trị của ông ấy – và cũng không nói về việc ông khuyến khích sự tôn sùng cá nhân của ông ấy, kể từ khi ông cũng chính thức nhận lĩnh sự lãnh đạo của ĐCS với chức vụ Chủ tịch Bộ Chính trị và Chủ tịch Ban Bí thư năm 1943.
Ông ấy thích phô trương nhà trẻ hơn nhiều, nhà trẻ mà họ đã xây dựng trong Diên An. Và nói về việc dân chủ mang tầm quan trọng đối với ông như thế nào. Những người khách đến thăm bị gây ấn tượng.
Nhưng Tưởng dứt khoát chống lại các đề nghị hỗ trợ Mao mạnh hơn nữa của người Mỹ.
Và không có sự đồng ý của ông ấy thì người Mỹ không bước thêm bước tiến nào để đến với những người Cộng sản. Con người Dân tộc Chủ nghĩa đó – sự tính toán là như thế – cần phải là đối tác đáng tin cậy của họ cả cho thời gian sau khi nước Nhật đã bại trận.
Nhưng điều đấy không có nghĩa là họ hé lộ kế hoạch của họ cho ông ấy biết. Vì khi quả bom nguyên tử đầu tiên của lịch sử rơi xuống Hiroshima vào ngày 6 tháng 8 năm 1945, Tưởng – cũng như Mao – vẫn còn chuẩn bị tinh thần cho một cuộc chiến kéo dài nhiều năm chống lại láng giềng phía Đông. Ông ấy hoàn toàn không biết gì về vũ khí kỳ diệu của Hoa Kỳ cả.
Vẫn còn mang ấn tượng về lực tàn phá của loại bom mới của người Mỹ, Tưởng trải qua lần quân đội Xô viết tấn công người Nhật ở Mãn Châu vào ngày 8 tháng 8: tại Hội nghị Malta trong tháng 2 năm 1945, Stalin đã hứa với người Mỹ rằng trong vòng ba tháng sau khi chiến thắng Hitler, ông ấy sẽ bước vào cuộc chiến ở Thái Bình Dương. Bây giờ, nhà độc tài đấy thực hiện lời hứa và gửi quân đội của ông ấy đến để chống lại một địch thủ mà sau cơn sốc Hiroshima đã gần như bại trận.
Chỉ một ngày sau khi chiến dịch tấn công của Xô viết bắt đầu, ba ngày sau Hiroshima, quả bom nguyên tử thứ hai của Hoa Kỳ nổ tung trong Nagasaki, và vào ngày 15 tháng 8, Tưởng – người đang ăn tối với đại sứ Mexico ở Trùng Khánh – biết rằng Hoàng đế Hirohito đã tuyên bố đầu hàng trong radio.
Tám năm liền, Tưởng đã chiến đấu chống lại người Nhật hùng mạnh hơn, chiến tranh dường như đã trở thành việc thường ngày. Thế nhưng bây giờ bất thình lình lại là hòa bình (trong những năm trước đó, người tướng lĩnh này đã lôi kéo cả các viên tư lệnh về phía mình: bằng áp lực hay với lời hứa hẹn một chức vụ cao trong quân đội của ông ấy; bây giờ chỉ còn người Cộng sản là chưa nằm dưới sự kiểm soát của ông ấy)
Chế độ của Tưởng cố ngăn chận một cách dã man không cho người dân chạy đến với người Cộng sản: năm 1948, địch thủ bị bắt ở Thượng Hải bị hành quyết công khai trên đường phố bằng cách bắn vào đầu. Ảnh: GEO EPOCHE
Ở Mãn Châu, từ 1931 trong tay người Nhật, khoảng 900.000 người lính bắt đầu rút quân; trong phần Trung Quốc còn lại, trước hết là ở vùng bờ biển phía Đông, cả 1,25 triệu quân lính chiếm đóng bây giờ cũng rời khỏi đất nước này.
Để người của Tưởng có thể tiếp nhận được lần đầu hàng của người Nhật, trong vòng hai tháng người Mỹ đã cho máy bay chở hơn 110.000 người lính và sĩ quan của Quốc Dân Đảng đến những vủng bị chiếm đóng trước đây: Mãn Châu cũng như các thành phố lớn của Trung Quốc.
Những người chiếm đóng trước đây chỉ được phép đầu hàng họ, Tưởng ra lệnh.
Nhưng những người Cộng sản cũng vội vã đi vào các tỉnh, thành phố và làng mạc, ở những nơi mà các thống đốc người Nhật đang chờ để ký văn kiện đầu hàng.
Đó là một cuộc chạy đua giữa ĐCS và Quốc Dân Đảng, về việc ai được phép đại diện cho quyền lực nhà nước – bây giờ, vì trong nước đã mở ra một khoảng chân không quyền lực khổng lồ.
Hoa Kỳ cố gắng thúc đẩy các đối thủ đi đến một giải pháp chung. Họ muốn có một đối tác Trung Quốc mạnh và thống nhất, cũng là đối trọng với Liên bang Xô viết. Và họ biết rằng mâu thuẫn giữa Quốc Dân Đảng và những người Cộng sản có thể đẩy đất nước này vào một cuộc nội chiến.
Vì thế mà trong tháng 8 năm 1945, đại sứ Hoa Kỳ Hurley đã thúc giục Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch đi đến những cuộc hội đàm hòa bình ở Trùng Khánh.
VÀ THẬT SỰ: bảy tuần sau khi Mao đến Trùng Khánh, đông đảo người dân đã vui mừng reo hò trên đường phố của thủ đô Trung Quốc. Các cuộc thương lượng kéo dài 43 ngày, Tưởng và Mao đã trực tiếp gặp nhau bốn lần để bàn về các hồ sơ do nhân viên thương lượng dưới quyền trình lên.
Vào ngày 10 tháng 10, cuối cùng hai người đã ký tên vào một văn kiện mà trong đó họ tuyên bố ý định sẽ thống nhất lực lượng quân đội của họ; thêm vào đó, họ muốn triệu tập một hội nghị nhằm đưa ra một Hiến Pháp mới cho Trung Quốc.
Cả hai người đàn ông tươi cười rạng rỡ sau khi ký vào văn kiện và ăn mừng.
Thế nhưng khi Mao trở về đến Diên An, ông bị chứng tim đập nhanh và choáng váng, ông nằm xuống giường nhưng không nghỉ ngơi được, toát mồ hôi, run cả người. Con người lãnh đạo ĐCS dễ bị stress gây bệnh, và bây giờ ông ấy căng thẳng tới mức thân thể của ông nổi loạn.
Ông biết rằng cuộc đấu tranh giành Trung Quốc bây giờ chỉ vừa mới bắt đầu.
Ngay trước khi khởi hành đến Trùng Khánh, Mao đã chỉ thị cho những người đồng chí của ông ấy nắm lấy quyền chỉ huy trong càng nhiều vùng đất càng tốt, ngay cả trong lúc đang thương lượng. Vì cuộc gặp gỡ Tưởng Giới Thạch đối với ông trước hết chỉ là một sự nhượng bộ Hoa Kỳ: một mưu mẹo để không đứng đấy như một người cản trở sự thống nhất trong hòa bình.
Mao không tin Tưởng. Nếu như không có Hoa Kỳ, ông ấy phỏng đoán như thế, thì kẻ thù không đội trời chung của ông ấy đã tiến công từ lâu, để tiêu diệt ông.
Và vì thế mà cuộc chạy đua tranh giành vùng ảnh hưởng càng rộng càng tốt cũng diễn ra trong thời gian ngưng bắn chính thức, người Quốc gia và người Cộng sản tiếp tục việc mà họ đã làm chậm nhất là kể từ khi người Nhật đầu hàng: chuẩn bị cho trận đại chiến cuối cùng.
Trong những tháng tiếp theo sau đó thường xuyên xảy ra những trận đánh nhỏ giữa quân đội Quốc gia và Cộng sản. Những người Cộng sản tấn công trước hết là trong vùng Mãn Châu phát triển cao về công nghiệp, phá hủy đường ray cũng như cột điện tín theo lối đánh du kích đã có nhiều kinh nghiệm – và qua đó gây khó khăn cho Quốc Dân Đảng trong việc lấy lại quyền kiểm soát ở miền Bắc Trung Quốc.
Dù Tưởng và Mao có cam đoan muốn hòa bình đi nữa – thật sự là cả hai đều nói dối.
Tuy Hoa Kỳ vẫn tiếp tục cố gắng làm trung gian: Tổng thống Harry S. Truman gửi George Marshall đến Trung Quốc, một trong những nhà ngoại giao tài giỏi nhất của ông ấy (người sau này sẽ phát triển kế hoạch tái xây dựng châu Âu được gọi theo tên mình).
Nhưng khi người Cộng sản không tham dự hội nghị ban hành Hiến Pháp do Quốc Dân Đảng triệu tập vào cuối năm 1946 thì cuối cùng người ta cũng biết chắc rằng sẽ không có sự hợp nhất về chính trị.
Mao không muốn là đối tác nhỏ hơn của Quốc Dân Đảng. Ông ấy muốn thống trị toàn Trung Quốc.
Tháng 1 năm 1947, George Marshall thất vọng trở về Hoa Kỳ, và ngay trong cùng tháng đó, Bộ Ngoại giao Mỹ tuyên bố trong một bản thông tin báo chí gồm mười dòng, rằng họ đã gọi về tất cả các nhà ngoại giao có nhiệm vụ làm trung gian giữa Tưởng và Mao.
Washington không còn hy vọng có được một giải pháp hòa bình. Cuộc đấu tranh giành quyền thống trị Trung Quốc bước vào giai đoạn quyết định. Đó là về quyền thống trị nửa tỉ con người, tròn mười triệu kilômét vuông đất.
Về quyền thống trị dân tộc lớn nhất thế giới.
NGAY LẬP TỨC Tưởng đẩy quân đội của mình lên phía Bắc. Mặc dù người Cộng sản đã mạnh lên trong cuộc chiến chống Nhật, mở rộng lãnh thổ của họ; bây giờ quân đội của họ đã có gần một triệu người cầm súng. Thêm vào đó, quân đội Xô viết, lực lượng lại rút khỏi Mãn Châu trong tháng 3 năm 1946, đã để lại cho họ toàn bộ xe tăng, máy bay và súng ống mà họ đã lấy được từ người Nhật.
Quân đội Tưởng Giới Thạch
Thế nhưng người của Mao thường không biết phải sử dụng vũ khí của người Nhật như thế nào. Và với 3,5 triệu người, những người Quốc gia có gần gấp bốn lần quân lính và thêm vào đó là sử dụng trang bị hiện đại của người Mỹ.
Khi Quốc Dân Đảng chiếm Diên An đã bị người Cộng sản bỏ đi trong tháng 3 năm 1947, nhiều nhà quan sát đã nhìn thấy kết cuộc của cuộc chiến đang tiến đến gần.
Người Cộng sản phần lớn đã lui về miền Bắc của Mãn Châu, dưới áp lực của những người Quốc gia, họ đã phải bỏ hơn 150 thị trấn – và bây giờ là cả trung tâm quyền lực trước đây của họ nữa. Nhiều năm trời, Mao từ thành phố trong núi này đã lãnh đạo Đảng Cộng sản; nó là căn cứ quân sự của ông ấy và đồng thời cũng là nơi giáo dục tư tưởng.
Tưởng cho máy bay chở mình đến trung tâm chỉ huy lúc trước của Mao, thăm hai hang động được trang bị đơn sơ mà đối thủ của ông đã viết những bài luận về triết học và làm thơ ở trong đó.
Lầm chiếm được Diên An là một thành công lớn về tuyên truyền cho những người Quốc gia: hân hoan khắp nơi trong Nam Kinh, thành phố mà bây giờ lại chính thức là trụ sở chính phủ của Quốc Dân Đảng.
Nhưng Mao, kịp thời rời thành phố trên một con ngựa, vẫn bình thản (một điệp viên đã cảnh báo trước cuộc tấn công sắp được tiến hành của những người Quốc gia cho ông). Bây giờ, ông ấy rút về phía bắc của tỉnh Thiểm Tây và đưa ra chiến lược đấu tranh chiếm vùng Mãn Châu.
Mãn Châu, theo Mao, giống như một cái ghế bành tiện lợi: với các quốc gia Cộng sản Mông Cổ và Triều Tiên như tay ghế – và Liên bang Xô viết như lưng ghế. Ông muốn dụ Tưởng, muốn khiến cho ông ta kéo căng chiến tuyến ra quá dài. “Chúng ta cho Tưởng Diên An, ông ấy sẽ cho chúng ta Trung Quốc”, ông trấn an các viên chỉ huy đang lo lắng.
Quả thật, quân đội Tưởng đã không còn khả năng đáp ứng bởi cuộc tiến quân đã diễn ra quá nhanh chóng; thay vì củng cố quyền lực của mình ở miền Nam và miền Trung Trung Quốc, ông ấy muốn chiến thắng Mao một cách nhanh chóng – và xem nhẹ các vấn đề được cho rằng không quan trọng bằng các thành công về quân sự.
Đảng của Tưởng, Quốc Dân Đảng, do Tôn Dật Tiên thành lập năm 1912 để đại diện cho toàn thể người dân, đã trở thành một đảng của giới tinh hoa dưới sự lãnh đạo của ông ấy. Người hỗ trợ họ là chủ ngân hàng và thương gia trong các thành phố. Quốc Dân Đảng có nền tảng quyền lực của họ ở đó, trong các trung tâm tài chính ở miền Nam và miền Đông Trung Quốc.
Nhưng sau khi người Nhật rút lui, các thành phố lớn của Trung Quốc nằm trong một tình trạng đổ nát. Người Nhật không những áp đặt một loại tiền tệ riêng cho chính phủ bù nhìn ở Bắc Kinh mà cũng phát hành các loại tiền tệ địa phương khác nhau trong những vùng do họ chiếm đóng.
Bây giờ, khi những người Quốc gia trở về các thành phố, sự tồn tại song song của đồng “fabi” của họ và các loại tiền tệ của người chiếm đóng trước đây đã gây ra hỗn loạn. Với những cú đánh cược của mình, giới đầu cơ tài chính còn làm cho giá cả càng khác nhau nhiều hơn từ thành phố này sang thành phố khác, và qua đó làm cho thương mại càng khó khăn hơn.
Thêm vào đấy, thường vẫn còn chưa rõ là các cửa hàng và doanh nghiệp được người Nhật quản lý trước đây bây giờ thật ra là thuộc về ai – và cho tới khi tình trạng sở hữu được giải quyết thì người ta đã mất nhiều thời gian quý báu. Nạn thất nghiệp tăng lên, cũng vì sau khi chiến thắng nước Nhật, Tưởng phải cắt giảm sản suất trong các nhà máy chế tạo vũ khí được nhà nước tài trợ.
Câu trả lời của chính phủ ông ấy cho các vấn đề cấp bách của kinh tế và tài chính thật đơn giản cũng như có nhiều hậu quả: họ in nhiều tiền hơn – và qua đó góp phần làm cho lạm phát tăng vọt, cái đã là một vấn đề từ nhiều năm nay.
Từ năm 1945 đến 1947, giá lương thực thực phẩm ở Thượng Hải tăng lên gấp 30 lần. Những người chủ phải đi qua các cửa hàng của mình nhiều lần trong một ngày để thay đổi bảng giá.
Những người công nhân mà tiền lương của họ không còn có giá trị gì nữa đình công ngày càng thường xuyên hơn; khi công nhân viên của các nhà máy điện Thượng Hải đình công, các bên đang tranh cãi với nhau phải thương lượng dưới ánh nến.
Quốc Dân Đảng cố gắng kìm chế lạm phát bằng cách ấn định giá cả bằng luật lệ; họ phân phát phiếu lương thực, lại phát hành một loại tiền mới: đồng nhân dân tệ vàng. Nhưng đồng tiền này cũng không thể ngăn chận được việc nước Cộng hòa Trung Hoa rơi dần dần về mức thương mại hàng đổi hàng.
Các cải cách của ngưởi Quốc gia cũng thất bại bởi vì tham nhũng đã làm cho Quốc Dân Đảng bị hư hỏng. Thành viên cấp cao của Đảng biển thủ tiền thuế, cả ở nông thôn, nơi mà thật ra bây giờ người Quốc gia cần phải chiếm được thiện cảm của người dân ở đó.
Tưởng đưa người từ bộ máy Đảng của ông ấy về những thị trấn và làng mạc hẻo lánh, những nơi mà chính phủ trung ương của ông ấy nắm được quyền kiểm soát sau khi thời chiếm đóng của người Nhật chấm dứt và người Cộng sản rút lui về phương Bắc.
Nhưng các thị trưởng Quốc gia thường ít hiểu biết về tình trạng ở địa phương, và thường cũng không quan tâm đến những điều đấy. Họ phớt lờ những lời ta thán của nông dân nghèo, thay vào đấy lại bảo vệ địa chủ, những người đã bị xua đuổi đi dưới thời thống trị của những người Cộng sản và bây giờ quay trở về với tài sản của mình – và vì thế mà đã khiến cho người dân ở nông thôn căm ghét họ.
Sau những năm chịu nhiều thiếu thốn dưới thời chiếm đóng của người Nhật và sau những nỗi kinh hoàng của các chiến dịch “ba lần tất cả”, sau khi đồng ruộng của họ đã bị nước của con sông Hoàng Hà tàn phá và sau những mùa Đông khắc nghiệt của những năm vừa rồi, bây giờ những người nông dân sẵn sàng hỗ trợ cho bất kỳ ai có thể làm giảm bớt sự nghèo nàn của họ – kể cả những người Cộng sản.
Ngược lại, khác với như đã hứa trước đây, người Quốc gia thường không trả tiền cho những lần đóng góp đặc biệt mà trong thời chiến họ đã yêu cầu nông dân đóng góp dưới dạng lúa mì, bắp hay đậu. Và nếu như có trả thì họ đền bù cho những người nông dân đấy bằng những món tiền quá thấp hay bằng những loại tiền tệ vô giá trị.
Nhưng người của Tưởng lại càng nghiêm khắc hơn khi bắt buộc những người nông dân lệ thuộc phải đáp ứng các yêu cầu của địa chủ trong những vùng đã giành lại được quyền kiểm soát từ những người Cộng sản: nếu như những người mắc nợ nghèo nàn không chịu trả tiền, họ sẽ bị người của phe Quốc gia bắn chết.
TRONG NHỮNG VÙNG do người Cộng sản kiểm soát thì ngược lại, giới địa chủ phải chịu khổ. Mao tước quyền sở hữu của họ và trao đất của họ về cho nông dân. Người của ông ấy dẫn địa chủ bị trói, bị cho là là những kẻ thù của nhân dân, ra trước các ủy ban làng.
Bắn chết một địa chủ đang bị trói
Những người nông dân tố cáo, tường thuật lại về sự bóc lột nhiều năm liền, về sự lạm dụng; họ chửi rủa những người cho họ thuê đất trước đây, hét to sát vào mặt họ.
Thường cuộc thanh toán đấy chấm dứt bằng cách người dân làng, được các cán bộ Cộng sản xúi giục, dùng tay không, gậy gộc và gạch đá đánh những người bị tố cáo cho tới chết. Nếu như lần nào mà sự tức giận của đám đông không bùng phát thì một đại diện của ĐCS sẽ bắn vào đầu của kẻ thù giai cấp.
Từ 1945 cho tới 1949, có khoảng một triệu người sở hữu ruộng đất đã chết vì các “tòa án nhân dân” này.
Năm 1947, khi Ngạn Anh, người con trai 25 tuổi của Mao, chứng kiến một trong những lần hành hình như thế, anh ấy đã quỵ xuống và khóc lóc hàng giờ.
Cha của anh ấy đã gửi anh ấy đến các tòa án nhân dân để anh ấy học tập được sự cứng rắn cách mạng cần thiết. Thế nhưng hình ảnh của tám người bị đánh chết, Ngạn Anh ghi lại trong quyển nhật ký của mình như thế, chỉ để lại sự đau đớn trong lòng anh ấy.
Nhưng với chiến dịch chống giới tinh hoa ở đó, Mao được nhiều người trong số những người dân ở nông thôn theo mình. Ngày càng có nhiều nông dân sẵn sàng ủng hộ người Cộng sản trong cuộc chiến chống Quốc Dân Đảng của họ; có không ít người đã tình nguyện gia nhập “Quân đội Giải phóng Nhân dân” của Mao.
Ngược lại, năm 1947 người Quốc gia bắt buộc phải ban hành một đạo luật cho phép họ ép buộc bất kỳ một người đàn ông có khả năng chiến đấu nào đều cũng phải phục vụ trong quân đội.
Họ gửi những nhóm tuyển mộ đi vào làng, tìm kiếm tất cả những người đang trốn tránh để không phải bị đi chiến đấu. Cho mỗi một người mà họ bắt được, các nhóm tìm người này nhận được một món tiền thưởng hay một khẩu phần ăn thêm.
Trên đường về các căn cứ quân đội, những kẻ đi bắt người trói lính mới tuyển mộ vào với nhau; vì thế nên họ đi thành hàng, theo nhóm mười người. Quân lính của Tưởng trông giống như tù nhân.
Gần một nửa số lính mới trốn ra khỏi các trại huấn luyện. Vì thế mà mỗi người trong nhóm phải chịu trách nhiệm cho người chạy trước mình; nếu một người trốn thoát được thì chỉ huy sẽ cắt bớt phần ăn vốn đã không đủ rồi, trừng phạt thêm người đấy bằng cách đánh đập.
Ai rớt lại sẽ bị đói. Vì các viên sĩ quan thường bán cho lái buôn phần gạo được cung cấp cho đơn vị của mình.
Do vậy nên những người lính thường mang trong túi áo khoác của họ cùng một chiếc bánh gạo đấy nhiều ngày liền, chỉ cắn một mẩu khi không thể nào chịu đựng nỗi cơn đói nữa. Gần một phần năm đã chết vì đói ngay trong thời gian huấn luyện.
Đầu năm 1947: người của Mao dám thực hiện một cuộc phản công lớn đầu tiên. Tính bạc nhược của cỗ máy quân đội được cho là vượt trội hơn của Tưởng đã lộ ra nhanh chóng. Dưới những cuộc tấn công của Hồng Quân, lực lượng của ông ấy rút lui nhanh chóng, nhiều người lính lợi dụng sự hỗn loạn của chiến trường để bỏ trốn.
Năm 1948, chiến cuộc bắt đầu thay đổi, từ bây giờ trở đi không còn có thể ngăn chận Hồng Quân tiến quân được nữa – ở đây là một đơn vị đang trên đường tiến về Bắc Kinh. Ảnh: GEO EPOCHE
Chỉ trong vòng vài tháng, những người Cộng sản chiếm nhiều phần của miền Đông Bắc Trung Quốc, họ ngạc nhiên về quy mô của sự thành công của họ. Mao quyết định rằng bây giờ là đã đến lúc phải đương đầu trực tiếp với địch thủ trên chiến trường.
Các viên tướng của ông ấy nghi ngại. Tuy là họ đã tiếp tục hiện đại hóa quân đội Cộng sản trong thành phố công nghiệp Cáp Nhĩ Tân trong vùng Mãn Châu và đã tái cấu trúc quân đội thành các sư đoàn được tổ chức chặt chẽ. Thêm vào đó, tù binh phe Quốc gia và cố vấn Xô viết thời gian sau này đã giải thích cho họ cách sử dụng xe tăng và máy bay của Nhật. Nhưng mặc dù vậy, các chuyên gia quân sự vẫn còn chưa chắc chắn, liệu một sự đối đầu với Quốc Dân Đảng là có quá sớm hay không.
Nhưng Mao vẫn kiên quyết – và ra lệnh cho người của mình “đập tan hoàn toàn” quân đội của những người Quốc gia.
Vào cuối mùa hè 1948, những người Cộng sản bắt đầu một cuộc tấn công có quy mô lớn vào Thẩm Dương và Trường Xuân, hai thành phố lớn cuối cùng còn do người Quốc gia kiểm soát. Trong lúc tiến công, quân đội của ĐCS lần đầu tiên sử dụng nhiều súng đại bác. Và các đơn vị của Quốc Dân Đảng lại thối lui.
Sau khi quân đội của Mao chiếm được một giao điểm đường sắt quan trọng, họ bao vây cả hai trung tâm của phe Quốc gia.
Trong Trường Xuân, sau năm tháng bị bao vây, nạn đói lớn tới mức thịt người chết trở thành món hàng buôn bán được thèm muốn; những người cố thủ vẫn bắn chết bất kỳ ai cố gắng chạy trốn. Khi những người Cộng sản cuối cùng rồi cũng tiến vào thành phố, họ đã bước đi trên xác chết.
Chỉ trong vòng ba tháng, người Quốc gia đã mất hơn 400.000 người, Hồng Quân bây giờ kiểm soát toàn bộ vùng Mãn Châu.
Tưởng bị sốc, gọi các chiến bại đó là một “thảm họa thế giới”. Cuối năm 1948, ông ấy liên lạc với cả Hoa Kỳ lẫn Liên bang Xô viết, hỏi rằng họ có thể làm trung gian để thương lượng đình chiến giữa ông và những người Cộng sản hay không.
Nhưng Mao không quan tâm đến một thỏa hiệp. Chiến cuộc biến chuyển thuận lợi cho ông ấy quá nhanh và quá rõ ràng. Và con đường chiến thắng của quân đội ông ấy vẫn tiếp tục, họ chiến thắng hết trận đánh này sang trận đánh khác.
Tinh thần chiến đấu của lực lượng đói ăn của Tưởng ngày càng xấu đi. Nhiều người trong số họ cố gắng tránh chạm trán với quân địch bất cứ lúc nào có thể được. Cả ưu thế về không quân cũng không giúp đỡ được họ, vì những người Quốc gia đã không chú ý đến việc đào tạo cho đủ phi công; thêm vào đó, họ không thể bảo vệ các phi trường của họ trước Hồng Quân. Thường những người lính đang rút lui của Tưởng đều bỏ lại vũ khí của họ cho đối phương.
Khi cuối cùng rồi những người Cộng sản cũng tiến quân vào Bắc Kinh trong tháng 1 năm 1949, họ cử hành một cuộc duyệt binh trong thành phố mang nhiều biểu tượng này. Hơn một giờ liền, một đoàn xe chạy ngang qua những người dân hiếu kỳ: xe tăng, xe tải, đại bác, xe Jeep.
Đầu năm 1949, Quân đội Cách mạng Quốc gia cuối cùng đã tan rã, giữa tháng 1, quân đội của Mao tiến vào Bắc Kinh – chẳng bao lâu sau đó sẽ là thủ đô của Trung Quốc. Ảnh: GEO EPOCHE
Một nhà quan sát người Mỹ hiện diện tại chỗ ngạc nhiên nhận ra rằng những thiết bị quân sự được phô trương ra ở đấy phần lớn là đều sản phẩm của Mỹ – những vũ khí mà thời trước Tưởng đã yêu cầu từ người Mỹ bây giờ lại giúp cho những người Cộng sản.
Trong tháng 4, họ chiếm Nam Kinh, một tháng sau đó là Thượng Hải. Trên đường rút lui, Tưởng viếng thăm lần cuối cùng Khê Khẩu Trấn, là nơi sinh của ông ấy, quỳ trước mộ của người mẹ và khóc hàng giờ liền.
Ông ấy biết: cuộc chiến đã ngã ngũ. Từ gần hai năm nay, quân đội của ông không còn đánh thắng một trận lớn nào nữa.
Mặc dù vậy, ông vẫn ra lệnh cho quân đội của ông tiếp tục chiến đấu. Ông muốn kéo dài thời gian để chuẩn bị cho lần ra đi sang Đài Loan.
Người Quốc gia đã giành lấy quyền kiểm soát hòn đảo trước bờ biển Đông Nam của Trung Quốc năm 1947, đập tan sự chống đối của người Đài Loan một cách đẫm máu. Bây giờ, cán bộ Đảng của Tưởng chuyển hàng triệu dollar sang thủ đô Đài Bắc của hòn đảo.
Lần cuối cùng, Quốc Dân Đảng tuyên bố Trùng Khánh là thủ đô của Cộng hòa Trung Quốc, thế nhưng lời tuyên bố đấy không gì khác hơn là một động thái vô nghĩa của một chính quyền đã bại trận.
Ở Bắc Kinh, Mao triệu tập một đại hội chính trị vào cuối tháng 9, cái mặc dù bị ĐCS chiếm thế áp đảo nhưng cũng lưu ý đến 14 đảng nhỏ hơn.
Dưới sự lãnh đạo của Mao, các thành viên quyết định rằng Bắc Kinh ngay lập tức lại là thủ đô của Trung Quốc.
Và họ cũng chọn một lá quốc kỳ mới: một ngôi sao lớn, năm cánh trên nền đỏ, được bao quanh bởi bốn ngôi sao nhỏ hơn. Ngôi sao lớn là biểu tượng cho ĐCS, bốn ngôi sao nhỏ là các trụ chống của nhà nước tương lai: nông dân, công dân, tiểu tư sản và cả tư sản.
Cuối cùng, hội nghị cũng quyết định thay thế lịch cách mạng của Quốc Dân Đảng (chọn năm thành lập nền cộng hòa – 1912 – là “năm một”) bằng lịch Gregory.
Và vì thế mà ở Trung Quốc cũng là ngày 1 tháng 10 năm 1949, khi Mao bước lên một khán đài ở Thiên An Môn, cổng chính để vào Cấm Thành.
Nằm phía sau ông là các dinh thự to lớn mà từ trong đó, các hoàng đế Trung Quốc đã cai trị đất nước này qua nhiều thế kỷ. Trước ông, trên quảng trường Thiên An Môn, vào khoảng 300.000 người đang chờ đợi thông điệp của ông.
Với giọng nói cao của ông ấy, gần như hát, ông nói to với họ những lời nói đánh dấu lần kết thúc cuộc nội chiến đã kéo dài bốn năm, cuộc chạy đua chết người đấy vì quyền thống trị Trung Quốc: “Đồng bào, tôi tuyên bố: nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập!”
Cho tới năm 1951, Mao sẽ đập tan các kháng cự cuối cùng trong những vùng ở rìa của đất nước – và chiến thắng những người theo Quốc Dân Đảng còn sót lại cũng như những người ly khai ở địa phương.
Đối với người Mỹ, chiến thắng của Mao là một thất bại chính trị to lớn, bây giờ, trong cuộc Chiến Tranh Lạnh, họ có thêm một đối thủ. Đối với Tưởng Giới Thạch, đó có nghĩa là sự kết thúc giấc mơ của ông ấy, thống nhất đất nước dưới dự lãnh đạo của mình.
Ông ấy còn cai trị một cách độc tài tròn 25 năm nữa ở Đài Loan và đại diện cho quê hương của ông ấy ở Liên Hiệp Quốc cho tới năm 1971; là tổng thống của “Cộng hòa Trung Hoa” bé nhỏ, ông công khai theo đuổi đường lối tái chiếm Trung Hoa lục địa cho tới khi qua đời năm 1975.
Nhưng ở đấy, đối thủ của ông cuối cùng cũng đã giành được độc quyền năm 1949: Mao Trạch Đông.

Trích một phần chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO Epoche xuất bản,
Phan Ba dịch

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: