Truyện
ngắn HG.
Tôi không tin ở thế kỷ này, thế kỷ của công nghệ tiến nhanh như vũ bão về mức
độ phát triển, lại có một nơi nào đó như thế?
Một nơi cách biệt với xã hội bên ngoài, một “ốc đảo” riêng tư.
Thế giới phẳng ngày nay chẳng nơi nào khuất lấp, chẳng thể có nơi nào như thế
mà người ta không biết.
Xu thế hòa nhập, cộng đồng khăng khít, không chừa một ai đó sống cách biệt,
khác hẳn mọi người về lối sống, tập quán sinh hoạt. Bởi đó là một thử thách quá
lớn đối với thói quen tiện nghi của cộng đồng người thời buổi quá chuộng và đề cao vật chất này.
Chuyện đó chỉ có trong dĩ vãng xa vời, của những câu chuyện lãng mạn đường rừng thủa cụ Lan Khai. Khi trên mảnh
đất quê hương tôi, thậm chí có nơi chưa có bước chân người..
Những truyền thuyết không mấy khả tín về những dị nhân ẩn dật. Những số phận
người đặc biệt, éo le. Những đạo sĩ luyện đan, người tu hành, hay người muốn xa
lánh thế gian, chẳng muốn gặp gỡ hoặc va chạm cùng ai.
Những chuyện phần nhiều do trí tưởng tượng, xuất xứ từ những ẩn ức, khát khao
nào đó. Đại loại là những chuyện nói cho vui khi trà dư tửu hậu, hoặc muốn an
ủi tâm tư của ai đó lúc phẫn trí, gặp cảnh đời trái ngang, muốn có một cảnh ngộ
huyễn hoặc mình để tự an ủi rằng: Dù sao, cuộc sống có thế nào chăng nữa vẫn
luôn có lối rẽ ở cuối con đường..
Bởi thế nghe người ta kể, tôi sắp xếp để đến xem thử hư thực ra sao, cũng
vì chút việc của riêng tôi nữa
Và bây giờ tôi kể lại chuyện này, còn bạn tin hay không là chuyện của bạn.
Không ai có quyền bắt người ta phải tin những điều không có thực. Việc ấy giả
dối đã đành, còn vô nhân tính, “phản động”, đối lập với thế giới văn minh và cả phản
tự nhiên nữa!
**
Thực ra thì tên gọi đúng của dãy núi này là Khau đăm, gọi theo tiếng Thổ trong
vùng chứ chả có Bồng Lai, Tiên Cảnh, hay Thiên Đường nào cả.
Giữa hai bên vách đá nhẵn lì như được
mài sẵn, tạo thành một khe sâu dọc theo
con suối cạn là đường đi vào một thung lũng nhỏ, nhiều năm hoang sơ, không có
người đến đây.
Trước khi xảy ra câu chuyện này lòng khe chằng chịt cây mây, cây móc. Một loài
cây thân dẻo, khi khô rất cứng, vươn rất dài, có gai sắc từ gốc lên ngọn. Thứ
cây mà ngay từ thời đó người ta đã dùng làm dây cốn bè, hoặc mang về xuôi bán
cho người làm ghế bàn các làng có nghề song mây.
Gần hai trăm năm trước trong thung lũng này có mỏ kim loại quý. Người Pháp đã
lên đây mở đường khai thác. Người ta đã đặt đường xe gòng để chở quặng từ thung
lũng xuống bờ sông Nho Quế, chở về xuôi.
Một đêm xảy ra trân mưa kỳ quái trút xuống thung lũng. Mùi hăng nồng, tanh lộn
mửa khiến mấy trăm con người cả cai lẫn thợ không ai chịu được. Người ta vội
vàng thắp đèn đuốc trốn chạy nhưng lửa không sao cháy nổi.
Trong ánh sáng chập choạng lóe lên từ sấm chớp, nhìn thấy cảnh tượng thật hãi hùng. Khắp thung
lũng, nước một màu đỏ xậm như màu máu khô
đang cuộn chảy. Không ai bảo ai, mạnh ai nấy chạy.
Tiếng la hét vang động một vùng. Những người không chạy kịp chết ngay trong đêm
đó. Người nào người nấy người tím đen
như bị sét đánh, chân tay co quắp như thể trước khi chết đã phải chịu đựng sự đau
đớn, quằn quại đến cạn sức và khả năng chịu đựng của con người.
Ai còn xót lại sau thiên nạn ấy, tự dưng mất hẳn tiếng nói, không còn cảm xúc .
Họ khi khóc khi cười, không ăn không uống vật vã cho đến chết.
Cư dân quanh vùng sợ hãi bỏ hết đi nơi khác. Chủ mỏ không biết chết trong đêm
đó hay chạy đi đâu, về sau cũng không ai gặp.
Một vùng xôn xao tiếng quạ kêu, chúng bay rợp trời, đậu đen các ngọn cây đến
nỗi cây gãy cành, xơ xác lá từng đám rơi lả tả.
Người ta đồn rằng đám phu trong lúc khai thác đã làm điều gì đó bậy bạ, phạm
vào lời nguyền của núi.
Người bảo có vỉa quặng rất độc, khí mê tan, khí chì bị chạm phải, khi trời mưa
phát tán, bung tràn ra thung lũng.
Người nói thời quân Cờ Đen giấu của, có yểm bùa...
Những năm dài chiến tranh, người Pháp không
quay trở lại. Người Việt chưa đủ
trình độ và phương tiện khai thác hay vì lý do gì khác, khu mỏ vẫn bỏ hoang cho
thú rừng và đủ loại cây dại. có nhiều cây sau này dùng làm thuốc chữa khỏi được
những căn bệnh hiểm nghèo.
Rất nhiều chuyện thêu dệt xung quanh câu chuyện này. ( Kể cả chuyện Cao Biền
thời lâu thật là lâu đến đây chặn long mạch, dù không ai biết Cao Biền là ai, tên
quái quỷ, mặt ngang mũi dọc như thế nào? ).
Hư hư thực thực, mơ hồ, chả thiếu chuyện gì cho đến tận bây giờ..
Khi tôi đến khung cảnh núi Khâu Đăm không còn như cũ. Con đường vào thung khi
xưa đã có bức tường đá xây cao, có một cánh cổng sắt có
mái ngăn cách với bên ngoài. Hồi lâu còn có tấm biển gỗ đề mấy chữ cả Hoa lẫn
Việt: “Trại Bồng Lai”!
Xung quanh thật yên tĩnh, chỉ có tiếng nước chảy róc rách của con suối nhỏ từ
trong thung lũng đổ ra ngoài, qua một
máng nhỏ có lắp củ điện, đường dây xanh đỏ dẫn vào sâu phía bên trong. Lối đó
cũng có lớp rào bằng chấn song sắt, chỉ có thú nhỏ mới có thể lọt qua.
Tôi đành dựng xe đứng chờ vì không có lối vào thung lũng. Đang lưỡng lự có nên đợi thêm một lúc hay
quay về thì có người chạy xe máy qua dừng lại. Ông ta nhìn tôi từ đầu đến chân,
ánh mắt nghi hoặc làm tôi khó chịu. Tôi quay mặt đi, châm điếu thuốc hút. Cứ
ngỡ cử chỉ này sẽ làm cho ông ta tiếp tục chạy xe, kiểu người này có hỏi thăm
chưa chắc đã nghe được câu trả lời thành thực, có ích.
Hình như ông ta không chú ý đến cử chỉ thiếu thiện chí này của tôi, hắng giọng:
- Chắc cậu muốn tìm ông Tuyền hâm phỏng?
Thấy ông ta chủ động như thế, tôi gật đầu. Có nhẽ nhà ông này cũng là chỗ thân
tình, hay ít ra cũng là chỗ quen biết
nhân vật tôi đang đi “tìm” này.
- Ông ấy về Hạc Trì rồi, đến tối may ra mới lên kịp. Nếu cậu có việc cần gặp
hãy chờ đến lúc đó – Nói xong người này chả để ý đến thái độ của tôi lúc
ấy thế nào nữa, nổ máy xe chạy đi luôn.
Tôi đứng một mình, phân vân.
Mình mất công từ xa đến đây chả lẽ lại quay về ngay.? Công việc thì nhiều, đang
mùa bận rộn, mình đi tranh thủ bây giờ về thì đến hôm nào mới lại đi được? Mà
giống cây bồ công anh, ngoài chỗ này ra, trong vùng chả đâu có. Bài thuốc của
mình lại không thể thiếu nó. Thôi được, đành, chờ thì chờ..
Từ giờ đến chiều còn mấy tiếng đồng hồ mà ở cái xã Na Mèo này mình lại chẳng
quen biết ai. Không lẽ ngồi tựa gốc cây, ngủ một giấc chờ từ giờ tới chiều?
Có muốn trò chuyện giết thời giờ, hay một chỗ nghỉ chân trong lúc đợi người
cũng khó. Tốt nhất là nên ra chợ, nơi trung tâm xã.
Ở đâu bây giờ cũng vậy, cho dù là nơi heo hút, vùng sâu chốn đồng rừng, xã nào cũng có một cái chợ con con.
Ở đó có hàng ăn, hàng giải khát.Tuy quy mô không được bề thế, tươm tất như phố
thị, hàng hóa không nhiều, chủ yếu hàng nhái, hàng giá rẻ, món ăn sơ sài, dân
dã ở chợ cũng có cái lót dạ qua bữa trưa.
Tôi ghé một quán ăn khi ấy chưa đông khách.
Trước cửa quầy treo vài món thịt trâu khô, nửa cái đùi chó, mấy túm
hành. Chưa kịp bảo ông chủ quán làm cho mình món gì, thì phía sau có người vỗ
vai:
- Lại vẫn nhà cậu à. Tưởng cậu quay về luôn, hóa ra vẫn đợi.. Có việc gì quan
trọng hay sao vẫn muốn gặp thằng hâm, sống lập dị chẳng giống ai ấy? Mà trông
cậu quen quen thì phải? Hình như cậu làm ở nhà đài, nom giống lắm? Nhà tôi ngay cạnh bên đây, mời cậu sang uống
nước, nghỉ chân. Đằng nào cậu cũng phải chờ đến chiều mà?
Đúng là buồn ngủ gặp chiếu manh!
Nhưng nhìn người đàn ông này, có cái gì
đấy khiến tôi ngài ngại. Ông ta chính là người lúc tôi gặp khi nãy.
Bề ngoài ông ta không có nét gì đặc biệt, giống hầu hết những đàn ông thường
gặp nơi miền sơn cước này, tóc cắt ngắn, mặt
bầu bầu, da mặt dày, dầu dãi nương
đồi. Đặc biệt bàn chân to bè, kiểu bàn chân của người Giao Chỉ, đôi lông mày rậm
mọc sát nhau phía trên sống mũi. Chỉ có đôi mắt của ông ta là khang khác, hay
bất chợt nhìn ngang.. Một kiểu nhìn giá tôi có muốn bắt chước, cũng rất khó.
Mà thôi. “Thiên hạ nhân..”, người ta có ai giống ai. Đã mời thì mình cứ đến.
Biết đâu lại có thêm câu chuyện kể cho mai này?..
- Tên tôi là Quang, người ta hay gọi “Quang xù”. Bố tôi ngày trước hết làm chủ
tịch lại làm bí thư, trưởng công an xã. Tôi lại dị ứng mấy thứ đó, rách việc mà
lại đau đầu lắm – Lão quang tự giới thiệu – Tôi hợp với kinh doanh hơn, tự do
thoải mái không gò bó.
Tôi hơi ngạc nhiên vì cử chỉ khác thường với người vùng này của ông ta. Người
ta ít khi thổ lộ với người lạ khi gặp lần đầu. Chính cái cách thể hiện có vẻ
cởi mở này làm mất đi chút e ngại cố hữu, tôi dắt xe theo lão.
Đúng là nhà ông ta gần ngay đây thật. Một cửa hàng bán cám chăn nuôi khá rộng.
Từ lâu tôi không mấy thiện cảm với các dịch vụ kiểu này. Thịt lợn tăng trọng,
thịt gà công nghiệp bở bùng bục có nguyên nhân từ thứ cám này thời bây giờ
khiến nhiều người không thiện cảm, chẳng riêng gì tôi. ( Mặc dù người nuôi vẫn
cứ sử dụng cám tăng trọng vì lợi nhuận, mặc dù đôi khi họ cũng phải ăn các thực
phẩm nói trên, bán hầu hết các quầy hàng mọi nơi)
Một người phụ nữ trạc tuổi ông ta ngồi quầy, thấy tôi rới ngõ khách hàng, cười
tươi đon đả. Bà ta có dáng dấp của một thời nhan sắc chưa tàn phai hết, Tôi
đoán bà ta đi lại khó khăn vì thấy để ngay bên cạnh sau lưng đôi nạng gỗ.
Quang xù thay trà,pha nước. Ông ta nhắc lại câu hỏi lúc gặp tôi trước ngả vào
nhà Tuyền. Rồi ra vẻ bí hiểm:
- Cậu là thế nào với thằng cha này? Nó là thằng bí hiểm, khó chơi lắm. Tôi với
nó một thời không đội trời chung..Nhưng bây giờ chuyện ấy xưa rồi..
Ông ta nào đã biết tôi là ai? Tại sao tự dưng lại nói ra câu chuyện này với mục
đích gì? Tôi lấy làm lạ và có ý dè dặt:
- Cũng chỉ là chỗ quen biết, tôi có việc cần gặp ông ấy mới phải đợi thôi.
- Chắc cậu cũng “bị” hay sao mà phải tìm
thuốc giải? Đừng mất công tới đó làm gì. Tôi có đứa em chuyên trị loại này, nếu
cần tôi mách cho?
Tôi nói tôi không có bị gì cả. Ông bảo: “Không bị thì thôi. Cậu đến vùng này ăn
uống phải cẩn thận, không là “bị” như bỡn, mất mạng như chơi.
Tôi có nghe phonh thanh chuyện người ta nói về một loại “cây ma” gì đó chứ chưa
thực sự tận mắt nhìn bao giờ. Có lẽ người ta hay “nhát ma” chứ làm quái gì có
loại cây ghê gớm ấy. Hoặc cũng chỉ là cách bịp bợm của hạng người độc ác xấu xa
nào đó dùng chiêu này lừa phỉnh kiếm tiền. Giờ nghe nói, chả nhẽ nó lại có thật
hay sao? Thiển nghĩ mình đâu có thù oán gì với ai mà sợ người ta hạ độc?
Khi ông ta tỏ ra vẻ thành thạo, bày cách phòng tránh thứ thuốc bí hiểm này tôi
cũng không chú ý lắm. Có lẽ người tôi
muốn gặp lại có liên quan gì đến loại “cây ma” này. Tôi đoán có lẽ vì thế mà
lão Quang này cố ý quan tâm đến mình và mời bằng được mình đến chơi nhà lão.
Một kiểu tranh mối bán hàng thứ thuốc kỳ lạ?
Tôi biết đâu trong câu nói vẻ như vô tình, ông ta có một dụng ý. Điều này hình
như đã nói với nhiều người?
- Thằng đó từ ngày đi tù về, nó chẳng chơi với ai ở làng này, vì ai cũng sợ chả
dám đến chơi nhà nó. Vô phúc nó thả cho tý độc, có chữa khỏi cũng sạt nghiệp..
Bà vợ từ nãy ngồi gần đó không tham gia câu chuyện, thấy chồng nói thế, vội lên
tiếng:
- Cậu ấy từ xa đến chơi, việc ai mặc kệ người ta, ông nói ra làm gì?
- Tôi có mồm tôi nói, mà tôi có đặt chuyện ra đâu? Cho đến giờ bà vẫn bênh nó
chằm chằm là sao? Cứ động đến nó là bà cứ như đỉa phải vôi..
Quay sang tôi ông ta nói như thể phân trần:
- Bà này ngày xưa chút nữa theo thằng ấy đấy. Số nó may, không như tôi.. Gần
chục năm nay tôi khốn khổ về bà ấy không
đi lại được. Có lúc cơm bưng vào, cứt bưng ra, hơn cả hầu mẹ già mà đầu óc bà
ấy vẫn không quên tình cũ thế mới đau chứ!
Bà chủ rơm rớm nước mắt, xịt mũi, quay mặt đi.
Tôi thấy sự có mặt vô tình của mình ở đây thật vô lý quá. Tự nhiên tự lành làm
không khí trong gia đình họ xấu đi.
Ngồi nán lại lúc nữa là chuyện chả nên, dù không vội gì tôi vội kiếm cớ rút
lui, không kịp cả uống chén nước.
Vừa đi tôi vừa nghĩ chắc ông chủ nhà đây với người tôi định gặp có khúc mắc với
nhau. Nếu không lão chủ nhà này chả rỗi hơi mời một người không quen biết như
tôi đến nhà để thêm bớt, đàm tiếu. Cũng chẳng có chuyện kể cho tôi nghe mấy câu
chuyện vừa rồi.
Đã có thời tôi nghĩ, chỉ nơi phố phường người ta thường hay lạnh nhạt, ác cảm,
sống bất cần, dèm pha đối với nhau. Sự chen chúc, chật chội của môi trường sống
hàng ngày dễ tạo nên cách ứng xử như vậy.
Nơi non cao, núi rộng con người sống trân quý, thân thiết với nhau hơn. Ít có
chuyện ghét bỏ, thâm thù, ganh ghét. Con người một đời sống nhiều định kiến vừa
sai lầm, vừa chủ quan là mình dễ mắc phải. Biết đâu lời lão Quang nói khi mới
gặp đã đúng? Có khi vợ chồng Tuyền không
phải về xuôi như lão nói? Nghĩ thế, tôi liền quay xe trở lạị..
**
Đúng như dự đoán của tôi, Tuyền không đi xa như Quang xù nói. Nghe tôi
kể, anh bảo:
- Cậu tìm sai người rồi. Tôi với lão như là khắc tinh của nhau, đời
nào lão nói thật? Nhưng mất công tìm mình lên tận đây có chuyện gì
không?
- Đương nhiên là có, chuyện nhỏ nhặt thôi. Cái chính là muốn mục sở
thị cơ ngơi của anh, nghe người ta đồn hoành tráng lắm..
- Có gì đâu mà hoành. Có mà hoành tá tràng, có sự ngăn trở
ngày trước thì có..
Thì ra miệng dân sóng bể, chả thiếu lời thị phi. Trước mặt tôi là
người trung niên nom bề ngoài dạn dĩ phong trần, từng trải, nhưng đó
là con người cởi mở, thân thiện ngay từ phút đầu mới gặp. Đâu phải
thành phần “phức tạp”, khó ưa vì tính cách khinh bạc, coi thường mọi
người, ưa khép kín? Thật không thể tưởng tượng được trên đời tại sao
thời nào cũng có kẻ những kẻ hẹp hòi, thiển cận lấy sự bôi bác
ghét bỏ người này người kia làm sự khoái trá, sung sướng của mình.
Thậm chí thấy cái đau đớn thiệt thòi, cái hạn chế của ai đó làm
sự hân hoan, như là cách để đề cao
mình?
- Chuyện tôi đi tù là có thật chứ không ai ghét bỏ đặt ra đâu. Cậu
từ ngoài lão Quang về chắc lão đã nói với cậu rồi. Chả cứ cậu, ai
gặp lão ngoài chuyện này nọ, không bao giờ thiếu câu chuyện của tôi.
Nhất là gần đây lão đang cạnh tranh với tôi về mấy vị thuốc Nam ..
Tôi với lão sinh ra như để làm khổ nhau. Lão vu án, gán vạ, tranh
người tôi yêu..Rút cục đến giờ lại không bằng tôi lão càng ức, càng
thâm thù. Cái bà bị liệt vợ lão cậu thấy đấy, xưa là người tôi yêu.
Đó là hoa khôi của vùng này, biết bao người ao ước.. Nhưng người ấy
chẳng ưng ai. Nếu tôi không đi tù, chắc không lấy ai khác ngoài tôi.
Tôi phụ họa:
- Chắc hồi ấy bác có giá lắm nhỉ?
- Chuyện – Ông chủ nhà cười – Đương
nhiên là thế rồi.. Tiếng tiêu của tôi phải nói là hay nhất vùng này.
Đàn tính, đàn bầu tôi chơi khỏi phải nói..Cô nào nghe một lần là mê
mẩn, nhớ đời, khó lòng quên được. Có người còn bảo nó mê hoặc hơn cả
“ma chài”!
Ông Tuyền vừa nói vừa chỉ cho tôi
hai cây đàn được đặt cẩn thận trong tủ chè lồng cửa kính, kê giữa nhà, nơi vừa làm ban thờ,
vừa để những đồ quý giá. Ông nói từ ngày về tù, ông chỉ giữ cây
đàn làm kỷ niệm, tuyệt đối không bao giờ chơi nữa. Rồi nói thêm:
- Hồi đó gia đình tôi cũng khá. Bố tôi với bố Quang xù đều làm việc
ngoài xã. Tuy là đồng chí với nhau, nhưng chỉ bằng mặt bề ngoài. Ông
bố Quang xù ngấm ngầm đố kị với ông cụ nhà tôi. Mấy lần vận động người
này người kia , kiện cáo định cho ông già tôi mất chức. Lần vận động
nào ông ấy cũng thất bại. Người dân người ta tinh lắm. Ở đâu không
nói, chứ ở cơ sở, gần gũi hàng ngày, người nào vì việc công, người
nào tư lợi người ta biết ngay.. Tôi hồi ấy trẻ tuổi, xích mích với
Quang tôi chỉ cho là chuyện xảy ra giữa thanh niên với nhau. Mình được
người đẹp để mắt đến, anh nào con trai mà chả ghen tức? Còn ông già
tôi lại là người bao dung. Cụ chả mất lòng ai và chưa hề nghĩ xấu
về ai bao giờ. Có ai ác ý với mình, có biết xong thì thôi cụ không
để bụng..
Không ai ngờ chuyện xảy ra khốn nạ đến vậy. Lần ấy gần kỳ đại hội,
chuẩn bị bầu cử hội đồng nhân dân các cấp thì xảy ra chuyện.
Tuyên Hóa bấy giờ chưa lên thành phố, còn là thị xã. Dù thị xã
nghèo của tỉnh miền núi sau chiến tranh vẫn có bán những thứ sắm
sửa để làm đám cưới. Sáng hôm đó tôi mượn cái xe đạp của ông già
tôi về thị xã.
Việc trọng đại của cả đời người, cô dâu chú dể không lẽ không sắm
bộ quần áo mới? Chưa có com lê, cà vạt, váy cưới như bây giờ, nhưng
cũng phải có bộ cánh trưng diện ngày ra mắt hai họ. Cần vài tút
thốc, cân chè, vài bánh pháo.. Lúc bấy giờ chưa cấm pháo như bây
giờ. Chả cứ ngày tết, ngày cất nóc dựng nhà cũng đều có bánh
pháo để mừng, để xua đuổi ma tà theo tập quán. Cỗ bàn to đến đâu mà không
có tiếng pháo người làng vẫn chê. Đám cưới càng không thể thiếu.
Các thứ khác của nhà sẵn hoặc mượn của người trong nhà, các thứ
tôi kể vừa rồi, không về thị xã không thể mua được. Làm gì có nhiều
hàng quán, thứ gì cũng có như bây giờ? Hồi ấy cậu chưa lên đây chắc
cậu không biết, cả vùng này không có lấy một cái chợ. Chỉ có một
cửa hàng hợp tác xã mua bán chủ yếu bán dầu bán muối.. Các thứ
khác, là mặt hàng xa xỉ đâu có bán ở vùng này?
Ông Tuyền ngừng kể, ánh mắt u ám nhìn ra ngoài.. Vách núi đá sừng
sững phía trước nhà ông như gợi lại một thời gian nan trắc trở. Tôi
biết ông cố nén một tiếng thở dài..
- Chiều hôm đó, gần tối tôi mới về đến nhà. Đi chợ thời đó là mất
cả ngày, đó là đi xe đạp, trời không gió mưa. Nếu đi bộ, hay gặp trời
mưa có khi phải đến chiều hôm sau mới qua buổi chợ.
Tôi về nhà đã lên đèn. Trong nhà ánh đèn pin lấp lóe, có rất đông
người. Tôi nghĩ chắc xã lại mượn nhà mình hội họp như mọi lần, nên
không để ý. Vừa bước chân khỏi cầu thang vào nhà thì có tiếng ai đó
nói vẻ mừng rỡ:
- À về đây rồi, tưởng phải cho người đi kiếm!
- Các bác có chuyện gì mà định tìm cháu?
- Vào đây rồi khác biết!
Ông trưởng công an xã bảo người đem ra cái bao tải tạ, thứ bao hồi đó
vùng này rất hiếm. Người kia đổ trong bao ra hai cái sừng trâu, một
đoạn dây cao su, một con dao và cái búa còn dính bê bết máu. Ông
Trưởng công an hỏi :
- Thế này Tuyền nhé. Các bác các chú đây đều là bạn công tác cùng
với bố cháu nên đối với cháu các chú các bác không muốn xử nặng
tay như đối tượng khác.Nhưng yêu cầu cháu phải thật thành khẩn. Cháu
thành khẩn bao nhiêu, sẽ có lợi cho cháu bấy nhiêu. Cháu cứ thành
thật khai báo.. Nhà nước ta đánh kẻ chạy đi chứ không đánh người
chạy lại. Thái độ ăn năn thành khẩn của cháu sẽ được xem xét..
Tôi chưa hiểu người ta đang nói với mình chuyện gì, vội hỏi:
- Các bác mang thứ này đến đây làm gì ạ? Cháu có chuyện gì mà
phải thành khẩn, cháu chưa hiểu?
- Có thật anh không biết chuyện gì không?
- Dạ vâng!
- Thế đêm qua anh đi đâu? Từ sáng sớm hôm nay đi cùng ai, bây giờ mới
về?
Đêm qua tôi đi cùng Én ( vợ Quang xù
bây giờ ). Chúng tôi ngồi với nhau bên gốc cây dâu da bên bờ suối.
Chuyện trai gái gần đến ngày cưới, ngồi chuyện với nhau chuyện gì,
có cần phải nói ra bây giờ ở đây không? Nghĩ thế tôi bảo:
- Đêm qua cháu ở nhà, sáng sớm hôm nay mới xuống thị xã mua đồ. Đây
các thứ này cháu mua dưới đó về, các bác cần xem cứ xem
Ông ta gạt đi:
- Chúng tôi không cần xem mấy thứ đó – Rồi ông ta chỉ cặp sừng trâu, cái bao đựng mấy thứ
đang bày trên mặt sàn hỏi:
- Anh có biết những thứ này của ai không?
Linh tính báo cho tôi việc chẳng lành. Rõ ràng mình là người ngay,
sao lúc bấy giờ lại run như thế chứ?
Phải chăng người lương thiện, chưa gặp sự éo le, thần thức như biết
trước tai vạ chẳng lành hoảng loạn mà có biểu lộ sai cách bình
thường? Phải một lúc tôi mới lấy được bình tĩnh:
- Cháu không biết của ai đâu ạ!
Có tiếng cười gằn, nhếch mép lành lùng:
- Đúng là gian nó giàn ra mặt.. Trông nó kìa.. Bây giờ có hỏi nó
cũng không nhận đâu. Thôi đưa nó ra ủy ban.. Xin lỗi đồng chí Quỳnh (
bố tôi ) và gia đình, chúng tôi tạm thời đưa cháu ra ngoài xã giải
quyết. Nếu cháu nó không làm nó sẽ về ngay. Ở đây lâu không tiện. Ta
đi thôi các đồng chí..
Mẹ tôi òa lên khóc. Bà ôm vai tôi:
- Có thật con làm không? Sao dại thế, con ơi là con!
Tôi thấy tắc nghẹn ở cổ, muốn nói mà không thốt ra lời. Bố tôi ngồi hai
tay ôm đầu. Ông không nói gì. Bản tính của ông ngay thẳng, chưa bao giờ
vấp chuyện này. Cú vấp này làm ông choáng váng. Có thể ông còn cảm
thấy xấu hổ vì việc làm xấu xa nông nổi của con mình. Ông không dám
nhìn, thậm chí không dám mở lời xin, dù chỉ một câu với những người
bao năm nay cùng công tác với mình. Mới đây thôi, buổi chiều hôm nay họ
vừa bàn chuyện nhân sự cho cuộc bầu cử sắp tới.
Tôi cũng không ngờ đấy là lần cuối tôi nhìn thấy bố tôi. Ông uất ức,
buồn tủi, xấu hổ vì con xin ra khỏi đảng. Suốt mấy năm tôi ở trại,
chỉ có mẹ tôi và em gái lên thăm. Bố tôi sinh bệnh và mất sau đó ít
lâu.
- Còn bà Én hồi ấy có lên thăm bác lần nào không?
- Không – Ông Tuyền buồn bã trả lời – Trại ở xa quá, cô ấy có muốn cũng
không đi được. Mà có ở gần chưa chắc cô ấy đã dám đi. Miệng tiếng xã
hội thời đó kinh khủng lắm, nó cao hơn và hiểm trở hơn cả vách núi đá bao
quanh thung lũng này.
Làm gì có chuyện bí thư đoàn thanh niên đi thăm nuôi một kẻ trộm trâu
bao giờ?
Năm sau cô ấy lấy chồng, lấy lão Quang mà cậu gặp hồi sáng đấy!
Tôi nhìn ra dãy núi kì dị chạy vòng ôm lấy khu vườn rừng của ông mà kinh hãi.
Phải những nhà leo núi kì tài mới có thể leo nổi qua đây. Vách đá không hiểu
tại sao thẳng đứng, có những tảng đá rời nằm chênh vênh như một cái bẫy, có thể
rơi xuống bất cứ lúc nào. Cái tên “Bồng lai” với nó chẳng hợp chút nào. Mới
biết cảnh tùy chủ, khi chủ nhân yêu mến nó, ông ta có quyền đặt bất cứ cái tên
nào. Đẹp hay xấu, lành hay dữ có khi còn tùy duyên, theo cách nhìn nhận và quan
trọng hơn ở quyết tâm, nghị lực của mỗi người..
***
Khu “Bồng Lai” bây giờ như một khu bảo tồn thiên nhiên quy mô nhỏ. Từ trên vách
đá cao, dòng thác như dải lụa buông
thẳng xuống phía sau khu nhà ở, trại
chăn nuôi. Nguồn năng lượng tự nhiên này
được ông Tuyền khai thác tối đa. Từ nước ăn, nước tưới cây đều được dẫn từ chân
thác về. Người thành phố vốn luôn bị nạn thiếu nước sạch đe dọa, sẽ mê mệt, thèm thuồng nguồn nước trời miễn
phí, chất lượng cao lại như vô tận này.
Nó còn được tận dụng chạy một dãy củ
điện cỡ lớn, thừa sức cung cấp điện cả ngày lẫn đêm khu đất rộng gần năm héc ta.
Những củ điện này trước đây người trong vùng mua về thời chưa có điện lưới. Ông
Tuyền tiếc rẻ mua về đặt thành cả dãy dài.
Có lẽ ngoài muối ăn, xăng dầu và một số nhu yếu khác, cuộc sống nơi đây có thể
tự cung, tự cấp, không viện đến bên ngoài.
Những lối đi trong khu vực cũng được lát
đá, đá xẻ hẳn hoi chứ không phải đá tảng, đá cục thô thiển, xù xì.
Tôi như lạc vào một tiểu khu bảo tồn
sinh thái tự nhiên. Gần như có đủ loại giống cây gỗ quý đã tuyệt chủng. Dọc
theo vách đá ngăn cách với bên ngoài là những hàng trò chỉ, lát hoa, lim vang,
sâng, kè đá. Kề bên hồ nước nhỏ là vườn thuốc nam được chia nhỏ từng ô, đủ
loại.
Chủ nhân nói “Riêng tiền bán cây thuốc nam, mỗi năm anh thu không dưới một trăm triệu đồng”.
Tôi nghĩ ông Tuyền nói thực. Bây giờ cây thuốc tự nhiên trên rừng không đâu có. Từng quãng dọc dòng nước chảy
tự nhiên lại gặp một cái cọn nước. Hệ thống tưới tự nhiên, tự động này bây giờ
ở nơi khác gần như không còn. Những cối nước giã gạo tự nhiên thường cặp đôi
với cọn nước ngay gần bờ. Ông Tuyền bảo thực ra ông làm cho vui mắt, chứ cần để
giã gạo ăn một hai cái là đủ. Khung cảnh sinh động giúp người ta đỡ mệt mỏi,
tạo được hưng phấn trong lao động.
Khu chăn nuôi để riêng một góc. Có lẽ không nên kể thêm về các giống vật có
nguồn gốc tự nhiên ở đây như lợn “tên lửa”, gà lôi, gà tre. Vì không phải ý
chính của câu chuyện này.
Ở đâu đó, cần phải có nhiều tiền,
nhiều công sức mới có thể tu tạo thành. Ở đây ông Tuyền bảo “ lấy mỡ nó dán
nó”, mỗi năm một ít, dần dần hình thành khu vực có được diện mạo như bây giờ..
****
“..Vậy mà đã có lúc chán đời, tôi đã bỏ đi hoang. Ra khỏi trại tôi không về nhà ngay. Tôi gặp cô ấy ở ga Việt Trì, đầu quấn khăn len
tùm hụp. (Về sau tôi biết những ngày ở
trại giam vì nhiều chấy rận, mái tóc dài của cô đã cắt ngắn để dễ gội đầu, ở
với tôi đến nửa năm tóc cô mới mọc lại ngang vai. Thực là mái tóc dày và đẹp
không thể chê được ). Nhiều chuyến tàu
xuôi ngược, không thấy cô ấy lên chuyến nào. Không biết cô ta chờ ai hay đợi
chuyện gì ở đây?
Tôi gặp cô buổi trưa hôm đó ở một quán ăn phía sau nhà ga. Thấy cô mua mỗi xuất
canh rau muống, ngoài ra chẳng thấy mua gì thêm. Thời đó tiệm ăn nào bày biện
cũng tồi tàn, sơ sài chưa có món ăn ngon như thời bây giờ. Người ta bán cơm,
canh theo xuất. Không mua cơm, chỉ một bát canh, người ta cũng bán. Cô lôi
trong túi xách nhỏ khâu bằng bao dứa ra mẩu bánh mì, bẻ từng mẩu vào bát canh,
ăn có vẻ ngon lành.
Mối liên cảm cho tôi biết cô đang đồng cảnh với mình. Trong cái khăn mù xoa cũ
của cô gói chỉ mấy đồng tiền lẻ. Đấy là số tiền còn lại khi cô bán số tem phiếu
lương thực người ta cấp cho kẻ mới ra trại như cô.
Tình cảnh của tôi lúc đó cũng chẳng hơn gì. Tôi theo nhóm cửu vạn bốc vác hàng
lên xuống tàu. Gặp cơ hội tốt kể cả “đánh quả” bọn tôi cũng không ngần ngại.
Nhưng so với cô lúc này, tình cảnh của tôi cũng còn khá hơn.
Người ta hay nói cảnh khổ của “Bốn bể không nhà”. Hơn ai hết, tôi thấm thía nó
như thế nào chứ không chỉ nghe nói.
Mùa đông miền bắc thường là mùa đông rất dài và rất sâu, lại mưa phùn gió bấc.
Những ngày như thế thật kinh khủng. Cơm ăn thiếu đã không nói, chỗ nghỉ qua đêm
càng gay go. Một độ đêm về tôi thường len lên một chuyến tàu, bất kể nó đi đâu.
Từ Việt Trì đi Hà Nội, không ra ga, đi tiếp lên Lạng sơn. Hết đêm có mặt ở một
nơi mình chả có việc gì và không quen ai. Về sau người ta xét vé hành khách đi
tàu kỹ quá, cách giải quyết này không ổn. “Những đứa con của gió” bọn tôi phải
kiếm cái áo đi mưa, nằm vạ vật đâu đó chờ cho ngày mai trời lại sáng!
Đêm đó cũng như mọi đêm đã từng xảy ra. Tôi đang chập chờn cơn mộng mị, chợt
thấy tấm ni lông của mình có người động chạm tới. Tôi choàng tỉnh. Những đợt
kiểm tra đột xuất an ninh thường xảy ra vào những lúc như thế này.. Hóa ra
không phải..
Chính cô gái trọc đầu đang đặt đôi chân lạnh như nước đá của cô vào tấm áo mưa
tôi đang đắp trên người. Cô làm rất khẽ như không muốn chủ”cơ sở” chiết tiệt là
tôi biết. Phản xạ theo bản năng sinh tồn của hạng người như tôi rất nhanh và
nhạy. Tôi thấy chả có lý do gì để phàn nàn cô về chuyện này. Còn bảo:
- Rét thế này, cô cứ kéo hẳn nilon lên, chui vào đây cho đỡ lạnh!
Cô ngoan ngoãn làm theo như một em bé, không nói câu nào..
Chúng tôi quen và sau đó gắn bó với nhau tới bây giờ, toàn bộ câu chuyện chỉ
như thế. Hoàn toàn chả có gì thi vị hay lãng mạn cả..
Bấy lâu, sống một mình, tôi vạ vật sao cũng được. Giờ có hai mình rồi, làm sao
đây? Không thể kéo dài tình trạng tạm bợ, bấp bênh và đầy trắc trở này mãi
được. Hay là mình đánh bạo đưa cô ấy về quê? “
Không ai nghĩ có những thứ vất đi từ trăm năm trước, lại là cứu cánh của cuộc
đời mình?
Tôi đưa Trầm về lúc đầu cũng không nghĩ là như vậy. Những thanh sắt cong queo,
bỏ gỉ đường gòng của khu mỏ cũ đã cứu
giúp tôi với Trầm. Là bước khởi đầu đầy khó khăn để có cuộc sống ngày hôm nay.
Nó là thứ của giời ơi, lúc đó không ai quản lý bị vùi lấp dưới lớp đất đá cỏ
mọc um xùm phủ lấp lên.
Tôi chấm dứt cuộc sống của người “gió bốn Phương”, “toa tàu hỏng bỏ không”
ngoài sân ga trở về làng với hai bàn tay trắng.
Từ ngày bố tôi mất, mẹ tôi cũng quặt quẹo đau ốm. Cuộc sống tự sản tự tiêu của người
vùng núi vốn đã gieo neo với hầu hết mọi người, với nhà tôi lại càng cơ cực.
Giấy ra trại của tôi đã hết hạn từ lâu, Trầm cũng chẳng có hộ khẩu nơi này,
không ai cấp cho ruộng nương để sống.
Tôi vào khu này, khi đó gọi là khu mả hủi dựng căn lều vì không thể sống ngoài
làng. Khi đó em trai tôi đã lấy vợ. Nó đã phải làm ma cho bố, nuôi dưỡng mẹ
già, tôi đâu có quyền để tranh giành cơ ngơi, tài sản vốn đã không có gì đáng
kể của cha mẹ?
Công nhận Trầm là con người sáng dạ. Cô ấy nghĩ ngay đến đoạn sắt đường làm gòng
khi xưa mà tôi vừa mới nói.
Chúng tôi đóng một cái mảng chở dần từng chút đám sắt ghỉ ấy về Việt Trì bán
cho người thu mua sắt vụn.
Nên nhớ sau thời Nam Bắc có chiến tranh,
hòa bình rồi, nghề mua ve chai, sắt vụn đồng loạt có ở mặt ở nhiều nơi.
Có tiền. Tôi mua trâu, mua hạt giống.. Từ bỏ nghề kiếm củi nuôi thân.. Và bây
giờ cuộc sống của chúng tôi như cậu thấy đấy..”
Duy có điều.. cho đến tận bây giờ hai người vẫn chưa có con. Điều này sau đêm
ngủ chốn “Bồng Lai” không cần hỏi, tôi cũng biết.
Nhưng cái tên gọi khuôn viên này tôi vẫn thấy thắc mắc. Dù nó khác lạ, xinh đẹp
như một khu du lịch sinh thái, gọi vậy nó vẫn cứ sao sao.. không hợp lý. Người
ta chỉ dùng phiếm danh này cho một hòn đảo giữa trùng khơi, có quanh cảnh cực
kỳ sinh đẹp. Đó là cõi xa cách đời sống và lối sống con người, là nơi tiên ở.
Chỗ này gọi chốn “Bồng lai” e không hợp! Nó chỉ là mảng khác biệt với xung
quang tý chút, đâu có “thần tiên” gì?
Ông chủ trang Trại người Tày đen này nói với tôi:
- Gọi thế nào là do cảm nhận, tâm trạng của mỗi người. Cái tên đó đâu có phải
do tôi đặt? Một ông nghiên cứu văn học dân gian tới đây đặt như vậy, từ đó
thành tên. Ông ta còn lấy một tấm bảng gỗ treo ngoài cổng trại. Trên đó viết
“Bồng Lai trại” bằng sơn đỏ. Ai đi qua cũng nhìn, bình phẩm lôi thôi quá.
Khi ông ta về xuôi, tôi mới gỡ bỏ đi. Chẳng qua cũng chỉ là cái tên. Người ta
có thực sự hạnh phúc, quá khứ không tì vết, mới gọi như thế được.
Không cứ ngoài đảo hay trên đất liền. Nơi nào con người sống hạnh phúc, không khổ đau, không ân hận, không quá
khứ nặng nề..Chỉ có tương lai tương sáng mới gọi là chốn thiên đường, chốn “Bồng
Lai”. Chứ chúng tôi thì Bồng lai cái nỗi gì?
Phần tôi cũng bõ công một chuyến đi. Mấy giống cây thuốc tôi tìm chỗ ông có cả.
Nó sẵn, hẳn một vườn.
Bây giờ cây thuốc tự nhiên đâu có chỗ nào còn với hiện trạng môi sinh chỗ nào
cũng vậy. Thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu đã làm cho đất rừng chết dần dần. Cây
thuốc là giống cây nhạy cảm với môi trường, đâu có thể mọc lên và tồn tại được.
Tôi còn thêm câu chuyện về một con người có hoàn cảnh khá đặc biệt ở “cõi Bồng
Lai” này. Một cõi như thể tách riêng ra khỏi
thế giới ồn ào, nhiều trắc ẩn, nhiều ưu tư mà tôi cũng như rất nhiều đồng bào
tôi đang chấp nhận.
Ước gì mình có một khoảng không gian, một khoảng đất, một cơ ngơi như thế?
Như bạn thấy đấy, đối với tôi, điều ấy thật xa vời.. Còn như tên gọi của nơi
như thế, “Bồng lai” hay “Bồng bềnh” cũng chỉ là cái tên, đâu có gì đáng quan
trọng?
============================
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét