Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 18 tháng 12, 2017

50 năm Vụ án “Xét lại chống Đảng” (phần 1)


Phan Ba
Bối cảnh lịch sử
Sau khi Stalin qua đời năm 1953, Nikita Khrushchev lên nắm chức vụ bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản Liên xô. Tại Đại hội lần thứ 22 của Đảng, Khrushchev đọc bài diễn văn phê phán việc sùng bái cá nhân Stalin (“Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó”). Nguyên tắc “chung sống hòa bình” bắt đầu xuất hiện trong các bài diễn văn của Khrushchev từ 1955. Ông tuyên bố rằng, mục tiêu bây giờ là chiến thắng chủ nghĩa tư bản trước hết bằng kinh tế và rồi bắt đầu thực hiện một loạt cải cách.
Ông Hoàng Minh Chính suốt đời kêu gọi đấu tranh và đã nhiều lần bị cầm tù
Ông Hoàng Minh Chính suốt đời kêu gọi đấu tranh và đã nhiều lần bị cầm tù
Các ý tưởng mới này của Liên Xô thâm nhập về Việt Nam qua nhiều đường. Hàng trăm sinh viên Việt Nam đã được gửi qua Liên Xô học bắt đầu từ năm 1954 và ít nhiều đều chịu ảnh hưởng của làn gió mới trên chính trường Xô viết. Một trong những người này là Hoàng Minh Chính, học tại trường Đảng ở Moscow từ 1957 đến 1960. Bên cạnh đó là giới trí thức trong nước ở miền Bắc. Tuy người dân miền Bắc, theo thông tín viên Đông Đức Kapfenberger, “…thuộc trong số những người dân được thông tin tồi tệ nhất…”[1], nhưng giới trí thức thông thạo tiếng Pháp và tiếng Nga vẫn còn có thể tiếp cận được với báo chí tiếng Nga và tiếng Pháp xuất bản từ Liên xô. Một nguồn thông tin khác là văn phòng của Thông tấn xã Liên xô tại Hà Nội mà người Việt vào thời gian đó vẫn còn có thể ra vào tương đối không bị cản trở. Thêm nữa, người Việt còn có thể tiếp xúc thường xuyên và tương đối tự do với một số người nước ngoài như với người Đức Erwin Bochers, người Pháp Albert Clavier. Đặc biệt Erwin Bochers và thông tín viên Đông Đức sau này Pommerening đều thường xuyên tiếp xúc với nhiều người như với Lê Liêm, Vũ Đình Huỳnh, Dương Bạch Mai và Phạm Viết. (Sau này chính Bochers cũng bị nghi ngờ là thuộc “thành phần xét lại”, Lê Liêm  bị cách chức và bị quản thúc tại gia, Dương Bạch Mai chết trong hoàn cảnh hết sức đáng ngờ năm 1964, còn Vũ Đình Huỳnh và Phạm Viết thì bị bắt năm 1967. Phạm Viết chết trong tù năm 1971.)
Những năm đầu tiên của thập niên 1960 ở miền Bắc
Qua đó, từ những năm đầu thập niên 1960, trong Đảng Lao Động và trong giới trí thức ở miền Bắc bắt đầu thành hình một nhóm người nghiên theo chính sách chung sống hòa bình và tương đối cởi mở hơn của Liên bang Xô viết. Đứng đối nghịch lại với họ là phe nhóm đứng dưới quyền Lê Duẩn, chịu ảnh hưởng của tư tưởng Mao Trạch Đông, kiên quyết không chung sống hòa bình với chủ nghĩa tư bản và chủ trương tiến chiếm miền Nam thống nhất đất nước bằng bạo lực vũ trang.
Những người chống lại chính sách “chủ chiến” của phe Lê Duẩn – Lê Đức Thọ thường là giới trí thức hoặc chuyên môn, nhiều người đã từng học tại Liên Xô, đều thông thạo ngoại ngữ ví dụ như Tạ Quang Bửu và Bùi Công Trừng (cả hai người là Phó Chủ nhiệm  Ủy ban Khoa học Nhà nước), Hoàng Minh Chính (Viện trưởng Viện Triết học Mác-Lênin), Minh Tranh (Giám đốc nhà xuất bản Sự Thật), Nguyễn Kiến Giang (Phó giám đốc nhà xuất bản Sự Thật) và nhiều cán bộ cao và trung cấp quanh Võ Nguyên Giáp.
Một trong những câu hỏi chính gây nhiều tranh cãi giữa hai phe phái là câu hỏi về chiến lược thống nhất đất nước. Một số trí thức ủng hộ đường lối chung sống hoà bình và phản đối việc dùng bạo lực vũ khí để thống nhất đất nước vì họ e ngại phải hy sinh quá lớn. Tuy vậy, họ không dám phản đối công khai chiến lược tiến hành chiến tranh để thống nhất đất nước của Lê Duẩn-Lê Đức Thọ-Nguyễn Chí Thanh. Lúc đó, chỉ cần đề cập đến “thống nhất trong hoà bình” là đã nguy hiểm rồi.[2] Thường thì những người này chỉ bày tỏ ý muốn đi tìm một khả năng thống nhất hai miền Nam Bắc phù hợp với chính sách chung sống hoà bình của Liên Xô. Người duy nhất công khai ủng hộ không úp mở chính sách chung sống hoà bình là Hoàng Minh Chính.
Minh Tranh, Giám đốc nhà xuất bản Sự Thật, qua một bài viết trong tháng 10 năm 1960 cũng hé lộ sự bất đồng quan điểm của mình. Ông cho rằng phải dành ưu tiên cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc trước và trong đấu tranh chống chính phủ Ngô Đình Diệm thì nhân dân miền Nam cần phải dựa trên sức lực của mình là chính. Minh Tranh đã đóng một vai trò đặc biệt trong xung đột với phe “chủ chiến” của Lê Duẩn. “Ông nổi lên như người phát ngôn chính cho những người hoài nghi chiến lược miền Nam của Lê Duẩn.”[3]
Bài viết của Trường Chinh trong tờ Học Tập tháng 4 năm 1961 cũng đi theo cùng một đường hướng. Trường Chinh nhấn mạnh rằng nhân dân miền Nam là sức mạnh đấu tranh chống chế độ Diệm và Hoa Kỳ trực tiếp, trong khi miền Bắc phải tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời ông cũng phê bình rằng có vài đồng chí vẫn còn chưa hiểu hết tính chất khó khăn, phức tạp và lâu dài của cuộc cách mạng ở miền Nam. Sang đến năm 1962, Trường Chinh đã nhờ Trần Đĩnh viết hồi ký với ý định dùng nó để “phất cờ tập hợp” về phe ông. Nhưng sau đó, Trường Chinh không dùng đến quyển hồi ký vì biết mình đã thua phe Lê Duẩn[4].
Năm 1961 cũng là năm tác phẩm “Chiến tranh Nhân dân, Quân đội Nhân dân” của Võ Nguyên Giáp ra đời. Trong đó Giáp rút ra bài học từ cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp, rằng sự chuyển tiếp từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh vũ trang phải được chuẩn bị kỹ lưỡng và dài lâu. Với trọng tâm thành lập một nền tảng đấu tranh chính trị thay vì bước quá sớm vào giai đoạn tấn công quân sự, Giáp bước ra xa khỏi chiến lược thống nhất bằng vũ lực quân sự của phe Lê Duẩn. Vì thái độ cẩn trọng này này mà những năm sau đó, ông bị Lê Duẩn và phe của Lê Duẩn cho là “hèn”, “rụt rè”, thậm chí còn có tư tưởng “hữu khuynh”.[5]
Thêm vào đó, nhiều tiếng nói từ tầng lớp cán bộ trung cấp và từ giới trí thức ở miền Bắc cũng đã yêu cầu có “nhiều dân chủ hơn”. Thế nhưng đứng trước tình hình căng thẳng ở miền Bắc và trước việc đất nước bị chia cắt, những yêu cầu này của họ dễ dàng bị xem là chống lại công cuộc tái thống nhất đất nước. Thông tín viên Đông Đức Pommerening tường thuật trong tháng 11 năm 1961 về trụ sở chính của ADN (Thông tấn xã Đông Đức) rằng nhiều nhân vật trí thức Hà Nội thường hay lui tới ngôi nhà Thông Tấn Xã Đông Đức mà “đồng chí Chiến Sỹ” (tức Erwin Borchers) vẫn còn sống trong đó và biểu lộ ý muốn có nhiều nguyên tắc dân chủ hơn nữa trong Đảng. Nhưng ý muốn này rõ ràng chỉ muốn “có nhiều dân chủ” hơn trong khuôn khổ của hệ thống chính trị cộng sản , chứ không muốn phá bỏ hệ thống đó.
Bắt đầu chiến dịch chống “Chủ nghĩa Xét lại” ở miền Bắc
Từ trái sang: Thành viên của Bộ Chính trị Đảng Lao Động Việt Nam Lê Đức Thọ, phi hành gia Boris Yegorov, phi hành gia Vladimir Komarov, Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng, và phi hành gia Konstantin Feokistov tại Nga ngày 01/1/1964
Từ trái sang: Thành viên của Bộ Chính trị Đảng Lao Động Việt Nam Lê Đức Thọ, phi hành gia Boris Yegorov, phi hành gia Vladimir Komarov, Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng, và phi hành gia Konstantin Feokistov tại Nga ngày 01/1/1964
Sang năm 1963, cuộc xung đột giữa hai phe bùng nổ lớn. Mở đầu cho cuộc tranh cãi này là bài báo của Minh Tranh, giám đốc Nhà Xuất Bản Sự Thật trong tờ Học Tập tháng 2 năm 1963. Bài báo bày tỏ sự lo ngại về việc đẩy mạnh việc tái thống nhất đất nước. Hoa Kỳ là một thế lực kinh tế và quân sự mạnh hơn thực dân Pháp trước đây rất nhiều và với sự hiện diện của 10.000 cố vấn Mỹ ở miền Nam Việt Nam, tình hình đã thay đổi. Minh Tranh cũng cảnh báo không nên xem thường các “định luật khách quan” của cách mạng và không nên coi trọng ý muốn chủ quan của con người quá nhiều. Đây là một lời phê bình hướng thẳng đến Tổng Bí thư Lê Duẩn và Tướng Nguyễn Chí Thanh, những người dựa vào các lập luận của Mao Trạch Đông và nhấn mạnh đến ý chí của con người trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù vượt trội về vật chất.
Tháng 4 năm 1963, tờ Học Tập in một bài diễn văn của Lê Duẩn đọc tại Trường Đảng. Trong bài diễn văn này, Lê Duẩn phát biểu chống “Chủ nghĩa Xét lại Nam Tư” và cảnh báo “chủ nghĩa đầu hàng” trước “kẻ thù giai cấp”. Theo Lê Duẩn, tin rằng có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường hòa bình là sai lầm. Người ta chỉ có thể chống lại các lực lượng phản cách mạng bằng bạo lực của “chuyên chính vô sản”.
Đi theo cùng với giọng nói gay gắt hơn này là nhiều thay đổi về mặt nhân sự để làm suy yếu phe chống đối. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Ung Văn Khiêm bị Xuân Thủy thay thế và bị đẩy sang chức vụ Bộ trưởng Bộ Nội vụ kém quan trọng hơn. Phòng Việt Nam trong Bộ Ngoại giao của CHDC Đức thời gian này cũng nhận được những thông tin bí mật mà “…theo đó, các chức vụ lãnh đạo trong phòng báo chí của Trung ương Đảng và của Bộ Ngoại giao, trong các cơ quan báo chí, thông tấn xã, đài phát thanh và Tuyên truyền được giao về cho các đồng chí ‘theo đường lối Trung Quốc một cách cứng rắn’.”[6] Các thay đổi nhân sự này trong chính phủ và bộ máy tuyên truyền cũng nhằm phục vụ cho chuyến thăm chính thức của Chủ tịch nước Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ trong tháng 5 năm 1963. Bản tuyên bố chung lên án “Chủ nghĩa Xét lại” và “Chủ nghĩa Cơ hội Hữu khuynh” như là mối nguy hiểm chính cho phong trào cộng sản quốc tế .
Hè 1963, bầu không khí chính trị ở miền Bắc càng lúc càng căng thẳng hơn. Tháng 8 năm 1963, Liên bang Xô viết ký kết hiệp định chấm dứt thử bom nguyên tử với Hoa Kỳ và Liên hiệp Anh, nước VNDCCH tiếp tục rời xa đường lối của Liên xô. Đại sứ quán CHDC Đức, thông qua thông tín viên Pommerening và Chiến Sỹ (Erwin Borchers) nhận được thông tin về một lá thư nội bộ của Trung ương Đảng Lao Động gửi cho tất cả các chi bộ mà trong đó nói rằng Đảng Lao Động chống lại hiệp định đó vì nó tạo nên ảo tưởng về chủ nghĩa tư bản ở nhân dân, làm suy yếu tính sẵn sàng tính sẵn sàng phòng thủ của phe xã hội chủ nghĩa, đào sâu sự chia cắt của phong trào công nhân cộng sản và quốc tế. Trong một cuộc họp các cán bộ cao cấp, Bí thư Đảng Lê Duẩn công khai tấn công quan điểm của Liên xô. Khi người Pháp Albert Clavier, làm việc cho tờ Le Vietnam en marche, đưa ra câu hỏi rằng phải ứng xử như thế nào khi là đảng viên của Đảng Cộng sản Pháp đã ủng hộ hiệp định đó, thì Lê Duẩn đã nổi giận và gọi Maurice Thorez, Chủ tịch Đảng Cộng sản Pháp, là “tên phản bội giai cấp công nhân Pháp”[7].
Tướng Nguyễn Chí Thanh, thuộc trong số những người ủng hộ đẩy mạnh thống nhất bằng một chiến lược hiếu chiến, với một bài viết trong báo Học Tập đã phản hồi trực tiếp bài viết của Minh Tranh hồi tháng 2 năm 1963. Ông cho rằng tuy Hoa Kỳ mạnh hơn “các thế lực đế quốc” khác, nhưng không phải là bất khả bại. Nỗi sợ hãi Hoa Kỳ và sợ hãi một cuộc chiến tranh hạt nhân, theo Nguyễn Chí Thanh, chỉ dẫn tới “chủ nghĩa đầu hàng” trước “đế quốc Mỹ”. Ngoài ra ông cũng phê phán việc áp dụng thuyết chung sống hòa bình vào Việt Nam, tức là ý nghĩ cho rằng vấn đề thống nhất đất nước sẽ tự nó được giải quyết khi miền Bắc phát triển về kinh tế mạnh hơn miền Nam. Những lời phê phán không che đậy này không chỉ hướng đến Minh Tranh mà đến cả toàn bộ phe chủ hòa, muốn xây dựng miền Bắc trước hết. Lời cáo buộc về “chủ nghĩa xét lại” đã nằm lơ lững trong không khí.
Minh Tranh sau đó mất chức giám đốc nhà xuất bản và bị giao cho giữ một chức vụ nhỏ ở Nam Định 12 năm. Ông là một trong những nạn nhân đầu tiên của “Vụ án Xét lại chống Đảng”.
Cũng trong mùa hè 1963, theo một báo cáo dài của Đại sứ quán Đông Đức, “các phần tử theo Liên xô” trong Đảng Lao Động bị cô lập có hệ thống. Thậm chí Võ Nguyên Giáp, theo thông tin của nhiều nguồn, cũng bị quản thúc tại gia. Lê Duẩn gây áp lực với Hồ Chí Minh rằng ông hoặc là đi cùng với Bộ Chính Trị hoặc là bước ra khỏi đó[8]. Theo Bibow, đại diện cho sứ quán Đông Đức tại Hà Nội, ngoài ra tin đồn còn được lan truyền đi trong giới đảng viên, rằng Hồ Chí Minh đã phạm phải hai sai lầm lớn, một lần năm 1945 khi ông bước vào thỏa hiệp với người Pháp và lần thứ nhì là năm 1954 khi chấp nhận Hiệp định Geneve chia đôi đất nước. Thật ra, giữa tình hình căng thẳng lúc đó, những tin đồn này chỉ là công cụ tuyên truyền gây áp lực để lên án mọi chiến lược chủ hòa là “phản bội cách mạng”.
Đầu tháng 9, báo Nhân Dân đăng một bài viết của Lê Đức Thọ. Trong đó, ông yêu cầu tất cả các đảng viên phải tuyệt đối tuân theo đường lối của Đảng. Một số ít đảng viên mang tư tưởng hữu khuynh và “xét lại”, và vì vậy mà nghi ngại chiến lược thống nhất đất nước của Đảng. Họ cũng không đồng tình với tốc độ tập thể hóa nông nghiệp và tuyên truyền cho một sự hợp tác kinh tế trên bình diện quốc tế thay vì một hệ thống kinh tế tự cung tự cấp được lãnh đạo Đảng ủng hộ. Một số đảng viên thiếu tính “kỷ luật Đảng”, lan truyền những quan điểm không phù hợp với các nghị quyết của Đảng. Lê Đức Thọ nhấn mạnh rằng Đảng sẽ đấu tranh không khoan nhượng chống lại các xu hướng phi vô sản, hữu khuynh, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa xét lại hiện đại. Ông yêu cầu phê bình và “giáo dục” hay thi hành kỷ luật đối với những đảng viên không tuân theo các nghị quyết của Đảng.
Số tháng 10 của tờ Học Tập đăng một bài viết của Tướng Nguyễn Chí Thanh lên án ảnh hưởng của “chủ nghĩa xét lại hiện đại” trong Đảng. Cũng như Thọ, Thanh cho rằng một vài đảng viên vẫn còn ủng hộ những ý tưởng “hữu khuynh”. Ông cũng phê phán các đảng viên mang tư tưởng “cá nhân”, “bi quan”, e ngại những hy sinh và gian khổ của một cuộc đấu tranh vũ trang nhằm thống nhất đất nước và yêu cầu phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh tư tưởng trong Đảng.
Với cuộc “đấu tranh tư tưởng” này, phe Lê Duẩn-Lê Đức Thọ muốn tấn công cả những người không đồng tình với chiến lược dùng vũ lực thống nhất đất nước lẫn những người bất đồng ý kiến với họ trong chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Đại sứ quán các nước Đông Âu ở Hà Nội đều không hài lòng với thái độ càng lúc càng hướng đến hệ tư tưởng Trung Quốc của giới lãnh đạo miền Bắc. Theo thông tin của Mieczylaw Maneli, thành viên Ba Lan trong Ủy ban Kiểm soát Quốc tế, tinh thần chung trong giới ngoại giao Đông Âu ở Hà Nội là giới lãnh đạo miền Bắc nên tập trung phát triển hòa bình đất nước trước đã và họ thấy không cần thiết phải gia tốc giải pháp dùng vũ lực để thống nhất đất nước. Cả thông tín viên Fourniau của tờ Humanité cũng tường thuật rằng nhiều người ngoại quốc ở miền Bắc e ngại việc leo thang chiến tranh ở miền Nam sẽ gây nguy hiểm cho nền hòa bình thế giới và vì vậy mà nên hướng tới một giải pháp “hòa bình thỏa hiệp” thì hơn[9]. Đại sứ quán Đông Đức ở Hà Nội và Bộ Ngoại giao Đông Đức trong thời gian này cũng đã nhiều lần phê phán giới lãnh đạo Đảng Lao Động đã không hề cân nhắc đến một giải pháp hòa bình cho việc thống nhất đất nước.
Trong tình hình căng thẳng đó, Dương Bạch Mai đưa cho Đại sứ quán Đông Đức tại Hà Nội một danh sách bí mật mà theo Bibow, bí thư thứ hai của sứ quán, thì đó là những người “ủng hộ một đường lối Mác-xít Lê-nin-nít thật sự”. Sứ quán các nước Đông Âu khác ở Hà Nội  cũng biết danh sách này. Đây cũng là một dấu hiệu cho thấy việc đấu tranh giữa hai phe trong Đảng đã thêm phần gay gắt trước Hội nghị Trung ương lần thứ 9. Danh sách này gồm 19 tên:Bùi Công Trừng, phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước, Viện trưởng Viện Kinh tế học; Lê Liêm, thứ trưởng Bộ Văn hóa, Chủ nhiệm Văn phòng Văn hóa Giáo dục Phủ Thủ tướng, chủ nhiệm chính trị mặt trận Điện Biên Phủ; Ung Văn Khiêm, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ (trước đó là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao), Tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Vũ Đình Huỳnh, thư ký của Hồ Chí Minh, trưởng ban Nghi lễ Bộ Ngoại giao; Tạ Quang Bửu và Nguyễn Khánh Toàn, cả hai đều là phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước. Tạ Quang Bửu đã từng học đại học ở Pháp và Anh, sau đó là bộ trưởng đầu tiên của Bộ Đại học và Trung học Chuyên nghiệp. Nguyễn Khánh Toàn học đại học ở Moscow (1928 đến 1931), quen biết Hồ Chí Minh ngay từ thời kỳ đầu của phong trào cộng sản ở Việt Nam. Tiếp theo đó làNguyễn Đình Thi, nhà thơ và là tổng thư ký Hội Nhà văn; Lưu Trọng Lư, cũng là nhà văn và thành viên Ban Chấp hành Hội Nhà Văn,Minh Chi giảng dạy ở trường Đại học Kinh tế Tài chánh Hà Nội, một trong những người thường xuyên trao đổi với thông tín viên Đông Đức Pommerening. Sau đó là một loạt thẩm phán như Nguyễn Văn Trạch, Diệp Ba và Phạm Văn Bạch và một vài bộ trưởng, thứ trưởng như Nguyễn Đức Quý, thứ trưởng Bộ Văn hóa, Nguyễn Văn Tạo, Bộ trưởng Bộ Lao Động, Trần Hữu Dực, Chủ nhiệm Văn phòng Nông nghiệp Phủ Thủ Tướng và Song Hào, thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Những người trong danh sách này không cùng thuộc trong một “nhóm đối lập” chống lại phe Lê Duẩn – Lê Đức Thọ. Thế nhưng có thể nhìn thấy sự phản kháng tập trung trong quân đội quanh Tướng Võ Nguyên Giáp, trong nhóm giới trí thức và trong giới đảng viên lão thành đã học cùng với Dương Bạch Mai ở Moscow.
Không rõ tại sao Dương Bạch Mai lại ghi tên Nguyễn Đình Thi và Song Hào vào danh sách này. Nguyễn Đình Thi đã đóng một vai trò quan trọng bên cạnh Tố Hữu trong chiến dịch chống “Nhóm Nhân văn Giai phẩm”. Song Hào từ năm 1967 sẽ là thành viên của ủy ban xem xét “Vụ án xét lại chống Đảng”.
Việc trao ra những thông tin nhạy cảm như vậy cho Đại sứ quán Đông Đức tại Hà Nội cho thấy cuộc đấu tranh giữa hai phe phái đã leo thang cao, cái sẽ bùng nổ ra trong Hội nghị Trung ương của Đảng Lao Động vào cuối năm 1963.
Hội nghị Trung ương lần thứ 9
Ngay trước khi Hội nghị Trung ương lần thứ 9 bắt đầu vào ngày 22 tháng 11 năm 1963, độ chừng 50 cán bộ trung cấp đã gửi thư về Trung ương Đảng, yêu cầu giữ đường lối trung dung giữa Liên Xô và Trung Quốc và không tiếp tục nghiên sang quan điểm của Bắc Kinh. Theo thông tin của Đại sứ quán Đông Đức và của thông tấn xã Đông Đức ADN tại Hà Nội, những yêu cầu xuất phát từ các cán bộ như Đặng Thái Mai, Tạ Quang Bửu, Bùi Công Trừng, Hoàng Minh Chính, Ung Văn Khiêm. Ngoại trừ Hoàng Minh Chính, tất cả những người còn lại đều có tên trên danh sách của Dương Bạch Mai.
Kéo dài cho tới tháng 1 năm 1964, Hội nghị Trung ương lần này đã chứng kiến những tranh cãi gay gắt giữa hai phe. Bùi Công Trừng phát biểu chống các quan điểm “theo Trung Quốc” và phê phán thái độ quay lưng lại với Liên Xô hùng hồn cho tới mức cả Hồ Chí Minh cũng không thể ngăn không cho ông nói tiếp. Tạ Quang Bửu dọa sẽ từ bỏ tất cả các chức vụ của ông và trở về làm giáo sư giảng dạy đại học bình thường nếu như giới lãnh đạo Đảng quay sang phía Trung Quốc. Lê Liêm, Ung Văn Khiêm tại đại hội là những người chống “đường lối theo Trung Quốc” kịch liệt nhất. Theo nhiều nguồn, Hồ Chí Minh đã bị bộ ba Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Nguyễn Chí Thanh đẩy ra rìa và không còn đóng một vai trò quyết định nào nữa tại hội nghị này. Số phận của Tướng Võ Nguyên Giáp cũng tương tự. Nhưng đặc trưng cho tính cách cá nhân của Giáp là việc ông không công khai chống lại đường lối chủ chiến của Lê Duẩn trong những khoảnh khắc quyết định và cũng không đứng ra che chở cho những người cộng sự thân cận như Lê Liêm, những người mà sau này sẽ phải trả giá đắt cho sự phê phán của họ.
Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 9 cho thấy rõ rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã đi theo đường lối của Trung Quốc. Nghị quyết, tương tự như trong bài diễn văn của Lê Duẩn, lên án rằng “Chủ nghĩa Xét lại” đã phản bội Chủ nghĩa Mác-Lênin và tuyên truyền cho mô hình chung sống hòa bình thay vì hỗ trợ cho cuộc đấu tranh cách mạng chống Chủ nghĩa Đế quốc. Nghị quyết nhấn mạnh rằng một vài cán bộ đã mang quan điểm xét lại và vì vậy mà chống lại những biện pháp nhất định nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chống lại những nổ lực đấu tranh thống nhất đất nước và yêu cầu phải “giáo dục có hệ thống” các cán bộ và đảng viên về chủ nghĩa Mác-Lênin.
Trong một nghị quyết bí mật, Hội nghị Trung ương lần thứ 9 quyết định tăng tốc cuộc đấu tranh ở miền Nam bằng cách đẩy mạnh sự trợ giúp về quân sự cho Mặt trận Giải phóng. Giới lãnh đạo Đảng cuối cùng đã quyết định chọn con đường quân sự để thống nhất đất nước.
Chiến dịch chống “Chủ nghĩa Xét lại hiện đại” năm 1964
Đầu năm 1964, Đại sứ quán Đông Đức tại Hà Nội báo cáo về nước rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đang khởi động “một chiến dịch tư tưởng hệ nhằm đe dọa các lực lượng Mácxít-Leninít và để vượt qua sự chống đối của họ”[10].  Lê Đức Thọ viết một loạt bài trên báo Nhân Dân nhằm phát động chiến dịch và tạo áp lực lên các đối thủ trong Đảng. Lê Đức Thọ phê phán không những phê phán thái độ nghi ngại của một vài cán bộ đối với chiến lược dùng vũ lực thống nhất đất nước mà cả việc họ không đồng ý tăng cường đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Lê Đức Thọ công khai thừa nhận một nhóm nhỏ đảng viên không đi theo đường lối của Đảng, thông báo sẽ có những biện pháp chống lại các “xu hướng xét lại” và “khuynh hữu” và yêu cầu chấm dứt những “hành động bè phái, chia rẽ.
Chiến dịch chống Chủ nghĩa Xét lại có ảnh hưởng rất lớn lên bầu không khí chính trị ở miền Bắc suốt cả năm 1964 và kéo dài sang cả năm 1965. Nhiều bài báo của Phạm Hùng và Hoàng Văn Thái nhấn mạnh rằng miền Bắc phải tự lực là chính trong công cuộc đấu tranh của mình. Các yếu tố vật chất không phải là yếu tố quyết định mà con người mới là yếu tố quyết định. Nhiều bài báo cảnh cáo không nên nghĩ rằng có thể thống nhất đất nước bằng giải pháp hòa bình.
Minh Tranh, Giám đốc nhà xuất bản Sự Thật đã bị cô lập dần ngay từ năm 1963 sau bài viết của ông hồi tháng 2 năm 1963 và bị “đày” về Nam Định. Nguyễn Kiến Giang, Phó Giám đốc nhà xuất bản, đang học trường Đảng ở Moscow từ 1962 cũng bị gọi về nước sau Hội nghị Trung ương 9 như tất cả các cán bộ ở Đông Âu khác. Từ 1964 cho tới năm 1967, ông bị bắt đi “thực tế” ở Thái Bình và Quảng Bình.
Văn Doãn, tổng biên tập báo Quân Đội Nhân Dân, vào thời điểm Hội nghị 9 đang học ở trường Đảng Liên xô, khi bị gọi trở về Hà Nội đầu năm 1964 đã xin ở lại tỵ nạn chính trị tại Liên Xô cùng với Lê Vinh Quốc, nguyên phó chính ủy Đại đoàn 308 và Nguyễn Minh Cần, thường vụ Thành ủy, Phó Chủ tịch Hà Nội. Trước đó, tờ Quân Đội Nhân Dân đã bị Tổng cục Chính trị Quân đội gọi là “lô cốt của chủ nghĩa xét lại hiện đại”. Phần lớn nhân viên của tờ báo không đồng tình với các nghị quyết của Hội nghị Trung ương 9, nhưng chỉ dám phát biểu hết sức cẩn trọng. Sau khi Văn Doãn xin tỵ nạn chính trị ở Liên xô, Tổng cục Chính trị giao cho Bùi Tín khám xét lại nội dung những bài báo của tờ Quân Đội Nhân Dân trong vòng mấy năm qua. Tuy Bùi Tín không phát hiện ra vi phạm nghiêm trọng nào, nhưng thật ra đây chỉ là một cái cớ để thanh lọc các “phần tử xét lại” ra khỏi tòa soạn báo Quân Đội Nhân Dân. Ví dụ như Đào Duy Dếnh tức Đào Phan, em trai của Đào Duy Anh, bị đẩy sang Viện Bảo tàng Quân đội. Đào Duy Dếnh đã phê bình công khai các nghị quyết của Hội nghị Trung ương 9 và cố gắng chứng minh rằng chúng không phù hợp với Chủ nghĩa Marx-Lênin.
Chiến dịch thanh lọc này cũng nhắm tới Ủy ban Khoa học Nhà nước. Đầu tiên, Lê Duy Vân, một cán bộ của Ban Tổ chức Trung ương trực thuộc Lê Đức Thọ, được cử làm bí thư Đảng ủy. Bùi Công Trừng và Hoàng Minh Chính bị cô lập. Không một ai dám nói chuyện với họ vì sợ liên lụy.
Trong các khóa học tập được tổ chức sau Hội nghị Trung ương lần thứ 9, Liên bang Xô viết bị đả kích trực tiếp. Truyền thanh cũng được sử dụng để phát đi tuyên truyền của Trung Quốc, chửi rủa “những tên xét lại” là “những kẻ theo chủ nghĩa đầu hàng”.
Trao đổi văn hóa với Liên xô bị cắt giảm. Thậm chí các khóa dạy tiếng Nga cũng bị giải tán. Những người Việt nào tiếp xúc với người ngoại quốc và giới ngoại giao từ những nước Đông Âu đều có thể bị xếp vào “thành phần xét lại”. Cán bộ làm việc trong các cơ quan nhà nước nhận được chỉ thị tránh tiếp xúc với người nước ngoài và phải báo cáo với cơ quan khi có trao đổi thư từ với người nước ngoài, đặc biệt là với công dân Liên bang Xô viết. Bây giờ, khi muốn vào văn phòng của các thông tấn xã nước ngoài, người ta phải cần đến một giấy giới thiệu.
Franz Farber, người năm 1954 là nhà báo Đức đầu tiên sang thăm miền Bắc theo lời mời của Hồ Chí Minh, khi sang thay thế thông tín viên Đông Đức Pommerening năm 1964 đã nhận rõ được bầu không khí căng thẳng lúc đó:
“…chúng tôi trong con mắt của Đảng và chính phủ ít nhất là những người nước ngoài gây phiền toái […]. Và ngoài ra thì cho tới nay vẫn còn chưa có người Việt nào bước vào ngôi nhà của ADN mà không có giấy phép. Ai cũng sợ người khác. Không còn ai dám tiếp xúc cá nhân với người nước ngoài nữa.”[11]
Những người nước ngoài trước đây đào ngũ chạy sang với Việt Minh như Georges Boudarel, Erwin Borchers và Albert Clavier đều bị xếp vào hàng “xét lại”. Nhân viên ngoại giao nước ngoài bị tăng cường kiểm soát và bị hạn chế đi lại.
Tìnnh hình căng thẳng này kéo dài cho tới khi Khrushchev bị lật đổ.
(Còn tiếp)
Phan Ba

[1] Die Partei und der Krieg, Martin Großheim, trang 76
[2] Email Nguyễn Minh Cẩn gửi cho Martin Großheim, 20/07/2017. Trích dẫn theo Die Partei und der Krieg
[3] Latimer, Thomas Kennedy (1972). Hanoi’s Leaders and their South Vietnam Policies: 1954-1968, trang 97, Ph. D. Diss, Georgetown University.
[4] Đèn Cù, Trần Đĩnh, trang 10, NXB Người Việt Books, 2014
[5] Martin Großheim phỏng vấn Phạm Văn Hùng, 17/09/2006.
[6] Trích dẫn theo Martin Großheim, Die Partei und der Krieg, trang 98.
[7] De l’Indochine coloniale au Vietnam libre. Je ne regretted rien. Albert Clavier, Paris: Les Indes Savantes, 2008. Trích dẫn theo Martin Großheim, Die Partei und der Krieg.
[8] Die Partei und der Krieg, Martin Großheim, trang 114-115
[9] Die Partei und der Krieg, Martin Großheim, trang 119.
[10] Báo cáo của Đại sứ quán Đông Đức tại Hà Nội. Trích dẫn theo Martin Großheim, Die Partei und der Krieg, trang 132.
[11] Trích dẫn theo Martin Großheim, Die Partei und der Krieg, trang 145.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: