Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 27 tháng 7, 2016

Việt Nam qua tư liệu của người phương Tây (phần 3): Chuyện huynh đệ tương tàn nhà chúa Trịnh


Chuyện nhà Chúa Trịnh. (Ảnh minh hoạ: Internet)

Cuối thế kỷ 16, quan hệ giao thương giữa Việt Nam và các nước phương Tây bắt đầu phát triển. Thuận theo đó, các giáo sĩ, thương nhân cũng vượt biển đến nước ta truyền đạo, buôn bán, làm ăn. Trong quá trình truyền đạo, để lưu dấu những ngày tháng sống ở đất khách quê người, họ đã chép lại rất tỉ mỉ phong tục, văn hóa, sinh hoạt của người bản địa. Đại Kỷ Nguyên xin phép được trích đăng lại những tư liệu quý giá đó, thông qua bản dịch của học giả Nguyễn Trọng Phấn (1910 – 1996) đăng trên tạp chí Thanh Nghị
Samuel Baron sinh ra ở Đông Kinh (tên gọi của Hà Nội thời Lê – Trịnh) vào khoảng giữa thế kỷ 17. Ông là con của một thương nhân người Hà Lan và một phụ nữ Việt, từng có một thời gian dài lưu trú ở xứ Đàng Ngoài. Baron cũng là tác giả của một cuốn sách có tên “Description du Tonquin” (Mô tả xứ Bắc Kỳ) in năm 1685. Những cuộc tranh đoạt quyền lực nảy lửa trong phủ Chúa Trịnh được Samuel Baron mô tả khá kỹ trong thời gian ông lưu lại Đông Kinh. 
Lập thế tử
Chúa bây giờ là chúa thứ tư họ Trịnh, kể từ lúc (Trịnh Tùng) diệt nhà Mạc và bắt đầu xây dựng nền tảng quyền hành cho con cháu bây giờ. Chúa (Định vương Trịnh Căn) năm nay 53 tuổi, tạng yếu nhưng cai trị tài. Chúa kế nghiệp cha (là Tây vương Trịnh Tạc) năm 1682 nhưng trước năm ấy chúa đã được tham dự vào việc cai trị nước Nam rồi.
(Ảnh minh hoạ: Internet)
Tây Vương – Trịnh Tạc, kế nghiệp cha. (Ảnh minh hoạ: Internet)
Chúa sinh được ba con trai và ba con gái. Con trai cả (Trịnh Vịnh) và con trai út (Trịnh Lan) mất rồi; người thứ hai (Trịnh Bách), đúng vào năm ông nội (Trịnh Tạc) mất (1682) thì mắc chứng điên, nhưng bây giờ khỏi rồi, và được phong làm thế tử.
Thế tử có phủ riêng cũng lộng lẫy như vương phủ, có quan văn, có quan võ, có quân hầu nhất nhất như bên phủ chúa, chỉ có khác một điều là người trong phủ thế tử phải nhường bước cho người bên phủ chúa. Khi chúa mất, thế tử lên thay lấy người của mình vào làm thủ tục, chỉ đặc biệt giữ lại ít người thông minh và từng trải đã giúp việc tiên chúa.
Nếu chúa Trịnh kết hôn thì bà chính phi được mệnh danh là “Quốc mẫu” vì bao giờ bà cũng trong dòng dõi nhà vua và được coi sóc các bà thứ. Chỉ lập Quốc mẫu vào những năm cuối cùng khi nào chúa không còn hy vọng sinh con nữa; các bà thứ thì nhiều lắm vì có khi trước năm 18 tuổi các chúa đã lấy vợ rồi, không hạn chế, ba trăm, năm trăm tùy theo sở thích của các chúa.
(Ảnh minh hoạ: Internet)
Các cung tần mỹ nữ của Chúa rất nhiều, có thể lên tới 300, 500 người. (Ảnh minh hoạ: Internet)
Trong sự chọn lựa các bà thứ, các nàng hầu thì sắc đẹp không được chú trọng bằng tài múa, hát, chơi âm nhạc hoặc khéo biết cách làm vui lòng chúa. Người nào sinh con trai đầu tiên trước cả các người khác, được coi như là bà chính thê, từ đó con mình được nhận làm thế tử và được trìu mến hơn bà chính phi, được tôn trọng cũng gần bằng bà chính phi.
Các bà khác, ai sinh con gửi chúa, được gọi là đức bà, con trai (trừ thế tử) là đức ông, con gái là bà chúa. Các anh em trai, chị em gái của chúa cũng được tôn gọi như thế; nhưng con cháu các ông, các bà thì không, chỉ trừ con cháu của người con trai trưởng.
Chắc chắn là chúa cho con cháu dư lương bổng chi dùng nhưng chỉ trích tiền kho cấp cho anh em ngài vừa đủ hay thiếu tùy theo ý ngài. Cháu chắt càng xa càng được ít, đến đời thứ tư hay thứ năm thì đừng trông đợi gì nữa cả.
(Ảnh minh hoạ: Internet)
Người nào sinh con trai đầu tiên trước cả các người khác, được coi như là bà chính thê, từ đó con mình được nhận làm thế tử. (Ảnh minh hoạ: Internet)
Dùng độc dược giết em trai
Như đã nói trên, tôi chỉ biết có mỗi một chuyện một chúa Trịnh lãnh đạm mà giết em: ấy là tiên chúa Tây vương Trịnh Tạc đối với em là Trịnh Toàn (Ninh quận công Trịnh Toàn là con út chúa Trịnh Tráng).
Trịnh Toàn, em thứ của Trịnh Tạc, là một quận vương dũng cảm; tính hào phóng, độ lượng, lịch lãm, nên được dân yêu và quân mến như cha đẻ; hành binh vừa khôn ngoan, can đảm thắng Nam quan của chúa Nguyễn nhiều trận nên được quân địch khiếp phục và tôn gọi là “Thần tướng Bắc hà”. Uy danh mỗi ngày một tăng ngoài cõi và trong triều làm cho ông anh ghen tức.
(Ảnh minh hoạ: Internet)
“Thần tướng Bắc Hà” – Trịnh Tạc, em thứ của Trịnh Tạc. (Ảnh minh hoạ: Internet)
Chúa Tây vương, rõ lòng em như thế, có ý muốn can ngăn, nói cho Trịnh Toàn hiểu rằng nhất nhất Toàn đều theo lệnh anh và Toàn thắng trận được do tài cai trị khôn ngoan và sáng suốt của chúa. Trịnh Toàn chối và thề không có ý làm điều gì hại cho anh, nếu quân, dân có xui ông tiếm vị thì chẳng những ông không nghe, ông còn nghiêm phạt những mưu sĩ (gian ác) ấy.
Lời tuyên ngôn ấy làm cho Trịnh Tạc yên lòng bề ngoài. Mấy năm sau, Tây vương cho triệu Toàn bấy giờ đang trấn đất Nghệ An về. Toàn tuân lệnh về đến phủ liêu thì bị xiềng và giam vào một gian ngục gần cung điện. Ninh quận công bị giữ như thế mấy năm; tội ông chắc không lấy gì làm nặng lắm và không có chứng cớ để hành hình ông.
Nhưng vào khoảng năm 1672, có hơn 4 vạn quân tụ tập ở Kẻ Chợ. Quân kéo đến cửa phủ nhưng vốn tự nhiên sợ hãi chúa không dám vào, không có khí giới, họ chỉ có tay không và lưỡi để điều trần, ồn ào, hỗn độn thóa mạ chúa đã vô tình với quân dân, lại hào phóng với các bà phi, cho phép các bà này phung phí tiền kho để binh sĩ túng thiếu và khổ sở gần chết, họ gán cho chúa đã cố ý triệt họ bằng những phương tiện cực nhọc và đau đớn; đói khát và rách bẩn. 
(Ảnh minh hoạ: Internet)
Hơn 4 vạn quân tụ tập ở Kẻ Chợ thoá mạ Chúa vì vô tình với quân dân nhưng lại hào phóng với phi tần. (Ảnh minh hoạ: Internet)
Họ kể công cán họ trong quân đội và dọa sẽ làm những điều quá độ nếu chúa không tăng lương và không ban thưởng tiền cho họ.
Trong tình thế cấp bách ấy, chúa Trịnh họp bàn với các quan. Còn bọn loạn quân bàn bạc nên bầu lấy một chủ tướng để dìu dắt và giữ kỷ luật cho họ. Họ đề xướng Ninh quận công và đồng thanh bầu ông; giá trời không tối thì họ đã kéo đến ngục tìm quận công, nên họ đợi đến hôm sau.
Chúa Trịnh dò biết ý định của họ, tự tay chế thuốc độc cho quận công và đến tảng sáng sai một viên thái giám tin cẩn bưng sang ngục rồi truyền lệnh cho quận công uống. Trông thấy quận công thì tên thái giám quỳ lạy bốn lạy, thuật lại lệnh của chúa và dâng lên quận công thứ tặng vật của vương huynh. Quận công thấy thuốc độc thì hiểu ý.
(Ảnh minh hoạ: Internet)
Trịnh Toàn khi thấy thuốc độc thì hiểu ý. (Ảnh minh hoạ: Internet)
Ta không rõ công đã nói những điều gì, chỉ biết công hướng về phủ chúa quỳ lạy bốn lạy, uống độc dược và vài giờ sau mất.
Đấy là hồi cuối cùng đời Ninh quận công mà đức hạnh bị coi như tội ác, lòng cảm phục của quan quân đã làm cho chết sớm, chết oan.
Nguyễn Trọng Phấn (dịch)
Xem thêm:
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: