Truyện
ngắn HG.
Tôi không tin ở thế kỷ này, thế kỷ của công nghệ tiến nhanh như vũ bão về mức độ
phát triển, lại có một nơi nào đó như thế?
Một nơi cách biệt với xã hội bên ngoài, một “ốc đảo” riêng tư.
Thế giới phẳng ngày nay chẳng thể có nơi nào như thế.
Xu thế hòa nhập, cộng đồng khăng khít, không chừa một ai đó sống cách biệt,
khác hẳn mọi người về lối sống, tập quán sinh hoạt. Bởi đó là một thử thách quá
lớn đối với thói quen tiện nghi của con người thời buổi này.
Chuyện đó chỉ có trong dĩ vãng xa vời, của những câu chuyện lãng mạn đường rừng thủa đất rộng, người thưa. Khi trên
mảnh đất quê hương tôi, thậm chí có nơi chưa có bước chân người..
Những truyền thuyết không mấy khả tín về những dị nhân ẩn dật. Những số phận
người đặc biệt, éo le. Những đạo sĩ luyện đan, người tu hành, hay người muốn xa
lánh thế gian, chẳng muốn gặp gỡ hoặc va chạm cùng ai.
Những chuyện phần nhiều do trí tưởng tượng, xuất xứ từ những ẩn ức, khát khao
nào đó. Đại loại là những chuyện nói cho vui khi trà dư tửu hậu, hoặc muốn an
ủi tâm tư của ai đó lúc phẫn trí, gặp cảnh đời trái ngang, muốn có một cảnh ngộ
huyễn hoặc mình để tự an ủi rằng: Dù sao, cuộc sống có thế nào chăng nữa vẫn
luôn có lối rẽ ở cuối con đường..
Bởi thế nghe người ta kể, tôi sắp xếp để đến xem thử hư thực ra sao, cũng vì chút việc của riêng tôi nữa
Và bây giờ tôi kể lại chuyện này, còn bạn tin hay không là chuyện của bạn.
Không ai có quyền bắt người ta phải tin những điều không có thực. Việc ấy giả
dối đã đành, còn vô nhân tính, “phản động”, đối lập với thế giới văn minh, phản
tự nhiên nữa!
**
Thực ra thì tên gọi đúng của dãy núi này là Khau đăm, gọi theo tiếng Thổ trong
vùng chứ chả có Bồng Lai, Tiên Cảnh, hay Thiên Đường nào cả. ( Cái tên hay hớm
kia là do tôi đặt sau chuyến đi này ). Giữa hai bên vách đá nhẵn lì như được mài sẵn, tạo thành một khe sâu dọc theo con suối cạn là đường đi
vào một thung lũng nhỏ, nhiều năm hoang sơ, không có người đến đây.
Trước khi xảy ra câu chuyện này lòng khe chằng chịt cây mây, cây móc. Một loài
cây thân dẻo, khi khô rất cứng, vươn rất dài, có gai sắc từ gốc lên ngọn. Thứ
cây mà ngay từ thời đó người ta đã dùng làm dây cốn bè, hoặc mang về xuôi bán
cho người làm ghế bàn các làng có nghề song mây.
Hai trăm năm trước trong thung lũng này có mỏ kim loại quý. Người Pháp đã lên
đây mở đường khai thác. Người ta đã đặt đường xe gòng để chở quặng từ thung
lũng xuống bờ sông Nho Quế, chở về xuôi.
Một đêm xảy ra trân mưa kỳ quái trút xuống thung lũng. Mùi hăng nồng, tanh lộn
mửa khiến mấy trăm con người từ cai lẫn thợ không ai chịu được. Người ta vội
vàng thắp đèn đuốc nhưng không sao cháy nổi.
Trong ánh sánh chập choạng lóe lên từ sấm chớp, người ta nhìn thấy cảnh tượng
thật hãi hùng. Khắp thung lũng, nước một màu đỏ xậm như màu máu khô đang cuộn chảy. Không ai bảo ai, mạnh ai
nấy chạy. Tiếng la hét vang động một vùng. Những người không chạy kịp chết ngay
trong đêm đó. Người nào người nấy người
tím đen như bị sét đánh, chân tay co quắp như thể trước khi chết đã phải chịu
đựng đau đớn, quằn quại đến tạn sức và khả năng chịu đựng của con người. Ai còn
xót lại sau thiên nạn ấy, tự dưng không còn tiếng nói, không còn cảm xúc . Họ
khi khóc khi cười, không ăn không uống vật vã cho đến chết.
Cư dân quanh vùng sợ hãi bỏ hết đi nơi khác. Chủ mỏ không biết chết trong đêm
đó hay chạy đi đâu, về sau cũng không ai gặp. Một vùng xôn xao tiếng quạ kêu,
chúng bay rợp trời, đậu đen các ngọn cây.
Người ta đồn rằng đám phu trong lúc khai thác đã làm điều gì đó phạm vào lời
nguyền của núi.
Người bảo có vỉa quặng rất độc bị chạm phải, khi trời mưa phát tán, bung tràn
ra thung lũng.
Người nói thời quân Cờ Đen giấu của, có yểm bùa, phu mỏ vô tình đụng phải.
Những năm dài chiến tranh, người Pháp không
quay trở lại. Người Việt chưa đủ
trình độ và phương tiện khai thác hay vì lý do gì khác, khu mỏ vẫn bỏ hoang cho
thú rừng và đủ loại cây dại, có nhiều cây sau này dùng làm thuốc chữa được
những căn bệnh hiểm nghèo.
Rất nhiều chuyện thêu dệt xung quanh câu chuyện này. ( Kể cả chuyện Cao Biền
thời lâu thật là lâu đến đây yểm bùa, dù không ai biết Cao Biền là tên quái quỷ,
mặt ngang mũi dọc như thế nào? ).
Hư hư thực thực, mơ hồ, chả thiếu chuyện gì cho đến tận bây giờ..
Khi tôi đến khung cảnh núi Khâu Đăm không còn như cũ. Con đường vào thung khi
xưa đã có bức tường đá xây cao, có một cánh cổng sắt có
mái ngăn cách với bên ngoài.
Xung quanh thật yên tĩnh, chỉ có tiếng nước chảy róc rách của con suối nhỏ từ
trong thung lũng đổ ra ngoài qua một
máng nhỏ có lắp củ điện, đường dây dẫn vào sâu phía bên trong. Lối đó cũng có
lớp rào bằng chấn song sắt, chỉ có thú nhỏ mới có thể lọt qua.
Tôi đành dựng xe đứng chờ vì không có lối vào thung lũng. Đang lưỡng lự có nên đợi thêm một lúc hay
quay về thì có người chạy xe máy qua dừng lại. Ông ta nhìn tôi từ đầu đến chân,
ánh mắt nghi hoặc làm tôi khó chịu. Tôi quay mặt đi, châm điếu thuốc hút. Cứ
ngỡ cử chỉ này sẽ làm cho ông ta tiếp tục chạy xe, kiểu người này có hỏi thăm
chưa chắc đã nghe được câu trả lời thành thực có ích.
Hình như ông ta không chú ý đến cử chỉ thiếu thiện chí này của tôi, hắng giọng:
- Chắc ông muốn tìm ông Tuyền hâm phỏng?
Thấy ông ta chủ động như thế, tôi gật đầu. Có nhẽ nhà ông này cũng là chỗ thân
tình, hay ít ra cũng là chỗ quen biết
nhân vật tôi đang đi “tìm” này.
- Ông ấy về Hạc Trì rồi, đến tối may ra mới lên kịp. Nếu ông có việc cần gặp
hãy chờ đến lúc đó – Nói xong người này chả để ý đến thái độ của tôi lúc
ấy thế nào nữa, nổ máy xe chạy đi luôn.
Tôi đứng một mình, phân vân.
Mình mất công từ xa đến đây chả lẽ lại quay về ngay.? Công việc thì nhiều, đang
mùa bận rộn, mình đi tranh thủ bây giờ về thì đến hôm nào mới lại đi được? Mà
giống cây bồ công anh, ngoài chỗ này ra, trong vùng chả đâu có. Bài thuốc của
mình lại không thể thiếu nó. Thôi được, đành, chờ thì chờ..
Từ giờ đến chiều còn mấy tiếng đồng hồ mà ở cái xã Na Mèo này mình lại chẳng
quen biết ai. Không lẽ ngồi tựa gốc cây ngủ một giấc chờ từ giờ tới chiều?
Có muốn trò chuyện giết thời giờ, hay một chỗ nghỉ chân trong lúc đợi người
cũng khó. Tốt nhất là nên ra chợ, nơi trung tâm xã.
Ở đâu bây giờ cũng vậy, cho dù là nơi heo hút, vùng sâu chốn đồng rừng, xã nào cũng có một cái chợ con con.
Ở đó có hàng ăn, hàng giải khát.Tuy quy mô không được bề thế, tươm tất như phố
thị, hàng hóa không nhiều, chủ yếu hàng nhái, hàng giá rẻ, món ăn sơ sài, dân
dã ở chợ cũng có cái lót dạ qua bữa trưa.
Tôi ghé một quán ăn khi ấy chưa đông khách.
Trước cửa quầy treo vài món thịt trâu khô, nửa cái đùi chó, mấy túm
hành. Chưa kịp bảo ông chủ quán làm cho mình món gì, thì phía sau có người vỗ
vai:
- Lại vẫn nhà bác à. Tưởng bác quay về luôn hóa ra vẫn đợi.. Có việc gì quan
trọng hay sao vẫn muốn gặp thằng hâm, sống lập dị chẳng giống ai ấy? Mà trông
bác quen quen thì phải? Hình như bác làm ở nhà đài, em nom giống lắm? Nhà em ngay cạnh bên đây, mời bác sang uống
nước, nghỉ chân. Đằng nào bác cũng phải chờ đến chiều mà?
Đúng là buồn ngủ gặp chiếu manh!
Nhưng nhìn người đàn ông này, có cái gì
đấy khiến tôi ngài ngại. Ông ta chính là người lúc tôi gặp khi nãy.
Bề ngoài ông ta không có nét gì đặc biệt, giống hầu hết những đàn ông thường
gặp nơi miền sơn cước này, tóc cắt ngắn, mặt
bầu bầu, da mặt dày dầu dãi nương
đồi. Đặc biệt bàn chân to bè, kiểu bàn chân của người Giao Chỉ, đôi lông mày rậm
mọc sát nhau phía trên sống mũi. Chỉ có đôi mắt của ông ta là khang khác, hay
bất chợt nhìn ngang.. Một kiểu nhìn giá tôi có muốn bắt chước cũng rất khó.
Mà thôi. “Thiên hạ nhân”, người ta có ai giống ai. Đã mời thì mình cứ đến. Biết
đâu lại có thêm câu chuyện kể cho mai này?..
( Còn nữa..)Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét