Suốt cuộc đời, đôi khi chỉ một hay đôi ba nghệ phẩm cũng đủ hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp của một nghệ nhân. Trường hợp đó đúng với Văn Cao. Nhắc đến ông, là nhắc đến Thiên Thai, Trương Chi, Tiến Quân Ca. Nhưng nếu Thiên Thai réo rắc xa vắng đánh dấu một thời kỳ lãng mạn của ảo mộng thì Tiến Quân Ca lại là thực tế của một thời đại tàn nhẫn ngập máu và nước mắt. Văn Cao ở đâu giữa hai cực điểm ấy? Đi kiếm câu trả lời, sẽ chỉ tìm thấy những đối cực: Phía bên này ví ông với Lục Chỉ Cầm Ma, một nhân vật hư cấu trong truyện Chưởng sử dụng Bát Âm Thiên Long đánh những ngón đàn làm tổn thương tâm thần người nghe; phía bên kia không hiếm những tôn vinh Văn Cao là nghệ sĩ lớn nhất, vị thánh của các cung bậc trần gian. Văn Cao ở đâu? Nhất định không ở vị trí của người đời gán ghép, mỗi nghệ nhân đều chọn cho mình một thái độ sống, cách giao tiếp với cuộc đời, trong đó, họ sống riêng với nghệ phẩm.
Văn Cao ở thời điểm hôm nay nhìn lại, nghệ phẩm của ông vẫn nằm ở hai cực điểm: ảo mộng và thực tế. BởiThiên Thai, trước nhất là một giấc mộng. Giấc mộng không chỉ của riêng Văn Cao nhưng của cả đất nước. Lên cõi tiên, nơi không còn đói khát, nơi hết khổ đau, nơi chỉ có hạnh phúc. Văn Cao đã ước mơ và thay chúng ta diễn tả thành lời. Có lẽ chưa có một nhạc phẩm nào khác Thiên Thai, biểu đạt thành công cho bằng giấc mơ của dân tộc. Nhưng nếu tài hoa của nghệ nhân giữ cho âm hưởng của nhạc sống mãi, tiếng réo rắc chưa bao giờ tắt, lâu lâu còn bất chợt vọng về, thì định mệnh của Thiên Thai cũng nằm trong nỗi xa vắng, thứ âm giai mênh mang, âm điệu lưu luyến, vấn vương thường bắt gặp trong thần thái của các sáng tác Văn Cao. Xa vắng, vấn vương là chỉ sự mất mát. Thiên Thai là một giấc mộng đánh mất. Nửa thế kỷ trôi qua, chắc hẳn Văn Cao cũng đã nhận ra sự mất mát ấy, không còn nghệ phẩm nào của Văn Cao vượt qua đượcThiên Thai, cũng không còn giấc mộng nào lớn hơn Thiên Thai, và chưa lúc nào giấc mơ của dân tộc xa ngoài tầm tay bằng.
Viết Tiến Quân Ca, Văn Cao bước ra từ ảo mộng vào thực tế. Một thực tế của sắt thép và máu. Mỗi nghệ nhân trong cuộc sống đều chấp nhận hủy hoại. Ở bên này, rất đông người trách Văn Cao đã tự hủy đi rất nhiều khi phục vụ chính trị. Làm Nghệ thuật phải khác với làm văn công. Vì sao Văn Cao chấp nhận viết Dưới ngọn cờ Giải phóng, rồi ca khúc Ca Ngợi Hồ Chủ Tịch, xưng tụng “tiếng Người còn dịu dàng như tiếng đất trời…”? Với phía bên kia, Văn Cao vẫn luôn là một thần tượng, dù trong cõi mộng hay cõi thực. Tiến Quân Canhư tiếng sóng gầm, bừng bừng trỗ i dậy thác lũ của một dân tộc nô lệ. Quyết chiến! Ra trận! Đổ Máu! Phía xưng tụng chưa bao giờ muốn kiểm tra những gì Tiến Quân Ca đem đến.
Nghệ nhân đồng nghĩa với đam mê. Văn Cao bước ra từ ảo mộng vào thực tế cũng với tất cả đam mê. Say sưa đem hết tài hoa để viết Sông Lô, Tiến Về Hà Nội, Gò Đống Đa là những hùng ca cùng với Tiến Quân Cađã góp phần cho chiến thắng. Từ đó, không thiếu những ý kiến cho rằng chúng ta nợ Văn Cao một món nợ tinh thần. Từ lãng mạn đến hùng ca, đất nước đã yêu, đã mơ mộng, đã chiến đấu bằng âm nhạc của Văn Cao. Đến đây, một cách thẳng thắn, Nốt Nhạc Trương Chi được viết với lòng quý trọng nghệ nhân nhưng cùng lúc là để phản bác ý niệm về món nợ Văn Cao – trong đó có món nợ Tiến Quân Ca.
Quốc thiều của đất nước do biến động lịch sử đã có ít nhất ba bản: Tiến Quân Ca, Giải Phóng Miền Nam, Tiếng Gọi Công Dân mà có lẽ nhiều mươi triệu dân Việt hôm nay không ai còn giữ được khách quan, trung tính khi cảm nhận, vì sự trung thực đã bị biến dạng xuyên qua quá khứ của mỗi vùng đất mình sinh sống. Dù cố gắng, nhưng chắc chắn những dòng chữ viết ra sẽ thiên lệch, không biểu trưng cho tâm tình của tất cả, những ai sinh ra ở miền Bắc hay theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam sẽ ít chia sẻ. Do vậy, chỉ là tâm trạng riêng của một người viết mà suốt quãng thời niên thiếu đã tập hát cả ba bản quốc thiều này.
***
Trong ba bản quốc ca sau cùng của đất nước, đối với thế hệ sinh sau trong miền Nam, phải hát mỗi sáng thứ hai, thì có lẽ Tiến Quân Ca là kém hùng tráng nhất. Khác với âm điệu dồn dập kêu gọi nức lòng liên tục không ngớt trong Tiếng Gọi Công Dân của Lưu Hữu Phước, Tiến Quân Ca mang nhịp điệu lê thê. Một trong những lý do chính của sự lê thê ấy, là do nhịp nghỉ quá nhiều, gần như sau mỗi câu. Nhịp ngắt trong Tiếng Gọi Công Dân vẫn có, nhưng chỉ là nhịp ngắt giúp lấy hơi tiếp tục hát. Kể từ sau vế đầu “Này công dân ơi quốc gia đến ngày nguy biến…” gần như Lưu Hữu Phước không cho phép người hát ngưng nghỉ một giây phút nào, “đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống/ vì tương lai quốc dân cùng xông pha khói tên/ làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền/ Dù cho thây phơi trên gươm giáo/ Thù nước lấy máu đào đem báo…” Những mệnh đề theo nhau liên tục, mạnh mẽ, tiếp nối cuồn cuộn kêu gọi bừng bừng không dứt cho đến giây phút cuối cùng. Tính chất kích động, hào khí và dũng cảm hy sinh rất mạnh trong lời nhạc. Người hát như phải trút hết nhiệt huyết không dừng được. Tiến Quân Ca của Văn Cao hoàn toàn không có được hùng khí đó, từ lời cho đến nhịp. Toàn bản nhạc là những nhịp ngưng nghỉ quá đều đặn: “Đoàn quân Việt Nam đi (..) chung lòng cứu quốc (..) Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa (..) Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước (..) Súng ngoài xa chen khúc quân hành ca (..) Đường vinh quang xây xác quân thù (..) Thắng gian lao cùng nhau lập chiến khu (..)” Tiến Quân Ca không đem đến hiệu ứng bốc cháy trong lòng người hát. Không khiến thanh niên học sinh cảm giác phải
lao đến trước, bất chấp hiểm nguy để cứu tổ quốc. Sự khác biệt giữa Lưu Hữu Phước và Văn Cao còn nằm trong hình ảnh nhạc. Nếu Tiếng Gọi Công Dân là lời kêu gọi, khởi hành, lên đường, thì trong Tiến Quân Ca, âm hưởng chung là mọi sự đã an bài, đã xong, chỉ còn lác đác tiếng súng xa trên đường về mật khu để nghỉ ngơi. Và nếu mệnh đề cuối “Nước non Việt Nam ta vững bền” mang ý niệm kiểm chứng nhiều hơn là mục đích phải đạt đến, thì mệnh đề đầu “chung lòng cứu quốc” giống một lời tự trấn an nhau hơn là một khẳng định. Nếu trong Tiếng Gọi Công Dân là kêu gọi xả thân, hy sinh, làm nhiệm vụ của mọi công dân trước tình huống lâm nguy của đất nước, thì Tiến Quân Ca chỉ là một hùng ca của một tập thể được xác định rõ rệt là quân đội, những công dân khác không được nhắc đến. Tầm vóc và ý nghĩa của Tiến Quân Ca do vậy, không bằngTiếng Gọi Công Dân. Tất nhiên bản gốc của Tiếng Gọi Công Dân là Tiếng Gọi Thanh Niên, nhưng một khi đã trời thành quốc ca của miền Nam thì vĩnh viễn là Tiếng Gọi Công Dân.
***
Với “thu ru bến sóng vàng” trong Sông Lô là trường ca viết cho chiến khu Việt-Bắc, hoặc những “dư âm mênh mông” trong Chiến sĩ Việt Nam, Văn Cao bước ra từ cõi mộng vào cõi thực vẫn với tâm hồn nhiều lãng mạn, giàu cảm xúc, chứa chan vương vấn, luyến lưu và hoài cổ. Tất cả ưu điểm làm nên nhạc tình Văn Cao đều dựa trên nỗi buồn tiếc nhớ, những thương cảm, một chút hoài niệm, một chút xa vắng mà ý thức hay không Văn Cao đã đem vào nhạc hùng. Khiến, người nghe luôn bắt gặp, dù rất mơ hồ nhưng cũng đầy bảng lãng chất u hoài buồn bã thấm sâu trong nhạc hùng Văn Cao. Những hùng ca chưa bao giờ thực sự hùng tráng. Nhưng dù không hùng tráng, Văn Cao không viết hùng ca để kêu gọi hận thù. Ông viết hùng ca với tâm hồn một nghệ sĩ.
Trở lại với Tiến Quân Ca, nếu những đóng góp cho Mặt trận Việt Minh trong giai đoạn chiến tranh Việt-Pháp là có thực, thì giai đoạn sau không còn đúng nữa. Trong nội chiến Nam-Bắc vừa qua, bất kỳ nỗ lực nào cũng không thể gọi là đóng góp, khi hậu quả chỉ là tương tàn và phân ly. Đất nước không kêu gọi đóng góp để gây xương máu. Cuộc chiến trong Nam, ít nhiều là tự vệ. Tiếng Gọi Công Dân là tiếng kêu gọi tự vệ. Tiến Quân Calúc đó là tiếng kèn thúc thanh niên vào chỗ chết, cho một ý đồ thôn tính. Kiêu hãnh với Tiến Quân Ca ở giai đoạn sau, là một kiêu hãnh phi lý.
Sau 30 tháng 4, trong ba bản quốc thiều, có lẽ Giải Phóng Miền Nam cũng của Lưu Hữu Phước là ít được chấp nhận nhất, bởi tính chất hung bạo, dã man, kêu gào căm thù và chém giết. Tiếng Gọi Công Dân bị khai tử nhưng Tiến Quân Ca cũng không còn mang tính chất thiên liêng, âm vang giành độc lập của những ngày đầu kháng Pháp. Nếu Giải Phóng Miền Nam đã được hát trong sợ sệt gần như hãi hùng lúc ban đầu, thì Tiến Quân Ca về sau được hát với tâm trạng uể oải nếu không là thờ ơ. Làm sao không dửng dưng hay không chán chường khi nhà có cha, anh đi học tập không biết ngày tha, nhà bị đóng chốt đánh tư sản hay thuộc diện đi Kinh tế Mới? Cuộc thống nhất hai miền đã không đem lại gì cho đất nước, ngoài một bộ phận chiến thắng vụt giàu sang. Món nợ Tiến Quân Ca, do đó, chưa bao giờ là món nợ của 30 triệu người miền Nam.
Viết “Chúng ta nợ Văn Cao một món nợ tinh thần,” như cách viết của những người tả khuynh, là một áp đặt và đánh tráo khổ đau. Nếu thực sự có một món nợ, thì chúng ta nợ Buồn Tàn Thu, Suối Mơ, Trương Chi, Cung Đàn Xưa … nhưng không nợ Tiến Quân Ca. Và, sau nữa, khơi dậy khái niệm “món nợ,” là một khơi dậy sai lầm. Nghệ nhân khi đến với cuộc sống, luôn đến bằng tâm tình hiến dâng, trao tặng thân xác, lẫn tâm hồn để tạo dựng cái đẹp. Người viết tiểu thuyết, nhạc sĩ, họa sĩ, thi sĩ, kẻ điêu khắc khi tạo dựng tác phẩm không trả giá với cuộc đời, không đòi hỏi phải đền đáp cân xứng. Văn Cao hẳn đến với cuộc đời trong tinh thần ấy. Ông không muốn nợ ai, cũng không muốn ai nợ ông. Giống Trương Chi cất tiếng sáo cao vút giữa nền trời đêm, trên mặt con sông Tiêu Tương lấp lánh ánh sao mờ đã không muốn người đời nhìn thấy chân dung đích thực của mình, chỉ cống hiến giọng hát và tiếng sáo cho không gian, để làm đẹp không gian, để cỏ cây, vạn vật thêm rung cảm. Văn Cao giữa hai cõi mộng và thực, giữa Thiên Thai và Tiến Quân Ca, chính là Trương Chi ở nốt nhạc chiều bơ vơ lúc thu vừa sang. Một Trương Chi không được đền đáp xứng đáng, dù tài hoa. Một Trương Chi có thể chết, có thể tự hủy nhưng tiếng sáo không bao giờ tắt.
Trương Chi đã tuyệt vọng khi va chạm thực tế, vì Mỵ Nương không đoái hoài. Văn Cao đã không được trọng dụng mà còn phải gánh trong mình thêm bi kịch: Tiến Quân Ca của chính ông cất lên nơi nào, thì giấc mơThiên Thai của ông tắt ngấm nơi ấy. Tiến Quân Ca lan đến đâu, hát vang phố phường nào, hát vang chốn nào, thì Thiên Thai biến mất chốn ấy.
Chúng ta không nợ Văn Cao trong cõi thực nhưng yêu mến và tôn trọng giấc mộng Thiên Thai của Văn Cao ở cõi mơ. Giấc mộng vẫn xa tầm tay dân Việt.
TV, tháng 10-1992
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét