Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

Tản mạn đôi dòng...




Tn mn đôi dòng

Đăng bởi nguyentrongtao 
Nguyễn Chính

Có lần tôi được nghe ông K, một người rất mê đọc sách nói thế này  : “Từ hơn ngàn năm trước, Khổng Tử đã dạy học trò của mình rằng, đã là trí giả thì không thể bị u mê, càng không thể vì mấy đấu gạo mà viết cho kẻ bất nhân …”. Tôi bảo : “  Chỉ vì được mấy đấu gạo mà viết cho bọn thất đức, thì là bồi bút rồi còn gì”. Ông K bảo ” Đúng vậy ! nhưng lũ bồi bút lại được sinh ra từ cái sự văn nô”. Tôi hỏi lại ” Văn nô là sao ?”.  Ông K bảo ” Là sao, thì chú phải tìm hiểu. Chỉ biết cái sự ấy nó làm hỏng cả một nền văn học. Nó biến không ít kẻ cầm bút thành thứ mạt hạng. Nó …”. Tôi vội xua tay ” Thôi, thôi  xin bác, xin bác, em sẽ tìm hiểu, sẽ tìm hiểu…”. Ông K liền nhìn tôi như kẻ xa lạ, nhìn từ đầu xuống chân, lại từ chân lên đầu, rồi chỉ  vào tôi mà rằng : ” Nhìn chú kìa, mới nghe thế mà  đã, trên thì mặt xanh như đít nhái, dưới thì vãi cả ra  thế kia rồi, thì cầm bút thế đéo nào được”.
Hơn 20 năm đã qua, ông K  bây giờ đã thành người  thiên cổ. Còn tôi cũng dần  ngộ ra rằng, thì ra cái sự “nô” ấy nó kinh khủng lắm. Cả một dân tộc, một đất nước đã từng là nô lệ. Bị nhốt chung trong  cái cũi khổng lồ ấy nào  là những  nông nô, công nô, binh nô, trí nô và vân vân nô… Bằng núi xương, sông máu, lật đổ được cái kiếp  nô lệ ấy rồi, thì không ai lại ngu muội chui đầu vào cãi cũi ấy nữa, trừ phi là bị phỉnh, bị lừa.
Còn cái sự văn “nô” ? Thấy tôi cứ lúng túng dây nhợ như gà mắc tóc mãi, một đồng nghiệp đã “đóng” vào tai tôi những lời như búa bổ : ” Nô, tức là cúc cung tận tụy, phụng sự cho bề trên, cho ông chủ. Như kiếp chó ấy. Bề trên bảo sủa to thì sủa to, bảo sủa nhỏ thì sủa nhỏ, bảo cắn thì cắn, thế thôi”. Nghe đồng nghiệp nói vậy thì biết vậy, nghĩ mình phận ếch ngồi đáy giếng, đọc chưa được bao nhiêu, viết cũng chẳng được bao nhiêu, lại toàn thứ vô bổ, chỉ đáng vứt sọt rác, nên nghe lời ông K, tôi phải tự lần mò tìm hiểu …
Khi cụ Đồ Chiểu vung bút  với những câu âm vang như sấm ” Dù đui mà giữ đạo nhà …”, rồi ” Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” và khi cụ Tản Đà đầy khí phách  “Xuống ngọn bút mưa sa, bão táp, vạch câu thơ quỷ thảm, thần kinh. Lũ mọt dân trừng trị bằng câu văn, người hiền sỹ  tinh biểu bằng ngòi bút…” v.v…,  thì cái sự “nô” ấy đã phải bạt xa rồi. Chưa hết, khi ở phương trời Âu đang ồn ào lý luận Mac-xít đưa quần chúng bần hàn lên tận mây xanh, bằng việc tấn phong họ là ” những người chân chính sáng tạo ra lịch sử”, thì cụ Tản Đà  đã không ngần ngại chỉ thẳng ra cái sự thật  bi thảm và “giáng” một búa nẩy lửa vào cái đầu còn tăm tối và  cả tin của đồng bào mình, rằng ” Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn, Cho nên quân nó dễ làm quan”.  Thiển nghĩ, với thiên chức góp phần hướng thiện con người, tôn vinh cái đẹp, thì người cầm bút phải tôn trọng sự thật, bảo vệ sự thật, vạch mặt giả dối, mị dân, bịp bợm. Mọi sự tô hồng, bôi đen, bóp méo sự thật nhằm phục vụ lợi ích  của thiểu số kẻ cầm quyền, đều là kẻ thù của văn chương.  Sự chân thực là phẩm giá của ngòi bút nên rất cao quý và  thiêng liêng. Khi Liên Xô, thành trì của chủ nghĩa CS dưới thời Stalin  mặc dù có cả một  bộ máy KGB khổng lồ, nhưng một học giả người Nga vẫn lớn tiếng khẳng định ” Sự thật cao hơn tất cả, cao hơn nước Nga và cao hơn cả Lê-nin “. Được biết, lý luận văn học Xô-viết  còn đẻ ra cái gọi là “hiện thực xã hội chũ nghĩa”, từng được các học giả Đông, Tây mổ xẻ xem nó là cái giống gì ? Đã “hiện thực” lại còn hiện thực nọ, hiện thực kia nữa. Cái ấm sứt  vòi, nhìn từ mọi phía cũng không thể nào là cái bình pha lê được. Đúng là rặt một thứ “ný nuận nồn”, như cách nói  ngọng của một bà bán mắm tôm nơi chợ quê. Cũng vậy, ở ta lâu nay  còn có câu ” nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”, một khái niệm không  thể tìm thấy trong bất cứ học thuyết Đông, Tây, kim cổ nào. Ngay cả cụ tổ của CNCS  là  Kar.Max có tái thế  chắc chắn cũng phải chào thua, không thể nào định nghĩa nổi.  Nên nhà thơ Trần Mạnh Hảo mới có câu  thơ thật mỉa mai ” khái niệm đưa ra không biết lối thu về”, là vì vậy.
Liên quan đến cái sự văn “nô”, có một vấn đề từng được nêu ra từ mấy chục năm qua, nhưng bị cho là “nhạy cảm” nên chỉ được “nhá xèng” lên tý rồi tịt luôn như pháo tịt ngòi. Đó là quan hệ giữa văn học và chính trị. Còn nhớ khoảng cuối 1990, một người bạn gặp tôi, hỏi : ” Này ! có một nhà thơ vừa đưa ra nhận xét là, văn học nghệ thuật cao hơn chính trị và xa hơn chính trị. Ông thấy sao ?”.  Tôi liền khẳng định ngay : “Đúng ! đúng là như thế”. Không ngờ anh ta lồng lên ” Đúng, đúng cái con khỉ. Ông lúc nào cũng  nằm mơ. Xa hơn, cao hơn cái nỗi gì. Chính trị là bố , là ông cố nội của văn học, thì có…”. Rồi anh dẫn ra nào Tần Thủy Hoàng; Hítler ; Mao v.v… Tôi liền hỏi lại : ” Vậy mấy bạo chúa ấy sống được 100 tuổi không ? Chết ngóm sau mấy chục năm cường quyền chứ gì ? Còn các tác phẩm văn học, nghệ thuật  đích thực, thứ thiệt, thì sống muôn đời”. Và, để anh ta tâm phục, khẩu phục tôi đã lý giải nôm na thế này : Chính trị là phạm trù lịch sử, có nay không có mai. Lịch sử phát triển xã hội loài người hết chế độ này, thì đến chế độ khác. Triều đại nào thối nát, phản dân hại nước ắt sẽ sụp đổ và bị triều đại khác thay thế. Còn văn học nghệ thuật thuộc phạm trù vĩnh viễn. Các tác phẩm đích thực sẽ  “bước” từ thời đại này  qua thời đại khác, trở thành tài sản vô giá của nhân loại và bất tử. Các tác phẩm cổ điển,  trung đại, cận đại v.v… là những minh chứng hùng hồn. Văn học nghệ thuật chân chính  phản ánh chân thực ước mơ và  khát vọng của nhân dân mình. Văn học, nghệ thuật  chân chính (không phải thứ văn nô, bồi bút) luôn chỉ ra cho chính trị biết phải làm gì, làm thế nào để an dân, để được lòng dân. Bởi chính trị muốn tồn tại, thì phải được lòng dân. Nên văn học nghệ thuật cao hơn chính trị là ở cái lẽ ấy, vân vân và vân vân …
Cái sự văn “nô” còn liên quan đến bản lĩnh, khi phách người cầm bút. Phùng Quán , một nhà thơ “Nhân văn giai phẩm” rất đáng kính từng có tuyên ngôn rằng ” Dù ai ngon ngọt nuông chiều cũng không nói yêu thành ghét. Dù ai cầm dao dọa giết, cũng không nói ghét thành yêu…”.  Ông Trường Chinh (Sóng Hồng), nếu tôi nhớ không nhầm cũng  từng có câu : ” Lấy  cán bút làm đòn xoay chế độ. Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”. Theo tôi, Những câu thơ này của Phùng Quán và Trường Chinh có giá trị thời đại rất cao, vì nói lên được bản lĩnh và tâm huyết người cầm bút. Không biết, Hội Nhà Văn VN có cho dịch ra nhiều thứ tiếng để gửi đến các  văn nghệ sỹ đang phải sống trong những chế độ độc tài, phản dân chủ  tại Hội nghị giới thiệu văn học VN ra nước ngoài vừa qua, hay in ra hàng ngàn bản cho bóng bay gửi lên kính cáo với trời đất, sông núi nước mình trong Ngày “Đại lễ thơ VN” hoành tráng rằm tháng Giêng Canh Dần vừa rồi ? Nhân đây xin nhắc lại một chuyện nhỏ. Trong một hội thảo ở Nha Trang về phát triển nông nghiệp của một tỉnh miền Trung hồi cuối thập niên 1980. Giờ giải lao, cánh nhà báo tụ tập ở hành lang, to nhỏ bàn chuyện trên giời, dưới đất, chuyện dân dã, chuyện triều đình … Anh Bốn T, tuy là một cán bộ chủ chốt của tỉnh PY, nhưng  tỏ ra rất bình dân với cánh phóng viên, cũng đến góp chuyện. Chuyện trò một hồi, bỗng anh trầm ngâm giây lát rồi phán một câu xanh rờn : ” Đúng là cánh nhà văn, báo chí, văn nghệ sỹ chúng mày, thời nào cũng chống chính quyền …”. Lập tức một đồng nghiệp trong chúng tôi trả lời ngay : ” Anh Bốn nhầm rồi ! Không phải chống chính quyền mà là chống cường quyền. Thời nào những người cầm bút cũng chống lại cường quyền …”. Tất cả chúng tôi  cùng cười vang tán thưởng.
Lẽ thường người cầm bút (nhà thơ, nhà văn v.v…) không thể làm điều ác, điều thất đức và càng không thể dùng ngòi bút để bảo vệ cái ác. Những nhà văn, nhà thơ nào còn coi CNCS là lý tưởng của đời mình , chắc càng  không thể quên lời giáo huấn của cụ Kar.Max, rằng  ” Chỉ có loài súc vật mới quay lưng lại với số phận người khác …”. Đến nay, ai cũng biết, “cải cách ruộng đất” từng được coi là ” cuộc cách mạng long trời lở đất”, là một đại họa đối với nông dân và nông thôn nước ta hồi giữa thập niên 1950. Vì thế, tôi không thể tin câu thơ đầy máu lạnh sau đây lại phát ra từ con tim của  Xuân Diệu – một nhà thơ tình :
“Thắp đuốc cho sáng khắp đường
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay
Lôi cổ chúng nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống đọa đầy chết thôi”
Các nhà lý luận đã chia nền văn học nước ta theo từng giai đoạn, hoặc theo dòng này, dòng kia.  Với riêng tôi, “Dòng hiện thực” (trước 1945) với những tên tuổi lớn như Ngô Tất Tố; Nguyễn Công Hoan;  Vũ Trọng Phụng ; Nam Cao v.v…là sáng giá nhất. Tác  phẩm của các ông, chứng tích bằng văn học của một thời khốn nạn sẽ còn mãi với thời gian và  những vấn đề đặt ra trong tác phẩm của các ông, cho đến nay hình như vẫn còn đó :
“Đã rằng Bá Kiến hết rồi
Mà sao anh Chí ba đời còn đây ?” (*)
Rõ ràng, trong đêm đen của “Tắt đèn”, trong hũ nút của “Bước đường cùng”, trong nhốn nháo, tha hóa, giả dối, đĩ điếm, lừa phỉnh, bịp bợp, mị dân, đạo đức giả … của “Số đỏ”, thời kỳ văn học này vẫn sản sinh được cho hậu thế những tên tuổi gắn liền với NHÂN CÁCH LỚN CỦA NGƯỜI CẦM BÚT.
Từng có người nói rất đúng rằng, nhà văn, nhà thơ  là do “Tổ chức Trời” phân công. Thực ra là trời  bắt “tội”, trời hành xác họ. Còn họ thì tự nguyện cho cái sự bắt tội và hành xác đó. Thế thì  thì khuynh hướng sáng tác, quyền sáng tác phải thuộc về chủ thể sáng tạo là họ.  Vậy tại sao cuối thập niên 1980 của thế kỷ trước, Nguyễn Minh Châu phải viết “lời ai điếu” cho một thời kỳ văn học? Có lẽ theo ông đó là thời “tụng ca,minh họa”. Nếu đúng vậy, thì  thành tựu của thời kỳ này giá trị thế nào, hoành tráng đến đâu, có lợi cho ai, gây hại cho cái gì, đã được thời gian sàng lọc, trả lời rồi. Mọi người đều biết cả.  Thiển nghĩ, dù Nguyễn Minh Châu không viết lời “ai điếu” thì những sản phẩm tụng ca, minh họa rẻ tiền một thời kiểu như … kiểu như … cũng sẽ lần lượt chết ngóm. Có những tên tuổi từng là trụ cột của nền văn học, nghệ thuật một thời  như  ông nhà văn  Nguyễn Khải, đến cuối đời mới giật mình “Đi tìm cái tôi đã mất”, như ông nhạc sỹ Tô Hải mới cay đắng nhận ra mình là “một thằng hèn” (cho dù là trường hợp “thằng hèn” của ông Tô Hải đang và sẽ được lớp hậu sinh kính trọng), thì  cũng  là quá muộn. Lấy ngay ví dụ về tác phẩm “Tầm nhìn xa” minh họa, tụng ca cho phong trào hợp tác hóa nông nghiệp của Nguyễn Khải. Không biết ông nhà văn này có “tầm nhìn” xa cỡ nào, được mấy tấc, mấy thước, mà ngay hồi ấy trong dân gian đã có vè chửi cái mô hình  hợp tác xã nông nghiệp “thằng còng làm, thằng ngay ăn” này rồi. Thôi thì “gặp thời thế, thế thời phải thế”, vì niêu cơm, vì mấy đấu gạo mà phải tụng ca, minh họa, còn cho là tạm  thông cảm được. Nhưng đến cái sự  văn “nô” hướng thượng, sun xoe, tới mức có cả một câu cửa miệng của người đời  ” thằng đéo lào mà lịnh thế ?”, thì không biết  còn có nền văn học thời hiện đại nào của nhân loại trên hành tinh này, nảy nòi ra được những văn sỹ như thế ? Vâng ! trăm năm bia đá cũng phải mòn . Nhưng những câu thơ “lịnh” mà tôi dẫn ra dưới đây của ông Tố Hữu, thì không biết đến kiếp nào “bia miệng”  thế gian mới hết nói lời xấu hổ ? Quả thật, bất cứ người Việt Nam nào có lòng tự trọng với  nguồn cội con Rồng cháu Tiên của mình, đều cảm thấy bị xúc phạm, khi  phải lướt mắt thôi ( đọc lên là nhục lắm, xấu hổ lắm).
Lúc Stalin chưa chết và rất có thể ông ta vừa ký chưa ráo mực những sắc lệnh khủng khiếp, khiến hàng chục ngàn người vô tội bị khủng bố, bị sát hại, hoặc bị đưa đi lưu đày ở Xibêri ( trong đó có cả những  văn nghệ sỹ nổi tiếng, sau này được nhận giải Nô ben). Chính Tổng thống Nga Putin cũng phải thừa nhận, rằng ” Những người bị thảm sát, khủng bố là những con người ưu tú nhất, có trí tuệ nhất và là những người can đảm nhất của nước Nga và Liên Xô thời đó”.  Vậy mà, không biết xuất phát từ tình cảm gì Tố Hữu, một nhà thơ của cách mạng lại có mấy câu thơ  hướng thượng, nghe vong bản đến buồn nôn  là : ” yêu biết mấy nghe con tập nói, tiếng đầu đời con gọi Stalin”. Còn khi Stalin chết, không biết có họ hàng hang hốc gì với ông ta không mà Tố Hữu, một người Việt Nam (chắc chắn là chưa hề được gặp Stalin) đã có thơ khóc với theo quan tài cách cả  hàng ngàn cây số đường chim bay, bằng những lời đại bất hiếu với người ruột thịt trực hệ của mình, thế này: ” Thương cha, thương mẹ, thương chồng. Thương mình thương một, thương ông thương mười”. Ôi! Lời thơ khóc mới thê lương, thảm thiết làm sao, nếu  át được tiếng phèng la, tiếng nhạc chói tai, nhức óc của đội  kèn đồng đưa đám, để Stalin nghe thấy, chắc “ngài” cũng thấy nhột, phải lập tức bật nắp quan tài ngồi dậy, mà rằng ” thằng đéo nào ở  đâu mà lịnh thế !”.
Khoảng thời gian 1985 – 1990, bắt đầu xuất hiện và sau đó người ta nói nhiều đến hai từ “cởi trói”. Nào là, cởi trói cho nền kinh tế; cởi trói cho nông dân, cởi trói cho … v.v. Và, văn nghệ  đã mừng húm vì cũng được “ban” cho hai từ “cở trói” này. Câu hỏi đặt ra là, ai đã “trói” văn nghệ ? “Trói” bằng cái gì ? Trả lời ư ! Ai cũng trả lời được, nhưng  không ai trả lời. Lại cũng không ai muốn/dám trả lời cái mà mình có thể trả lời. Bi kịch thế đấy. Nhưng cũng có người phán tỉnh queo,  rằng “có ai trói các anh đâu ! Tự các anh trói mình, rồi còn “trói” lẫn nhau đấy chứ ?”. Thế là thành bi, hài kịch. Than ôi! Có lẽ, chung quy  cũng tại bởi cái tư duy văn “nô” của cái sự văn “nô”.
Tôi đã mang tất cả  những “tản mạn” nói trên trao đổi với một bạn viết. Sau giây phút trầm ngâm, ông bảo ” Ừ ! kể cũng phải. Tiên trách kỷ hậu trách nhân, cái mình nghĩ trong đầu thì cường quyền, thời thế đéo nào “trói” được…. Chẳng qua là mình cứ tự huyễn hoặc mình, tự lừa mình, rồi lại mang cái sự lừa ấy để lừa nhân dân mình. Thế là giả dối, là khốn nạn, là lưu manh đấy ! “. Nghe ông nói, tôi giật mình nhớ đến bài thơ “Bi kịch hót” của anh Bùi Minh Quốc :
Tưởng bay ngàn dặm thơ
Hóa vòng vo nhảy nhót
Giữa cái  lồng rất to
Tự đan bằng tiếng hót.
Bài thơ chỉ có mấy dòng mà cứa vào ta  bao nỗi xót sa, cười ra nước mắt, thương cho con chim  không tự biết rằng, nó đang  “hót” theo, nhảy nhót theo, nhại theo lời ca và cái vũ điệu lăng nhăng, bát nháo, vô cảm của một thằng hề./.
(*) Thơ – Nguyễn Chính

http://hoingovanchuong.wordpress.com/2010/04/21/t%E


Nguyễn Chính, viết để dưỡng tâm, để được chia sẻ …

Giang Nam

Ở mảng văn học, Nguyễn Chính đã có “Giọt nắng” (tập thơ –NXB Hội Nhà Văn-  2005) ; “Hoa cỏ dại” (tập truyện ký - NXB Văn học – 2006); “Đôi mắt rồng” (tập truyện ngắn- truyện trào phúng và đoản bút - NXB Văn học – 2008 ). Trong thế giới ảo intenet, các truyện ngắn của anh như :  Lão Biền làng Ốc; Pho sách gia truyền ; Lão Dậu tò he … đã chiếm được nhiều cảm tình của bạn đọc trên các trang báo mạng. Nguyễn Chính có lối viết cô đọng, chắc khỏe, giàu hình ảnh liên tưởng, ảnh hưởng rất rõ của ngôn ngữ báo chí, đồng thời cũng thể hiện bản tính bộc trực của con người anh. Có thể nói, với Nguyễn Chính, văn, thơ, báo, nhạc  chính là người. Còn nhớ vào năm 1988, khi giới thiệu thơ Nguyễn Chính trên Tạp chí Cánh én, tôi đã có đôi dòng như sau : “ Từ một kỹ sư nông nghiệp, làm báo, anh trở thành người làm thơ. Anh đến với thơ trước hết như một nhu cầu giãi bày, tâm sự, đấu tranh cho chân lý, cho niềm tin của mình ( Sự thật cao hơn tất cả; Truyện cổ tích có từ bao giờ v.v… ). Có lẽ chính vì vậy mà thơ anh mang dáng dấp riêng : mạnh mẽ, sôi nổi, bùng nổ… đồng thời cũng còn dấu vết của sự vội vã, thiếu sâu lắng. Trong sự chuyển mình của văn học hiện nay, Nguyễn Chính  đã góp vào một tiếng nói trẻ trung, tự tin đáng quý… …

Từng có thời gian tham gia công tác văn nghệ thuộc Bộ đội Trường Sơn, Nguyễn Chính coi sáng tác ca khúc như một không gian yên tĩnh, sau những giờ phút lao động nghề nghiệp căng thẳng. Với bút danh Nguyễn Văn Chính, hầu hết gần một trăm ca khúc của anh đều đậm đà âm hưởng dân ca, cùng phần ca từ giàu hình ảnh, triết lý sâu sắc, thấm đẫm tình yêu quê hương, đất nước, con người … Nhiều người nhận xét, có lẽ vì cũng có làm thơ, nên khi phổ thơ, anh đã  “lấy” ra được nhạc tính của bài thơ đó. Vì thế, các nhà thơ sau khi nghe bài thơ của mình được “hát” lên, đã  rất thú vị khi cảm  nhận được sự đồng điệu giữa thơ và nhạc. Có thể kể ra các ca khúc : Bên dòng Đakbla ; Ru anh (thơ Trương Vĩnh Tuấn); Đẹp buồn và trong suốt như sương ( Thơ Lê Khánh Mai); Giữa Sài Gòn tìm bạn ( thơ Giang Nam); Tình ca hát một mình ; Ru mình (thơ Trần Chấn Uy); Lời thề bến xưa ; Hoa muống biển (thơ Kim Tuấn) Làng Bậm ơi! (thơ Nguyễn Văn Minh); Năm người đàn bà và tôi (thơ Bùi Đức Tú) ; Thương về quê mẹ đồng chiêm (thơ Xuân Tuynh); Nợ (thơ Trần Thị Nương); Ú tim, trốn tìm (thơ Phạm Dạ Thủy); Ngày không có thật (thơ Lê Nga)v.v… Tuy nhiên cho đến nay, mặc dù đã lấy bản quyền, nhưng  ngoài Bài ca Hoàng Sa – Trường Sa đã được dàn dựng thành hợp xướng, các ca khúc khác của Nguyễn Văn Chính chưa phổ biến được, vì lý do anh cho biết là “không có tiền” (?).

Hiện nay, ngoài công việc khá bận rộn làm phóng viên thường trú của báo Văn Nghệ (Hội Nhà Văn Việt Nam) tại các tỉnh nam Trung Bộ, Nguyễn Chính đã hoàn tất bản thảo tập thơ thứ hai “ Khoảng trời em” và hai tập ca khúc “Dấu xưa” ; “Quê mình lắt lẻo cầu tre”. Anh cũng đang chậm chạp hoàn thành tập truyện ký “Gió từ miền vô cảm” và tiểu thuyết “Bão thế kỷ và làng Tề bé nhỏ”. Mới nghe đã thấy ngay “gió” và “bão” rồi. Thôi thì cứ cầu mong cho anh được chân cứng đá mềm./.

Không có nhận xét nào: