Ảnh 1: Quan lại nhà Thanh phủ lục trước bọn tây lông.
Mai Thanh Sơn
Ngay từ ngày đầu thực hiện cải cách mở cửa (1978), Trung Quốc đã bắt đầu thể hiện tham vọng toàn cầu. Từ khi trở thành cường quốc thứ 2 về kinh tế, khát khao bá chủ thế giới của Trung Quốc đã hoàn toàn bộc lộ rõ.
Lý giải về tham vọng Trung Quốc, nhiều người thường nghĩ ngay đến “tư tưởng Đại Hán”. Không sai. Ngay từ nhỏ, mọi đứa trẻ Trung Quốc đều đã được giáo huấn bằng “bát mục” mà mục tiêu cuối cùng là “bình thiên hạ”. Nhưng ít người biết rằng, cơn điên Trung Quốc còn có nguyên nhân khác nữa: sự bùng nổ của nỗi ẩn ức ngót ngàn năm.
Thực tế lịch sử cho thấy, từ năm 1271 đến năm 1911, Trung Quốc chỉ nằm dưới quyền thống trị của siêu tộc Hán 276 năm. Thời gian còn lại, đất nước Trung Hoa vĩ đại nằm dưới quyền thống trị của các tộc người thiểu số Mông Cổ và Mãn Thanh, đồng thời luôn chịu sự khinh khi của đám tây lông nhiều tàu to súng lớn. Năm 1271, triều đình nhà Tống thất thủ trước vó ngựa thiện chiến của đám thiểu số du mục Mông Thát. Triều đình nhà Nguyên được xây dựng và cai trị Trung Quốc ngót 1 thế kỷ. Năm 1368, Chu Nguyên Chương lật đổ nhà Nguyên, thiết lập lại trật tự Trung Quốc thuộc siêu tộc Hán. Nhưng đến năm 1644, nhà Đại Minh lại bị bát kỳ Mãn Thanh đánh bại hoàn toàn. Dòng họ Ái Tân Giác La của Mãn tộc thiểu số bắt đầu cai trị Trung Quốc từ đó cho đến năm 1911. Trong suốt mấy trăm năm nằm dưới sự thống trị của Mông Thát và Mãn Thanh, các tài tử văn nhân bụng đầy chữ cũng như những võ tướng tinh thông thập bát ban võ nghệ của siêu tộc Hán cúc cung tận tụy bưng bô cho giới quý tộc thiểu số Mông Mãn. Nỗi nhục có một không hai trên thế giới, cũng là nỗi nhục chưa từng có trong lịch sử Trung Hoa.
Chưa hết, từ sau chiến chiến tranh nha phiến lần thứ nhất (1842), Trung Quốc bắt đầu bị các nước tư bản phương Tây xâu xé. Bọn tây lông ép nhà Đại Thanh ký kết hết hiệp định này đến hiệp định khác, cơ bản là phải nhượng bộ đất đai và đặc biệt là các đặc quyền đặc lợi về kinh tế. Thậm chí, mấy “thằng” tây bé tí như Hòa Lan hoặc Bồ Đào Nha cũng nhảy vào chia phần và có thể chỉ mặt chửi mắng mấy anh Đại Thanh to xác mà hèn đớn. Khắp các tô giới của tây lông, đâu đâu cũng thấy những biến báo “Cấm chó và người Trung Quốc”.
Vẫn chưa hết, nỗi xỉ nhục đến từ các “chú lùn” Nhật Bản mới thực sự khó tiêu hóa. Sau chiến tranh Giáp Ngọ 1894, Trung Quốc Đại Thanh không chỉ mất hạm đội Bắc Dương hùng mạnh, mất thuộc quốc Triều Tiên, mà còn phải cắt đất Liêu Đông và bồi thường 200 triệu lạng bạc chiến phí cho Nhật Bản. Từ đó, Trung Quốc trở thành kèo dưới so với chư hầu cũ Nhật Bản. Người Nhật nghĩ ra cách làm nhục không thể thâm thúy hơn: dán lên trán Trung Hoa Đại Thanh 4 chữ “Đông Á bệnh phu” (kẻ yếu hèn bệnh hoạn ở Đông Á). Năm 1931, Nhật Bản bắt đầu chiếm vùng Hoa Bắc. Đến 1937, Nhật Bản đánh chiếm Lư Câu Kiều, chính thức đặt chân vào khu vực đầu não Trung Quốc. Từ đó đến tháng 9/1945, cuộc chiến Trung Nhật dằng dai khó phân thắng bại. Cả Quốc và Cộng của Trung Hoa đều không hề có chiến thắng đáng tự hào nào trước Nhật Bản. “Bách đoàn đại chiến” của Bành Đức Hoài cũng khó có thể coi là một chiến thắng quân sự. Nó là một phép thắng lợi tinh thần nhiều hơn. Trung Quốc chỉ thoát khỏi tử thần Nhật Bản nhờ sức mạnh của quân đội Đồng Minh và Liên Xô.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, nhất là từ sau 1949, Trung Quốc bắt đầu mon men trở lại bàn cờ chính trị quốc tế. Nhưng lúc này, sức mạnh quân sự cũng như kinh tế của Trung Quốc không đáng để Tây Âu và Bắc Mỹ quan tâm. Mấy vạn Chí Nguyện quân Trung Quốc nằm lại trên đất Triều Tiên cũng chỉ giành được quyền kiểm soát cho ông cháu nhà Kim Ủn đến vĩ tuyến 38. Một vài trận pháo kích sang đảo Mã Tổ chưa đủ sức gãi ghẻ Trung Hoa Dân Quốc của họ Tưởng. Trong các cuộc xung đột biên giới dằng dai với Liên Xô, Ấn Độ và Việt Nam, Trung Quốc không thể hiện được sức mạnh vượt trội. Bên kia đại dương, một Nhật Bản bại trận mà chỉ trong vòng 20 năm đã trở thành một cường quốc kinh tế. Người Trung Quốc ngứa cả 2 con mắt. To xác mà bất lực. Nỗi ẩn ức ngày càng chất chứa.
Dưới thời Mao và Đặng, Trung Quốc như con chó điên bị xiềng xích. Hàng ngày, nó được nuôi dưỡng bằng nỗi ẩn ức ngót ngàn năm và tẩm bổ bằng tư tưởng Đại Hán, nay đã chuyển thành Đại Trung Hoa. Đặng Tiểu Bình là kẻ mượn dao kéo phương Tây để mài nanh vuốt sắc nhọn hơn, nhưng Tập Cận Bình mới chính là người đã tháo xích cho con chó điên đó xổng chuồng.
Thế giới đang phải đối mặt với một con chó điên chất chứa nỗi uất hận ngót ngàn năm. Và thật không may, Việt Nam lại nằm gần tầm đớp của nó nhất. Nguy tai!
Ngay từ ngày đầu thực hiện cải cách mở cửa (1978), Trung Quốc đã bắt đầu thể hiện tham vọng toàn cầu. Từ khi trở thành cường quốc thứ 2 về kinh tế, khát khao bá chủ thế giới của Trung Quốc đã hoàn toàn bộc lộ rõ.
Lý giải về tham vọng Trung Quốc, nhiều người thường nghĩ ngay đến “tư tưởng Đại Hán”. Không sai. Ngay từ nhỏ, mọi đứa trẻ Trung Quốc đều đã được giáo huấn bằng “bát mục” mà mục tiêu cuối cùng là “bình thiên hạ”. Nhưng ít người biết rằng, cơn điên Trung Quốc còn có nguyên nhân khác nữa: sự bùng nổ của nỗi ẩn ức ngót ngàn năm.
Thực tế lịch sử cho thấy, từ năm 1271 đến năm 1911, Trung Quốc chỉ nằm dưới quyền thống trị của siêu tộc Hán 276 năm. Thời gian còn lại, đất nước Trung Hoa vĩ đại nằm dưới quyền thống trị của các tộc người thiểu số Mông Cổ và Mãn Thanh, đồng thời luôn chịu sự khinh khi của đám tây lông nhiều tàu to súng lớn. Năm 1271, triều đình nhà Tống thất thủ trước vó ngựa thiện chiến của đám thiểu số du mục Mông Thát. Triều đình nhà Nguyên được xây dựng và cai trị Trung Quốc ngót 1 thế kỷ. Năm 1368, Chu Nguyên Chương lật đổ nhà Nguyên, thiết lập lại trật tự Trung Quốc thuộc siêu tộc Hán. Nhưng đến năm 1644, nhà Đại Minh lại bị bát kỳ Mãn Thanh đánh bại hoàn toàn. Dòng họ Ái Tân Giác La của Mãn tộc thiểu số bắt đầu cai trị Trung Quốc từ đó cho đến năm 1911. Trong suốt mấy trăm năm nằm dưới sự thống trị của Mông Thát và Mãn Thanh, các tài tử văn nhân bụng đầy chữ cũng như những võ tướng tinh thông thập bát ban võ nghệ của siêu tộc Hán cúc cung tận tụy bưng bô cho giới quý tộc thiểu số Mông Mãn. Nỗi nhục có một không hai trên thế giới, cũng là nỗi nhục chưa từng có trong lịch sử Trung Hoa.
Chưa hết, từ sau chiến chiến tranh nha phiến lần thứ nhất (1842), Trung Quốc bắt đầu bị các nước tư bản phương Tây xâu xé. Bọn tây lông ép nhà Đại Thanh ký kết hết hiệp định này đến hiệp định khác, cơ bản là phải nhượng bộ đất đai và đặc biệt là các đặc quyền đặc lợi về kinh tế. Thậm chí, mấy “thằng” tây bé tí như Hòa Lan hoặc Bồ Đào Nha cũng nhảy vào chia phần và có thể chỉ mặt chửi mắng mấy anh Đại Thanh to xác mà hèn đớn. Khắp các tô giới của tây lông, đâu đâu cũng thấy những biến báo “Cấm chó và người Trung Quốc”.
Vẫn chưa hết, nỗi xỉ nhục đến từ các “chú lùn” Nhật Bản mới thực sự khó tiêu hóa. Sau chiến tranh Giáp Ngọ 1894, Trung Quốc Đại Thanh không chỉ mất hạm đội Bắc Dương hùng mạnh, mất thuộc quốc Triều Tiên, mà còn phải cắt đất Liêu Đông và bồi thường 200 triệu lạng bạc chiến phí cho Nhật Bản. Từ đó, Trung Quốc trở thành kèo dưới so với chư hầu cũ Nhật Bản. Người Nhật nghĩ ra cách làm nhục không thể thâm thúy hơn: dán lên trán Trung Hoa Đại Thanh 4 chữ “Đông Á bệnh phu” (kẻ yếu hèn bệnh hoạn ở Đông Á). Năm 1931, Nhật Bản bắt đầu chiếm vùng Hoa Bắc. Đến 1937, Nhật Bản đánh chiếm Lư Câu Kiều, chính thức đặt chân vào khu vực đầu não Trung Quốc. Từ đó đến tháng 9/1945, cuộc chiến Trung Nhật dằng dai khó phân thắng bại. Cả Quốc và Cộng của Trung Hoa đều không hề có chiến thắng đáng tự hào nào trước Nhật Bản. “Bách đoàn đại chiến” của Bành Đức Hoài cũng khó có thể coi là một chiến thắng quân sự. Nó là một phép thắng lợi tinh thần nhiều hơn. Trung Quốc chỉ thoát khỏi tử thần Nhật Bản nhờ sức mạnh của quân đội Đồng Minh và Liên Xô.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, nhất là từ sau 1949, Trung Quốc bắt đầu mon men trở lại bàn cờ chính trị quốc tế. Nhưng lúc này, sức mạnh quân sự cũng như kinh tế của Trung Quốc không đáng để Tây Âu và Bắc Mỹ quan tâm. Mấy vạn Chí Nguyện quân Trung Quốc nằm lại trên đất Triều Tiên cũng chỉ giành được quyền kiểm soát cho ông cháu nhà Kim Ủn đến vĩ tuyến 38. Một vài trận pháo kích sang đảo Mã Tổ chưa đủ sức gãi ghẻ Trung Hoa Dân Quốc của họ Tưởng. Trong các cuộc xung đột biên giới dằng dai với Liên Xô, Ấn Độ và Việt Nam, Trung Quốc không thể hiện được sức mạnh vượt trội. Bên kia đại dương, một Nhật Bản bại trận mà chỉ trong vòng 20 năm đã trở thành một cường quốc kinh tế. Người Trung Quốc ngứa cả 2 con mắt. To xác mà bất lực. Nỗi ẩn ức ngày càng chất chứa.
Dưới thời Mao và Đặng, Trung Quốc như con chó điên bị xiềng xích. Hàng ngày, nó được nuôi dưỡng bằng nỗi ẩn ức ngót ngàn năm và tẩm bổ bằng tư tưởng Đại Hán, nay đã chuyển thành Đại Trung Hoa. Đặng Tiểu Bình là kẻ mượn dao kéo phương Tây để mài nanh vuốt sắc nhọn hơn, nhưng Tập Cận Bình mới chính là người đã tháo xích cho con chó điên đó xổng chuồng.
Thế giới đang phải đối mặt với một con chó điên chất chứa nỗi uất hận ngót ngàn năm. Và thật không may, Việt Nam lại nằm gần tầm đớp của nó nhất. Nguy tai!
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét