Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 6 tháng 10, 2017

NGƯỜI ANH HỌ


          Truyện ngắn HG

Câu chuyện anh họ tôi gọi từ Úc về làm tôi làm tôi xúc động và buồn. Tôi mất ngủ mấy đêm vì câu chuyện này.Một câu chuyện bắt đầu từ nguồn gốc sâu xa đến lịch sử đất nước, vận mệnh của dòng họ và gia đình tôi.
Để viết đầy đủ về nó cần chuẩn bị thật công phu, đầy đủ tư liệu cũ, mới, đa chiều, dung lượng cỡ tiểu thuyết mới chứa đựng được phần nào. Yếu tố thời gian dành cho nó, công việc này, rất quan trọng mà tôi rất hạn chế vào lúc này.
Còn đủ thứ công việc dở dang chưa hoàn thành. Chưa nói đến cuộc mưu sinh, kiếm sống hàng ngày. Trong cuộc sống của một thế giới điên rồ, bất an và phức tạp như giờ, để làm được nó không dễ gì.
Nhưng bỏ qua không viết, lại thấy áy náy.
Thôi thì ghi lại vắn tắt vài dòng, khi nào rảnh sẽ giở ra, làm lại.


Sau mấy chuyện thăm hỏi, vấn an người nọ người kia trong họ mạc, ông ấy nói qua qua về cảnh ngộ hiện tại của mình. Cũng không có gì khác hơn câu chuyện mấy tháng trước. Ông ấy từ Mem bờn bay qua Sài Gòn, tính chuyện bán căn nhà ở quận Bình Thạnh, hiện đang giao cho người em vợ trông coi. Đã tìm được người mua, thành giá xong rồi, lại không bán được. Lý do là bà vợ cũ của ông hiện cũng đang ở Úc, đã ly thân với ông từ sau khi định cư sang đấy mấy năm, không nhất trí cách phân chia tài sản. Bà ấy đòi bảy trên ba phần..
Ông ấy than: “Nguyên do không phải là đồng tiền nén bạc..” “Vậy là duyên do gì?”
Ông ấy bảo: “Có nói chú cũng không thể hiểu hết được đâu. Người Việt sang bên này vợ chồng mang theo thì mười người, chin người ly thân, anh cũng không ngoại lệ. Mâu thuẫn sâu xa vẫn là “quốc - cộng”.
Hơn bốn mươi năm rồi. Người ta đang kêu gọi hòa hợp dân tộc, chả lẽ khối mâu thuẫn ấy vẫn còn trầm kha đến vậy sao?
Anh họ tôi cười chua chát qua điện thoại viễn liên: “Thế mới buồn, mới không đáng nói. Anh bên này chỉ hơn con chó biết nói, nghĩ đến tình người, nghĩ đến quê hương bản quán chỉ muốn rơi nước mắt..Đến sâu nặng như tình nghĩa vợ chồng mà còn như này, thì cuộc sống còn có nghĩa gì? Chú không ở đây, chú không biết. Tự do cá nhân đành rồi, nhưng quan hệ gia đình là cái gì đó lỏng lẻo, chán không chịu nổi. Con cái đối với bố mẹ cũng không như ở bên nhà. Mỗi tháng chúng được chính phủ cấp cho bốn trăm đô, bố mẹ không nuôi nó cũng không cần.”. Ông kể thêm ở Úc quyền con người được chính phủ quan tâm ngay từ khi người đó mới ra đời. Bà mẹ sinh con ra đã được cấp không bảy ngàn đô. Thất nghiệp, hết tuổi lao động như anh mỗi tháng cũng được cấp an sinh xã hội một nghìn..Nếu so với bên nhà chắc hẳn em nghĩ vậy là đầy đủ lắm rồi. Nhưng con người ta đâu chỉ cần có những nhu cầu vật chất như vậy là đủ?
Tôi động viên ông ấy rằng thời băng hoại này ở đâu chẳng thế. Ở bên nhà cũng không mấy gia đình êm ấm, hạnh phúc. Cha bỏ con tớ bở thầy, vợ chồng chia lìa nhau cũng không ít. Anh cứ sợt lên Gu Gồ hai chữ “ly dị” là biết tỷ lệ vợ chồng bỏ nhau so với trước ngày như nào. Dù sao, người ta vẫn phải sống, vẫn phải tìm cách để lạc quan, để sống qua ngày.

Vợ ông, chị dâu tôi có gặp vài lần. Lần đầu tiên là ở Sài Gòn khi ấy anh làm biên tập cho một tờ báo ngành, có phòng đại diện ở phía nam. Bạn bè qua lại cỡ như PBT, LTN, NVC.. gặp nhau với anh như cơm bữa. Nghe nói anh còn có chân trong một công ty đang làm ăn ở Nga ( thời LX chưa đổ ). Công ty này chưa hẳn công khai, nhưng mua bán phụ tùng máy bay cho chính phủ, còn có thêm cả một nhà máy sản xuất mì ăn liền tại Nga thời bấy giờ. Chị vợ anh là con một viên tướng chế độ cũ đang trong trại cải tạo. Chị người hiền thục nết na, có học. Nhờ các quan hệ của anh, yếu tố lý lịch không quá nặng nề, chị vẫn là giảng viên một trường đại học của thành phố.
Mãi tới khi ông bố mãn hạn tù, gia đình bên vợ anh mới được bảo lãnh đinh cư sang Úc. Cũng là lúc ông bố anh, một chủ tịch huyện ven đô Hà Nội qua đời. Bà mẹ anh cũng mất sau đó mấy năm.
Anh họ tôi đồng ý với vợ sang đoàn tụ với gia đình bên vợ. Ra nước ngoài định cư dễ dàng, thuận lợi, nhẹ nhàng, êm ái như thế, người làng tôi ai cũng bảo anh tốt số, gặp được phép màu. Người ta nói anh sướng tự bé, dù chỉ là con nuôi ( vì bác tôi sinh con trai mấy lần đều chết tự lúc còn nhỏ bởi các căn bệnh hiểm ác, khó hiểu mãi đến sau này ).
Mỗi lần vợ chồng anh từ miền nam ra người trong họ tôi đón tiếp long trọng, hân hoan chả khác gì người ta đón lãnh đạo cấp cao, nguyên thủ quốc gia về làng.
Anh mang cả va li tiền với cả đám người nhà rồng rắn đón từ cửa sân bay, xe một đoàn chỉ thiếu không có xe cảnh sát dẫn đường hú còi và dân chúng vẫy cờ hoa hai bên đường.
Người trong họ, ai cũng có quà, không ít thì nhiều. Người dăm ba triệu cả món tiền lớn vào buổi thóc cao, gạo kém ở quê tôi ngày đó.
Mồ mả tổ tiên cũng được tu tạo xây dựng lại, to lớn khang trang mới mẻ vào bậc nhất nghĩa trang làng lúc bấy giờ.
Bất cứ họ nhà có công việc gì, vợ chồng anh dù ở xa cả ngàn cây số cũng không lần nào vắng mặt.
Hai vợ chồng anh đóng góp gần nửa số tiền xây nhà thờ họ.
Chị vợ tuy là người Sài Gòn nhưng về làng nhập cuộc rất nhanh, đối xử với trên với dưới tận tình, chu đáo. Chỉ nghe giọng nói đượm chất phương nam, Sài Gòn chuẩn của chị là ai cũng cảm mến rồi. Gia đình chị người gốc “năm tư” nên giọng bắc pha nam của chị vừa chuẩn vừa dịu dàng khó tả. Cả nhà ai cũng khen chị đáng và có khi còn hơn cả dâu họ Dõan bởi sự hiền thục, khéo léo.
Các vị bô lão quanh vùng ai cũng tấm tắc khen. Ai cũng bảo nhà tôi có phúc.
Người ta nói: “Họ Doãn nuôi con nuôi năm đời nay, quý như con đẻ nên giờ phúc lộc mới được như thế”..
Tôi thì khi đó đang vật vờ ở phương nam. Lúc ở Sài Gòn, khi ra Huế, có lúc tôi còn có ý định ra nước ngoài.. Chả phải bất mãn hay thù địch gì với ai. Chỉ là ước muốn thỏa chí tang bồng nay đây mai đó, đi cho biết thiên hạ thực ra là cái gì? Tìm tòi hiểu biết, tò mò, muốn thoát ra khỏi lũy tre ngốt ngát, ngột ngạt của làng quê.
Những lần vợ chồng anh họ về quê tôi đều vắng mặt. Sau này gặp nhau ông ấy thường lấy làm tiếc cho tôi và tiếc cả cho anh. Giả dụ như khi đó anh em gần gũi nhau chưa chắc gì anh họ tôi bị người ta lừa trắng tay, mất gần hết tài sản, suýt nữa ngồi tù. Tôi chả tài cán gì, nhưng bao năm lưu lạc trường đời, ít nhiều có chút bản lĩnh. Tôi sẽ “đoc” ra ngay những chiêu trò bỉ ổi, đen tối của một số kẻ nhân danh những điều tốt đẹp, cao thượng, tử tế mà thực chất chỉ là trò lừa phỉnh gian dối, đỡ cho anh kiếp nạn không đáng xảy ra.
Phần mình có thể anh giúp cho phương tiện sinh sống của tôi đỡ phần cơ cực. Với anh ấy chả thành vấn đề, kể cả việc sắm cho tôi căn hộ giữa Sài Gòn cũng là chuyện nhỏ. Mà thôi, nói thì nói vậy. Con người nếu phải tiếc thì sẽ tiếc hối nhiều thứ lắm. Nhà cửa xe pháo đã là cái gì?
 Người có tâm hồn thi phú, mộng làm văn chương dễ mắc nạn tai nghiệt ngã khi dính vào chuyện tiền bạc, làm ăn cắc cớ, mưu mẹo hiểm ác. Cái công ty quái quỷ tôi dẫn bên trên có nhẽ là nguyên nhân sâu xa, dẫn đến cảnh ngộ anh họ tôi bây giờ.
Lang thang, thui thủi một thân một mình nơi đất khách, quê người. Cho dù không chết đói, không khổ vì chuyện thiếu cơm ăn áo mặc, chỉ hơn “con chó biết nói” cũng không phải là nói quá, nói ngoa!

**
Lại đang chuyện người Việt miền bắc bị kỳ thị ở nơi anh ở..
Một dạo anh họ tôi làm trại trồng cà chua, dưa leo. Khi giao dịch với khách hàng, đều phải nói giọng Sài Gòn mới bán được hàng.
“Nói giọng bắc, thua cuộc ngay”..
Ông cười chua chát: “Xứ này bây giờ vẫn thuộc liên hiệp Anh, vẫn tôn thờ và theo Nữ Hoàng Anh, người dân vốn hiền hòa, nhân ái không có chuyện phân biệt dù là đa sắc tộc.. Chả hiểu sao lại có chuyện kỳ cục như vậy?”
Rồi ông chuyển qua chuyện trí thức, văn nghệ sĩ trong nước. Những chuyện mà có nhẽ tôi chỉ nên nghe thôi, chứ không nên ghi lại. Toàn chuyện vừa tức, vừa buồn, lại buồn cười nữa. Chuyện một vị đại tá quân đội, một nhà văn chơi với anh rất thân hồi còn trong nước. Cách anh nhìn nhận và đánh giá về người này khiến tôi chưa nhất trí. Theo anh thì “ông này là người yêu nước theo lối cực đoan, có phần quá khích, chả làm được điều gì chỉ tổ thiệt thân”. Tôi bảo bách nhân, bách tính, phụ thuộc vào nhận thức, trình độ và tâm thế của mỗi người..
Thấy người nghe là tôi có vẻ không hào hứng, ông chuyển qua chuyện khác, nhẹ nhàng hơn. Ông kể nơi ông ở quan niệm về hôn nhân rất là buồn cười. Thông thoáng đến độ mất hết cả ý nghĩa. Cứ tình yêu là lên giường cái đã, không hợp là chia tay liền, nhẹ nhàng như người ta đọc thử cuốn sách. Đọc không thấy hay là quăng sang một bên. Chả bùi ngùi, lưu luyến, nuối tiếc gì.
Tôi biết đây có thể là tâm trạng thực của ông. Đàn ông dù ở đâu vẫn là đàn ông. Phương trời nào cũng vậy. Đàn ông độc thân nghĩ tới chuyện gái gú, đàn bà là lẽ đương nhiên. Anh ta thiếu cái đó, lại là thiếu thời gian dài, trầm trọng vì những định kiến, quan niệm mang nét á đông xưa cũ của mình.

Đột nhiên ông hỏi: “ Tao biết giờ ở nhà nhiều người không thích phim Tàu, mặc dù có nhiều phim hay. Người ta cảnh giác mẹo xâm lăng văn hóa, đừng câu nệ thế. Dù có ghét cũng nên xem để biết nó như thế nào, mới biết cách phòng tránh. Chú hôm vừa rồi có xem phim “Việt Vương Câu Tiễn” không? Có biết Doãn Thường là ai không? Ông ấy chính là bố đẻ ra Câu Tiễn, có thể là tổ tiên họ Doãn đấy..”
Tôi nói có xem, nhưng chưa có nghe ai nói Doãn Thường , Câu Tiễn có mối liên hệ gì đến họ Doãn Việt Nam.
Hồi ông Căn con bác cả còn sống có cho tôi cuốn sách viết về Doãn tộc Việt Nam.
( Ông Căn là con bác cả trưởng tộc họ Doãn vùng nam thị xã Sơn Tây. Ông này vừa mới mất cách đây mấy năm. Bác tôi, bố nuôi anh họ tôi là thứ hai sau ông bác này ). Trong cuốn sách “Họ Doãn Việt Nam” do ban liên lạc họ Doãn biên soạn
Có ghi họ Doãn phát tích từ Vĩnh Lộc Thanh Hóa, có đền thờ, mộ tổ hiện nay ở đó. Về các danh nhân, danh tướng không có nhiều. Thời Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa Lam Sơn có cụ Doãn Nỗ, một trong số mười hai bộ tướng của Lê Lợi. Cụ có nhiều công lao nhưng không rõ vì sao trong sử sách Việt Nam không được nhắc đến? Ông Căn lúc sống cũng thắc mắc, hỏi tôi câu này. Ông bảo chú đọc sách nhiều, chú có biết tại sao lại như vậy? Tôi thú thực là không biết.
Chỉ biết thưa với ông ấy rằng chính trường, triều chính từ cổ chí kim, bao giờ cũng vậy. Chuyện oan khuất, thiệt thòi là vô vàn kể, không riêng người trong họ mình. Vì chính trị là trò chơi nghiệt ngã, điều phi lý là điều khó tránh vì ghế thì ít, đít lại nhiều..Đành phải hy sinh, bỏ bớt..Mà đâu chỉ có họ Doãn nhà mình, các dòng họ khác cũng thế cả.
Anh họ tôi suýt xoa: “Thật là dòng họ oan nghiệt và đầy cay đắng kể từ thời Câu Tiễn. Có người bài bác nhưng mà anh không tin. Kẻ không thích họ mình chúng nó nói: Câu Tiễn mặt cú, tinh khôn, giỏi chịu đựng. Khi còn nếm mật nằm gai thì thủy chung với đồng chí, đồng liêu, khi thành công rồi thì quay sang sát hại công thần. Phạm Lãi người đặc biệt có công khôi phục nước Việt là người khôn ngoan. Đánh dẹp xong Phù Sai của nước Ngô, rửa hận cho nước Việt, ông ấy bỏ đi, chu du thiên hạ, lẫn vào dân gian, không hưởng vinh hoa phú quý. Còn ông Văn Chủng thật đáng thương. Ông này ở lại, nghĩ mình là công thần có quyền được hưởng công danh, lợi lộc..Đâu có ngờ chịu cảnh thảm khốc sau này?
Tôi bảo đấy cũng là huyền thoại, độ tin cậy ai biết là bao nhiêu? Với lại trên chính trường, chả cứ người họ Doãn không biết cư xử. Họ khác có khi còn thậm tệ hơn. Tỷ như thời Trần, bao nhiêu người họ Lý phải cải sang họ Nguyễn mới mong toàn mạng. Di hại sau này họ Nguyễn nhiều người không rõ mình gốc gác thực ra là họ gì? Vẫn là chuyện triều chính xưa nay. Xa thì có chuyện Lê Lợi – Nguyễn Trãi, gần thì có Họ Mao đối với họ Bành, họ Chu, họ Võ Việt Nam.. Thời nào chả vậy. Vẫn là quan hệ Ghế và Đít!
Có gì lạ đâu. Anh phải tự hào rằng khác với nhiều dòng họ, họ Doãn nhà mình từ ngàn xưa tới giờ chưa có vị nào bán nước cầu vinh. Không có những tên vô lại như Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống ..chẳng hạn! Họ mình là họ bình thường, chưa có người kiệt xuất nhưng rất ít kẻ vô loài, đểu cáng để lại vết nhơ ngàn đời! Thế là may mắn lắm rồi. Hậu sinh đừng đòi hỏi thêm công sức của tiền nhân mà hãy gắng gỏi để tôn vinh dòng họ mình.

Mấy năm gần đây, tự ngày vị trí của anh họ tôi sa sút ngoài xã hội, có tin ông anh họ tôi muốn đổi về họ cũ, họ của bố mẹ đẻ, sinh ra anh.
Tôi tin rằng không có chuyện này. Miệng lưỡi thế gian không biết đâu mà lường. Người ta thường phù thịnh, chứ mấy ai phù suy?
Thấy anh họ tôi lâm bước va vấp, gian nan, có kẻ xấu bụng phao tin đồn bậy, gây xôn xao, nghi ngại trong nhà.
Anh ấy là kẻ có ăn có học, sách đọc cao hơn đầu chả lẽ không hiểu lẽ đời đơn giản, câu dân gian: “Cha sinh không tày mẹ dưỡng”?
Công sinh thành vất vả nhưng dễ đâu sánh bằng khó nhọc nuôi dưỡng, cưu mang, gây dựng cả đời cho mình?
Không biết nhìn nhận giữa hai người mẹ: Một người mẹ tuy mang nặng đẻ đau, bán con để nuôi sống mình với người mẹ hy sinh bản thân, vất vả hàng chục năm trời nuôi dưỡng đứa con không phải mình sinh ra mà quý báu như ruột thịt, ai nặng ai nhẹ hơn ai?
Tôi nghĩ là anh họ tôi không lầm.
Anh nhắc đến câu chuyện họ mạc chẳng qua là muốn nghiên cứu, tìm hiểu về dòng họ mình đang mang chứ không phải bội bạc, thoái thác muốn tìm về họ cũ.

Mà giá như anh ấy có muốn như vậy người họ tôi cũng không hẹp hòi, không trách giận vì đấy là quyền con người tối thiểu của anh. Chỉ buồn vì nỗi sự hấp dẫn của họ tộc mình nếu có chuyện này, chưa đủ lôi cuốn một con người sống cho có trước có sau. Sự vinh hạnh đến mức người ngoại tộc cũng muốn nhảy sang khai nhận làm họ của mình như một vài dòng họ khác.
Tôi không dám hỏi anh về thắc mắc này, bởi như thế bất nhẫn, có thể làm anh đau lòng, gây một vết thương không bao giờ lành.
Một mất mát khủng khiếp giữa con người với nhau.
Nhưng mà tôi buồn từ câu chuyên anh gợi nên.
Một nỗi buồn sâu thẳm.
Chưa khi nào tôi thấy thương thân mình, dòng họ mình, đất nước mình như lúc này. Một đất nước nghe tiền nhân nói từ xưa nó là tổ đại bàng, giờ chỉ còn như tổ chim sẻ! Một lãnh thổ, biên cương xưa sát hồ Động Đình, nửa nước Trung Hoa bây giờ..Vậy mà chỉ còn một thẻo đất, chạy éo le sát bờ biển Đông.
Đã vậy đâu đã yên.
Vẫn nhiều bão tố, nguy cơ rình rập..
Làm người, không biết thì thôi, biết rồi liệu có thể vô tâm, cười nói, như chẳng có chuyện gì mãi được không?
Tôi định chia sẻ với anh họ tôi tâm sự này.
Nghĩ.
Lại thôi.
Ông ấy đang buồn, đang chới với tâm trạng. Nói với anh ấy vào lúc này liệu có nên?



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: