Đại tá TB Nguyễn Tài: .
"Đại tá" an ninh Nguyễn Tài và cuộc đối mặt với CIA
Thứ tư , 28 / 5 / 2008
Giữa năm 2002, ông Nguyễn Tài được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Trước kia, tôi đã nghe nói nhiều về ông. Và thật sự những câu chuyện ấy phảng phất tính huyền thoại...
|
Năm 1958, khi mới 32 tuổi, ông đã giữ một chức vụ vô cùng quan trọng trong ngành Công an Việt Nam: Cục trưởng Cục bảo vệ chính trị. Cái tên này đối với người dân thật mơ hồ, nhưng công việc của những con người ở cơ quan này, cũng theo sự hiểu biết mơ hồ của tôi, là đập tan mọi hoạt động mang tính bí mật của các thế lực nhằm chống lại Nhà nước xã hội chủ nghĩa. 32 tuổi mà ông đã được giao một trọng trách lớn lao như vậy. Ngẫm lại, tôi thấy xấu hổ cho thế hệ chúng tôi bây giờ đã lấp lửng 50 vẫn bị coi như một đám con nít. Năm 1964, ông xung phong vào chiến trường miền Nam. Việc đi chiến trường của ông được người ta kể lại như một huyền thoại rằng chính Bác Hồ đã gặp ông trước khi đi và Bác Hồ gửi một bức điện vào chiến trường miền Nam với nội dung: Chú Nguyễn Tài là tài sản quí của Đảng, mọi người phải bảo vệ chú ấy. Khi nghe chuyện này, ông cười vẻ ngượng ngùng và bảo đấy là chuyện người ta thêu dệt. Chỉ có đồng chí Lê Duẩn gặp ông tại nhà riêng vào một buổi tối và nói với ông về cách mạng miền Nam và sẽ làm gì khi ta giải phóng. Ông nhắc lại là việc đi chiến trường là do ông xung phong. Hồi đó, ông là cán bộ miền Bắc có chức cao nhất trong ngành Công an đi chiến trường.
Ông Nguyễn Tài là con trai nhà văn nổi tiếng Nguyễn Công Hoan. Nhưng ông không theo nghiệp người cha. Có người bảo ông là một cán bộ an ninh bẩm sinh. Ông hoàn toàn không đồng ý nhận xét này. Ông bảo chẳng ai sinh ra lại được trời phú cho nghề an ninh. Hồi Cách mạng tháng Tám, ông được Đại tướng Võ Nguyên Giáp giao cho làm báo Nước Nam mới. Nhưng hình như ông chẳng mặn mà với nghề chữ nghĩa này cho lắm. Sau Cách mạng tháng Tám, cấp trên phân công ông làm công tác trong ngành Công an, ông đã lưỡng lự. Ông nói ông không thích nghề này vì nhiều người trong gia đình ông trước đó bị mật thám Pháp bắt bớ. Nhưng cấp trên nói với ông là công an cách mạng chỉ vì dân vì nước. Và thế là ông chấp thuận. Khi tiếp xúc với ông tôi thấy nghề văn có lẽ không hợp với ông thật. Ông là một người rất nguyên tắc, rất chính xác và kìm giữ được cảm xúc. Trong lúc trò chuyện với ông, mặc dù có những điều tôi hỏi và những cách tôi hỏi rất dễ đưa người khác vào trạng thái cảm hứng hưng phấn để có thể nói ào ào mọi chuyện rồi sau đó thần người ra: Ồ, mình có nói thế à? Nhưng với ông thì khác. Ông nói chuyện với một giọng đều đều, không dễ dãi cũng không khắt khe, không hồ hởi cũng không dửng dưng. Có lẽ phẩm chất này đã giúp ông đi qua được những cuộc hỏi cung triền miên hơn bốn năm trong phòng biệt giam của Trung ương tình báo Ngụy ở Số 3 Bạch Đằng.
Tôi hỏi ông vì lý do gì mà Frank Snepp lại nói như vậy khi nhà văn Nguyễn Công Hoan là nhà văn cách mạng nổi tiếng, người đã chiến đấu không mệt mỏi bằng ngòi bút của mình cho những người lao động. Ông trả lời đó là sự xuyên tạc. Ông nói sự thật cha ông như thế nào thì mọi người đều biết. Trong một số cuộc hỏi cung ở Số 3 Bạch Đằng, Frank có đề cập đến cuốn Đống rác cũ và nói tại sao ông Tố Hữu lại phê phán cuốn ấy ghê thế để kích động và phân hoá ông. Những Frank nói riêng và CIA nói chung đã thất bại.
Nhớ lại những câu chuyện đó, ông bảo có lẽ số ông không dễ chết. Ông kể năm 1948, khi ông đang nghe điện thoại thì bị sét đánh. Mọi người nhìn thấy người ông sáng xanh. Vậy mà ông vẫn nguyên lành. Kể xong ông cười mỉm và nói vì có cái dây dẫn chôn xuống đất nên sét không đánh chết ông.
Ông Nguyễn Tài bị bắt ngày 23 tháng 12 năm 1970 trên đường đi công tác. Nhiều người sau đó nghi ông Bảy Sết, người lái chiếc ghe chở ông Nguyễn Tài đi công tác, đã phản bội, chỉ điểm cho địch bắt ông. Sau giải phóng, ông đã tìm gặp Bảy Sết, minh oan cho Bảy Sết và đề nghị chính quyền làm chế độ hưu cho Bảy Sết. Khi bị bắt, ông đã khai mình là Nguyễn Văn Hợp, đại uý thuộc Cục nghiên cứu miền Bắc. Ông được đưa vào miền Nam để xã hội hoá và chờ khi chiến tranh kết thúc sẽ đi Pháp để hoạt động lâu dài.
Nhưng rồi CIA Mỹ đã lần ra lý lịch thật của ông. CIA đã phát hiện ra ông là con trai nhà văn Nguyễn Công Hoan, biết ông làm Cục trưởng Cục bảo vệ chính trị (có thể nói đó là Cục quan trọng nhất của Bộ Công an). Biết ông đã từng đi công tác nước ngoài với Bác Hồ. Chúng đã đưa cho ông xem một bức ảnh chụp Bác Hồ đi thăm đền Borubodour ở Indonesia. Đứng sau Bác Hồ có một người trẻ đeo kính đen, đó là ông Nguyễn Tài. Và chúng biết những chức vụ ông nắm giữ trong thời gian Sài Gòn Gia Định. Chúng biết cả ông Lê Văn Lương (tên thật là Nguyễn Công Miều) là chú ruột ông. Việc CIA biết khá rõ về ông là vì công tác hồ sơ của CIA rất khoa học và một số cán bộ cấp dưới của ông đã đầu hàng và phản bội cách mạng. Lúc đầu chúng hỏi ông có thích đọc tiểu thuyết tiền chiến không? Rồi hỏi ông có đọc văn Nguyễn Công Hoan không, và đưa cho ông mượn cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đạicủa Vũ Ngọc Phan trong đó có in ảnh cha ông để thăm dò phản ứng của ông. Nhưng là một cán bộ an ninh nhà nghề, những trò chơi nghiệp vụ như vậy đối với Cục trưởng Nguyễn Tài quả là một trò chơi xoàng.
Trong bài phỏng vấn Frank Snepp, nhân viên CIA đã từng hỏi cung ông, đăng trên báo L" Express sau ngày miền Nam giải phóng, Frank Snepp nói: "Vì ông ta (Nguyễn Tài) không chịu nổi sự lạnh lùng cho nên người ta đã tống ông ta vào một xà lim của bộ máy của những người có thế lực để thổi một luồng không khí lạnh vào trong đó, nhưng ông ta không chịu khuất phục. Tôi đã phát hiện ra một điểm yếu khác trong ông. Trong những năm 50, ông đã muốn chứng tỏ lòng trung thành của mình với cấp trên bằng cách từ bỏ cha đẻ của ông, một nhà văn Việt Nam tên tuổi không tin vào chủ nghĩa Cộng sản. Khi mà ta hiểu rõ sự tôn kính gia đình trong con người Việt Nam, ta mới mường tượng ra vết thương lòng đau đớn này… có thể nói rằng ông ta đã không làm trọn đạo lý. Và vết thương này có thể đã làm thay đổi con người ông ta".
|
Những cuối cùng chúng nói thẳng với ông rằng ông là đại tá Nguyễn Tài, biệt danh Tư Trọng, Cục trưởng Cục bảo vệ chính trị Bộ Công an Bắc Việt. Khi nói chuyện với tôi, ông Nguyễn Tài nói chuyện ông mang hàm đại tá là do CIA gán ghép cho ông vì hồi đó lực lượng an ninh chưa có hàm mà chỉ có lực lượng cảnh sát thôi. Thời gian đó, CIA hứa với ông nếu ông xác nhận đầy đủ về bản thân mình thì chúng sẽ cấp cho ông 20 triệu và một biệt thự ở Thụy Sỹ để ông sang đó sinh sống nếu ông không muốn trở về miền Bắc.
Sau này vì một số lý do, ông đã thừa nhận mình là đại tá Tư Trọng, phục vụ trong Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Tháng 11 năm 1971, ông Trần Bạch Đằng thừa lệnh cấp trên viêt một lá thư nhân danh Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đặt vấn đề với phía Mỹ trong việc trao đổi ông Nguyễn Tài với một tù binh là sỹ quan tình báo Mỹ trước khi ký kết Hiệp định Paris. Bức thư này được giao cho một Trung sỹ Mỹ bị ta bắt, được phóng thích mang về Sài Gòn.
Trong cuốn Hồi ký nhan đề Decent interval của Frank Snepp thì giữa Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và CIA đã bí mật dàn xếp một cuộc trao đổi tù binh đặc biệt vào cuối năm 1971. Frank viết: "Nguyễn Tài, người mà họ đã từng coi là quá quan trọng để đáng đổi lấy Ramsey năm 1971, nay phải thấy là cái tài sản hấp dẫn nhất nằm trong tay Sài Gòn, như họ đã từng rêu rao như thế… để không ai còn có thể chống lại cái quyết định trước đây tức là không đem người này (Nguyễn Tài) ra đổi lấy một sỹ quan ngoại vụ". Sau này, cố Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn nói với ông làm thế là một hình thức ngăn cản Mỹ Ngụy có thể thủ tiêu ông. Vì lúc đó, việc trao đổi tù binh khó có thể thực hiện được. Và sau hơn bốn năm trong phòng biệt giam chịu đủ đòn tra tấn thể xác cũng như tinh thần, tình báo Ngụy và CIA đã không thể nào khuất phục được ông.
Trong cuốn hồi ký nhan đề Decent interval của Frank Snepp có đoạn: "Ngay trước khi xe tăng Bắc Việt Nam tràn vào Sài Gòn, một quan chức cao cấp của CIA đã gợi ý với nhà chức trách Sài Gòn là tiện nhất là y biến mất. Bởi vì Tài là một tay khủng bố có kinh nghiệm, nên khó có thể mong đợi y là một người thắng trận rộng lượng. Người Nam Việt Nam đồng ý. Tài bị đưa lên một máy bay và ném xuống biển Nam Hải từ độ cao mười ngàn bộ. Đến đây, thì ông ta đã trải qua hơn bốn năm bị biệt giam trong một phòng sơn trắng toát, và cũng chưa khi nào xác nhận một cách đầy đủ mình là ai cả". Đấy là kế hoạch thủ tiêu ông mà CIA đã bàn với chính quyền Sài Gòn. Frank nghĩ ông đã chết mất tích trên biển. Nhưng kế hoạch thủ tiêu ông đã không thực hiện được vì lúc đó Sài Gòn đã hoàn toàn rối loạn trước sự tấn công như vũ bão của quân đội ta. Lúc đó Sài Gòn không đủ bình tĩnh và thời gian để đưa ông lên một chiếc trực thăng bay ra biển Đông để thủ tiêu ông. Sau này khi biết được kế hoạch CIA nhằm thủ tiêu ông thì ông nhớ lại bữa cơm ngày 26 tháng 4 năm 1975. Khi ông bưng bát canh dưa lên, thấy có mùi lạ, ông đã bỏ bữa cơm vì sợ bệnh đường ruột. Có lẽ do tình cờ vậy mà ông đã thoát chết chăng?
image: http://s3.60s.com.vn/image/52008/28/VIETTIMES_121414804.jpg |
Đồng chí Nguyễn Tài và vợ chụp ảnh kỷ niệm trước phòng giam ở số 3 đường Bạch Đằng
|
Nhớ lại những câu chuyện đó, ông bảo có lẽ số ông không dễ chết. Ông kể năm 1948, khi ông đang nghe điện thoại thì bị sét đánh. Mọi người nhìn thấy người ông sáng xanh. Vậy mà ông vẫn nguyên lành. Kể xong ông cười mỉm và nói vì có cái dây dẫn chôn xuống đất nên sét không đánh chết ông.
Sau khi ra khỏi tù, ông trở về tiếp tục công tác tại Bộ Công an với chức vụ Thứ trưởng. Và rồi ông bị đình chỉ công tác vì có một tài liệu nào đó nói ông đã bị CIA sử dụng cùng với những đoạn lập lờ thiếu lôgíc trong cuốn Hồi ký của Frank Snepp. Đứng về nguyên tắc tổ chức thì việc ông không được công tác ở Bộ Công an là đúng. Nhiệm vụ của tổ chức là phải xác minh nguồn tin này. Tổ chức không thể để một Thứ trưởng Bộ Công an đang có nghi vấn bị CIA sử dụng làm việc. Sau đó ông được điều về công tác tại Ủy ban Pháp luật Nhà nước, rồi làm Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan… và về hưu năm 1992.
Sau chiến tranh, trường hợp hư hư thực thực của một số cán bộ bị địch bắt như ông không phải hiếm. Nhưng với ông, tôi nghĩ là một trường hợp đặc biệt vì chức vụ cực kỳ quan trọng mà ông đang giữ lúc bấy giờ. CIA cũng như nhiều cơ quan tình báo nào đó cũng có những trò chơi nghiệp vụ của họ. Nếu họ không sử dụng được một nhân vật quan trọng nào đó thì họ tìm cách vô hiệu hoá nhân vật đó.
Nhưng ông đã không hề khủng hoảng tinh thần, vẫn với tính cách và bản lĩnh của mình, ông bình tĩnh và bền bỉ bảo vệ nhân cách trong sáng và sự trung thành với dân tộc của ông trong những năm tháng biệt giam. Chính vì thế mà năm 2002, cố vấn Võ Văn Kiệt đã đề nghị với Nhà nước phong tặng ông danh hiệu Anh hùng LLVTND với hai lý do: Trung kiên bảo vệ Cách mạng trong nhà tù Mỹ - Ngụy và dũng cảm bảo vệ nhân cách trong sáng của một đảng viên trước nhân dân.
Tôi hỏi ông rằng ông đã hoàn toàn thanh thản khi được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng chưa? Giọng ông vẫn đều đều, nhưng phảng phất buồn: Tôi thấy còn nhiều người xứng đáng hơn tôi nhiều, nhưng chưa được phong tặng danh hiệu Anh hùng vì thủ tục của chúng ta rườm rà quá./.
Hà Hoàng (Vietimes)
Hà Hoàng (Vietimes)
Nguyễn Tài - người thủ trưởng kiên trung của lực lượng An ninh Sài Gòn - Gia Định
Thứ năm, 02/04/2015 14:21
(CATP) Đồng chí Nguyễn Tài tên thật là Nguyễn Tài Đông, bí danh Tư Trọng, Tư Duy, Ba Sáng, sinh ngày 11-12-1926, quê làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
Ông Nguyễn Tài (ảnh chụp cuối năm 1970)
Đồng chí sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước và cách mạng (cha là nhà văn Nguyễn Công Hoan, đảng viên; chú là Nguyễn Công Miều (tức Lê Văn Lương), ủy viên Bộ Chính trị; chú là Nguyễn Công Bông bị đày lên Sơn La; anh ruột là Nguyễn Tài Khoái hy sinh năm 1947...). “Trong kháng chiến chống Pháp, gia đình có 6 người hy sinh”(1). Do đó, ông Tài tham gia cách mạng khá sớm, gia nhập Đoàn thanh niên cứu quốc năm 18 tuổi, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 3-1945.
Tháng 9-1945, ông bắt đầu công tác trong ngành an ninh.
Trong kháng chiến chống Pháp, ông là Trưởng ty Công an Hà Nội, rồi Giám đốc Sở Công an đặc khu Hà Nội.
Tháng 9-1958, ông là Cục trưởng Cục bảo vệ chính trị (Bộ Công an).
Theo nguyện vọng của ông, ngày 21-3-1964 ông được Trung ương cử vào miền Nam trực tiếp chiến đấu, “là người có cấp cao nhất trong ngành công an từ trước đến lúc đó đi Nam”(1).
Tại miền Nam, ông trở thành ủy viên Ban An ninh của Trung ương cục miền Nam, trực tiếp làm phó (1965), rồi trưởng (1966) Ban An ninh khu Sài Gòn - Gia Định, ủy viên, rồi ủy viên thường vụ Thành ủy. Trong các cương vị đó, ông đã có công rất lớn trong việc xây dựng và phát triển Ban An ninh khu Sài Gòn - Gia Định thành một lực lượng vững mạnh, được Nhà nước khen thưởng danh hiệu Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Những cống hiến to lớn của ông cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam đã được nhiều sách báo đề cập đến, nhất là vào dịp ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong tham luận này, theo phân công của Ban tổ chức hội thảo, chúng tôi tập trung giới thiệu cuộc đấu tranh kiên trung của ông trong nhà tù Mỹ - Thiệu.
Ông Nguyễn Tài (bìa phải) với vợ con trước ngày lên đường vào Nam (1964)
TRONG CÁC TRUNG TÂM THẨM VẤN CỦA MỸ - THIỆU (12-1970 - 10-1971)
Ngày 23-12-1970, trên đường đi dự một cuộc họp của Thường vụ Thành ủy Sài Gòn - Gia Định, ông bị bắt trong địa phận tỉnh Bến Tre.
Địch hỏi: theo giấy căn cước, ông tên Nguyễn Văn Lắm, sinh ở Định Thủy, Mỏ Cày, Bến Tre, tại sao nói giọng Bắc? Ông giải thích: cha người Bắc, mẹ người Nam, sinh ở quê mẹ nhưng lớn lên ở quê cha, năm 1954 di cư vào Nam, sống ở Bến Tre.
Địch phát hiện giấy căn cước giả nên đưa ông đi thẩm vấn nhiều nơi: Ban quân báo của Tỉnh đoàn Bảo an Bến Tre, Cảnh sát vùng IV chiến thuật (ở Cần Thơ), Ban Quân báo của Quân đoàn IV (ở Cần Thơ), Ban Quân báo của Sư đoàn 7 (căn cứ Bình Đức, Mỹ Tho).
Về sau, để không ảnh hưởng tới tổ chức và nhân sự của Thành ủy (mà ông là ủy viên thường vụ) và Ban An ninh T4 (mà ông là trưởng ban), ông tạo ra một lý lịch giả, tự nhận là Nguyễn Văn Hợp, đại úy tình báo miền Bắc, mới vào Nam tháng 11-1970 (một tháng trước khi bị bắt), bị bắt trên đường đi Hồng Ngự để được Cục tình báo giao nhiệm vụ cụ thể.
Vì vậy, ngày 7-1-1971, ông bị “đưa lên Sài Gòn để các chuyên viên người Nam Việt Nam và Mỹ ở Trung tâm thẩm vấn quốc gia thuộc Phủ đặc ủy trung ương tình báo Nam Việt Nam thẩm vấn một cách chi tiết”(2). Nguyễn Tri Tông “làm việc ở Phủ đặc ủy trung ương tình báo, từng được CIA huấn luyện thành thẩm vấn viên (...) được lệnh sử dụng trực thăng riêng của đại sứ Bunker dẫn độ [ông] từ trại Đồng Tâm (Mỹ Tho) về Sài Gòn (...) trong một chuyến bay đêm, đem về giam ở Bến Bạch Đằng”(3).
Se Portland viết: “Người [của chính quyền] Nam Việt Nam tra tấn ông hàng tháng trời nhưng vẫn không tìm ra được điều gì thêm về lý lịch của ông”(4).
Merle L.Pribbenow, một chuyên viên CIA, cũng thừa nhận những lời khai của ông “chẳng tiết lộ bất cứ điều gì có thể làm hại đến sự nghiệp của ông ta”(2).
Frank Snepp, một chuyên viên CIA khác, người phụ trách thẩm vấn ông trong suốt 2 năm rưỡi, nhận xét: “Phần lớn những gì ông khai báo chỉ là những thông tin giả của một câu chuyện che giấu được ông dựng lên một cách khéo léo”(5).
Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn (người thứ hai từ trái qua) đến thăm ông Nguyễn Tài (thứ hai từ phải qua) đầu tháng 5-1975
Trong khi trong tù, ông đang thành công trong việc che giấu tung tích của mình thì bên ngoài các đồng chí của ông tìm cách giải thoát ông ra khỏi nhà lao Mỹ - Thiệu.
Lê Thanh Vân (bí danh Ba Tâm, Sáu Ngọc), Phó trưởng ban An ninh T4, gửi thư cho Hai Tân, cán bộ điệp báo trong nội thành Sài Gòn, yêu cầu tìm nơi ông đang bị giam giữ và dùng tiền để ông được tự do “mấy triệu đồng cũng đưa”. Không may, Hai Tân bị bắt cùng với bức thư.
Qua sự cố này, Mỹ - Thiệu rút ra hai nhận định: ông là người của ngành an ninh (chứ không phải của ngành tình báo), là cán bộ quan trọng nên tổ chức của ông sẵn sàng chi một số tiền lớn. Địch không còn tin ở lý lịch “Đại úy tình báo Nguyễn Văn Hợp” nữa. Chúng đưa ông sang trụ sở ban U trên đường Trần Bình Trọng để tra tấn. Pribbenow kể: “Chúng cho điện giật, dùng dùi cui đánh ông, đổ nước vào mũi trong khi nhét giẻ vào miệng (...), cho nước nhỏ từng giọt chầm chậm xuống mũi trong nhiều ngày liên tục, trói ông vào một ghế đẩu nhiều ngày không cho ăn uống, trong khi vẫn hỏi cung suốt ngày đêm(2). Song song với việc dùng nhục hình, chúng sử dụng các thủ đoạn khác để dụ dỗ, lừa phỉnh. Chúng nói với ông: chúng sẽ gửi ông sang Nhật Bản để chữa bệnh; nếu ông không muốn về lại miền Bắc thì chúng sẽ cấp cho ông 20 triệu đồng và một biệt thự ở Thụy Sĩ.
Nguy hiểm hơn, chúng chụp hình ông rồi đưa đến các nhà lao như Tân Hiệp (Biên Hòa), Côn Đảo, Phú Quốc... cho những người tù từng công tác trong ngành an ninh của ta. Một số tên chiêu hồi hay đầu hàng (có người từng làm việc dưới quyền của ông) xác nhận người trong hình là Nguyễn Tài, bí danh Tư Trọng, Trưởng ban An ninh T4, ủy viên thường vụ Thành ủy Sài Gòn - Gia Định. Bọn phản bội được đưa về Sài Gòn để nhận diện ông.
Nhưng theo Pribbenow, bất chấp mọi thủ đoạn của địch, “Tài vẫn giữ nguyên câu chuyện che giấu của ông”(2), chỉ nhận mình là Nguyễn Văn Hợp. Địch lại tiếp tục tra tấn ông.
Tháng 6-1971, chúng trưng thêm hai chứng cứ mới: thư do ông viết vào đầu năm 1970 gửi cho Lê Thanh Vân (mà chúng tịch thu được trong một trận càn vào xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre) và tấm hình ông đi trong phái đoàn của Bác Hồ thăm đền Borobudur (Indonesia).
Địch nói: chúng chỉ cần ông xác nhận lý lịch nhằm thực hiện việc trao đổi ông để nhận lại mấy đại tá tình báo của chúng bị ta bắt giữ.
Đến lúc đó, ông mới nhận những chi tiết mà địch đã biết: “Nguyễn Tài, bí danh Tư Trọng, cấp bậc đại tá, đang phục vụ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam”(1). Thật ra, vào thời điểm đó, cán bộ an ninh của ta chưa có quân hàm, cấp bậc đại tá là do địch gán cho ông, ông nhận một điều không đúng sự thật nhằm buộc địch công nhận ông là tù binh.
Vẫn theo Pribbenow, chúng đòi “ông cung cấp thêm chi tiết về tiểu sử và quá trình hoạt động của ông. Ông từ chối và chúng tiếp tục tra tấn”(2). Ngoài các biện pháp nhục hình cũ, chúng dùng nhiều thủ đoạn mới độc hại hơn nhằm làm ông kiệt sức, lả người, rơi vào trạng thái mê sảng. Lợi dụng lúc ông không còn làm chủ suy nghĩ, chúng bắt đầu hỏi cung, hy vọng ông có thể lỡ lời tiết lộ bí mật có hại cho tổ chức và đồng đội của ông. Michael Otterman kể: “Bất chấp tra tấn, Tài vẫn im lặng”(6). Về sau, ông nghĩ ra cách đối phó: trả lời tất cả các câu hỏi cung bằng một câu duy nhất: “Quên rồi”.
Chúng càng tra tấn dữ dội hơn, nhưng theo Alfred W.McCoy, “ngay cả như vậy, các thẩm vấn viên [của chính quyền] Nam Việt Nam đã thất bại”(7).
(Còn tiếp)
Tiến sĩ PHAN VĂN HOÀNG
(nguyên cán bộ trinh sát vũ trang An ninh T4)
(1) Nguyễn Tài, Về với cội nguồn, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1977.
(2) Nguyễn Tài, Đối diện với CIA Mỹ, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội, 1999.
(3) Phan Thanh Tâm, Người tù trong phòng giam tuyết trắng, www.gio-o.com/Tet/2014phanthanhtamnguyentai.htm.
(4) Se Portland, The White Cell, báo điện tử Daily Kos (dailykos.com), ngày 27-9-2006.
(5) Frank Snepp, Tortured by the Past, báo điện tử Los Angeles Times (latimes.com), ngày 27-4-2009.
(6) Alfred W. McCoy, Torture and Impunity: The U.S. Doctrine of Coercive Interrogation, University of Wisconsin Press, Madison, 2012.
(7) Alfred W. McCoy, A Question of Torture: CIA Interrogation from the Cold War to the War on Terror, Nxb. Owl Books, New York, 2006.
Tiến sĩ PHAN VĂN HOÀNG
Ông Nguyễn Tài (ảnh chụp cuối năm 1970)
Tháng 9-1945, ông bắt đầu công tác trong ngành an ninh.
Trong kháng chiến chống Pháp, ông là Trưởng ty Công an Hà Nội, rồi Giám đốc Sở Công an đặc khu Hà Nội.
Tháng 9-1958, ông là Cục trưởng Cục bảo vệ chính trị (Bộ Công an).
Theo nguyện vọng của ông, ngày 21-3-1964 ông được Trung ương cử vào miền Nam trực tiếp chiến đấu, “là người có cấp cao nhất trong ngành công an từ trước đến lúc đó đi Nam”(1).
Tại miền Nam, ông trở thành ủy viên Ban An ninh của Trung ương cục miền Nam, trực tiếp làm phó (1965), rồi trưởng (1966) Ban An ninh khu Sài Gòn - Gia Định, ủy viên, rồi ủy viên thường vụ Thành ủy. Trong các cương vị đó, ông đã có công rất lớn trong việc xây dựng và phát triển Ban An ninh khu Sài Gòn - Gia Định thành một lực lượng vững mạnh, được Nhà nước khen thưởng danh hiệu Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Những cống hiến to lớn của ông cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam đã được nhiều sách báo đề cập đến, nhất là vào dịp ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong tham luận này, theo phân công của Ban tổ chức hội thảo, chúng tôi tập trung giới thiệu cuộc đấu tranh kiên trung của ông trong nhà tù Mỹ - Thiệu.
Ông Nguyễn Tài (bìa phải) với vợ con trước ngày lên đường vào Nam (1964)
Ngày 23-12-1970, trên đường đi dự một cuộc họp của Thường vụ Thành ủy Sài Gòn - Gia Định, ông bị bắt trong địa phận tỉnh Bến Tre.
Địch hỏi: theo giấy căn cước, ông tên Nguyễn Văn Lắm, sinh ở Định Thủy, Mỏ Cày, Bến Tre, tại sao nói giọng Bắc? Ông giải thích: cha người Bắc, mẹ người Nam, sinh ở quê mẹ nhưng lớn lên ở quê cha, năm 1954 di cư vào Nam, sống ở Bến Tre.
Địch phát hiện giấy căn cước giả nên đưa ông đi thẩm vấn nhiều nơi: Ban quân báo của Tỉnh đoàn Bảo an Bến Tre, Cảnh sát vùng IV chiến thuật (ở Cần Thơ), Ban Quân báo của Quân đoàn IV (ở Cần Thơ), Ban Quân báo của Sư đoàn 7 (căn cứ Bình Đức, Mỹ Tho).
Về sau, để không ảnh hưởng tới tổ chức và nhân sự của Thành ủy (mà ông là ủy viên thường vụ) và Ban An ninh T4 (mà ông là trưởng ban), ông tạo ra một lý lịch giả, tự nhận là Nguyễn Văn Hợp, đại úy tình báo miền Bắc, mới vào Nam tháng 11-1970 (một tháng trước khi bị bắt), bị bắt trên đường đi Hồng Ngự để được Cục tình báo giao nhiệm vụ cụ thể.
Vì vậy, ngày 7-1-1971, ông bị “đưa lên Sài Gòn để các chuyên viên người Nam Việt Nam và Mỹ ở Trung tâm thẩm vấn quốc gia thuộc Phủ đặc ủy trung ương tình báo Nam Việt Nam thẩm vấn một cách chi tiết”(2). Nguyễn Tri Tông “làm việc ở Phủ đặc ủy trung ương tình báo, từng được CIA huấn luyện thành thẩm vấn viên (...) được lệnh sử dụng trực thăng riêng của đại sứ Bunker dẫn độ [ông] từ trại Đồng Tâm (Mỹ Tho) về Sài Gòn (...) trong một chuyến bay đêm, đem về giam ở Bến Bạch Đằng”(3).
Se Portland viết: “Người [của chính quyền] Nam Việt Nam tra tấn ông hàng tháng trời nhưng vẫn không tìm ra được điều gì thêm về lý lịch của ông”(4).
Merle L.Pribbenow, một chuyên viên CIA, cũng thừa nhận những lời khai của ông “chẳng tiết lộ bất cứ điều gì có thể làm hại đến sự nghiệp của ông ta”(2).
Frank Snepp, một chuyên viên CIA khác, người phụ trách thẩm vấn ông trong suốt 2 năm rưỡi, nhận xét: “Phần lớn những gì ông khai báo chỉ là những thông tin giả của một câu chuyện che giấu được ông dựng lên một cách khéo léo”(5).
Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn (người thứ hai từ trái qua) đến thăm ông Nguyễn Tài (thứ hai từ phải qua) đầu tháng 5-1975
Lê Thanh Vân (bí danh Ba Tâm, Sáu Ngọc), Phó trưởng ban An ninh T4, gửi thư cho Hai Tân, cán bộ điệp báo trong nội thành Sài Gòn, yêu cầu tìm nơi ông đang bị giam giữ và dùng tiền để ông được tự do “mấy triệu đồng cũng đưa”. Không may, Hai Tân bị bắt cùng với bức thư.
Qua sự cố này, Mỹ - Thiệu rút ra hai nhận định: ông là người của ngành an ninh (chứ không phải của ngành tình báo), là cán bộ quan trọng nên tổ chức của ông sẵn sàng chi một số tiền lớn. Địch không còn tin ở lý lịch “Đại úy tình báo Nguyễn Văn Hợp” nữa. Chúng đưa ông sang trụ sở ban U trên đường Trần Bình Trọng để tra tấn. Pribbenow kể: “Chúng cho điện giật, dùng dùi cui đánh ông, đổ nước vào mũi trong khi nhét giẻ vào miệng (...), cho nước nhỏ từng giọt chầm chậm xuống mũi trong nhiều ngày liên tục, trói ông vào một ghế đẩu nhiều ngày không cho ăn uống, trong khi vẫn hỏi cung suốt ngày đêm(2). Song song với việc dùng nhục hình, chúng sử dụng các thủ đoạn khác để dụ dỗ, lừa phỉnh. Chúng nói với ông: chúng sẽ gửi ông sang Nhật Bản để chữa bệnh; nếu ông không muốn về lại miền Bắc thì chúng sẽ cấp cho ông 20 triệu đồng và một biệt thự ở Thụy Sĩ.
Nguy hiểm hơn, chúng chụp hình ông rồi đưa đến các nhà lao như Tân Hiệp (Biên Hòa), Côn Đảo, Phú Quốc... cho những người tù từng công tác trong ngành an ninh của ta. Một số tên chiêu hồi hay đầu hàng (có người từng làm việc dưới quyền của ông) xác nhận người trong hình là Nguyễn Tài, bí danh Tư Trọng, Trưởng ban An ninh T4, ủy viên thường vụ Thành ủy Sài Gòn - Gia Định. Bọn phản bội được đưa về Sài Gòn để nhận diện ông.
Nhưng theo Pribbenow, bất chấp mọi thủ đoạn của địch, “Tài vẫn giữ nguyên câu chuyện che giấu của ông”(2), chỉ nhận mình là Nguyễn Văn Hợp. Địch lại tiếp tục tra tấn ông.
Tháng 6-1971, chúng trưng thêm hai chứng cứ mới: thư do ông viết vào đầu năm 1970 gửi cho Lê Thanh Vân (mà chúng tịch thu được trong một trận càn vào xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre) và tấm hình ông đi trong phái đoàn của Bác Hồ thăm đền Borobudur (Indonesia).
Địch nói: chúng chỉ cần ông xác nhận lý lịch nhằm thực hiện việc trao đổi ông để nhận lại mấy đại tá tình báo của chúng bị ta bắt giữ.
Đến lúc đó, ông mới nhận những chi tiết mà địch đã biết: “Nguyễn Tài, bí danh Tư Trọng, cấp bậc đại tá, đang phục vụ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam”(1). Thật ra, vào thời điểm đó, cán bộ an ninh của ta chưa có quân hàm, cấp bậc đại tá là do địch gán cho ông, ông nhận một điều không đúng sự thật nhằm buộc địch công nhận ông là tù binh.
Vẫn theo Pribbenow, chúng đòi “ông cung cấp thêm chi tiết về tiểu sử và quá trình hoạt động của ông. Ông từ chối và chúng tiếp tục tra tấn”(2). Ngoài các biện pháp nhục hình cũ, chúng dùng nhiều thủ đoạn mới độc hại hơn nhằm làm ông kiệt sức, lả người, rơi vào trạng thái mê sảng. Lợi dụng lúc ông không còn làm chủ suy nghĩ, chúng bắt đầu hỏi cung, hy vọng ông có thể lỡ lời tiết lộ bí mật có hại cho tổ chức và đồng đội của ông. Michael Otterman kể: “Bất chấp tra tấn, Tài vẫn im lặng”(6). Về sau, ông nghĩ ra cách đối phó: trả lời tất cả các câu hỏi cung bằng một câu duy nhất: “Quên rồi”.
Chúng càng tra tấn dữ dội hơn, nhưng theo Alfred W.McCoy, “ngay cả như vậy, các thẩm vấn viên [của chính quyền] Nam Việt Nam đã thất bại”(7).
(Còn tiếp)
Tiến sĩ PHAN VĂN HOÀNG
(nguyên cán bộ trinh sát vũ trang An ninh T4)
(1) Nguyễn Tài, Về với cội nguồn, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1977.
(2) Nguyễn Tài, Đối diện với CIA Mỹ, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội, 1999.
(3) Phan Thanh Tâm, Người tù trong phòng giam tuyết trắng, www.gio-o.com/Tet/2014phanthanhtamnguyentai.htm.
(4) Se Portland, The White Cell, báo điện tử Daily Kos (dailykos.com), ngày 27-9-2006.
(5) Frank Snepp, Tortured by the Past, báo điện tử Los Angeles Times (latimes.com), ngày 27-4-2009.
(6) Alfred W. McCoy, Torture and Impunity: The U.S. Doctrine of Coercive Interrogation, University of Wisconsin Press, Madison, 2012.
(7) Alfred W. McCoy, A Question of Torture: CIA Interrogation from the Cold War to the War on Terror, Nxb. Owl Books, New York, 2006.
Tiến sĩ PHAN VĂN HOÀNG
TỪ CÕI CHẾT, CHIẾN THẮNG TRỞ VỀ
Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris được ký. Một tuần lễ sau, ngày 3-2, Snepp mới báo cho ông Tài biết. “Ông ngồi một lát, run rẩy vì hơi lạnh của máy điều hòa không khí, rồi nói với Snepp bằng tiếng Pháp: “Nếu điều anh nói với tôi là thật thì đây là ngày hạnh phúc nhất của đời tôi”.
Theo Hiệp định Paris, hai bên trao trả cho nhau tù binh và tù dân sự. Nhưng Mỹ - Thiệu vi phạm trắng trợn hiệp định, tiếp tục giam giữ nhiều người (trong đó có ông Tài) đến tận 30-4-1975, tức thêm 2 năm 3 tháng nữa. Ông gọi đùa những năm tháng đó là thời gian “bị tù dư”.
Địch lấy cớ trao trả tù binh để tiếp tục hỏi cung. Ông kiên quyết phản đối: “Nếu trong việc làm thủ tục để trao trả tù binh, có gì cần làm thì tôi làm. Ngoài ra, thì không làm gì hết (...). Các ông không còn có quyền hỏi cung tôi nữa. Tôi cũng không chấp nhận việc hỏi cung và không trả lời hỏi cung nữa”.
Thấy địch không nói tới chuyện trao trả, ông viết thư gửi “nhà đương cục Hoa Kỳ chịu trách nhiệm trao trả tù binh theo Hiệp định Paris... đòi phải tuyên bố rõ việc trao trả... Trong khi chờ đợi trả lời thì tôi giảm ăn”. Ông tự giảm khẩu phần xuống còn ½, rồi ¼ trong suốt 70 ngày. Khi thấy cách đấu tranh này không hiệu quả, ông mới ăn uống trở lại bình thường.
Cuối năm 1974, ông gửi lá thư thứ hai cho “nhà đương cục Mỹ và Việt Nam Cộng hòa” yêu cầu trao trả theo đúng Hiệp định Paris.
Ngày 26-4-1975, khi 5 cánh quân của ta sắp tiến vào giải phóng Sài Gòn, “một viên chức cao cấp của CIA gợi ý cho nhà cầm quyền Nam Việt Nam cần làm cho Nguyễn Tài biến mất” để tránh việc “Tài được giải thoát bởi các đồng chí chiến thắng của ông ta”. Nguyễn Khắc Bình, tư lệnh Cảnh sát quốc gia kiêm đặc ủy trưởng Phủ đặc ủy trung ương tình báo, ra lệnh cho số cầm đầu Trung tâm thẩm vấn quốc gia thủ tiêu ông Tài theo lệnh của CIA. Tuy nhiên, theo Pribbenow, “lệnh đến quá trễ. Tất cả các viên chức cao cấp của Phủ đặc ủy trung ương tình báo đang tìm cách chạy trốn khỏi Nam Việt Nam”. Bản thân các viên chức CIA - trong đó có Frank Snepp - cũng lo tháo chạy thoát thân. Hai năm sau, 1977, trong lúc quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ đang gián đoạn, Snepp hoàn toàn không có tin tức gì về ông Tài, yên trí là Nguyễn Khắc Bình đã thi hành lệnh của CIA, nên anh ta viết trong cuốn Decent Interval (Khoảng cách thích đáng): “Tài bị đưa lên một máy bay và bị ném xuống biển Đông ở độ cao 1.000 feet”. Sự thật không phải vậy. Pribbenow cho biết: “Các nhân viên cấp dưới [của Trung tâm thẩm vấn quốc gia] sợ bị trừng phạt nếu những người Cộng sản chiến thắng biết họ đã giết Tài”, do đó họ “không dám thi hành [lệnh thủ tiêu] vì sợ mang thêm tội với Cách mạng”.
Đồng chí Nguyễn Tài (bìa phải), tại một buổi tọa đàm nhân kỷ niệm 49 năm ngày khám phá vụ án “Ôn Như Hầu”
Ngay sau đó, ông gặp thường vụ Thành ủy Sài Gòn - Gia Định, được công nhận đảng tịch liên tục, được phân công ủy viên thường vụ Thành ủy, phụ trách Trưởng ban An ninh của thành phố Sài Gòn - Gia Định mới giải phóng. Chỉ vài ngày sau, Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn (mới ở Hà Nội vào) đã đến thăm ông. Sau mấy tháng ra Bắc rồi sang Cộng hòa Dân chủ Đức để kiểm tra sức khỏe và chữa bệnh, ông về làm việc ở Bộ Công an (lúc đó gọi là Bộ Nội vụ). Đầu năm sau, được đề bạt chức Thứ trưởng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, có hàng trăm vạn người Việt Nam yêu nước bị Mỹ - ngụy bắt giam, tù đày và tra tấn, nhưng có lẽ ông Tài là người được các tác giả Mỹ đề cập đến nhiều nhất. Họ gọi ông là “Người trong xà-lim trắng toát” (The Man in the Snow White Cell).
Đặc biệt, Frank Snepp - chuyên viên CIA thẩm vấn ông trong thời gian lâu nhất, được CIA thưởng Huân chương công trạng về tình báo (Intelligence Medal of Merit, ngày 16-12-1975) - giữ nhiều ấn tượng sâu đậm về ông.
Hugh D.S.Greenway kể: “Sau chiến tranh [ở Việt Nam], Snepp rời khỏi CIA, nhưng anh ta không thể đưa Tài ra khỏi tâm trí của mình. Anh ta sang Paris để nói với phái bộ Việt Nam [ở Pháp] rằng Tài đã xử sự một cách đáng kính trọng và đã chết một cách dũng cảm (Tai had comported himself honorably and died bravely)”.
Năm 1977, Snepp dành hẳn một chương trong cuốn hồi ký Decent Interval để kể chuyện ông Tài.
Gần tới ngày kỷ niệm lần thứ 34 chế độ Sài Gòn sụp đổ (27-4-2009), Snepp viết trên báo Los Angeles Times một bài nhan đề “Bị quá khứ tra tấn” (Tortured by the Past) thuật lại thời gian thẩm vấn ông Tài.
Những người Mỹ khác, tuy không chia xẻ lập trường chính trị của ông, họ vẫn dành cho ông nhiều từ tốt đẹp như “một cán bộ Cộng sản tận tâm” (a dedicated Communist cadre), “kiên quyết” (determined), “một người từng trải, thông minh, được đào tạo tốt” (sophisticated, intelligent, well-educated man), “một người cứng cỏi không dễ gì làm suy yếu” (a tough nut to crack)...
Ngày 23-12-1988, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra văn bản số 570 khẳng định: “Đồng chí Nguyễn Tài đã có tinh thần chịu đựng sự tra tấn dã man của địch, khôn khéo đối phó với địch, bảo vệ cơ sở và những bí mật của Đảng mà mình biết”.
Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, người từng có thời gian hoạt động chung với ông trên chiến trường miền Nam, nhận định: “Quá trình hoạt động cũng như quá trình đấu tranh kiên trung, mưu trí khi bị địch bắt trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ của đồng chí Nguyễn Tài cho thấy đồng chí thực sự xứng đáng là một anh hùng”.
Nhận định đó được đông đảo đồng bào, đồng chí tán thành.
Bộ trưởng Bộ Công an Mai Chí Thọ cùng các đồng chí khác chúc mừng ông Nguyễn Tài và phu nhân (người thứ hai và thứ ba từ trái sang) trong lễ phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Lực lượng An ninh Sài Gòn - Gia Định trước kia và Công an thành phố Hồ Chí Minh ngày nay vinh dự có người thủ trưởng kiên trung như vậy.
30-4-2015
* Bài viết có trích dẫn một số tài liệu trong và ngoài nước.
Nguồn: Congan.com
Xem thêm:
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét