Trong suốt quá trình phát triển, loài người đã đi những bước dài trên con đường tiến hoá của mình. Đó là quá trình thay đổi nhận thức để cải tạo môi trường tự nhiên và thế giới. Giữa đêm trường của sự dã man và hoang dã, loài người đã thay đổi tư duy nhận thức của mình, một bước tiến vĩ đại để xây dựng xã hội văn minh thay vì sự tối tăm và mông muội. Bằng cách đó mà từ bóng tối mịt mùng vô định, loài người đã bước ra ánh sáng của sự văn minh và tiến bộ.
Khi đã có được ý thức về đời sống cộng đồng, con người sống tập trung thành những bầy người nguyên thuỷ. Và chế độ cộng sản nguyên thủy cũng là hình thái kinh tế – xã hội đầu tiên của lịch sử nhân loại. Xã hội đó không có giai cấp, nhà nước và pháp luật. Xã hội nguyên thuỷ có cơ sở kinh tế là chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp kém, công cụ lao động thô sơ, con người thì chưa có nhận thức đúng đắn về môi trường thiên nhiên cũng như bản thân mình. Con người trong xã hội nguyên thuỷ chưa có khả năng trong việc cải tạo thiên nhiên mà bất lực và phải sống dựa vào môi trường tự nhiên. Họ sống dựa vào nhau để cùng lao động và chống lại những hiểm nguy của môi trường tự nhiên quanh mình. Họ cùng hưởng thụ những thành quả lao động của mình trên nguyên tắc mình quân. Mọi người đều bình đẳng trong lao động và hưởng thụ, không có ai có tài sản riêng vì thế mà không có sự phân biệt giàu nghèo và không có giai cấp. Tế bào xã hội đầu tiên của loài người là thị tộc, đó là kết quả của một quá trình tiến hoá lâu dài, nó chỉ xuất hiện khi xã hội nguyên thuỷ đã phát triển đến một trình độ nhất định. Sự xuất hiện của tổ chức thị tộc là một bước tiến trong lịch sử phát triển của nhân loại, nó đã đặt nền móng cho việc hình thành hình thái kinh tế – xã hội đầu tiên trong lịch sử loài người: Cộng sản nguyên thuỷ.
Tổ chức thị tộc có cơ sở kinh tế là chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Mọi người đều tự do, bình đẳng, không có đặc quyền đặc lợi dành cho riêng một cá nhân nào. Thị tộc tồn tại dựa trên sự phân công lao động đơn giản giữa đàn ông và đàn bà, giữa người già và người trẻ để thực hiện những công việc khác nhau, những hoạt động này chưa mang tính xã hội rộng lớn. Thị tộc tổ chức theo huyết thống. Ban đầu do những điều kiện về kinh tế, xã hội và hôn nhân mà thị tộc được tổ chức theo chế độ mẫu hệ, người phụ nữ đóng vai trò chủ đạo. Dần dà, sự phát triển về kinh tế xã hội đã tác động và làm thay đổi quan niệm cũng như quan hệ hôn nhân, vị trí của người phụ nữ đã đóng vai trò thứ yếu và nhường lại vai trò chủ đạo cho đàn ông, vì thế chế độ mẫu hệ đã chuyển thành chế độ phụ hệ.
Xã hội cộng sản nguyên thuỷ đã tồn tại quyền lực và hệ thống quản lý đơn giản các công việc của thị tộc nhưng cũng mới chỉ mang tính xã hội chứ chưa mang tính giai cấp. Quyền lực chưa tách khỏi xã hội mà hoà nhập và gắn liền với xã hội, nó phục vụ lợi ích cho cả cộng đồng. Hội đồng thị tộc xuất hiện để tổ chức và quản lý thị tộc. Đó là tổ chức quyền lực cao nhất của thị tộc mà thành viên của nó bao gồm những người lớn tuổi. Hội đồng quyết định tất cả những vấn đề quan trọng như tổ chức lao động, tiến hành chiến tranh, tổ chức các nghi lễ tôn giáo, giải quyết những tranh chấp nội bộ…; quyết định của hội đồng là ý chí chung của thành viên và trở thành bắt buộc đối với mọi người trong thị tộc. Đứng đầu hội đồng thị tộc là những tù trưởng hay thủ lĩnh quân sự…để thực hiện quyền lực và quản lý những công việc chung. Thị tộc là tổ chức cơ sở của xã hội cộng sản nguyên thuỷ, là một cộng đồng xã hội độc lập. Dần dà, các thị tộc mở rộng quan hệ với nhau đã dẫn đến sự xuất hiện của Bào tộc và Bộ lạc. Các Thị tộc hợp lại với nhau để trở thành Bào tộc, với việc tổ chức quyền lực dựa trên cơ sở tổ chức quyền lực của Thị tộc nhưng với quy mô lớn và mức độ tập trung quyền lực cao hơn. Các Bào tộc liên kết lại với nhau thành Bộ lạc, tuy nhiên quyền lực trong các bộ lạc vẫn chỉ mang tính xã hội, chưa mang tính giai cấp.
Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất đã tạo tiền đề làm thay đổi phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ, đòi hỏi sự phân công lao động tự nhiên phải được thay thế bằng sự phân công lao động xã hội. Sự phân công lao động đó giúp cho năng suất lao động và số lượng sản phẩm tăng lên, vì thế mà xã hội cộng sản nguyên thuỷ đã có sản phẩm dư thừa và tích luỹ. Đó là mầm mống sinh ra chế độ tư hữu, đã có khái niệm và sự tồn tại của các thành viên giàu và nghèo trong xã hội. Việc tồn tại các tầng lớp người khác nhau trong xã hội là tiền đề cho sự xuất hiện của một xã hội có giai cấp. Và khi tồn tại xã hội có giai cấp thì nhà nước xuất hiện. Đó là một bước tiến dài trong quá trình phát triển và tiến hoá của lịch sử nhân loại. Từ những bầy người nguyên thuỷ sống hoang dả con người đã phát triển thành một xã hội có tổ chức, từ bóng tối của sự mông muội loài người đã bước ra ánh sáng của sự phát triển và tiến bộ.
Sự hình thành nhà nước và pháp luật
Khi chế độ thị tộc tan rã và hình thành nên những giai cấp khác nhau trong xã hội thì nhà nước xuất hiện. Đó là quá trình khách quan, là sản phẩm của một xã hội đã phát triển đến một trình độ và giai đoạn nhất định. Nhà nước là một lực lượng nảy sinh từ xã hội, với nhiệm vụ điều hoà các mối quan hệ và xung đột xã hội, giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng của trật tự.
Những hình thức nhà nước điển hình đầu tiên của lịch sử nhân loại đã xuất hiện và được biết đến như:
- Nhà nước A-ten: là hình thức thuần tuý và cổ điển nhất. Nhà nước A-ten được nảy sinh chủ yếu và trực tiếp từ sự đối lập giai cấp và phát triển ngay trong nội bộ xã hội Thị tộc.
- Nhà nước Rô-ma: Đó là kết quả của một cuộc cách mạng với thắng lợi của giới bình dân chống lại giới quý tộc thị tộc Rô-ma.
- Nhà nước của người Giéc-manh: Được hình thành từ việc tộc người Giéc-manh chinh phục đất đai rộng lớn của các tộc người khác…
So với tổ thức thị tộc thì nhà nước có hai đặc trưng riêng biệt cơ bản là sự phân chia dân cư theo lảnh thổ và thiết lập quyền lực cộng đồng. Tổ chức thị tộc được hình thành và duy trì trên cơ sở của quan hệ huyết thống. Sự hình thành chế độ tư hữu và sự phân chia giai cấp trong xã hội đã làm cho những quan hệ huyết thống trở nên suy yếu và dần biến mất đi. Sự chuyển dịch dân cư không ngừng làm cho các thị tộc không thể giữ vững được hình thức khép kín nữa. Quá trình này làm cho sự giao thoa giữa các thị tộc, bộ lạc diễn ra mạnh mẽ, và tổ chức thị tộc chuyển hóa từng bước thành tổ chức hành chính – lảnh thổ. Các công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo nơi cư trú mà không kể họ thuộc thị tộc hay bộ lạc nào. Đó là đặc điểm tổ chức công dân theo lảnh thổ của nhà nước. Đặc điểm thứ hai của nhà nước là sự thiết lập một quyền lực công cộng không còn hoà nhập với cư dân nữa. Quyền lực đó chỉ thuộc về giai cấp thống trị và phục vụ cho giai cấp thống trị. Để thực hiện quyền lực đó thì cần tổ chức một bộ máy nhà nước thông qua một lớp người đặc biệt và bộ máy cưỡng chế gồm quân đội, cảnh sát, toà án…và những công cụ vật chất khác.
Giai cấp thống trị đã dùng quyền lực nhà nước để đặt ra các loại thuế, bắt buộc công dân phải đóng góp để nuôi dưỡng một bộ máy mà về thực chất chỉ phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà nước vì thế, mà ngày càng trở nên xa lạ đối với xã hội. Nguyên tắc nhà nước tồn tại dựa trên sự tự nguyện của công dân không còn đứng vững nữa, vì vậy mà giai cấp thống trị phải sử dụng biện pháp cưỡng chế nhà nước và do đó pháp luật cũng ra đời. Có thể nói, cùng với sự ra đời của nhà nước thì pháp luật cũng xuất hiện. Nguồn gốc của pháp luật là các tập quán pháp và văn bản do nhà nước ban hành. Pháp luật là một hệ thống các quy phạm do nhà nước ban hành nhằm thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Là công cụ sắc bén để thực hiện quyền lực nhà nước, duy trì địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị. Pháp luật đồng thời cũng là tổng thể các quy phạm để điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong xã hội con người. Nhà nước và pháp luật là sự sáng tạo vĩ đại của con người trên bước đường tiến hoá và phát triển của mình. Từ nay xã hội được phát triển một cách có quy củ và trật tự, con người được bảo vệ thông qua một tổ chức chung mà mình đã lập nên, đó là nhà nước.
Các hình thái kinh tế – xã hội
Lịch sử xã hội loài người đã trải qua những hình thái kinh tế, xã hội sau:
- Công xã nguyên thuỷ;
- Chiếm hữu nô lệ;
- Phong kiến;
- Tự do – dân chủ.
Hình thái công xã nguyên thuỷ chúng ta đã đề cập ở trên, dưới đây là sơ lược về nội dung các hình thái kinh tế – xã hội khác:
Chế độ chiếm hữu nô lệ
Là kết quả của cuộc cách mạng xã hội đầu tiên trong lịch sử loài người, thực hiện bước chuyển từ chế độ cộng sản nguyên thuỷ lên chế độ nô lệ. Đặc trưng của nó là đã thay thế chế độ công hữu về tư liệu sản xuất bằng chế độ tư hữu chủ nô, thay thế xã hội không có giai cấp bằng xã hội có giai cấp đối kháng; thay thế chế độ tự quản thị tộc – bộ lạc bằng trật tự có nhà nước của giai cấp chủ nô. Chế độ chiếm hữu nô lệ hình thành hai giai cấp đối kháng chính yếu là chủ nô và nô lệ. Giai cấp chủ nô nắm trong tay toàn bộ tư liệu sản xuất, bóc lột sức lao động của nô lệ hết sức dã man và coi họ như những công cụ biết nói. Chính những người nô lệ đã lao động và làm ra mọi của cải vật chất cho xã hội, tạo nên sự thịnh vượng và giàu có cho tầng lớp chủ nô cũng như những kẻ cai trị. Những thành quách, đền đài rực rỡ được xây dựng bằng việc cưỡng bức và bóc lột sức lao động của những người nô lệ. Nhà nước chủ nô sử dụng bộ máy của mình trấn áp giai cấp nô lệ và duy trì quyền lực của mình, đây cũng là kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử loài người: Nhà nước chủ nô.
Chế độ Phong kiến
Đây là cuộc cách mạng thứ hai và là hình thái kinh tế – xã hội thứ ba của nhân loại. Chế độ nô lệ được thay thế bằng chế độ phong kiến với giai cấp thống trị mới là quý tộc - địa chủ, và giai cấp bị trị là nông nô. Phương pháp bóc lột sức lao động trực tiếp của nô lệ trước đây được thay thế bằng hình thức bóc lột địa tô; người nông dân được giao đất đai và canh tác trên những mảnh ruộng của mình, đến kỳ họ nộp tô thuế cho địa chủ. So với chế độ chiếm nô thì hình thức lao động trong thời kỳ phong kiến đã phát triển và tiến bộ hơn rất nhiều, tuy bị bóc lột nhưng người nông dân có thể giữ lại sản phẩm dư thừa do sức lao động mình làm ra. Có thể nói chế độ phong kiến là kết quả của một cuộc cách mạng trong quan hệ tổ chức, quản lý nhà nước ở trình độ thấp. Đồng thời nó cũng tiến thêm một bước hướng tới sự bình đẳng của con người trong xã hội. So với chế độ chiếm hữu nô lệ trước đó thì chế độ phong kiến là một bước tiến đáng kể về tổ chức xã hội (nhiều giai cấp và tầng lớp mới đã xuất hiện), sự công bằng và những giá trị tốt đẹp khác cho con người.
Chế độ tự do - dân chủ
Là thành quả vĩ đại nhất mà loài người có được trong suốt quá trình phát triển lịch sử cách mạng xã hội của mình. Đó thực sự là một cuộc cách mạng giải phóng thân thể, giải phóng tư tưởng của con người. Một xã hội của tự do nhân bản và mở ra những hy vọng to lớn cho tương lai loài người. Mở đầu là cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại giai cấp quý tộc - địa chủ do những mâu thuẫn về phương thức lao động cũng như việc sử dụng tư liệu sản xuất. Công cụ và phương thức lao động được cải tiến đã thúc đẩy cuộc cách mạng tư sản nhằm phù hợp hơn với trình độ sản xuất mới. Giai cấp tư sản đã nổi dậy đấu tranh chống giai cấp phong kiến thống trị cả về phương diện chính trị, kinh tế và tư tưởng và đỉnh cao của nó là cuộc cách mạng xã hội. Trong chế độ tự do – dân chủ những nhận thức về tư tưởng con người được nở rộ. Các quyền cá nhân được xác lập và thừa nhận như là một sự hiển nhiên gắn liền với con người. Sở hữu cá nhân được coi như là một quyền “thiêng liêng, bất khả xâm phạm”.
Nhà nước tư sản là một thể chế dân chủ, đã xác lập nên: Nghị viện, quyền tự do dân chủ, phổ thông đầu phiếu …; những thể chế này đã thúc đẩy sự phát triển của xã hội dân chủ cũng như nền văn minh nhân loại.
Tự do, tiến bộ và văn minh
Một cuộc hành trình dài với nhiều biến thiên của lịch sử nhân loại để có thể tiến tới xã hội văn minh ngày nay. Một bước tiến của mấy ngàn năm, từ bóng tối của đêm trường Trung cổ loài người đã bước ra ánh sáng của sự văn minh tiến bộ. Có thể nói đó là một bước tiến vĩ đại, một bước tiến khổng lồ!
Giờ đây, chúng ta đang sống trong những năm đầu của thập kỷ thứ 2, thế kỷ 21. Con người đang được sống trong các chế độ xã hội tự do – dân chủ. Lực lượng sản xuất của nhân loại đã được phát triển ở một trình độ cao vượt bực. Trình độ nhận thức và tri thức của con người đã trở nên phổ cập bởi cách mạng thông tin và khoa học kỹ thuật. Điều đó giúp cho nhận thức của con người về một xã hội tự do, dân chủ là rõ ràng hơn bao giờ hết. Mối liên kết của con người vì vậy mà trở nên đơn giản hơn ở phạm vi toàn cầu. Tuy vậy, tại một số quốc gia độc tài trên thế giới, các chính phủ độc tài vẫn cố gắng lừa dối và kìm kẹp người dân để họ không thể tiếp cận được với các tư tưởng và thông tin tiến bộ. Họ bưng bít thông tin, cấm đoán người dân thực hiện các quyền tự do căn bản của mình bằng hình thức độc tài toàn trị. Những chế độ độc tài này đã vi phạm nghiêm trọng các quyền tự do căn bản của con người. Họ ngăn cản bước tiến của lịch sử nhằm phục vụ cho sự cai trị độc tài và những lợi ích xấu xa. Lịch sử sẽ xoá bỏ và phán xét các chế độ độc tài, vì một chân lý rõ ràng rằng: - Không ai có thể cản được bước tiến của lịch sử, ngăn cản được bước tiến của loài người tới sự văn minh và tiến bộ! Tự do, dân chủ là đích đến của mọi quốc gia, dân tộc. Chỉ trong một xã hội tự do - dân chủ thì mọi quyền lợi của cá nhân mới được tôn trọng và thừa nhận trên thực tế. Vì thế những giá trị cao quý và tốt đẹp của con người mới được thiết lập.
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét