Thuyết hậu hiện đại - postmoderne, tuy ra đời cách đây gần bốn mươi năm, nhưng đối với độc giả Việt Nam, dường như vẫn còn là vấn đề thời thượng. Một đề tài dễ gây tranh luận, tuy được nói đến rất nhiều, nhưng thử tìm một chuyên luận giải thích rõ ràng, tường tận không dễ. Có người cho rằng đó là một chủ nghĩa, một trường phái; có người cho đó là một lý thuyết suông. Phần đông những người bênh vực lý thuyết này, thường xem nó như một chủ thuyết văn học mới nhất, vượt xa những trường phái, chủ thuyết văn học "cũ" như: lãng mạn, siêu thực, hiện sinh đã "lỗi thời". Hậu hiện đại mặc nhiên biến thành «chủ nghiã hậu hiện đại», một trường phái văn học có khả năng hướng dẫn sáng tạo cho toàn bộ những ngành nghệ thuật avant-garde thời này. Đối với người đọc bình thường, một số câu hỏi được đặt ra: có một thứ "chủ nghĩa hậu hiện đại"thật không? Và nếu có, thì đường hướng sáng tác của chủ nghĩa ấy như thế nào? Những chữ hậu hiện đại nghĩa là gì? Có từ bao giờ? Do ai đề xướng? Nội dung tư tưởng của cụm từ hậu hiện đại? ... Tựu trung, những câu hỏi cơ bản về bất cứ một khái niệm văn học hay triết học nào.
Bài viết này tìm cách trả lời những câu hỏi trên, trình bầy với bạn đọc chân dung hậu hiện đại từ nguồn phát xuất, tức là từ thuyết hậu hiện đại của Jean-François Lyotard và so sánh thuyết này với "chủ nghiã hậu hiện đại" một cái mốt vẫn còn đang thịnh hành trong văn học.
Để độc giả dễ dàng theo dõi, trước khi vào nội dung vấn đề hậu hiện đại, chúng tôi xin đưa ra một số chú thích quan trọng về:
- Nguồn gốc danh từ hậu hiện đại.
- Hành trình tư tưởng của JF Lyotard.
- Việc dịch một số danh từ trong sách của Lyotard.
Trước khi trình bày nội dung tư tưởng của Lyotard và phê bình lập thuyết của ông.
I - Nguồn gốc danh từ
Từ postmoderne xuất hiện trong cuộc tranh luận triết học, năm 1979, cùng với sự ra đời cuốn La condition postmoderne (Điều kiện hậu hiện đại) của Jean-François Lyotard, thật ra, đã được dùng từ trước, trong nhiều lãnh vực khác nhau.
Ngay từ năm 1861, nhà khoa học và triết gia Pháp, Antoine Augustin Cournot, đã nói đến khái niệm hậu lịch sử (post-histoire) trong cuốn Traité de l'enchaînement des idées fondamentales dans la science et dans l'histoire (Chuyên luận về sự liên kết những ý tưởng cơ bản trong khoa học và sử học). Trong cuốn sách này, Cournot nhắc đến giả thuyết của Hegel về sự hoàn tất lịch sử ở thời điểm hiện đại, để gián tiếp chỉ định những gì xẩy ra sau đó là hậu lịch sử. Sang thế kỷ XX, từ 1934, một số tác gia khác như Arnold J. Toynbee, Oswald Spengler, Alexandre Kojève, G. Benn và Arnold Gehlen đã lấy lại khái niệm hậu lịch sử này trong các chuyên luận khảo sát lịch sử, triết học, triết lý lịch sử, nghiên cứu thi học của họ.
Một mặt khác, cũng năm 1934, nhà phê bình văn học Tây Ban Nha, F. de Onis trong cuốn Antologia de la poésia espanola e hispanoaméricana đã dùng danh từ postmoderne để chỉ định sự vượt qua (dépassement) chủ nghĩa hiện đại (modernisme) những năm 1905-1914. Nhưng muốn biết sự "vượt qua" này là gì, có lẽ phải trở lại khái niệm chủ nghĩa hiện đại trước đã.
Từ hiện đại thường dùng trong nghĩa đối lập với truyền thống, và thuật ngữ Chủ nghĩa hiện đại - Modernisme chỉ ba phong trào hoàn toàn khác nhau: (ở đây chúng tôi không kể đến những chữ “chủ nghĩa hiện đại” mà người ta hay dùng một cách chung chung giống như “chủ nghĩa tiến bộ”, “chủ nghiã giáo điều”... khá bừa bãi, thường vô nghĩa.)
- Về tôn giáo, Modernisme là Phong trào cải cách tôn giáo nhằm mục đích hiện đại hóa đạo thiên chúa, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chỉ toàn bộ những lý thuyết và khuynh hướng có mục đích làm mới việc chú giải thánh kinh, cải tổ học thuyết xã hội và quản trị giáo hội, sao cho phù hợp với nhu cầu khoa học của thế kỷ XX; đặc biệt cuộc khủng hoảng tôn giáo dưới thời đức giáo hoàng Pie X (1903-1914) ở Pháp và ở Ý. Những tư tưởng cải cách này, bị nghị định Lamentabili và sắc lệnh Pascendi của giáo hội kết án nghiêm khắc năm 1907.
- Về văn học, Modernisme (Modernismo) chỉ Trào lưu đổi mới văn họcphát xuất từ Châu Mỹ La Tinh năm 1890, của một số nhà văn, nhà thơ, viết tiếng Tây Ban Nha mà người khai phá là Ruben Dario (Nicaragua), muốn thoát khỏi ảnh hưởng Tây Ban Nha, nhưng lại nghiêng về nhóm Thi Sơn (Parnasse) và nhóm Tượng Trưng (Symbolisme) của Pháp. [Xin nhắc lại: Thi Sơn do Théophile Gautier đề xướng, tập hợp trong một thi tuyển ba tập, gồm tác phẩm của những nhà thơ như: Gautier, Leconte de Lisle, Baudelaire, Banville, Heredia, Sully Prudhomme, Verlaine, Mallarmé, Coppée,... phong cách rất khác nhau nhưng có cùng một chí hướng: chống lãng mạn, chủ trương đổi mới hình thức, đề cao quan niệm vô ngã trong thơ và nghệ thuật vị nghệ thuật].
- Ngoài ra, Modernisme, còn chỉ một Phong trào đổi mới trong văn chương nghệ thuật ở Brésil, phát sinh từ São Paulo năm 1922, tìm những chủ đề thiên nhiên và văn hóa dân tộc.
Tóm lại, chữ Hậu hiện đại năm 1934 được de Onis dùng để chỉ phong trào đổi mới văn học Tây Ban Nha-Châu Mỹ La Tinh, từ 1905 đến 1914, chủ trương vượt qua phong trào đổi mới văn học (Modernismo) ra đời năm 1890 của Ruben Dario, không dính dáng gì đến chữ Hậu hiện đại mà JF Lyotard dùng sau này, và cũng hoàn toàn khác với khái niệm Hậu hiện đại được sử dụng tại Mỹ thời điểm 1960.
II-Postmoderne trong văn học Mỹ
Thập niên 60, một số nhà phê bình và văn học sử Mỹ dùng nhóm từ "Hậu hiện đại" để chỉ những tác gia sinh vào khoảng thập niên 30, thế hệ sau Hemingway, Faulkner, Caldwell,... chủ trương cách tân tiểu thuyết với những đặc điểm: phi lý, châm biếm, huyền ảo, truyện không cốt truyện, không tình tiết, giọng văn mới lạ, có chất quái dị, kinh hoàng như John Barth, Donald Berthelme, Robert Coover, William Gass, John Hawkes, Kurt Vonnegut, v.v...
Đối với John Hawkes (sinh năm 1925, tại Stanford), kẻ thù đích thực của tiểu thuyết là: tình tiết, nhân vật và đề tài. Để chống lại lối viết hiện thực, ông đưa ra một hình thức tiểu thuyết độc đáo, dựa trên hai yếu tố: châm biếm và kinh hoàng. Trong cuốn The cannibal (Kẻ ăn thịt người) in năm 1949, Hawkes khắc họa hình ảnh một nước Đức quái đản trong tưởng tượng, trước thế chiến thứ nhất và cuối thế chiến thứ hai, với những nhân vật dị kỳ, phế thải, một thế giới dã man, tàn bạo, "ăn thịt người", thế giới của ác mộng mà hiện thực không còn chỗ đứng. Trong cuốn Whistlejacket (Nhiếp ảnh gia và người mẫu, tạm dịch theo tựa tiếng Pháp Le photographe et ses modèles) (1988), ông tả một họa sĩ, muốn vẽ cho thật chính xác bức tranh ngựa, đã mổ ngựa để giảo nghiệm cơ thể; muốn vẽ chân dung hai mẹ con, bèn tìm cách mổ moi (trộm) xác một người mẹ chết vì sinh nở, để vẽ cho sống động. Tác phẩm của ông toát ra một thứ ngôn ngữ văn chương lạ kỳ, rùng rợn, mê sảng, một không khí ngụ ngôn thi ca khốc liệt.
William Gass (sinh 1924) cho rằng: tiếng nói theo ta khắp nơi, cả trong sinh hoạt thầm kín của nhục dục và giấc ngủ; ngôn ngữ là hồng tâm của tim người, và ông đã sáng tạo những cách viết, những giọng điệu đặc biệt, văn phong huyền ảo, với những truyện ngắn lạ kỳ đầy hoang tưởng.
Robert Coover (sinh 1932), dùng thủ pháp xáo trộn lịch sử, kể lại và di chuyển việc xử tử Rosenberg vào thời cao điểm chiến tranh lạnh của phong trào Mac Carthy. Phác họa một chân dung Nixon đầy nọc độc. Nghi ngờ tất cả những version chính thức của thực tại. Coover bẻ tréo thực tại "chính thức" để tạo ra một thực tại khác với cảm quan độc đáo của mình.
Kurt Vonnegut (sinh 1922) đặt những câu hỏi hóm hỉnh: Tại sao chúng ta lại ở trên trái đất này? Ta có thể làm gì được ở đây? Ta biết gì về thế giới này? Trinh thám giả tưởng là đất dụng võ của ông, ông thích so sánh trái đất với những hành tinh khác để tìm hiểu cõi "vũ trụ buồn" của chúng ta. Cố tình pha trộn châm biếm với ngây thơ giả đò, Vonnegut tưởng tượng ra một xã hội mà những người cầm quyền là những nhà bác học và quần chúng trở nên "vô dụng". Ông tạo ra những tình tiết ly kỳ giữa các thiên thể như hành tinh Tralfamadore,dùng những gì mà trái đất gọi là di tích lịch sử như Vạn lý trường thành để gửi thông điệp. Để giễu cợt "tương lai nhân loại", ông đặt những câu hỏi lẩn thẩn như "người để làm gì?", "làm sao yêu được đám người vô dụng?"
John Barth (sinh 1930), nhận thấy tất cả đều đã "nói rồi", đều đã múc sạch, để tránh lập lại, ông đề xướng nền "văn chương cạn kiệt", coi sự đạp đổ văn chương như một phương cách sáng tạo tân kỳ và sống động. Đập phá những ngõ cụt của văn chương hiện đại và sự sói mòn của các hình thức kể chuyện, ông đưa ra cách viết mới, chủ yếu dựa trên hai yếu tố: chế giễu và cợt nhả. Cuốn Giles goat boy (Giles, đứa bé dê) trình bầy một sườn truyện chính (nếu có thể gọi là truyện) nằm ngổn ngang giữa những thư từ, bài tựa, bài viết... Người đọc được biết: sở dĩ có những linh tinh, bừa bãi này là do "lỗi" của tác giả: một cái máy tính "điên"; nhưng rồi độc giả cũng mò mẫm hiểu được "câu chuyện": một vị giáo sư-văn sĩ tên là J.B , giống hệt hai chữ John Barth viết tắt, được giao nhiệm vụ viết lại chuyện đấng cứu thế: George Giles-đứa bé dê, nửa người nửa thú; mẹ người, cha máy tính. Giles, đứa bé dê, dày 700 trang, nhái lại tất cả các giọng điệu ngôn ngữ, tất cả các cách kể chuyện và còn sáng chế ra một cái máy tính khổng lồ "điên", nuốt tất cả các nhân vật.
Tính cách tân kỳ còn phát triển mạnh mẽ trong kiến trúc hậu hiện đạinhững năm 60-70, tạo ra những công trình lạ lùng như nhà kính lộ thiên giữa sân bảo tàng viện Louvre, đôi khi kỳ cục như trung tâm văn hóa Pompidou ở Paris, vượt ra ngoài tất cả những khuôn khổ trường phái kiến trúc đã có.
JF Lyotard lấy lại những chữ hậu hiện đại này và cho nó một nội dung khác, và có lẽ đó là một trong những lý do mà sau này, người ta dễ dàng móc nối lập thuyết của Lyotard với các tác gia Mỹ, được gọi là hậu hiện đại nói trên, để lập ra một trường phái văn học đầu Ngô mình Sở gọi là "chủ nghĩa hậu hiện đại", và đưa vào "chủ nghĩa" này, tên những nhà văn nổi tiếng khác mà tính chất đặc dị trong tác phẩm khá cao như Samuel Beckett, Alain Robbe-Grillet, Gabriel Garcia Marquez, Jorge Luis Borges, Philippe Sollers, v.v...
III -Thuyết hậu hiện đại của JF Lyotard
Trở về với Hậu hiện đại của Lyotard, thuyết này khởi nguồn từ hoàn cảnh xã hội, chính trị và văn hoá Pháp, mùa xuân 1968.
Sự nổi dậy của sinh viên Pháp mùa xuân 68 (tiếp nối phong trào hippies ở Mỹ) - mà Lyotard là một trong những người thày đã đóng góp tích cực vào phong trào- đã dẫn đến cuộc "cách mạng văn hóa toàn cầu", chống lại tất cả những hình thức bảo thủ, áp đặt của các chế độ văn hóa, chính trị cũ, đặc biệt ở Pháp dưới thời hai tổng thống de Gaulle và Pompidou. Vì cần một không khí dễ thở hơn, tự do hơn, tiến bộ hơn; vì có nhu cầu sản xuất cái mới, cho nên người ta cố gắng tìm cách sáng chế những chủ đề tân kỳ, những chữ mới lạ, để chứng minh tất cả những gì thuộc "chế độ cũ" đều đã quá đát, "phản tiến bộ".
Trong bối cảnh ấy, cuốn Điều kiện hậu hiện đại của Lyotard ra đời, do nhà xuất bản Minuit ấn hành tại Paris năm 1979. Đây là một cuốn sách triết học bàn về thân phận tri thức (condition du savoir) thời nay, thời mà khoa học và tin học đã nắm "chủ quyền tuyệt đối" trên mọi lãnh vực thông tin và tri thức(savoir) trở thành một món hàng thương mại trao đổi.
Lập luận của Lyotard, thoát thai từ nền tảng triết học của Nietzsche (chống lại những giá trị phổ quát, đòi hỏi sự hiện hữu của những giá trị cá nhân) dựa trên hai bản lề: Một mặt gắn liền với luận cứ của Hegel về sự hoàn tất lịch sử ở thời hiện đại và mặt kia với sự suy tàn của các dự trình tư tưởng về một tương lai giải phóng con người; nói cách khác, Lyotard muốn đả phá những ý thức hệ (trong quá khứ và hiện tại) có tham vọng giải phóng con người.
Theo Lyotard, chúng ta đang sống trong thời hậu hiện đại, thời mà tất cả những lý thuyết có từ thời Ánh sáng, đều đã bị đổ vỡ (thời kỳ Ánh sáng, là thời điểm tư tưởng Tây phương phát triển mạnh, đặc biệt ở Pháp, thế kỷ XVIII, với những nhà tư tưởng như Rousseau, Voltaire, Montesquieu, Diderot v.v...) và xã hội tin học đã biến đổi vận mệnh của tri thức, cuốn sách của ông có tiểu tựa:Rapport sur le savoir (Báo cáo về tình hình tri thức) - tất nhiên là tình hình trí thức trong xã hội hiện hành.
Theo ông, tri thức trước đây, ở thế kỷ Ánh sáng cũng như dưới thời Mác-xít, được hiểu như một sứ điệp truyền bá tư tưởng giải phóng con người, hoặc như một lý tưởng bất vụ lợi. Tri thức bây giờ, ở thời đại tin học này, trở thành món hàng tiêu dùng, buôn bán, cung cấp lợi nhuận như những hàng hóa khác, nó đã thoát khỏi bản quyền của con người. Lập luận này gặp sự đồng cảm nơi triết gia Đức Jurgens Habermas trong bài tham luận La modernité: Un projet inachevé (Hiện đại: một dự trình dang dở, 1980), sau Habermas mở rộng thành những chuyên luận trong khuôn khổ đọc lại triết học, từ Nietzsche: Le discours philosophique de la modernité (Trường triết lý về hiện đại, 1985) vàLa pensée post métaphysique (Tư tưởng hậu siêu hình, 1989).
Nhìn lại quá trình nguồn gốc danh từ postmoderne như thế, chúng ta sẽ phải rất thận trọng khi nhắc đến những chữ hiện đại và hậu hiện đại. Và khi đem những tác giả này, tác giả kia xếp vào cùng khuôn với "chủ nghĩa hậu hiện đại", là đã phản ảnh sai khái niệm hậu hiện đại của Lyotard. Xin nhấn mạnh Lyotard dùng chữ Postmoderne mà không hề dùng Postmodernisme, vì lập thuyết của ông chống lại các grands récits, métarécits (văn bản lớn, lập thuyết lớn), tức là các thứ "chủ nghĩa".
- Còn nếu muốn nói đến một chủ nghĩa hiện đại trong văn chương, thì cần phải xác định chủ nghĩa hiện đại nào: trào lưu văn học Tây Ban Nha-châu Mỹ La Tinh cuối thế kỷ XIX, chịu ảnh hưởng của các nhóm Thi Sơn và Tượng Trưng, hay là trào lưu văn học ở Brésil, ra đời năm 1922, tìm những chủ đề trong thiên nhiên và văn hóa dân tộc?
- Và khi nói đến những tác giả thuộc chủ nghĩa hậu hiện đại, cũng cần phải xác định: chủ nghĩa hậu hiện đại nào? Có phải chủ nghiã hậu hiện đại mà giới phê bình Mỹ, những năm 60, dùng để chỉ định những tác giả Mỹ sinh khoảng 1930, mà tác phẩm có những yếu tố tân kỳ, quái đản? Nếu là đường lối hậu hiện đại đó, thì chỉ là sự trùng tên nhưng không cùng nội dung với lý thuyết hậu hiện đại của JF Lyotard, ra đời gần ba mươi năm sau. Vậy sự nhầm lẫn đã đến từ việc đồng hoá hai khái niệm khác nhau nhưng cùng tên này làm một.
Ngoài ra, Lyotard tránh né những định nghĩa và chủ nghĩa, bởi khi nói đến chủ nghĩa là phải xác định một lập thuyết chính xác, với những tuyên ngôn. Và đó chính là những cái mà Lyotard gọi là métarécit, grand récit (siêu văn bản, văn bản lớn) mà ông muốn đánh đổ.
IV- Hành trình tư tưởng của Lyotard
Jean François Lyotard (1924-1998) sinh ngày 10/8/1924 tại Versailles. Đậu thạc sĩ (agrégé) triết học năm 1950, sau đó dạy trung học ở Constantine (Algérie) từ 1950 đến 1952. Trở thành trợ giáo tại Sorbonne năm 1959 và giảng viên tại đại học Paris X (Nanterre) năm 1966. Từ 1973, trở thành giáo sư ở Paris VIII và các đại học khác ở Mỹ. Trong hai năm, từ 84 đến 86, JF Lyotard kế vị Jacques Derrida trong ghế chủ tịch Viện triết học quốc tế (Président du collège international de philosophie), do Derrida sáng lập và làm chủ tịch từ 1983.
Ngay từ 1954, Lyotard đã gia nhập nhóm Socialisme ou barbarie (Xã hội hay dã man) do Lefort và Castoriadis cùng những chiến hữu Đệ Tứ Quốc Tế, thành lập từ 1949. Năm 1964, nhóm này bị phân liệt, Lyotard tham dự việc hình thành nhóm Pouvoir ouvrier (Quyền lực thợ thuyền) đến 1966. Tại đại học Nanterre, 1968, Lyotard lúc đó là giảng viên, đã hoạt động đắc lực cho phong trào "22 tháng 3" (Mouvement du 22 mars), khởi sự cuộc "cách mạng văn hóa" mùa xuân năm 68.
Là tác giả 34 tác phẩm triết học và văn học nhưng JF Lyotard không có chỗ đứng tương đương như Jurgens Habermas trong triết học hiện thời. Bộ từ điển tác phẩm văn học thông dụng của Pháp chỉ lưu lại cuốn Le différend (Bất đồng) trong số đầu sách của Lyotard được mô tả trong từ điển. Cuốn La condition postmoderne (Điều kiện hậu hiện đại) ít được độc giả chuyên môn quan tâm, sách do Minuit (một nhà xuất bản phát hành số lượng giới hạn) in lần đầu năm 1979, nhưng đến hơn hai mươi năm sau (2003) mới được tái bản. Một hiệu sách lớn như FNAC khu Montparnasse ở Paris, người bán hàng cho biết một năm khá lắm cũng chỉ bán được một, hai cuốn. Như thế để hiểu rõ chỗ đứng của triết gia này và lý thuyết của ông trong lòng dân tộc Pháp, cùng sự thổi phồng, bóp méo, hoặc thần tượng hoá lý thuyết hậu hiện đại của ông tại các quốc gia khác, trong đó có Mỹ và Việt Nam.
Những tác phẩm chính: La phénoménologie (Hiện tượng luận) (1954),Discours, figure (Phát biểu, hình tượng) (1971), Dérive à partir de Marx et Freud (Phiêu lưu từ Marx và Freud) (1973), Economie libidinale (Điều tiết nhục dục) (1974), La condition postmoderne (Điều kiện hậu hiện đại) (1979) và Le différend (Bất đồng) (1983).
Con đường tư tưởng của Lyotard có thể chia làm hai giai đoạn: Thời kỳ đầu, chịu ảnh hưởng triết học Husserl và Merleau-Ponty, ông viết: La phénoménologie (Hiện tượng luận, 1954), rồi từ chủ nghĩa mác-xít và phân tâm, ông viết Dérive à partir de Marx et Freud (Lạc hướng vì Marx và Freud, 1973). Trong Discours, Figure (Diễn ngôn, Hình tượng, 1971) Lyotard muốn vượt qua giới hạn của hiện tượng luận; ông dựa trên lý thuyết của Freud về những ham muốn không ý thức được trong vô thức của con người, để thiết lập một thứ "thẩm mỹ mang tính chất hình tượng" (beauté figurale) với những đặc tính rời rạc, đứt khúc, không nối kết (non liée), man dại (sauvage) tiềm ẩn trong nghệ thuật hiện đại. Trong cuốn Economie libidinale (Điều tiết nhục dục, 1974) ông nhấn mạnh đến vấn đề cường độ của tinh lực nhục dục (énergie libidinale) qua phân tâm siêu hình của Freud, đề xướng ra một thứ "siêu hình học tinh lực" (métaphysique énergétique). Thuyết Beauté figurale (Mỹ học hình tượng) được ông đề xướng và áp dụng để phân tích tác phẩm một số họa sĩ đương đại như Duchamp, Newman, Asami, Monory, v.v... Sở dĩ chúng tôi nói qua về những cuốn sách này bởi đây là thời kỳ Lyotard còn gắn bó với triết học truyền thống, dùng cách biện luận rất "siêu văn bản" mà trong thuyết Hậu hiện đại ông sẽ đả phá hết mực.
1975, đánh dấu ngõ quặt lớn trong tiến trình tư tưởng của Lyotard: đột nhiên, ông bỏ hẳn triết lý nhục dục, bởi vì -sau này chính Lyotard thổ lộ- nó không cho phép ông đặt vấn đề với sự bất công (l'injustice), không cho phép ông điều tra về thân phận tri thức, chất vấn tính chính đáng của các grands récits (siêu văn bản).
Chịu ảnh hưởng nhà triết ngữ học Anh gốc Áo Wittgenstein, Lyotard quay sang nghiên cứu những récits (văn bản) và những jeux de langage (thuật ngôn ngữ, trò ngôn ngữ) -mà số lượng hằng hà, không thể liệt kê, tổng kết được- để có thể kéo chúng vào một đơn vị duy nhất dưới sự "điều khiển" của một thứmétalangue (siêu ngôn ngữ) hoặc métarécit (siêu văn bản) có tính cách toàn diện.
Lyotard cho rằng nếu chấp nhận uy quyền của siêu văn bản là chấp nhận "sự khủng bố của lý thuyết tư biện" (la terreur spéculative) của lập luận thuần lý và ông cho đó là sự "bất công tuyệt đối".
Hậu hiện đại chống lại những bất công ấy, chống sự "độc tài" của các lập thuyết trong các văn bản lớn (grands récits), siêu văn bản (métarécits), chủ trương bảo tồn và phát huy tính chất đa dạng của các thuật ngôn ngữ trong cácvăn bản nhỏ (petits récits ) hay vi văn bản.
Hai cuốn sách tiêu biểu cho lập thuyết này, cũng là hai tác phẩm chính của Lyotard là La condition postmoderne (Điều kiện hậu hiện đại), (1979) và Le différend (Bất đồng), (1983).
V- Một số danh từ
Tác phẩm của Lyotard dựa trên một số danh từ chủ chốt, nếu không nắm vững nội dung sử dụng của tác giả thì khó có thể đi xa hơn trong việc tìm hiểu tác phẩm. Đó là những chữ récit, métarécit, grand récit, petit récit, légitime, légitimation, savoir, jeux de langage, v.v...
1. Récit, grand récit, métarécit, petit récit.
Récit, nghĩa tiếng Pháp là relation écrite ou orale de faits réels ou imaginaires (lời kể miệng hoặc viết về những dữ kiện thực hay tưởng tượng). Như vậy, récit trong nghĩa rộng, chỉ toàn bộ những điều viết hoặc nói về bất cứ vấn đề gì. Récit bao gồm tất cả mọi thể loại văn bản và phát biểu. Récit có thể là một câu văn, một lời nói, một câu chuyện kể, một câu thơ, một truyện ngắn, một truyện dài, một tiểu luận, một huyền thoại, một cổ tích, một lập thuyết triết học... đó là nghĩa mà Lyotard sử dụng. Khi dịch récit thành văn bản, là đã đánh mất nghĩa nói trong chữ récit: ví dụ văn chương truyền khẩu cũng là récit. Vì vậy, chúng tôi sẽ sử dụng cả hai chữ: văn bản và récit; và khi văn cảnh cho phép tìm đúng chữ thích hợp để dịch récit, chúng tôi sẽ ghi chú thêm.
Những chữ grand récit, métarécit, nhiều nơi dịch là đại tự sự, siêu tự sự, siêu ký thuật, truyện lớn, truyện kể vĩ đại v.v... , những cách dịch này thu hẹp nghĩa của chữ récit trong điạ hạt truyện, ký, và đánh mất nghiã "lập thuyết triết học" là nghĩa mà Lyotard sử dụng nhiều nhất. Khi ông nói đến các métarécits, có nghiã là ông nhắc đến những lập thuyết lớn, như hệ tư tưởng thời Ánh sáng, hệ thống triết học Hegel, hệ thống triết học Karl Marx. Vì vậy grand récit, métarécit ở đây sẽ dịch là siêu văn bản, nhưng không phải là cách dịch duy nhất, đôi khi Lyotard dùng métarécit, métadiscours trong nghĩa mỉa mai, châm biếm, chúng tôi sẽ tìm chữ khác tương ứng, tùy ngữ cảnh.
Chữ petit récit, chỉ tất cả những cách lập ngôn ngắn, hoặc cực ngắn của con người như: chữ, câu, lời, đoạn,..., tạm dịch là văn bản nhỏ để đối chiếu vớivăn bản lớn (grand récit) hoặc vi văn bản để đối chiếu với siêu văn bản.
Mục đích của JF Lyotard là trình bầy tính cách áp đặt của các siêu văn bản trên các vi văn bản, các tư tưởng "lớn" trên các tư tưởng "nhỏ", nói nôm na là tình trạng cá lớn nuốt cá bé trong sinh hoạt tri thức của con người. Điều kiện hiện hữu của hậu hiện đại là phải đánh đổ sự bất công sâu xa ấy.
2. Légitime cũng là một chữ chủ chốt trong lập thuyết Lyotard. Ông cho rằng những chế độ văn hóa và tư tưởng liên tiếp từ xưa đến nay, tranh nhau địa vịlégitime, tức là tranh nhau cái thẩm quyền, cái địa vị chính đáng, chính thống, chủ yếu. Ví dụ những siêu văn bản như triết thuyết của Hegel hoặc triết học Mác-xít đã từng giữ địa vị chính thống, trong đời sống tư tưởng Tây phương hàng thế kỷ. Chúng ta có thể kể thêm hệ tư tưởng Nho giáo cũng đã ảnh hưởng đời sống tinh thần Đông phương từ Khổng Tử đến ngày nay.
3. Savoir: là biết, là tri thức, tức là toàn bộ kiến thức về một vấn đề. Nhiều nơi dịch lầm là kiến thức (connaissance)
4. Jeux de langage là thuật ngôn ngữ hay trò ngôn ngữ. Chữ của nhà triết ngữ học Wittgenstein dùng chỉ những quy tắc khác nhau trong cách lập ngôn. Ví dụ những kiểu nói, viết như: hỏi, kêu, tán thán, cầu khẩn, van lậy, xác định, phủ định, v.v... đều có những luật lệ lập câu khác nhau; y hệt như trò chơi cờ, có các phép: cờ tướng, cờ thí, cờ gánh, cờ hùm, cờ người... khác nhau, mỗi trò bao nhiêu quân cờ, cách di chuyển như thế nào, sắp đặt quân cờ ra sao, v.v..., ngôn ngữ cũng vậy.
*
VI- La condition postmoderne (Điều kiện hậu hiện đại)
Trong cuốn Au juste (Đúng ra) viết cùng với JL Thébaud, in năm 1979, Lyotard cũng đã trình bày lập thuyết: muốn đánh đổ sự "độc tài" của những siêu văn bản, siêu ngôn ngữ, tượng trưng sự "bất công tuyệt đối" thì phải bảo tồn tính chất đa dạng của các "thuật ngôn ngữ" trong các tiểu văn bản.
Cuốn La condition postmoderne - Điều kiện hậu hiện đại, đặt quan điểm này trong bối cảnh lịch sử hiện đại và "hậu hiện đại", tiếp tục khai triển lập thuyết này và coi nó như điều kiện sống còn của tri thức trong xã hội hiện tại.
1- "Định nghĩa" hậu hiện đại
Định nghiã đầu tiên:
Trong phần mở đầu, Lyotard xác định mục đích của cuốn sách bằng những dòng:
"Cette étude a pour objet la condition du savoir dans les sociétés les plus développées. On a décidé de la nommer "postmoderne" (Chuyên luận này có đối tượng là thân phận của tri thức trong những xã hội phát triển nhất. Chúng tôi quyết định gọi nó là "hậu hiện đại") (trang 7)
Đó là "định nghĩa" đầu tiên về postmoderne của Lyotard: postmoderne là thân phận của tri thức trong những xã hội phát triển nhất. Rồi ông giải thích tiếp: Chữ postmoderne này đã được các nhà xã hội học và phê bình văn học sử dụng ở châu Mỹ, nó chỉ định tình trạng của văn hóa sau những biến đổi đã ảnh hưởng đến những quy định khoa học và văn học nghệ thuật từ cuối thế kỷ XIX. Nhưng ở đây, chúng tôi chỉ muốn khoanh tròn vấn đề trong bối cảnh khủng hoảng récits mà thôi, và ông lập luận rằng: Khoa học, tự nguồn, đã xung đột với récits (truyện kể). Nó dùng chuẩn mực cũ kỹ để xếp các loại truyện kể vào chung một rọ, thoát thai từ những cổ tích hoang đường.
Định nghiã thứ nhì:
Khoa học tự định lấy quy luật, tự dựng tiêu chuẩn, tự khoác lên mình lớp áo chính danh (légitime) gọi là triết học, và khi những đỉnh cao phát biểu (métadiscours) này lại dựa vào những đỉnh cao tư tưởng (métarécit) như Biện chứng tinh thần (La dialectique de l'esprit) hay Giải luận giác quan (L'herméneutique du sens) v.v... thì người ta gọi đó là hiện đại, là tiến bộ (moderne). Người ta đã chính thống hóa tri thức bằng một thứ đỉnh cao luận thuyết (métarécit) được coi như triết lý của lịch sử. Và như thế, công lý đã đồng hóa luận thuyết lớn (grand récit) với chân lý (la vérité).
Lyotard viết: "En simplifiant à l'extrême, on tient pour "postmoderne" l'incrédulité à l'égard des métarécits" (Nói một cách giản dị nhất, chúng tôi coi "hậu hiện đại" là sự không tin vào những luận thuyết lớn). (trang 7)
Đó là "định nghĩa" thứ nhì về postmoderne.
Tóm lại, trong lời mở đầu, Lyotard đưa ra hai "định nghĩa" hay hai tính chất của hậu hiện đại khác nhau:
- Hậu hiện đại là thân phận của tri thức trong những xã hội phát triển nhất.
- Hậu hiện đại là sự hoài nghi các siêu văn bản.
Mục đích cuốn Điều kiện hậu hiện đại là trình bầy hai hàm ý trên đây.
Tác phẩm chia làm 14 chương:
Chương 1: Xác định phạm vi khảo sát: số phận tri thức trong xã hội vi tính hóa.
Chương 2: Xác định vấn đề: sự chính thức hóa hay chính thống hóa (la légitimation).
Chương 3: Xác định phương pháp phân tích những thuật ngôn ngữ.
Chương 4: Giao thế hiện đại.
Chương 5: Viễn ảnh hậu hiện đại.
Chương 6 và chương 7: Tri thức trần thuật (savoir narratif) và tri thức khoa học.
Chương 8: Chức năng trần thuật và sự chính thống hóa tri thức.
Chương 9: Những văn bản của sự chính thống hóa tri thức.
Chương 10: Sự mất thẩm quyền (la délégitimation) của các siêu văn bản.
Chương 11: Nghiên cứu và sự chính thống hóa nghiên cứu dựa trên thành tích.
Chương 12: Giáo dục và sự chính thống hóa giáo dục dựa trên thành tích.
Chương 13: Khoa học hậu hiện đại: nghiên cứu những bấp bênh, vô thường (les instabilités).
Chương 14: Chính thức hóa bằng ngộ luận (paralogie, lý luận sai).
Nội dung 14 chương trên đây có thể chia thành bốn tiêu đề chính như sau:
1- Trình bầy số phận của tri thức trong các xã hội vi tính hóa.
2- Chứng minh tính cách áp đặt của khoa học đối với văn bản trong quá khứ và hiện đại.
3- Hậu hiện đại là tình trạng mất thẩm quyền của các siêu văn bản và sự hiện hữu của các vi văn bản.
4- Khoa học hậu hiện đại dựa trên việc nghiên cứu những bấp bênh, vô thường, để cho những cái gọi là sai, cũng sẽ được quyền sống như những cái được gọi là đúng.
*
Đây là một tác phẩm triết học mà tác giả trình bày chặt chẽ dòng tư tưởng chủ lưu của mình: Đả phá những hệ thống lập thuyết lớn. Tố cáo tình trạng khoa học -dựa trên những phương pháp luận cứng ngắc- tự xem mình là chính danh, để phán xét đúng, sai một cách máy móc. Phê phán "văn minh vi tính" đã giúp cho đường lối chính thống này phát triển: cái gì được mã hóa bằng kỹ thuật số, bằng kỹ thuyật dấu (numériser, digitaliser) để đưa vào máy vi tính sẽ được giữ lại, cái gì không mã hóa được sẽ bị đào thải. Lyotard biện hộ cho sự bình đẳng giữa những cái "lớn" và cái "nhỏ", giữa những lý thuyết lớn, nhỏ, giữa những truyện lớn, truyện nhỏ, giữa những văn bản lớn, văn bản nhỏ, bằng một lập thuyết đi từ sự khảo sát bản thể của ngôn ngữ. Điều mà ông đòi hỏi là quyền sống của những cái mà ông gọi là văn bản nhỏ.
Định nghiã thứ ba:
Ở phần mở đầu, Lyotard đã đưa ra hai “định nghiã” hậu hiện đại; trong chương một, Lyotard khoanh vùng phạm vi khảo sát, là, “số phận tri thức trong những xã hội vi tính hóa”, và ông xác định "thời điểm" hậu hiện đại, gián tiếp đưa ra "định nghĩa" thứ ba về hậu hiện đại: "Giả thiết làm việc của chúng tôi là tri thức đã thay đổi quy chế (statut), từ khi xã hội đi vào thời điểm được gọi là hậu kỹ nghệ và văn hóa đi vào tuổi được gọi là hậu hiện đại. Ở châu Âu, sự chuyển tiếp này, ít ra, đã bắt đầu từ cuối thập niên 50, đó là thời kỳ hoàn tất kiến thiết châu Âu sau thế chiến. (trang 11)
Tới đây, Lyotard xác định thời điểm hậu hiện đại: thời kỳ được ông gọi là hậu hiện đại, bắt đầu từ cuối thập niên 50, ở Âu châu, thời kỳ mà tri thức bắt đầu thay đổi quy chế.
2- Thân phận tri thức
Theo ông, từ cuối thập niên 50 trở đi, những phương pháp khoa học và kỹ thuật sắc sảo và tân kỳ nhất đều dựa trên căn bản ngôn ngữ, đặc biệt như ngữ âm học và các lý thuyết về ngữ học, hoặc như sự dịch thuật và chuyển tải ngôn ngữ thông thường sang ngôn ngữ máy móc, như vấn đề lưu trữ các kho dữ kiện và truyền thông tin học, vv...
Sự biến chuyển kỹ thuật này, gây khó khăn lớn cho tri thức cả về nghiên cứu lẫn truyền đạt: qua những giai đoạn chuyển thể từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia, bản chất của tri thức không còn nguyên vẹn nữa. Ngoài ra, một kiến thức (connaissance) chỉ được đưa vào những kênh truyền thông mới và trở thành "dùng được" nếu người ta có thể "phiên dịch" hay mã hóa nó thành lượng số thông tin (quantités d'information). Như vậy, chắc chắn rằng một phần của tri thức (cái phần không thể mã hóa được) sẽ bị bỏ rơi, và hướng đi của nền nghiên cứu mới, trong thời đại tin học này, sẽ tùy thuộc vào điều kiện phiên dịch (hay điều kiện mã hóa) trong ngôn ngữ máy móc (trang 13).
Những "nhà sản xuất" tri thức, cũng như những người "tiêu dùng" tri thức ngày nay, bắt buộc phải có phương tiện phiên dịch để chuyển tải tri thức trong việc quảng bá cũng như học tập. Với sự độc quyền của tin học thì chỉ có một thứ "tri thức" được chấp nhận, được thực sự ngự trị, được chính thức hóa, qua ngả tin học.
Sự kiện này dẫn đến chỗ: người ta đã khai trừ cái biết (tức tri thức) ra khỏi người biết, đến nỗi kẻ biết có thể bị truy tố về kiến thức của mình. (Nói cách khác: người sáng tạo không còn “làm chủ” được những gì mình viết ra, mà sẽ tùy thuộc vào hệ thống phát tán của tin học, tình trạng này có thể đưa đến trường hợp người viết không còn nhận ra “tác phẩm” của mình nữa). Tri thức, như thế trở nên một sản phẩm trao đổi, mua bán, tiêu thụ, trong một quy mô sản xuất mới trong đó tri thức sẽ không còn là cứu cánh của chính nó, và cùng một lúc, nó mất đi cái giá trị sử dụng.
Trong thời điểm hậu kỹ nghệ, hậu hiện đại này, khoa học phát triển trong lòng những bộ máy sản xuất của các quốc gia, và như thế tri thức hơn lúc nào hết, trở thành phương tiện tối ưu để đạt lợi tức tối đa, đạt thành quả tối đa. Trong sự thương mại hóa tri thức toàn cầu này, nước nào nắm được phương thức sản xuất và truyền bá tri thức mạnh nhất, sẽ làm chủ trái đất.
Do đó, vấn đề tri thức, ở thời buổi tin học, hơn lúc nào hết, vẫn nằm trong tay nhà cầm quyền.
Theo Lyoyard, xã hội hiện đại trước đây được chia làm hai mô hình:
- Xã hội cơ khí, kiểu Talcott Parsons [nhà xã hội học Mỹ (1902-1979) chủ trương mô thức xã hội hành động và thức động], dựa trên sự chạy đua thành tích và lợi nhuận để phát triển.
- Xã hội mác-xít dựa trên nguyên tắc đấu tranh giai cấp để giải phóng con người.
Sự thất bại của hai mô hình xã hội này mà lý thuyết dựa trên phương pháp luận của thế kỷ XIX, đưa đến câu hỏi: Thân phận của tri thức trong xã hội kỹ nghệ tân tiến ra sao? Và ông trả lời:
Tri thức chỉ có giá trị khi nó không dính liền và hòa tan với bộ máy khổng lồ của xã hội mà phải là một nguyên tắc phản đối. Nói cách khác, tri thức phải tự lựa chọn một trong hai con đường: đồng nhất hay đối đầu, vận hành (xã hội) hay phê phán (xã hội). Những quyết định thường rất khó, hoặc bất kỳ, tùy tiện. Muốn thoát khỏi tình trạng này, người ta tìm cách phân biệt hai loại tri thức: một loại tích cực, có thể sử dụng trong những kỹ thuật sản xuất; và một loại có tính cách phê phán hay dẫn giải, có nhiệm vụ kiểm tra những "giá trị", những "mục đích", và ở vị thế đó, nó là trở lực cho tất cả mọi hình thức lạm dụng tư tưởng.
Đại lược đó là bộ mặt của tri thức hiện đại.
3- Nguyên tử hoá xã hội
Lyotard không chấp nhận trạng thái hiện đại này và ông đưa ra viễn ảnh hậu hiện đại: phủ nhận giải pháp "chia đôi tri thức" vừa nói ở trên, bởi nó vẫn còn tùy thuộc vào ý niệm chia rẽ, đối lập, đương đầu, không phù hợp với cách sống "hậu hiện đại".
Ảnh hưởng triết ngữ học Wittgenstein và cấu trúc luận của Lévi-Strauss, Lyotard đề nghị cách tiếp cận xã hội như tiếp cận ngôn ngữ. Dựa trên lý thuyết của Lévi-Strauss, Lyotard cho rằng xã hội có cấu trúc như cấu trúc ngôn ngữ. Liên hệ xã hội cũng là liên hệ ngôn ngữ.
Ông đặt vấn đề "nguyên tử hoá xã hội": mỗi người là một "nguyên tử" của xã hội và những nguyên tử người này bị đặt ở giao điểm của những liên hệ thực dụng; nói cách khác, người là một nguyên tử luôn luôn giữ vị trí của kẻ đứng giữa bùng binh, tiếp nhận và trả lời những thông điệp ngôn ngữ từ khắp nơi gửi về. Ở vị trí đó, hắn luôn luôn bị đánh động, bị di chuyển, bởi những thông điệp ngôn ngữ mà hắn nhận được hay chính hắn gửi đi, trong một chuyển động không ngừng. Sống là tập hợp tất cả những cặp phạm trù đối tác ngôn ngữ, là thường trực ở trong vị trí của hai kẻ đối thoại, như hai đấu thủ trên một võ trường. Mỗi đối tác sẽ phải chịu đựng những cú (coup) đánh trực tiếp, khiến đương sự phải dao động, phải di chuyển, không chỉ ở địa vị người nghe mà còn ở cả địa vị người nói và nội dung thông điệp nữa: những cú nói ra sẽ bị những cúphản hồi. Cái "đấu trường ngôn ngữ" ấy chính là hình ảnh của mối liên hệ xã hội (trang 34), có khả năng làm thay đổi tương quan lực lượng giữa hai địch thủ; nhưng điều đó không quan trọng, điều quan trọng là các đấu thủ phải tạo được những cú đánh mới (tức là những phát biểu mới) hoàn toàn bất ngờ (trang 33). Đó là cách thay đổi bộ mặt xã hội mà nhiều nhà xã hội học cũng như những nhà ngữ học hoặc triết ngữ học đã đề cập đến .
Sự "nguyên tử hóa xã hội thành những hệ thống mềm dẻo của các thuật, các trò ngôn ngữ" là một trong những điều kiện của hậu hiện đại, đồng thời được Lyotard xem như một phương thuốc điều trị những "bệnh nhức nhối, quan liêu" của hiện đại.
Theo ông, nếu muốn chữa chứng bệnh quan liêu, cứng ngắc của thời quá khứ và hiện đại (thời mà xã hội được biểu hiện qua những siêu văn bản lớn trong đó con người được xác định dưới những nét chung chung của cái ta) thì triệt để không thể chấp nhận cái ta phổ quát bao trùm lên tất cả đó: không có một thứ phát biểu nào có thể gọi là phổ quát cho tất cả mọi người. Bởi vì, xã hội dệt trên một mạng lưới gồm muôn vàn những phát biểu hay những vi văn bản, trong những thuật ngôn ngữ khác nhau.
Xã hội chỉ được gọi là "hậu hiện đại" với điều kiện nó phát huy tính chất đa dạng, tính chất vô lượng, không thể đếm được của vi ngôn ngữ.
Phải tạo ra một trật tự mới, trong đó tất cả mọi thuật ngôn ngữ đều có quyền hiện diện, cả cái quyền ngộ luận (paralogie) tức là nói sai cũng phải được tôn trọng.
.
4- Thực chất của tri thức récit
Lyotard cho rằng: căn bệnh trầm trọng trong quá khứ và hiện đại là bệnhthẩm quyền, cũng là vấn đề chính thức hóa, chính thống hóa tri thức. Thủ phạm hàng đầu đã gây ra căn bệnh này là khoa học. Để chữa căn bệnh ấy thì phải tìm hiểu tận nguồn: thế nào là tri thức récit (văn chương, văn bản) và thế nào là tri thức khoa học? Tại sao khoa học lại tự cho mình cái thẩm quyền phán đoán, tự đưa ra những hệ thống lập luận để giám định cái đúng, cái sai của récit, trong khi récit (văn chương, văn bản) không có tham vọng phán đoán ai hết.
Để trả lời câu hỏi này, trong chương 6 của Điều kiện hậu hiện đại, Lyotard đã mô tả những đặc điểm của tri thức trần thuật (savoir narratif). Ông giới hạn truyện kể trong trường hợp văn chương bình dân: cổ tích hoặc truyền khẩu, và bàn đến tính chất thực dụng của tri thức truyện kể. Theo ông, truyện kể đã có vai trò quan trọng trong sự hình thành tri thức cổ truyền.
Truyện bình dân, cổ tích, tự chúng đã mô tả những nét tiêu cực hay tích cực của xã hội, phản ánh những gì được chế độ xã hội chính thức công nhận. Ví dụ truyện cổ tích phương Đông thường thường đề cao những giá trị: trung, hiếu, tiết, nghĩa của xã hội phương Đông cổ truyền.
Vì vậy, truyện cổ tích, một mặt, định nghĩa những tiêu chuẩn thẩm quyềncủa xã hội mà nó phản ánh, ở xã hội phương Đông là trung, hiếu, tiết, nghĩa; đồng thời đánh giá những thành tích mà các nhân vật trong truyện đã đạt được trong xã hội ấy: người trung hiếu, tiết nghĩa; kẻ bội bạc, gian hùng v.v...
Hình thức truyện kể, khác với những hình thức phát biểu khác của tri thức: bởi vì truyện kể, tự nó đã đa dạng, hàm chứa nhiều thuật ngôn ngữ khác nhau. Qua các cách xếp đặt câu văn, lời ăn tiếng nói, tự nó đã có tính cách biểu thị toàn diện xã hội. Ngoài ra, sự truyền đạt truyện bình dân, luôn luôn tuân theo những quy luật xác định đời sống thực tế của xã hội mà truyện ấy xuất phát.
Ví dụ người cashinahua (thổ dân Châu Mỹ La Tinh) kể chuyện bao giờ cũng bắt đầu bằng câu: "Đây là chuyện của... tôi vẫn được nghe như thế, và bây giờ tôi sẽ kể cho bạn, bạn hãy lắng nghe..." và kết luận bằng câu: "Đến đây chấm dứt chuyện của... Người đã kể cho bạn nghe tên là..." Cách kể chuyện như thế cho thấy rằng người kể chuyện (dù chuyện do y bịa ra) cũng cứ nói: đây là chuyện y nghe được và kể lại, nhân vật chính có thể là người kể (và cũng là người nghe), và người đang nghe cũng sẽ là người kể (trong tương lai)... do đó, người kể, người nghe, nhân vật, có thể cùng kiêm một nhiệm vụ. Điều này xác định triết lý sống và mối tương quan xã hội của người cashinahua: Biết nói, biết nghe và biết hành động. Đó là bản chất tri thức xã hội cashinahua trong đời sống cộng đồng và chỉ cần qua cách họ truyền đạt récit mà ta cũng có thể biết được.
Khía cạnh chót của văn chương truyền khẩu và cũng là khía cạnh quan trọng nhất: đó là chúng có sức tác động trên thời gian.
Thật vậy, những hình thức truyền khẩu như: ca dao, tục ngữ, hát ví, hát vè, hát ru, hát bè trẻ con, đánh đồng, đánh chắt... thường tuân theo một lề luật, một tiết điệu đặc biệt, phù hợp với lễ nghi hoặc một sự tích, điển cố nào đó, đã có từ xưa, thời mà câu hát xuất phát. Chúng ta có thể lấy ví dụ trong văn chương truyền khẩu Việt Nam, những câu đồng dao như: "nu na nu nống, cái cống nằm trong, con ong nằm ngoài,..." hoặc "chi chi chành chành, cái đanh thổi lửa, con ngựa chết chương,..". Những récit (lời hát) này đã gắn bó với một sự tích xa xưa, đối với chúng ta bây giờ trở thành vô nghiã, khó hiểu như những câu thần chú, thế mà người ta vẫn nhớ và truyền tụng, tại sao?
Lyotard lập luận rằng: một lời nói hay một câu hát, được truyền khẩu từ đời này sang đời khác, khi chúng có nhịp điệu (mètre) vượt lên trên giọng điệu (accent), nói cách khác, khi chúng đạt tới một nhịp thuận tai nào đó, thì thời gian sẽ mất hiệu nghiệm trên chúng. Tức là thời gian không xóa bỏ chúng (vì vô nghiã) nữa, mà trở thành đồng lõa, ngăn cản bộ nhớ truy lùng ý nghĩa để gửi chúng vào quên lãng. Những câu hát ấy đã tự tạo ra biến cố vượt thời gian, thay vì bị thời gian cuốn vào quên lãng thì chính chúng lại tiêu diệt thời gian, để trường tồn: chúng trở thành phi thời gian.
Những trường hợp truyền khẩu như vậy chứng tỏ, một văn bản hay một vi văn bản có khả năng tự chính thức hóa lấy mình qua ngả dân gian, để tồn tại (trang 43).
5- Tri thức khoa học
Sau khi xác định bản chất của tri thức văn chương (truyền khẩu) trong chương 6, ở chương 7, Lyotard viết về thực tế của tri thức khoa học, ông chứng minh rằng tri thức khoa học, ngược lại, không đi qua ngả chính thức hóa dân gian ấy, mà nó tự chính thức hóa bằng biện pháp khai trừ.
Đối với một phát biểu văn chương, dù truyền khẩu hay trong văn bản, ai cũng có thể đọc, nghe, bàn cãi... Nhưng đối với một phát biểu khoa học, thì cả người nói lẫn người nghe đều phải có cùng một trình độ, mới có thể bàn cãi được, tức là phải có một sự cân bằng trí tuệ, bình đẳng về kiến thức: người không có "thẩm quyền" và trình độ khoa học thì không thể bàn chuyện khoa học được.
Nếu so sánh thực tế khoa học với thực tế văn chương, người ta sẽ thấy những khác biệt sau đây:
a/ Tri thức khoa học không công nhận các thuật, các trò ngôn ngữ; phương pháp của nó là loại trừ. Một phát biểu khoa học chỉ được công nhận là đúng qua ngả biện luận và chứng minh. Nhà bác học là người tìm ra một phát biểu đúng và loại trừ những phát biểu khác.
b/ Tri thức khoa học, do đó, đã khai trừ các thuật chơi khác của ngôn ngữ mà sự hòa hợp tạo nên mối tương quan xã hội. Ở tri thức khoa học chỉ có sự hòa hợp giữa các giới chuyên môn, khoa bảng. Vì vậy, một cá nhân bình thường, tức là một "nguyên tử" của xã hội làm sao có thể đạt được "thẩm quyền khoa học"?
c/ Ngay cả trong nghành nghiên cứu, thẩm quyền cũng chỉ dành cho một người: người phát biểu.
d/ Nhưng một phát biểu khoa học, dù đã được giới khoa học chính thức công nhận, vẫn có thể bị xét lại: Cái gọi là tri thức khoa học hôm nay, một sớm một chiều có thể bị những phát biểu ngày mai lật đổ hoàn toàn.
e/ Luật chơi khoa học khác hẳn luật chơi văn chương: Tri thức văn chương, không đòi hỏi phải được chính thức công nhận, qua ngả biện luận và bằng cớ, tức là nó không đòi hỏi sự chính thống hóa đến tự bên ngoài. Tri thức văn chương, nhất là văn chương truyền khẩu, tự vượt thời gian, tự chính thức hóa lấy qua ngả dân gian. Nó coi sự không hiểu các vấn đề khoa học là bình thường, và coi tri thức khoa học như một khía cạnh khác trong gia đình tri thức văn hóa nói chung. Khoa học, ngược lại, không như thế. Nhà khoa học tra khảo tính cách đúng đắn của récit, đặc biệt các truyện thần thoại, cổ tích v.v... và nhận thấy chúng không trải qua các giai đoạn lý luận và thử nghiệm, bèn xếp chúng vào loại bán khai, kém phát triển, hủ lậu, vong thân, phát xuất từ dư luận, phong tục, thế quyền, thành kiến, dốt nát, không tưởng... Những truyện cổ tích đối với khoa học chỉ là những loại ngụ ngôn, thần thoại, hoang đường, để đàn bà con nít nghe và đọc. Người ta lại còn tìm cách rọi "ánh sáng khoa học" vào những "tối tăm" ấy để văn minh hóa chúng, giáo hóa chúng, làm cho chúng "phát triển". Sự bất bình đẳng này xuất phát từ quan niệm "khai phá" của cái gọi là đế quốc văn hóa (impérialisme culturel) Tây phương, tự cho mình quyền cầm đầu, quyền chính thống (trang 48).
6- Sự chính thống hoá tri thức khoa học bằng văn bản
Sau khi vạch rõ "tội trạng" của khoa học trong chương 7, ở chương 8 Lyotard nói đến vai trò của truyện kể và sự chính thống hóa kiến thức. Ông cho rằng:
Mặc dù khoa học chối từ récit, khinh bỉ các biện pháp văn chương như truyện kể nói chung, nhưng vẫn không ngần ngại sử dụng chúng. Ví dụ rõ nhất: một nhà bác học, vừa phát minh ra một cái gì đó, sẽ được các đài phát thanh, truyền hình phỏng vấn. Ông nói gì trên đài? Ông không thể nói về nội dung khoa học của cái mà ông vừa phát minh cho khán thính giả nghe, vì chẳng ai hiểu gì cả. Ông bắt buộc phải thuật lại, rằng ông đã phát minh ra làm sao, trong điều kiện nào, và như vậy là ông phải kể một chuyện, tức là ông vẫn phải dùngtri thức trần thuật (savoir narratif) để quảng bá công việc của mình. Hơn nữa, ông còn phải dùng récit (văn bản) để viết bài thuyết minh công trình nghiên cứu, ấy là không kể, ông lại còn phải viết thư tức là dùng đến văn bản để xin ngân quỹ thực hiện...
Những tác phẩm như Les dialogues (Đối thoại) của Platon hoặc Discours de la méthode (Phương pháp luận), hồi ký, tiểu thuyết tư tưởng của Descartes, là những bằng chứng hùng hồn về sự dùng văn bản để chính thức hóa tri thức khoa học. Còn đầy rẫy những ví dụ về sự chính thống hóa tri thức khoa học qua văn bản, nhưng tiêu biểu nhất là bộ Bách khoa toàn thư về khoa học triết lýEncyclopédie des sciences philosophiques của Hegel, in năm 1817. Bộ sách này trình bầy một cách có hệ thống học thuyết của Hegel, được in ra cho sinh viên đại học dùng. Cách chính thống hóa một hệ tư tưởng như thế, Lyotard gọi làtinh thần tư biện (esprit spéculatif) trong đại học: đem một siêu văn bản ra để giáo hóa quần chúng (trang 57), tương tự như ở phương Đông với học thuyết Nho giáo.
Hậu hiện đại chống lại sự chính thống hóa các siêu văn bản như thế và đề nghị một hướng đi khác dựa trên tình trạng mất thẩm quyền của khoa học và do đó của các siêu văn bản.
7- Sự mất thẩm quyền của khoa học
Lyotard cho rằng: tình trạng mất thẩm quyền này nhen nhúm ngay từ cuối thế kỷ XIX, với mầm mống hoài nghi phát xuất ngay trong lòng những siêu văn bản: Hegel, trong khi biện chứng đã ngấm ngầm thú nhận sự hoài nghi của mình về kiến thức thực nghiệm. Khoa học thực nghiệm không phải là một tri thức. Biện chứng pháp muốn bác bỏ nó.
Biện chứng pháp hoài nghi tri thức khoa học và chứng minh rằng tri thức này chỉ xứng đáng là tri thức, nếu người ta chấp nhận tiền đề của nó mà thôi. Ví dụ phát biểu: "Un énoncé scientifique est un savoir si et seulement s'il se situe lui-même dans un processus universel d'engendrement" (Một phát biểu khoa học chỉ được xem là tri thức, nếu nó nằm trong một quá trình phát sinh chung, và chỉ như thế mà thôi"). Lời phát biểu này chỉ có giá trị nếu người ta chấp nhận tiền đề "có một quá trình phát sinh chung". Tiền đề này luôn luôn là điều kiện tối hậu cho bất cứ một phát biểu, một biện chứng khoa học nào. Nếu không có tiền đề thì không có thuật biện chứng và khoa học rơi vào chỗ vô nghĩa.
Lyotard lập luận tiếp: nhưng nếu người ta hiểu tiền đề theo một nghĩa hoàn toàn khác, tức là trong bối cảnh hậu hiện đại, thì nó lại có thể chấp nhận được và ông đề nghị "tiền đề trong nghĩa hậu hiện đại là một nhóm quy luật phải chấp nhận để chơi trò biện chứng" (trang 64). Với phát biểu này, Lyotard muốn kéo khoa học và biện chứng khoa học xuống ngang hàng với những trò chơi ngôn ngữ khác. Ông viết: "Khoa học giữ vị trí riêng của mình trong cuộc chơi, nó không có thẩm quyền gì cả trên các trò chơi ngôn ngữ khác." (trang 66). Theo ông, tất cả những trò chơi ngôn ngữ mà lượng số vô tận đã dệt nên mối tương quan xã hội: vô vàn cách nói, cách viết, cách lập ngôn khác nhau tạo nên những luật chơi khác nhau, trong ngôn ngữ loài người.
Lyotard lấy lại câu nói của Wittgenstein để ví ngôn ngữ của chúng ta như một thành phố đã có từ xưa; tất cả những đường cong ngõ quặt, phố nhỏ phố lớn, nhà này nhà khác, đời này đời khác... chen chúc nhau; có những chữ mớiđến thay chữ cũ như những nhà mới dựng trên những nền móng đổ nát, điêu tàn... Và bây giờ, ngoài tiếng người, còn có những ngôn ngữ khác như ngôn ngữ máy móc, ngôn ngữ điện tử... nữa. Vì vậy, không thể xác định một luật chung nào cho "các mái nhà ngôn ngữ", cũng như không thể có một thứ "siêu ngôn ngữ" bao trùm lên tất cả. Do đó, không thể lấy một thứ mốc, một thứ định đề khoa học nào để quyết định cái đúng, cái sai, trong văn bản. Cũng không thể dùng lợi nhuận, hoặc căn cứ vào thành tích, tiêu chuẩn để đánh giá văn chương (trang 67).
Ngành giáo dục, từ trước đến nay, vẫn chỉ dựa trên những tiêu chuẩn củasiêu văn bản (tức là những sách kinh điển) để đào tạo nên những tinh hoa (élite) có nhiệm vụ quản trị xã hội. Hậu hiện đại không chấp nhận giải pháp có tính cách áp đặt và cục bộ như thế. Hậu hiện đại đề nghị một hướng đi mới, trong đó vi văn bản có thể nẩy nở, phát triển, trong điều kiện bình đẳng với siêu văn bản. Khoa học hậu hiện đại sẽ là sự nghiên cứu những bấp bênh, vô thường của đời sống. Ở đây không còn khái niệm đúng, sai, có thẩm quyền, vô thẩm quyền, mà lớn, nhỏ đều có thẩm quyền trong mỗi địa hạt, mỗi trò chơi ngôn ngữ khác nhau. Ngộ luận cũng là một thẩm quyền. Bất đồng ý kiến cũng là một thẩm quyền.
Trong cuốn Le différend (Bất đồng), JF Lyotard phân tích bản chất của các thuật ngôn ngữ và đòi hỏi phải tôn trọng sự "bất đồng" như điều kiện sống còn của ngôn ngữ.
*
VII - Bất đồng - Le différend
Bốn năm sau khi Điều kiện hậu hiện đại ra đời, 1983, Lyotard cho xuất bản cuốn Le différend - Bất đồng, vẫn do nhà Minuit phát hành tại Paris. Tác phẩm này đào sâu thêm lý thuyết hậu hiện đại và trình bày những đoản ngôn (fragment) dưới tên đặc ngôn (idiome) như hình thức sáng tác dưới dạng tiểu văn bản "hậu hiện đại" nhất.
Lyotard dùng bản thể học và hiện tượng học để phân tích bản chất của các thuật ngôn ngữ trong các vi văn bản, đồng thời gián tiếp trả lời câu hỏi: thế nào là tác phẩm hậu hiện đại?
Cuốn sách thể hiện sự gặp gỡ giữa hai dòng chính của triết học hiện đại: Triết học phân tích ngôn ngữ, gốc Anh, ảnh hưởng Wittgenstein và triết học hiện sinh ảnh hưởng trực tiếp từ hiện tượng luận của Husserl và bản thể luận của Heidegger.
1- Yếu tố khảo sát: câu
Bất đồng đặt trọng tâm trên sự phân tích những cách hành ngôn cơ bản mà Lyotard gọi là câu (phrase) và cách bố trí, chỉnh lý câu.
Trước hết, ông giải thích cái tựa Le différend - Bất đồng, nghĩa là gì? Bất đồng khác với kiện tụng, với tranh chấp (litige) ở chỗ đây là một cuộc tranh tụng nhưng đôi bên không thể tìm ra giải pháp ổn thỏa: nếu dùng cách phân xử hợp lý với bên này thì bên kia không chịu, vì hai bên không cùng một luật chơi và bất đồng là tính chất cơ bản của ngôn ngữ. Cái tựa Bất đồng muốn nói rằng: không thể đưa ra một luật chung, một thứ siêu ngôn ngữ để áp dụng cho mọi cách hành ngôn được.
Đối tượng nghiên cứu hiển nhiên nhất phải là câu. Bởi vì câu là thực thể "tồn tại" duy nhất không thể chối cãi được: "xác nhận có câu" không cần tiền đề, vì bốn chữ này đã chứng minh sự hiện hữu của câu, tức là tự nó đã chứa sẵn tiền đề ở trong; và "hồ nghi có câu" là cũng đã làm một câu" (douter qu'on phrase est en tout cas phraser) mà im lặng cũng là một câu (se taire fait phrase) (trang 9): im lặng là đang làm câu, là sẽ nói. Một câu có thể chứa nhiều câu và ngược lại, nhiều câu (đôi khi) cũng chỉ hàm chứa mỗi một câu thôi.
Những nhận xét trên đây cho thấy rằng: Một câu, dù tầm thường nhất, cũng được xây dựng trên một số quy luật, tạm gọi là những quy chế câu (régimes de phrases). và những quy chế này luôn luôn khác nhau: lý luận có quy chế lý luận, mô tả có quy chế của mô tả, viết truyện khác viết chỉ thị, v.v... Cho nên hai câu ở hai quy chế khác nhau, không thể "thông dịch" được: ví dụ không thể chuyển một câu văn lý luận sang văn tiểu thuyết, cũng không thể dùng văn nghị luận để viết thư tình, hoặc không thể rút từ một kiến thức khoa học ra một bài học chính trị, hay đạo lý gì. Nhưng người ta có thể sắp xếp bố trí câu theo một trật tự nào đó, để dùng chúng vào những việc khác nhau, như dậy học hoặc viết văn, làm thơ hay tán gái, tranh biện hay kiểm điểm, v.v...
Tóm lại, không có quy tắc ngôn ngữ chung chung, mà mỗi cách nói, mỗi cách viết có đối tượng, có dụng ý riêng biệt. Vấn đề chính là việc bố trí, sắp đặt làm sao cho các cách nói ấy, thành câu, thành văn.
Chẳng hạn, đột xuất có một ý tưởng nẩy ra trong đầu, thì phải xếp nó vào đâu? Ðặt trước hay sau câu vừa viết như thế nào? Theo quy luật gì? Theo ngữ thuật nào? Hiển nhiên là chẳng có quy tắc, luật lệ nào rõ ràng có thể định trước được những cách kết hợp ngôn ngữ, để làm thành câu, thành văn, để có thể khỏa lấp được cái gọi là "khoảng trống ngôn ngữ" giữa những câu những chữ. Do đó, Lyotard xác định "bố trí câu là cần thiết, còn bố trí thế nào là do ngẫu nhiên". Tóm lại, người nói, người viết, đi từ chỗ ngẫu nhiên, tức là không có luật để tạo ra "luật" ngôn ngữ của riêng mình.
2- Tính bất đồng của ngôn ngữ
Vậy tình trạng bất đồng nằm ngay trong lòng một câu mà ta đang nghĩ, tức là ý nọ đối chọi với ý kia. Cho nên, khi viết hoặc nói ta phải tìm cách bố trí làm sao cho hai ý ấy -dù đối chọi nhau- vẫn có thể nói ra hoặc viết ra được; tức là không để cho ý nọ "thắng" ý kia, ý nọ triệt tiêu hay loại trừ ý kia, bởi vì, dù chúng bất đồng, nhưng ta không thể xác định được ý nào đúng, ý nào sai; không kể những giây phút yên lặng, chính cái thời khắc yên lặng ấy, cũng là một câu; và "câu yên lặng" (un silence est une phrase) này thường để chờ đón hoặc cầu cứu đến một câu khác đang nghĩ hay chưa nghĩ ra.
Trong bản thể lời nói cũng đã có tính chất bất đồng như thế: Một người, trong khi phát biểu, không thể lấy lý lẽ, biện luận để loại trừ những ý khác trong đầu mình mà phải chấp nhận chúng, rồi tìm cách sắp xếp, bố trí chúng theo một trật tự nào đó, thành câu.
Lyotard đặt đặc tính này của ngôn ngữ trong quá trình lịch sử từ thời cổ Hy Lạp đến ngày nay, để chứng minh sự thất bại của tri thức khoa học, bởi tri thức khoa học lấy "đúng" làm đích, và loại trừ những gì được gọi là "sai", tri thức khoa học tự chính thống hóa bằng phương pháp loại trừ. Sự thất bại của lý luận khoa học, dẫn đến sự thất bại của các siêu văn bản, siêu luận thuyết, vì đã dùng biện chứng như một phương pháp luận khoa học, nhân danh cái "ta" hoặc "chúng ta" nghĩ hộ mọi người.
Hậu hiện đại đề nghị: nếu muốn nói đến một chính sách, một đường lối chung cho câu (tiểu văn bản) thì từ nay cái chính sách ấy phải "công nhận luật bất đồng", để cho những cái gọi là "lỗi", là "trái" cũng được quyền hiện diện.
Bất đồng được Lyotard định nghĩa lại một lần nữa là tình trạng bấp bênh, lập lờ, đồng thời cũng là khoảnh khắc mà trong đầu ta đang có cái gì đó, muốn nói ra, muốn làm thành câu mà chưa xong. Tình trạng im lặng này, ông gọi là "câu âm" (phrase négative), câu chưa ra đời, nhưng nó có thể dẫn đến một "câu dương" (phrase possible), tức là câu sẽ nói, ta thường gọi tình trạng ấy là mới cảm thấy mà chưa tìm ra chữ, ra lời (on ne trouve pas ses mots) (trang 29).
Phải kiên trì lắm, mới tìm được cách bố trí một câu có khả năng diển tả trung thực mối bất đồng ngay trong tình cảm của mình và nếu diễn tả được, thì việc tình cảm báo động trước cho ta không uổng công vô ích. Đó cũng là sự thách thức chung cho văn chương, cho triết lý và cả chính trị nữa: làm sao diễn tả được những bất đồng trong tư tưởng của mình qua những đặc ngôn (idiome)mới.
3- "Sách hậu hiện đại"
Cuốn Bất đồng tập hợp 264 đoản ngữ mà Lyotard gọi là đặc ngôn(idiome) đánh từ số 1 đến số 264. Những đoản ngữ này, mang tính bất đồng trong nội dung, ghi chép những nhận xét hay những lời giải chú về một vật thể hay sự thể. Đây là một thứ tiểu luận rút gọn thành câu hay đoạn mà nội dung tiềm ẩn sự bất đồng. Những đặc ngôn ấy được đánh số và xếp thành từng nhóm, độc giả nên đọc theo thứ tự đã đánh số. Dạng thức "sách" như cuốn Bất đồngtheo Lyotard, là dạng thức rất "hậu hiện đại". Thử đọc một vài đặc ngôn (mà chúng tôi tóm lược nội dung) như sau:
1-Người ta bảo rằng con người là một sinh vật biết nói, nhưng bị đặt trong hoàn cảnh không thể nói được những gì đã xẩy ra trong quá khứ, bởi vì, phần lớn những người đã sống qua giai đoạn ấy đều đã chết rồi, những người sống sót chỉ làm chứng được phần tối thiểu. Vậy làm sao biết được những gì đã xẩy ra trong quá khứ? hay quá khứ chỉ là hệ quả những tưởng tượng của người kể? v.v...
2-Tôi đã đọc và phân tích hàng ngàn tư liệu. Tôi đã tham khảo ý kiến biết bao người, nhưng vô hiệu. Chỉ có một chứng nhân duy nhất, thoát khỏi phòng hơi ngạt Đức quốc xã, dám quả quyết đã thực thụ trông thấy phòng hơi ngạt. Nhưng nhìn thấy phòng hơi ngạt chưa đủ, còn phải chứng minh rằng phòng này đã hoạt động, tức là nó có giết người. Chứng cớ duy nhất về việc này là mình phải chết vì hơi ngạt trong phòng này; nhưng nếu đã chết thì làm sao lại có thể là chứng nhân được? v.v...
Đại loại, đó là những "câu", những "tiểu văn bản" trong "sách" hậu hiện đại. Theo Lyotard, chúng chứng tỏ tính vô hạn của trò chơi ngôn ngữ và tính bất đồng trong bản thể ngôn ngữ: vũ trụ ngôn ngữ không chỉ gồm thâu những điều đã nói, đã viết ra, mà còn bao trùm cả những khoảnh khắc im lặng, những điều chưa nói, hoặc không thể nói, hoặc không bao giờ có thể nói ra được...
Lyotard tiên đoán trong thế kỷ tương lai (tức là thế kỷ XXI) sẽ không còn có cái gì được gọi là sách nữa, cuốn Le différend của ông chỉ là một "mớ chữ" may mắn được nhà xuất bản nhận in. Bất đồng, theo ông, sẽ là cuốn "sách cuối cùng", ở thời điểm "cáo chung" của những cái gọi là sách. Sau này, những gì được gọi là "sách" sẽ chỉ là đối tượng được in của một cuốn phim, một cuộc nói chuyện hay một chương trình truyền hình v.v... tóm lại tất cả những gì đã được quảng bá trên các kênh truyền thông đại chúng, rồi sau in ra, sẽ được gọi là "sách". Điều này phù hợp với quan điểm hậu hiện đại của ông, vì không có văn bản lớn nữa, tức là những gì được viết có đầu đuôi, có hệ thống mà chỉ có tiểu văn bản, tức là những mảng ý nghĩ, mảng đối thoại, những câu nói, những câu đang nghĩ... Cuốn "sách" sẽ là một "mớ" những câu đã được nói ra, đang đợi những câu khác sẽ đến... trong phim, trong các cuộc phỏng vấn, hay trong một hoàn cảnh nào đó...
*
XIII - "Chủ nghiã Hậu hiện đại" và lý thuyết của Lyotard.
Như trên đã nói, lý thuyết hậu hiện đại của JF Lyotard nẩy mầm từ cuộc "cách mạng văn hóa" (phát xuất từ Mỹ) đạt đỉnh cao tại Pháp mùa xuân 1968, với mục đích đánh đổ tất cả những cổ hủ, cũ kỹ, có tính cách áp đặt, trong hệ thống chính trị quan liêu và giáo dục hàn lâm của Pháp dưới thời de Gaulle và Pompidou; sau mở rộng thành cuộc cách mạng toàn diện xã hội đương thời. Vì vậy, trọng tâm của lý thuyết hậu hiện đại gắn bó với hoàn cảnh lịch sử Pháp thập niên 1970-1980, tác giả đã dành một phần khá quan trọng để đả phá nền giáo dục hàn lâm có mục đích đào tạo ra những thành phần tinh hoa để quản trị xã hội và phục vụ giai cấp lãnh đạo.
Về phương diện văn học, lý thuyết này hầu như không liên hệ gì với các tác giả avant-garde của Mỹ, những năm 60 mà sự thể hiện cái mới của họ dựa trên nền móng siêu thực và phi lý, đã phát triển ở Âu Châu trước đó vài thập niên.
Tóm tắt lại, lý thuyết Hậu hiện đại của Lyotard chủ yếu dựa trên những điểm:
- Đả phá nền triết học chính thống Tây phương, từ thế kỷ thứ XVIII đến ngày nay. Đả phá những siêu văn bản đã áp đặt lên sinh hoạt tri thức của nhiều thế hệ ngay từ trong học đường. Đả phá lập luận khoa học, tự coi mình là chính thống, là chủ thể phán xét đúng sai. Đòi hỏi sự bình đẳng giữa siêu văn bản và vi văn bản: cái lớn cái nhỏ trong văn chương và tư tưởng đều có quyền sống như nhau. Biện hộ cho mọi quyền phát biểu, kể cả quyền ngộ luận.
- Nhấn mạnh đến tính chất bất đồng của ngôn ngữ.
- Đề xuất những đặc ngôn mà nội dung chứa đựng sự bất đồng.
- Tiên đoán một thứ "sách" mới cho tương lai trong thế kỷ XXI: "sách" sẽ là một cuốn phim, một mảng tin, một cuộc phỏng vấn, trên truyền thanh, truyền hình, màn ảnh... được in ra.
Nhưng lý thuyết của JF Lyotard đã không phát triển được ở Pháp. Danh từ hậu hiện đại hầu như vắng mặt trong ngôn ngữ sáng tác cũng như phê bình ở Pháp. Ngược lại, thuyết hậu hiện đại của Lyotard [cũng như thuyết Déconstruction (Giải kiến trúc) của Derrida] được "xuất cảng" sang Mỹ, được hoan nghênh và sau trở thành hiện tượng phổ biến nhiều nơi. Chúng tôi sẽ lần lượt phân tích và tìm hiểu hai hiện tượng này.
Trước hết tại sao lý thuyết của Lyotard thành công ở ngoại quốc?
Đầu tiên là giới đại học Mỹ trọng dụng, sau trở thành hiện tượng thời thượng "toàn cầu": "Mục lục của Books in Print cho thấy không có tựa hoặc sách về "hậu hiện đại" xuất bản từ 1978 đến 1981, nhưng có 14 cuốn xuất bản năm 1988, 22 trong năm 1989 và 29 trong năm 1990. Theo Humanities Index, không có cuốn nào giữa những năm 1980-1983, nhưng lại có tổng cộng 241 cuốn từ năm 1987 đến 1991" (Trích bài Thuyết hậu hiện đại và văn hoá đại chúng, của Dominic Strinati, Nguyễn Thị Ngọc Nhung dịch, tạp chí Thơ, số 19, trang 162). Hiện tượng khá phổ biến: không phát triển được ở quê hương, nhưng lại bành trướng ở nước ngoài.
Điểm đáng chú ý đầu tiên là sự thành đạt ở nước ngoài của Lyotard không xây dựng trên lập thuyết của ông (mặc dù tên Lyotard vẫn được nêu lên hàng chủ soái) mà lại xây dựng trên nhiều ngộ nhận. Lý do: những người tôn vinh ông hoặc «nghiên cứu» ông không đọc trực tiếp tác phẩm của ông.
- Xin nhắc lại: Lyotard gọi lý thuyết của mình là Postmoderne (Hậu hiện đại) nhưng khi mang ra ngoài, bỗng nhiên nó trở thành Postmodernisme (Chủ nghiã hậu hiện đại). Điều này phản lại lập thuyết của ông dựa trên sự đánh đổ những lập thuyết lớn tức là các chủ nghiã.
- Vậy "Chủ nghiã Hậu hiện đại" là gì, có những ai? Những người «nghiên cứu» này đưa ra một danh sách hổ lốn:
"Tất cả những cái gọi là "tiểu thuyết hậu hiện đại" của J. Fowles, J. Barth, A. Robbe-Grillet, R. Sukenick, F. Sollers, J. Cortazar và nhiều người khác, không chỉ là sự mô tả những sự kiện và thể hiện những chân dung nhân vật tham dự vào các sự kiện đó, mà còn là những bàn luận rộng rãi về quá trình viết tác phẩm đó. Trong khi đưa vào các lớp lang tự sự những chấm phá lý luận, các nhà văn khuynh hướng hậu hiện đại không ít khi dựa vào uy tín của Roland Barthes, Jacques Derrida, Michel Foucault và các nhà lý luận hậu cấu trúc và hậu hiện đại khác, tuyên bố trong "những điều kiện mới" mình không có khả năng viết "theo lối cũ", tức là viết theo chủ nghĩa hiện thực truyền thống.
Khi nói về nghiên cứu văn học của chủ nghĩa hậu hiện đại như một khuynh hướng riêng trong phê bình, không bao giờ được quên rằng, như một quy tắc, chứ không phải chỉ như một ngoại lệ, trên thực tế những đại diện của nó bổ sung cho nhau bằng những loại hoạt động khác nhau. Thí dụ, hai nhà tiểu thuyết A. Robbe-Grillet và John Barth còn là tác giả của những cuốn sách lý luận về chủ nghĩa hậu hiện đại có uy tín, trong khi đó thì các nhà lý luận "thuần túy" như M. Blanchot và U. Eco là tác giả của những tác phẩm nghệ thuật" (trích bài Chủ nghĩa hậu hiện đại, của Ilin, do Đào Tuấn Ảnh dịch, trong cuốn Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ 20, trang 389, do I.P Ilin và E.A Tzurganova chủ biên, Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân và Lại Nguyên Ân dịch, nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 2003).
Sở dĩ chúng tôi chọn trích I.P Ilin vì cách viết của tác giả Nga này tiêu biểu cho lối viết khá thịnh hành về hậu hiện đại: Người ta thường gán ghép bừa bãi các tác giả tên tuổi có phong cách đặc dị vào danh sách hậu hiện đại, mặc dù họ chẳng liên hệ gì đến "chủ nghiã" này. Nếu cần, người ta có thể bịa hẳn ra việc Robbe-Grillet đã viết những "cuốn sách lý luận về hậu hiện đại có uy tín" nữa. Cách viết như thế chứng tỏ người viết không hiểu gì về văn học hiện đại Pháp, cũng không hề đọc Lyotard, mà chỉ sao chép những sai lầm của người khác. Chẳng hiểu Lyotard nghĩ sao về lối "ngộ luận" này khi người ta bàn về chính bản thân ông và lý thuyết của ông? Mặc dầu họ vẫn tôn ông làm thầy: "Hầu như tất cả các nhà lý luận hậu hiện đại đều nhấn mạnh ý nghĩa của công trình Vận mệnh hậu hiện đại của J.F. Lyotard đối với sự hình thành hệ thống quan niệm của họ" (trang 392, bài đã dẫn).
Những người thông thạo văn học đều biết Alain Robbe-Grillet là cha đẻ củaphong trào tiểu thuyết mới, xuất hiện thập niên 50 tại Pháp. Samuel Beckett là đầu tầu của kịch phi lý (cùng với Eugène Ionesco) từ thập niên 50. Đến thập niên 80 mới xuất hiện lý thuyết của Lyotard. Cho nên không thể pha trộn các "trường phái" một cách tùy tiện như thế được.
Những nhà phê bình Mỹ thập niên 60, xếp một số tác gia như J. Barth, J. Hawkes, R. Coover, D. Berthelme, W. Gass, K Vonnegut... trong trường pháihậu hiện đại, cũng là điều hợp lý, bởi đó là những nhà văn khai phá cái mới trong văn học Mỹ đương thời. Những nhà văn hậu hiện đại của Mỹ này đã chịu ảnh hưởng những trào lưu tư tưởng và văn học ra đời trước họ như siêu thực, hiện sinh, tiểu thuyết mới, kịch phi lý... ở Âu Châu và những tác giả lớn như Kafka, James Joyce, Samuel Beckett, Dos Passos... Tác phẩm của họ có những yếu tính đặc biệt:
- Chất phi lý và kinh hoàng trong tác phẩm của Kafka
- Độc thoại nội tâm xen lẫn diễn biến trực tiếp của James Joyce.
- Tính huyền ảo của siêu thực.
- Sự chồng chéo các mảng đối thoại, bài hát, báo chí, mảng đời sống... của Dos Passos (trước đó, nhóm siêu thực của Breton đã mở đường và trước Breton là Dada).
- Chất phi lý, châm biếm, bi đát trong Samuel Beckett.
- Tính rời rạc, "đứt đoạn", truyện không có chuyện, không có tình tiết, không có nhân vật, trong tiểu thuyết mới của Alain Robbe-Grillet.
Tóm lại, phong trào hậu hiện đại thập niên 60 ở Mỹ, đúng là một trường phái mới, họ đã sử dụng những thủ pháp, những khám phá của thế hệ đi trước và thêm vào tính chất khủng hoảng của con người trong thời đại của họ, để tạo ra một phong trào văn chương có tính chất "khủng bố" toàn diện, làm chao đảo người đọc.
Gọi họ là "hậu hiện đại" rất hợp lý đối với thời điểm 1960. Nhưng làm sao có thể kéo ngược thế hệ "thầy" của họ vào trường phái "hậu hiện đại"? Rồi có lẽ vì đã trót gọi Beckett là hậu hiện đại, sẽ phải kéo thêm Kafka, Joyce... vào cùng. Sự khôi hài này tương tự như việc tìm thấy trong thơ Ôn Như Hầu vài câu có vẻ "siêu thực" vội vàng ghép Nguyễn Gia Thiều vào "chủ nghiã siêu thực".
Từ ảnh hưởng Kafka (tính phi lý và bi đát trong thân phận con người) và Joyce (pha trộn tiếng nội tâm và tiếng ngoại cảnh), Beckett khai phá tính phi lý trong tiếng nói (voix) và sự phải nói của con người: Tác phẩm của ông trình bày tình trạng con người bị kết án chung thân bắt buộc phải nói, dù không muốn nói. Một tiếng, những tiếng, nhiều tiếng, vô danh, vô nghĩa, vô vị... vọng lên từ bất cứ một không gian nào, một tâm tưởng nào. Sống mà không nói không được. Không biết nói gì, mà vẫn cứ phải nói, lải nhải suốt đời. Bi kịch phải nói là thứ tiếng cất lên trong L'Innommable (Tàn mạt), 1953: "Vậy phải tiếp tục, tôi đành tiếp tục, phải nói, còn tiếng, còn nói, tới khi nào nó (tiếng) tìm ra tôi, tới khi nào nó nói với tôi, thật khốn khổ, mạt rệp. Nói đến hết xí hoắch, hết biết, hết Tôi, hết Có, hết Là, hết chủ từ, hết động từ, hết túc từ, nói đến không còn gì để nói..." Đó là tình trạng sống dở chết dở của kẻ bị nói. Đó là thân phận mạt rệp, bi đát, nực cười và cực kỳ phi lý của con người bị kết án chung thân: phải nói. Có lẽ vì tính chất độc đáo này, mà Beckett đã được liệt kê vào danh sách hậu hiện đại, kéo theo cả Kafka lẫn Joyce chăng?
Một mặt khác, trong những tác phẩm cuối đời như Fragments d'un discours amoureux (Những tình khúc) in năm 1977, Roland Barthes tập hợp những đoản văn hay của nhiều nhà văn xưa và nay viết về tình yêu; và cuốn La chambre claire (Căn phòng sáng) in năm 1980 vài tuần trước khi ông mất, ông viết theo lối đoản văn, nhưng cũng không thể liên kết những tác phẩm này với "hậu hiện đại" của Lyotard. Đó là chỉ là chúc thư văn học chứa đựng những tìm kiếm sau cùng của Barthes về mối tương quan nhân chủng giữa hình ảnh và cái chết trong một cách nhìn rất mới.
Tóm lại chủ nghiã hậu hiện đại, nếu chỉ giới hạn trong các tác giả avant-garde của Mỹ thập niên sáu mươi là điều dễ hiểu và đúng đắn. Nhưng khi liên kết chúng với thuyết của J.F. Lyotard và nhất là vơ vét tất cả những triết gia, những nhà phê bình và những tác giả đặc dị của văn chương thế giới như Nietzsche, Kafka, Joyce, Lévi-Strauss, Beckett, Robbe-Grillet, Marquez, Barthes, Blanchot, Eco, ... vào, nó trở thành một chủ nghiã đầu Ngô mình Sở. Bởi không ai có thể xác định đường lối, hay làm một tuyên ngôn về phong cách chung của những nhà văn, nhà phê bình, nhà tư tưởng này để khoanh tròn họ trong một thứ chủ nghiã hay trường phái nào. Văn học không thể nhận vơ và cũng không thể thấy người sang bắc quàng làm họ. Lý thuyết của Lyotard được trưng dụng như một cái bình phong, nhưng những người viết về Hậu hiện đại hoặc nhân danh Hậu hiện đại ít ai đọc kỹ.
Hiện tượng này có thể xem như một trường hợp "xuất cảng" tri thức và "tiêu dùng" tri thức một cách bừa bãi, mà Lyotard đã đả phá trong Điều kiện hậu hiện đại, khi ông nói đến những "tác hại" của xã hội vi tính hóa: người ta đã "loại cái biết ra khỏi người biết" và cho nó một nội dung khác và "nạn nhân" ở đây lại chính là Lyotard, mà thủ phạm không phải là vi tính. Cũng có thể Lyotard thích vai trò "chỉ đạo" này, vì ông được cầm đầu một "chủ nghĩa" nhất là được đóng vai ông tổ cho nên ông lờ đi chăng? Dù sao chăng nữa, việc lập nên một "chủ nghĩa" tức là đã có ý muốn đưa ra một thứ "siêu văn bản" đóng khung trong khuôn khổ, đường lối, là điều tối kỵ đối với Lyotard và nếu ông chấp thuận điều này, thì thật sự là ông đã mâu thuẫn với chính mình. Tóm lại, không thể có chủ nghĩa hậu hiện đại, theo tinh thần hậu hiện đại của JF Lyotard, một tinh thần tự do, đòi hỏi sự phá vỡ các chủ thuyết, các siêu văn bản.
IV- Phê bình lý thuyết của Lyotard.
Mặc dầu lập luận của J.F. Lyotard, như trên chúng tôi đã trình bày, rất chặt chẽ và khoa học. Và trong khi biện luận, ông đã làm sáng tỏ nhiều mối tương quan giữa ngôn ngữ và khoa học. Nhưng cuốn Điều kiện hậu hiện đại vẫn không đưa ra được điều gì thật sự mới. Ông chỉ phát triển lại tư tưởng của Nietzsche:
- Cách đây hơn thế kỷ Nietzsche đã đả kích toàn bộ triết học Tây phương một cách triệt để và có hệ thống, và ông sử dụng đoản ngôn thần tình như Trang Tử. Nietzsche đánh đổ các học thuyết lớn như triết học Socrate, triết học Hegel, ông buộc tội Socrate tiêu hủy bi tráng kịch (tragédie) và áp đặt logique toán học trong biện chứng, bóp chết thi ca và nghệ thuật chân chính. Có lẽ vì thế sau này các nhà "hậu hiện đại " đã kéo Nietzche vào danh sách các "tác gia hậu hiện đại" chăng?
- Việc lên án sự áp đặt của thẩm quyền khoa học trên truyện cổ tích dân gian của Lyotard có phần cường điệu: Thực tế không đến nỗi bi quan như thế, khoa học và văn chương vẫn "sống chung" trong những điều kiện tương đối tốt, bởi không ai có thể bỏ qua các phương pháp nghiên cứu khoa học khi tìm hiểu những nền văn hoá xưa và nay xuyên qua văn bản, cũng như các nhà khoa học đích thực chưa bao giờ lấy quyền phủ quyết để giám định cái đúng, cái sai trong văn học.
- Những nhận định của Lyotard về tác hại của xã hội vi tính hóa đối với tri thức mặc dù có những điểm đúng, nhưng toàn bộ lập luận không tránh khỏi phiến diện. Bốn mươi năm sau khi lý thuyết của ông ra đời, người ta lại càng thấy cái nhìn hạn hẹp của cha đẻ thuyết hậu hiện đại: ông đã phê bình gắt gao xã hội vi tính hóa vì ông chỉ nhìn thấy những cái dở mà không ghi nhận được những lợi ích của tin học đối với văn chương, văn hóa nói riêng và tri thức nói chung. Người đọc không khỏi ngạc nhiên, trước thái độ tụt hậu của Lyotard đối với tiến bộ "hậu hiện đại nhất" của loài người trong thế kỷ XX: sự vi tính hóa xã hội.
- Sự kết án khoa học, dẫn ông đến thái độ hoài nghi và loại trừ những phương pháp khoa học; đến đề nghị bác bỏ sự phân biệt đúng, sai; đến việc biện hộ chongộ luận, cho quyền nói sai, tất cả đều rất logique; nhưng liệu có thể ngộ luậnvới những điều sai thật được không? Chính ở điểm này mà lập luận của ông thường được những kẻ ngụy biện sử dụng như một lợi khí bênh vực sự ngụy biện.
- Điểm mâu thuẫn nhất của Lyotard là để đánh đổ những cái mà ông gọi là hệ thống tư biện trong các siêu văn bản, ông lại dùng chính các biện chứng trong siêu văn bản như phương pháp luận của Descartes, hiện tượng luận của Husserl, bản thể luận của Heidegger, triết ngữ học của Wittgenstein, cấu trúc luận của Lévi-Strauss v.v... để lập luận. Chính thuyết của J.F. Lyotard về hậu hiện đại cũng là một thứ "siêu văn bản" đẻ ra từ những siêu văn bản mà ông đã hấp thụ được. Trước ông, người ta đã từng dùng Hegel để đánh đổ Hegel, dùng Karl Marx để đánh đổ Karl Marx, nhưng vẫn không ai bỏ được cả Hegel lẫn Karl Marx trong các phương pháp luận.
- Bất đồng là cuốn sách duy nhất của Lyotard được lưu lại trong từ điển văn học Pháp. Sự phân tích bản thể ngôn ngữ, phát hiện tính bất đồng trong nội dung ngôn ngữ của ông rất đáng nể; nhưng phần đặc ngôn không có gì mới. Trước ông một chút, Cioran đã viết đoản ngôn và viết hay hơn ông nhiều. Bởiđặc ngôn chỉ là đoản ngôn được Lyotard giới thiệu trong cái tên mới, như một nhãn hiệu hậu hiện đại tân kỳ, nhưng thực ra nó là thể văn xưa nhất trên trái đất và không ngừng hiện hữu qua các thời đại đến ngày nay. Lời Thích Ca trong kinh Phật, lời Khổng Tử trong Luận Ngữ, Trung Dung... lời Lão Tử trong Đạo Đức Kinh... hoặc lời Thalès, Anaximène, Héraclide... đều là những đoản ngôn. Cách nói: sắc tức thị không, không tức thị sắc tương truyền của đức Phật, hoặc"không ai tắm hai lần trong một dòng sông" của Héraclide, tiêu biểu cho tính chất nghịch lý hay bất đồng trong nội dung đoản ngôn, trong ngôn ngữ, đồng thời thể hiện tính âm dương trong đời sống. Thể đoản ngôn có những kiệt tác trong văn chương nhân loại qua nhiều thời đại, từ Lão Tử, Trang Tử... đến Pascal, Novalis, Nietszche...
Rút cục, điểm sáng giá nhất trong lý thuyết của Lyotard là ông đã phân tích và chứng minh tính bất đồng trong bản chất ngôn ngữ. Nhưng đề nghị của ông về những cuốn "sách" tương lai, có phần không tưởng và mâu thuẫn với lý thuyết của ông:
1- Khi đề nghị bất cứ một mẫu mực "sách", mẫu mực "lý thuyết" hay "văn chương" nào, là "hậu hiện đại" sẽ hết hậu hiện đại, bởi nó đi ngược với "điều kiện" hậu hiện đại mà cha đẻ nó đặt ra: từ chối những mẫu mực có sẵn.
2- Trình bày đặc ngôn như cách viết của tương lai (của các vi văn bản, tiểu văn bản) tức là ưu tiên một thể loại văn bản, cũng lại là đi ngược với "điều kiện hậu hiện đại" vì đã giới hạn các "trò chơi ngôn ngữ" trong một thể loại.
3- Lập thuyết đánh đổ siêu văn bản của Lyotard, với chủ đích khuyến khích con người nên can đảm bước qua cái cũ, để khai phá cái mới, đôi khi bị ngộ nhận. Nhiều người hiểu hậu hiện đại chủ trương xóa bỏ tất cả những gì đã có từ trước để lập nên một "chủ nghĩa phi nền tảng". Những nhà văn "hậu hiện đại" đôi khi tự coi mình mọc lên từ một vùng đất đã được quét sạch mọi tàn tích của truyền thống và hiện đại; họ tưởng với hai bàn tay trắng họ có thể sáng tạo ra những tác phẩm "hậu hiện đại" hoàn toàn mới lạ, không dính líu gì với những trào lưu văn học và tư tưởng trước họ. Ngộ nhận này, một mặt, gây hoang mang trong tinh thần người sáng tác, cho họ mặc cảm lỗi thời, tụt hậu, không còn hồn nhiên viết theo cảm nghĩ riêng của mình; một mặt khác, đưa đến sự tin tưởng khá ngây thơ là văn hóa có thể mọc lên từ một khoảng trống, người ta có thể sáng tác từ chỗ không cần biết những gì đã có trước, có thể "Polpot-hoá" văn chương, xoá sạch, để đi lại từ đầu. Nhưng văn chương cũng như con người, nếu đã trải qua nạn diệt chủng thì phải lâu lắm mới gầy dựng lại được.
4- Biện chứng "ngộ luận" mà Lyotard đưa ra để bênh vực những cái được gọi là "sai" cũng có quyền hiện diện, thực ra là một tư tưởng bao dung, bênh vực cái yếu, đòi quyền bình đẳng giữa những cái lớn, cái nhỏ, giữa siêu văn bản và vi văn bản; một ý niệm nhân bản, đòi quyền "sống" cho kẻ bị đán áp, cho những điều không thể thổ lộ được, chứng minh được, như trường hợp những người đã chết trong lò thiêu, không thể "nói" lên được tội diệt chủng của Đức quốc xã. Và một luận điểm khác của Lyotard về bản chất ngôn ngữ: chẳng có cách kết hợp ngôn ngữ nào "có sẵn", mà mọi kết hợp đều do ngẫu nhiên: người nói, người viết đi từ cái ngẫu nhiên, cái "không luật" để đặt ra "luật chơi" của mình. Nhưng điều đáng tiếc là hai biện chứng ngộ luận và không luật này của J.F. Lyotard nhiều khi được kết hợp và diễn giải một cách khá tùy tiện, đưa đến những luận điểm đại loại như: hậu hiện đại chủ trương không còn đúng, sai, muốn viết thế nào thì viết, không ai có thể đưa ra một mẫu mực gì về văn chương nghệ thuật để đánh giá các tác phẩm "hậu hiện đại".
Sau cùng, còn một hiện tượng nữa: Lyotard lấy đặc ngôn (đoản ngôn xưa nay được dùng để diễn tả những mẩu tư tưởng ngắn gọn, cô đọng và là nền tảng của tiểu luận) làm thể văn tiêu biểu cho các tiểu văn bản thời hậu hiện đại. Nhưng khi đến tay giới cầm bút Việt nam, không hiểu tại sao "đặc ngôn" của ông lại trở thành "truyện thật ngắn". Những nơi trên mạng cỗ vũ cho những sáng tác mới lạ tân kỳ, người ta thường in nhan nhản những "truyện thật ngắn" được xem như kiểu sáng tác "hậu hiện đại" nhất, có "truyện" chỉ dài một, hai câu. Đây là trường hợp ngộ nhận đáng buồn nhất. Có lẽ vì không đọc kỹ Lyotard hoặc vì thiếu kiến thức văn học và ngoại ngữ cho nên người ta đã hiểu nhầm chữ récitcủa ông: nhiều nơi dịch récit là tự sự (tự sự theo từ điển Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ là công việc kể ra có trước có sau) vậy tự sự là truyện, và từ đó cấp chopetit récit (tiểu văn bản, vi văn bản) cái tên là truyện thật ngắn. Nếu đọc qua tậpBất đồng thì sẽ hiểu ngay những đoản văn này không phải là truyện. Lý do dễ hiểu: không ai có thể viết "truyện" với mấy câu.
Những hiện tượng này cho thấy một lý thuyết dù với lập luận chặt chẽ, nhưng nếu bị ngộ nhận, suy diễn và sử dụng một cách vội vàng, có thể đưa đến những hậu quả không lường được, đồng thời cũng gián tiếp trả lời câu hỏi: Tại sao lý thuyết hậu hiện đại của Lyotard lại không phát triển được ở Pháp.
Hiển nhiên là giới làm văn học Pháp có nhiều kinh nghiệm với những lý thuyết mới, những phong trào thời thượng, cho nên họ nhậy cảm hơn, họ phân biệt rõ những gì có giá trị lâu dài và những gì có tính cách giai đoạn.
Đây cũng là bài học thiết yếu cho chúng ta khi tiếp cận với những cái gọi là "mới " của thế giới bên ngoài.
Thụy Khuê
Paris tháng 2-8/2003
Đọc lại, sửa chữa và bổ sung tháng 2/2008.
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét