Nguồn: Joschka Fischer, “Goodbye to the West,” Project Syndicate, 05/12/2016.
Biên dịch: Trần Văn Thắng | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng
Giờ đây khi Donald Trump đã được bầu làm Tổng thống Hoa Kỳ, sự kết thúc của những gì mà trước đây được gọi là “phương Tây” đã trở nên gần như chắc chắn. Thuật ngữ đó miêu tả một thế giới xuyên Đại Tây Dương nổi lên từ sau hai cuộc thế chiến trong thế kỷ 20, xác định lại trật tự quốc tế trong suốt bốn thập niên Chiến tranh Lạnh, và thống trị toàn cầu – cho đến bây giờ.
Không nên nhầm lẫn “phương Tây” (“the West”) với “bán cầu Tây” (“Occident”). Trong khi văn hóa, tập quán, và tôn giáo chủ đạo của phương Tây nói chung có nguồn gốc bán cầu Tây, nó đã phát triển thành một thứ khác biệt theo thời gian. Đặc điểm cơ bản của bán cầu Tây hình thành qua nhiều thế kỷ ở vùng Địa Trung Hải (dù các vùng châu Âu về phía Bắc dãy Alps có nhiều đóng góp quan trọng vào sự phát triển của nó). Ngược lại, phương Tây thì xuyên Đại Tây Dương, và nó là một đứa con của thế kỷ 20.
Khi mới bắt đầu, Thế chiến I là một cuộc xung đột giữa phe Liên minh Trung tâm (ban đầu gồm Đế quốc Đức, Đế quốc Áo-Hung, và Ý) và phe Hiệp ước gồm Anh, Pháp, và Nga. Mãi tới năm 1917 nó mới trở thành một cuộc thế chiến thực sự, khi Hoa Kỳ bước vào cuộc chiến. Đây là thời điểm mà cái mà chúng ta gọi là phương Tây ngày nay bắt đầu hình thành.
Có thể nói phương Tây đã nhận được giấy khai sinh của mình trong Thế chiến II. Tháng 8 năm 1941, sau khi Đức Quốc xã xâm lược Liên Xô, Thủ tướng Anh Winston Churchill và Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt đã gặp nhau trên một chiến hạm ngoài khơi Newfoundland và ký Hiến chương Đại Tây Dương. Thỏa thuận này sau đó phát triển thành NATO, tổ chức trong bốn thập niên đã kích hoạt một liên minh gồm các nền dân chủ độc lập với các giá trị chung và các nền kinh tế thị trường để chống lại mối đe dọa từ Liên Xô – và bảo vệ châu Âu cho đến ngày nay.
Nói một cách cơ bản hơn, phương Tây được thành lập dựa trên một cam kết của Mỹ trong việc bảo vệ các đồng minh của mình. Trật tự phương Tây không thể tồn tại nếu Mỹ không đóng vai trò rất quan trọng này, điều mà giờ đây Mỹ có thể sẽ từ bỏ dưới thời của Trump. Kết quả là tương lai của bản thân phương Tây giờ đang bị đe dọa.
Không ai có thể chắc chắn về ý nghĩa của việc Trump đắc cử đối với nền dân chủ Mỹ, hoặc những việc ông sẽ làm khi nhậm chức. Nhưng chúng ta có thể đưa ra hai giả định hợp lý. Thứ nhất, nhiệm kỳ tổng thống của ông sẽ gây nhiều rối loạn cho chính sách đối nội và đối ngoại của Mỹ. Trump thắng cử bằng cách coi thường gần như mọi quy tắc bất thành văn của nền chính trị Mỹ. Ông đánh bại không chỉ Hillary Clinton, mà còn cả giới chính thống của Đảng Cộng hòa. Có rất ít lý do để cho rằng ông sẽ đột nhiên từ bỏ chiến lược giành chiến thắng này vào ngày 20 tháng 1 tới.
Chúng ta cũng có thể giả định một cách an toàn rằng Trump sẽ bám sát các cam kết “Làm nước Mỹ vĩ đại trở lại” của mình; điều này sẽ là nền tảng cho nhiệm kỳ tổng thống của ông dù có chuyện gì xảy ra. Cựu Tổng thống Ronald Reagan cũng hứa hẹn điều này, nhưng đó là trong khi Mỹ do vẫn tham gia vào cuộc Chiến tranh Lạnh nên có thể có một cách tiếp cận kiểu đế quốc. Do vậy, Reagan đã theo đuổi tái vũ trang trên quy mô lớn đến mức nó cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô; và ông đã mở đường cho nền kinh tế Mỹ bùng nổ với sự gia tăng lớn về nợ quốc gia.
Trump không có sự xa xỉ của một cách tiếp cận đế quốc. Ngược lại, trong thời gian tranh cử, ông đã chất đầy chỉ trích về cuộc chiến tranh vô nghĩa của Mỹ ở Trung Đông; và những người ủng hộ ông không muốn gì hơn việc Mỹ từ bỏ vai trò lãnh đạo toàn cầu của mình và rút lui khỏi thế giới. Một nước Mỹ hướng về phía chủ nghĩa dân tộc biệt lập sẽ vẫn là quốc gia hùng mạnh nhất trên thế giới với một khoảng cách lớn so với các nước đứng sau; nhưng nó sẽ không còn đảm bảo an ninh của các quốc gia phương Tây hoặc bảo vệ một trật tự quốc tế dựa trên thương mại tự do và toàn cầu hóa.
Câu hỏi duy nhất còn lại liên quan tới việc chính sách của Mỹ sẽ thay đổi nhanh và triệt để như thế nào. Trump đã cam kết sẽ từ bỏ Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương gồm 12 nước – một quyết định có ý nghĩa như một món quà cho Trung Quốc, cho dù ông có nhận ra điều đó hay không. Ông cũng có thể ban cho Trung Quốc một món quà nữa: giảm bớt sự can dự của Mỹ ở Biển Đông. Trung Quốc có thể sẽ sớm nhận ra mình là người bảo lãnh mới của thương mại tự do toàn cầu – và có lẽ còn là nhà lãnh đạo toàn cầu mới trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu.
Về cuộc chiến ở Syria, ông Trump có thể chỉ đơn giản là trao đất nước bị tàn phá ấy cho Tổng thống Nga Vladimir Putin và Iran. Thực tế mà nói, điều này sẽ đảo ngược cán cân quyền lực ở Trung Đông, với những hệ quả nghiêm trọng vượt ra ngoài khu vực; về mặt đạo đức, nó sẽ là sự phản bội độc ác đối với phe đối lập Syria và là mối lợi cho Tổng thống Syria Bashar al-Assad.
Và nếu Trump hòa hoãn với Putin ở Trung Đông, người ta tự hỏi ông sẽ làm gì với Ukraine, Đông Âu, và Caucasus. Chúng ta có nên mong đợi một Hội nghị Yalta 2.0 để công nhận khu vực ảnh hưởng mới trên thực tế của Putin?
Con đường mới mà Trump sẽ vạch ra cho nước Mỹ đã có thể nhận thấy rõ; chúng ta chỉ không biết con tàu này sẽ chạy nhanh như thế nào. Có rất nhiều điều sẽ phụ thuộc vào phe đối lập (trong đảng Dân chủ cũng như trong đảng Cộng hòa) mà Trump gặp phải trong Quốc hội Mỹ, và dựa vào sự phản đối của đa số người Mỹ, những người đã không bỏ phiếu cho ông.
Nhưng chúng ta không nên nuôi dưỡng bất cứ ảo tưởng nào: châu Âu quá yếu đuối và chia rẽ để có thể gánh vác thay cho Mỹ về mặt chiến lược; và nếu không có sự lãnh đạo của Mỹ thì phương Tây sẽ không thể tồn tại. Do vậy, thế giới phương Tây như hầu hết mọi người sống đến ngày nay biết đến gần như chắc chắn sẽ lụi tàn trước mắt chúng ta.
Vậy điều gì xảy ra tiếp theo? Chúng ta có thể chắc chắn Trung Quốc đang chuẩn bị xỏ chân vào chiếc giày của Mỹ. Và ở châu Âu, những hầm mộ của chủ nghĩa dân tộc đã được mở ra; chẳng mấy chốc nữa chúng sẽ một lần nữa giải phóng những con quỷ của mình ra khắp lục địa – và thế giới.
Joschka Fischer là Ngoại trưởng và Phó Thủ tướng Đức từ năm 1998 đến năm 2005, một nhiệm kỳ được đánh dấu bởi việc Đức ủng hộ mạnh mẽ sự can thiệp của NATO vào Kosovo năm 1999, theo sau là phản đối cuộc chiến ở Iraq. Fischer bước vào nền chính trị dân cử sau khi tham gia các cuộc biểu tình kháng chính thống trong những năm 1960 và những năm 1970, và đóng vai trò chủ chốt trong việc thành lập Đảng Xanh của Đức mà ông dẫn dắt trong gần hai thập niên.
Copyright: Project Syndicate 2016 – Goodbye to the West
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét