Tản mạn
đôi dòng…”
Đăng bởi nguyentrongtao
Nguyễn Chính
Có lần tôi được
nghe ông K, một người rất mê đọc sách nói thế này : “Từ hơn ngàn năm
trước, Khổng Tử đã dạy học trò của mình rằng, đã là trí giả thì không thể bị u
mê, càng không thể vì mấy đấu gạo mà viết cho kẻ bất nhân …”. Tôi bảo : “
Chỉ vì được mấy đấu gạo mà viết cho bọn thất đức, thì là bồi bút rồi còn gì”.
Ông K bảo ” Đúng vậy ! nhưng lũ bồi bút lại được sinh ra từ cái sự văn nô”. Tôi
hỏi lại ” Văn nô là sao ?”. Ông K bảo ” Là sao, thì chú phải tìm hiểu.
Chỉ biết cái sự ấy nó làm hỏng cả một nền văn học. Nó biến không ít kẻ cầm bút
thành thứ mạt hạng. Nó …”. Tôi vội xua tay ” Thôi, thôi xin bác, xin bác,
em sẽ tìm hiểu, sẽ tìm hiểu…”. Ông K liền nhìn tôi như kẻ xa lạ, nhìn từ đầu
xuống chân, lại từ chân lên đầu, rồi chỉ vào tôi mà rằng : ” Nhìn chú
kìa, mới nghe thế mà đã, trên thì mặt xanh như đít nhái, dưới thì vãi cả
ra thế kia rồi, thì cầm bút thế đéo nào được”.
Hơn 20 năm đã
qua, ông K bây giờ đã thành người thiên cổ. Còn tôi cũng dần
ngộ ra rằng, thì ra cái sự “nô” ấy nó kinh khủng lắm. Cả một dân tộc, một đất
nước đã từng là nô lệ. Bị nhốt chung trong cái cũi khổng lồ ấy nào
là những nông nô, công nô, binh nô, trí nô và vân vân nô… Bằng núi xương,
sông máu, lật đổ được cái kiếp nô lệ ấy rồi, thì không ai lại ngu muội
chui đầu vào cãi cũi ấy nữa, trừ phi là bị phỉnh, bị lừa.
Còn cái sự văn
“nô” ? Thấy tôi cứ lúng túng dây nhợ như gà mắc tóc mãi, một đồng nghiệp đã
“đóng” vào tai tôi những lời như búa bổ : ” Nô, tức là cúc cung tận tụy, phụng
sự cho bề trên, cho ông chủ. Như kiếp chó ấy. Bề trên bảo sủa to thì sủa to,
bảo sủa nhỏ thì sủa nhỏ, bảo cắn thì cắn, thế thôi”. Nghe đồng nghiệp nói vậy
thì biết vậy, nghĩ mình phận ếch ngồi đáy giếng, đọc chưa được bao nhiêu, viết
cũng chẳng được bao nhiêu, lại toàn thứ vô bổ, chỉ đáng vứt sọt rác, nên nghe
lời ông K, tôi phải tự lần mò tìm hiểu …
Khi cụ Đồ Chiểu
vung bút với những câu âm vang như sấm ” Dù đui mà giữ đạo nhà …”, rồi ”
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” và khi cụ
Tản Đà đầy khí phách “Xuống ngọn bút mưa sa, bão táp, vạch câu thơ quỷ
thảm, thần kinh. Lũ mọt dân trừng trị bằng câu văn, người hiền sỹ tinh
biểu bằng ngòi bút…” v.v…, thì cái sự “nô” ấy đã phải bạt xa rồi. Chưa
hết, khi ở phương trời Âu đang ồn ào lý luận Mac-xít đưa quần chúng bần hàn lên
tận mây xanh, bằng việc tấn phong họ là ” những người chân chính sáng tạo ra
lịch sử”, thì cụ Tản Đà đã không ngần ngại chỉ thẳng ra cái sự thật
bi thảm và “giáng” một búa nẩy lửa vào cái đầu còn tăm tối và cả tin của
đồng bào mình, rằng ” Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn, Cho nên quân nó dễ làm
quan”. Thiển nghĩ, với thiên chức góp phần hướng thiện con người, tôn
vinh cái đẹp, thì người cầm bút phải tôn trọng sự thật, bảo vệ sự thật, vạch
mặt giả dối, mị dân, bịp bợm. Mọi sự tô hồng, bôi đen, bóp méo sự thật nhằm
phục vụ lợi ích của thiểu số kẻ cầm quyền, đều là kẻ thù của văn
chương. Sự chân thực là phẩm giá của ngòi bút nên rất cao quý và
thiêng liêng. Khi Liên Xô, thành trì của chủ nghĩa CS dưới thời Stalin
mặc dù có cả một bộ máy KGB khổng lồ, nhưng một học giả người Nga vẫn lớn
tiếng khẳng định ” Sự thật cao hơn tất cả, cao hơn nước Nga và cao hơn cả
Lê-nin “. Được biết, lý luận văn học Xô-viết còn đẻ ra cái gọi là “hiện
thực xã hội chũ nghĩa”, từng được các học giả Đông, Tây mổ xẻ xem nó là cái
giống gì ? Đã “hiện thực” lại còn hiện thực nọ, hiện thực kia nữa. Cái ấm
sứt vòi, nhìn từ mọi phía cũng không thể nào là cái bình pha lê được.
Đúng là rặt một thứ “ný nuận nồn”, như cách nói ngọng của một bà bán mắm
tôm nơi chợ quê. Cũng vậy, ở ta lâu nay còn có câu ” nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN”, một khái niệm không thể tìm thấy trong bất cứ
học thuyết Đông, Tây, kim cổ nào. Ngay cả cụ tổ của CNCS là Kar.Max
có tái thế chắc chắn cũng phải chào thua, không thể nào định nghĩa
nổi. Nên nhà thơ Trần Mạnh Hảo mới có câu thơ thật mỉa mai ” khái
niệm đưa ra không biết lối thu về”, là vì vậy.
Liên quan đến
cái sự văn “nô”, có một vấn đề từng được nêu ra từ mấy chục năm qua, nhưng bị
cho là “nhạy cảm” nên chỉ được “nhá xèng” lên tý rồi tịt luôn như pháo tịt
ngòi. Đó là quan hệ giữa văn học và chính trị. Còn nhớ khoảng cuối 1990, một
người bạn gặp tôi, hỏi : ” Này ! có một nhà thơ vừa đưa ra nhận xét là, văn học
nghệ thuật cao hơn chính trị và xa hơn chính trị. Ông thấy sao ?”. Tôi
liền khẳng định ngay : “Đúng ! đúng là như thế”. Không ngờ anh ta lồng lên ”
Đúng, đúng cái con khỉ. Ông lúc nào cũng nằm mơ. Xa hơn, cao hơn cái nỗi
gì. Chính trị là bố , là ông cố nội của văn học, thì có…”. Rồi anh dẫn ra nào
Tần Thủy Hoàng; Hítler ; Mao v.v… Tôi liền hỏi lại : ” Vậy mấy bạo chúa ấy sống
được 100 tuổi không ? Chết ngóm sau mấy chục năm cường quyền chứ gì ? Còn các
tác phẩm văn học, nghệ thuật đích thực, thứ thiệt, thì sống muôn đời”.
Và, để anh ta tâm phục, khẩu phục tôi đã lý giải nôm na thế này : Chính trị là
phạm trù lịch sử, có nay không có mai. Lịch sử phát triển xã hội loài người hết
chế độ này, thì đến chế độ khác. Triều đại nào thối nát, phản dân hại nước ắt
sẽ sụp đổ và bị triều đại khác thay thế. Còn văn học nghệ thuật thuộc phạm trù
vĩnh viễn. Các tác phẩm đích thực sẽ “bước” từ thời đại này qua
thời đại khác, trở thành tài sản vô giá của nhân loại và bất tử. Các tác phẩm
cổ điển, trung đại, cận đại v.v… là những minh chứng hùng hồn. Văn học
nghệ thuật chân chính phản ánh chân thực ước mơ và khát vọng của
nhân dân mình. Văn học, nghệ thuật chân chính (không phải thứ văn nô, bồi
bút) luôn chỉ ra cho chính trị biết phải làm gì, làm thế nào để an dân, để được
lòng dân. Bởi chính trị muốn tồn tại, thì phải được lòng dân. Nên văn học nghệ
thuật cao hơn chính trị là ở cái lẽ ấy, vân vân và vân vân …
Cái sự văn “nô”
còn liên quan đến bản lĩnh, khi phách người cầm bút. Phùng Quán , một nhà thơ
“Nhân văn giai phẩm” rất đáng kính từng có tuyên ngôn rằng ” Dù ai ngon ngọt
nuông chiều cũng không nói yêu thành ghét. Dù ai cầm dao dọa giết, cũng không
nói ghét thành yêu…”. Ông Trường Chinh (Sóng Hồng), nếu tôi nhớ không
nhầm cũng từng có câu : ” Lấy cán bút làm đòn xoay chế độ. Mỗi vần
thơ bom đạn phá cường quyền”. Theo tôi, Những câu thơ này của Phùng Quán và
Trường Chinh có giá trị thời đại rất cao, vì nói lên được bản lĩnh và tâm huyết
người cầm bút. Không biết, Hội Nhà Văn VN có cho dịch ra nhiều thứ tiếng để gửi
đến các văn nghệ sỹ đang phải sống trong những chế độ độc tài, phản dân
chủ tại Hội nghị giới thiệu văn học VN ra nước ngoài vừa qua, hay in ra
hàng ngàn bản cho bóng bay gửi lên kính cáo với trời đất, sông núi nước mình
trong Ngày “Đại lễ thơ VN” hoành tráng rằm tháng Giêng Canh Dần vừa rồi ? Nhân
đây xin nhắc lại một chuyện nhỏ. Trong một hội thảo ở Nha Trang về phát triển
nông nghiệp của một tỉnh miền Trung hồi cuối thập niên 1980. Giờ giải lao, cánh
nhà báo tụ tập ở hành lang, to nhỏ bàn chuyện trên giời, dưới đất, chuyện dân
dã, chuyện triều đình … Anh Bốn T, tuy là một cán bộ chủ chốt của tỉnh PY,
nhưng tỏ ra rất bình dân với cánh phóng viên, cũng đến góp chuyện. Chuyện
trò một hồi, bỗng anh trầm ngâm giây lát rồi phán một câu xanh rờn : ” Đúng là
cánh nhà văn, báo chí, văn nghệ sỹ chúng mày, thời nào cũng chống chính quyền
…”. Lập tức một đồng nghiệp trong chúng tôi trả lời ngay : ” Anh Bốn nhầm rồi !
Không phải chống chính quyền mà là chống cường quyền. Thời nào những người cầm
bút cũng chống lại cường quyền …”. Tất cả chúng tôi cùng cười vang tán
thưởng.
Lẽ thường người
cầm bút (nhà thơ, nhà văn v.v…) không thể làm điều ác, điều thất đức và càng
không thể dùng ngòi bút để bảo vệ cái ác. Những nhà văn, nhà thơ nào còn coi
CNCS là lý tưởng của đời mình , chắc càng không thể quên lời giáo huấn
của cụ Kar.Max, rằng ” Chỉ có loài súc vật mới quay lưng lại với số phận
người khác …”. Đến nay, ai cũng biết, “cải cách ruộng đất” từng được coi là ”
cuộc cách mạng long trời lở đất”, là một đại họa đối với nông dân và nông thôn
nước ta hồi giữa thập niên 1950. Vì thế, tôi không thể tin câu thơ đầy máu lạnh
sau đây lại phát ra từ con tim của Xuân Diệu – một nhà thơ tình :
“Thắp đuốc cho
sáng khắp đường
Thắp đuốc cho
sáng đình làng đêm nay
Lôi cổ chúng nó
ra đây
Bắt quỳ gục
xuống đọa đầy chết thôi”
Các nhà lý luận
đã chia nền văn học nước ta theo từng giai đoạn, hoặc theo dòng này, dòng
kia. Với riêng tôi, “Dòng hiện thực” (trước 1945) với những tên tuổi lớn
như Ngô Tất Tố; Nguyễn Công Hoan; Vũ Trọng Phụng ; Nam Cao v.v…là sáng
giá nhất. Tác phẩm của các ông, chứng tích bằng văn học của một thời khốn
nạn sẽ còn mãi với thời gian và những vấn đề đặt ra trong tác phẩm của
các ông, cho đến nay hình như vẫn còn đó :
“Đã rằng Bá Kiến
hết rồi
Mà sao anh Chí
ba đời còn đây ?” (*)
Rõ ràng, trong
đêm đen của “Tắt đèn”, trong hũ nút của “Bước đường cùng”, trong nhốn nháo, tha
hóa, giả dối, đĩ điếm, lừa phỉnh, bịp bợp, mị dân, đạo đức giả … của “Số đỏ”,
thời kỳ văn học này vẫn sản sinh được cho hậu thế những tên tuổi gắn liền với
NHÂN CÁCH LỚN CỦA NGƯỜI CẦM BÚT.
Từng có người
nói rất đúng rằng, nhà văn, nhà thơ là do “Tổ chức Trời” phân công. Thực
ra là trời bắt “tội”, trời hành xác họ. Còn họ thì tự nguyện cho cái sự
bắt tội và hành xác đó. Thế thì thì khuynh hướng sáng tác, quyền sáng tác
phải thuộc về chủ thể sáng tạo là họ. Vậy tại sao cuối thập niên 1980 của
thế kỷ trước, Nguyễn Minh Châu phải viết “lời ai điếu” cho một thời kỳ văn học?
Có lẽ theo ông đó là thời “tụng ca,minh họa”. Nếu đúng vậy, thì thành tựu
của thời kỳ này giá trị thế nào, hoành tráng đến đâu, có lợi cho ai, gây hại
cho cái gì, đã được thời gian sàng lọc, trả lời rồi. Mọi người đều biết
cả. Thiển nghĩ, dù Nguyễn Minh Châu không viết lời “ai điếu” thì những
sản phẩm tụng ca, minh họa rẻ tiền một thời kiểu như … kiểu như … cũng sẽ lần
lượt chết ngóm. Có những tên tuổi từng là trụ cột của nền văn học, nghệ thuật
một thời như ông nhà văn Nguyễn Khải, đến cuối đời mới giật
mình “Đi tìm cái tôi đã mất”, như ông nhạc sỹ Tô Hải mới cay đắng nhận ra mình
là “một thằng hèn” (cho dù là trường hợp “thằng hèn” của ông Tô Hải đang và sẽ
được lớp hậu sinh kính trọng), thì cũng là quá muộn. Lấy ngay ví dụ
về tác phẩm “Tầm nhìn xa” minh họa, tụng ca cho phong trào hợp tác hóa nông nghiệp
của Nguyễn Khải. Không biết ông nhà văn này có “tầm nhìn” xa cỡ nào, được mấy
tấc, mấy thước, mà ngay hồi ấy trong dân gian đã có vè chửi cái mô hình
hợp tác xã nông nghiệp “thằng còng làm, thằng ngay ăn” này rồi. Thôi thì “gặp
thời thế, thế thời phải thế”, vì niêu cơm, vì mấy đấu gạo mà phải tụng ca, minh
họa, còn cho là tạm thông cảm được. Nhưng đến cái sự văn “nô” hướng
thượng, sun xoe, tới mức có cả một câu cửa miệng của người đời ” thằng
đéo lào mà lịnh thế ?”, thì không biết còn có nền văn học thời hiện đại
nào của nhân loại trên hành tinh này, nảy nòi ra được những văn sỹ như thế ?
Vâng ! trăm năm bia đá cũng phải mòn . Nhưng những câu thơ “lịnh” mà tôi dẫn ra
dưới đây của ông Tố Hữu, thì không biết đến kiếp nào “bia miệng” thế gian
mới hết nói lời xấu hổ ? Quả thật, bất cứ người Việt Nam nào có lòng tự trọng với
nguồn cội con Rồng cháu Tiên của mình, đều cảm thấy bị xúc phạm, khi phải
lướt mắt thôi ( đọc lên là nhục lắm, xấu hổ lắm).
Lúc Stalin chưa
chết và rất có thể ông ta vừa ký chưa ráo mực những sắc lệnh khủng khiếp, khiến
hàng chục ngàn người vô tội bị khủng bố, bị sát hại, hoặc bị đưa đi lưu đày ở
Xibêri ( trong đó có cả những văn nghệ sỹ nổi tiếng, sau này được nhận
giải Nô ben). Chính Tổng thống Nga Putin cũng phải thừa nhận, rằng ” Những người
bị thảm sát, khủng bố là những con người ưu tú nhất, có trí tuệ nhất và là
những người can đảm nhất của nước Nga và Liên Xô thời đó”. Vậy mà, không
biết xuất phát từ tình cảm gì Tố Hữu, một nhà thơ của cách mạng lại có mấy câu
thơ hướng thượng, nghe vong bản đến buồn nôn là : ” yêu biết mấy
nghe con tập nói, tiếng đầu đời con gọi Stalin”. Còn khi Stalin chết, không
biết có họ hàng hang hốc gì với ông ta không mà Tố Hữu, một người Việt Nam
(chắc chắn là chưa hề được gặp Stalin) đã có thơ khóc với theo quan tài cách
cả hàng ngàn cây số đường chim bay, bằng những lời đại bất hiếu với người
ruột thịt trực hệ của mình, thế này: ” Thương cha, thương mẹ, thương chồng.
Thương mình thương một, thương ông thương mười”. Ôi! Lời thơ khóc mới thê
lương, thảm thiết làm sao, nếu át được tiếng phèng la, tiếng nhạc chói
tai, nhức óc của đội kèn đồng đưa đám, để Stalin nghe thấy, chắc “ngài”
cũng thấy nhột, phải lập tức bật nắp quan tài ngồi dậy, mà rằng ” thằng đéo nào
ở đâu mà lịnh thế !”.
Khoảng thời gian
1985 – 1990, bắt đầu xuất hiện và sau đó người ta nói nhiều đến hai từ “cởi
trói”. Nào là, cởi trói cho nền kinh tế; cởi trói cho nông dân, cởi trói cho …
v.v. Và, văn nghệ đã mừng húm vì cũng được “ban” cho hai từ “cở trói”
này. Câu hỏi đặt ra là, ai đã “trói” văn nghệ ? “Trói” bằng cái gì ? Trả lời ư
! Ai cũng trả lời được, nhưng không ai trả lời. Lại cũng không ai
muốn/dám trả lời cái mà mình có thể trả lời. Bi kịch thế đấy. Nhưng cũng có
người phán tỉnh queo, rằng “có ai trói các anh đâu ! Tự các anh trói mình,
rồi còn “trói” lẫn nhau đấy chứ ?”. Thế là thành bi, hài kịch. Than ôi! Có lẽ,
chung quy cũng tại bởi cái tư duy văn “nô” của cái sự văn “nô”.
Tôi đã mang tất
cả những “tản mạn” nói trên trao đổi với một bạn viết. Sau giây phút trầm
ngâm, ông bảo ” Ừ ! kể cũng phải. Tiên trách kỷ hậu trách nhân, cái mình nghĩ
trong đầu thì cường quyền, thời thế đéo nào “trói” được…. Chẳng qua là mình cứ
tự huyễn hoặc mình, tự lừa mình, rồi lại mang cái sự lừa ấy để lừa nhân dân
mình. Thế là giả dối, là khốn nạn, là lưu manh đấy ! “. Nghe ông nói, tôi giật
mình nhớ đến bài thơ “Bi kịch hót” của anh Bùi Minh Quốc :
Tưởng bay ngàn
dặm thơ
Hóa vòng vo nhảy
nhót
Giữa cái
lồng rất to
Tự đan bằng
tiếng hót.
Bài thơ chỉ có mấy dòng mà cứa vào
ta bao nỗi xót sa, cười ra nước mắt, thương cho con chim không tự
biết rằng, nó đang “hót” theo, nhảy nhót theo, nhại theo lời ca và cái vũ
điệu lăng nhăng, bát nháo, vô cảm của một thằng hề./.
(*) Thơ – Nguyễn Chính
http://hoingovanchuong.wordpress.com/2010/04/21/t%E
(*) Thơ – Nguyễn Chính
http://hoingovanchuong.wordpress.com/2010/04/21/t%E
Nguyễn Chính, viết để dưỡng tâm, để được chia sẻ …
Giang Nam
Ở mảng văn học, Nguyễn Chính đã có “Giọt nắng” (tập thơ –NXB Hội Nhà Văn- 2005) ; “Hoa cỏ dại” (tập truyện ký - NXB Văn học – 2006); “Đôi mắt rồng” (tập truyện ngắn- truyện trào phúng và đoản bút - NXB Văn học – 2008 ). Trong thế giới ảo intenet, các truyện ngắn của anh như : Lão Biền làng Ốc; Pho sách gia truyền ; Lão Dậu tò he … đã chiếm được nhiều cảm tình của bạn đọc trên các trang báo mạng. Nguyễn Chính có lối viết cô đọng, chắc khỏe, giàu hình ảnh liên tưởng, ảnh hưởng rất rõ của ngôn ngữ báo chí, đồng thời cũng thể hiện bản tính bộc trực của con người anh. Có thể nói, với Nguyễn Chính, văn, thơ, báo, nhạc chính là người. Còn nhớ vào năm 1988, khi giới thiệu thơ Nguyễn Chính trên Tạp chí Cánh én, tôi đã có đôi dòng như sau : “ Từ một kỹ sư nông nghiệp, làm báo, anh trở thành người làm thơ. Anh đến với thơ trước hết như một nhu cầu giãi bày, tâm sự, đấu tranh cho chân lý, cho niềm tin của mình ( Sự thật cao hơn tất cả; Truyện cổ tích có từ bao giờ v.v… ). Có lẽ chính vì vậy mà thơ anh mang dáng dấp riêng : mạnh mẽ, sôi nổi, bùng nổ… đồng thời cũng còn dấu vết của sự vội vã, thiếu sâu lắng. Trong sự chuyển mình của văn học hiện nay, Nguyễn Chính đã góp vào một tiếng nói trẻ trung, tự tin đáng quý…” …
Từng có thời gian tham gia công tác văn nghệ thuộc Bộ đội Trường Sơn, Nguyễn Chính coi sáng tác ca khúc như một không gian yên tĩnh, sau những giờ phút lao động nghề nghiệp căng thẳng. Với bút danh Nguyễn Văn Chính, hầu hết gần một trăm ca khúc của anh đều đậm đà âm hưởng dân ca, cùng phần ca từ giàu hình ảnh, triết lý sâu sắc, thấm đẫm tình yêu quê hương, đất nước, con người … Nhiều người nhận xét, có lẽ vì cũng có làm thơ, nên khi phổ thơ, anh đã “lấy” ra được nhạc tính của bài thơ đó. Vì thế, các nhà thơ sau khi nghe bài thơ của mình được “hát” lên, đã rất thú vị khi cảm nhận được sự đồng điệu giữa thơ và nhạc. Có thể kể ra các ca khúc : Bên dòng Đakbla ; Ru anh (thơ Trương Vĩnh Tuấn); Đẹp buồn và trong suốt như sương ( Thơ Lê Khánh Mai); Giữa Sài Gòn tìm bạn ( thơ Giang Nam ); Tình ca hát một mình ; Ru mình (thơ Trần Chấn Uy); Lời thề bến xưa ; Hoa muống biển (thơ Kim Tuấn) Làng Bậm ơi! (thơ Nguyễn Văn Minh); Năm người đàn bà và tôi (thơ Bùi Đức Tú) ; Thương về quê mẹ đồng chiêm (thơ Xuân Tuynh); Nợ (thơ Trần Thị Nương); Ú tim, trốn tìm (thơ Phạm Dạ Thủy); Ngày không có thật (thơ Lê Nga)v.v… Tuy nhiên cho đến nay, mặc dù đã lấy bản quyền, nhưng ngoài Bài ca Hoàng Sa – Trường Sa đã được dàn dựng thành hợp xướng, các ca khúc khác của Nguyễn Văn Chính chưa phổ biến được, vì lý do anh cho biết là “không có tiền” (?).
Hiện nay, ngoài công việc khá bận rộn làm phóng viên thường trú của báo Văn Nghệ (Hội Nhà Văn Việt Nam) tại các tỉnh nam Trung Bộ, Nguyễn Chính đã hoàn tất bản thảo tập thơ thứ hai “ Khoảng trời em” và hai tập ca khúc “Dấu xưa” ; “Quê mình lắt lẻo cầu tre”. Anh cũng đang chậm chạp hoàn thành tập truyện ký “Gió từ miền vô cảm” và tiểu thuyết “Bão thế kỷ và làng Tề bé nhỏ”. Mới nghe đã thấy ngay “gió” và “bão” rồi. Thôi thì cứ cầu mong cho anh được chân cứng đá mềm./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét