Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Chủ Nhật, 30 tháng 4, 2017

Hòa giải là một mệnh lệnh của cả dân tộc?


FB Trương Điện Thắng
Nhà báo, đạo diễn Trương Vũ Quỳnh hiện công tác ở Trung tâm truyền hình Việt Nam tại Đà Nẵng (DVTV) vừa hoàn thành một phim tài liệu khá ý nghĩa nhân ngày 30.4. Phim về đám tang ở vùng nông thôn huyện Duy Xuyên, Quảng Nam. Người chết là một sĩ quan chế độ cũ định cư ở Mỹ 20 năm qua theo diện H.O. Theo nguyện vọng, thi hài ông được đưa về quê để mai táng. Lễ tang có bà con họ hàng, làng xóm đến dự theo nghi thức bình thường. Nhưng Quỳnh phát hiện ra một chi tiết độc đáo: Ông Tổng- người đọc văn tiễn và chỉ huy đội dân khiêng quan tài người chết (thường hóa trang và diễn như một vai kép trong hát bội) là cháu một Bà mẹ Việt Nam anh hùng và con trai một liệt sĩ cách mạng ở địa phương! Lời văn áo não biểu hiện lòng tiếc thương cho mệnh số con người của bà con làng xóm, nhớ đến những năm tháng tha phương vì hoàn cảnh và nguyện ước trở về với đất mẹ, với quê hương bản quán của người quá cố...

Theo lời kể của Trương Vũ Quỳnh, anh đang theo học một khóa làm phim thực tế do các đạo diễn Pháp hướng dẫn trong 3 tháng. Nội dung làm phim theo phương pháp "trực tiếp": Không có lời bình, tất cả chuyện phim đều từ hành động và lời nói của các nhân vật, tự nhiên và sống động. Phim về cái đám tang cảm động Quỳnh vừa làm theo phương pháp ấy cũng là một đề tài anh phát hiện nhân dịp những ngày lễ lớn hiện nay .

Quỳnh ngồi kể với tôi sơ lược về những thước phim mới. Ở đó, một tinh thần hòa hợp thực sự đã được thể hiện một cách tự nhiên ngay trong cái xóm nhỏ ở nông thôn Việt Nam. Cái đạo đức "nghĩa tử nghĩa tận", lấy "đại nghĩa" làm trọng của dân tộc đã thật sự bám rễ và sinh sôi trong chúng ta với một sức sống lâu bền và cảm động. 

Trong loạt bài nhân kỷ niệm ngày thống nhất đất nước 30.4 trên báo chí gần đây, người đọc cũng có thể nhận thấy nhiều phát biểu có ý nghĩa về tinh thần đoàn kết, hòa giải dân tộc.Tất cả là những tín hiệu tốt đẹp của vận nước. Sau đây là một vài ý kiến của các nhân vật tiêu biểu mà cách đây ba bốn thập niên họ từng có vai trò quan trọng ở cả hai phía :

Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam Phạm Văn Trà nói : "Quyết định chuyển giao nghĩa trang quân đội Biên Hòa, nơi an nghỉ của nhiều tử sĩ thuộc chính quyền Việt Nam cộng hòa trước đây, từ đất quốc phòng sang đất dân sự, tạo điều kiện cho bà con trong, ngoài nước dễ dàng tới lui thăm viếng mồ mả người thân là một quyết định đúng đắn ".

Cựu Phó tổng thống chế độ miền Nam Nguyễn Cao Kỳ cũng hài lòng khi đến thăm nghĩa trang này sau khi về nước gần đây. Ông nói :"Để tìm được sự đồng thuận trong những vấn đề nhạy cảm như hòa giải, hòa hợp dân tộc thường không mấy dễ dàng. Việt Nam bây giờ đã là một rồi. Đứng trước tương lai của đất nước, chúng ta phải sớm xóa bỏ hận thù và đoàn kết lại... Cứ đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu thì ta sẽ biết phải làm thế nào tốt nhất. Cuộc chiến tranh khốc liệt đã khiến cả triệu người ở cả hai bên chiến tuyến hy sinh, thì đó là một chuỗi oán thù chồng chất, không phải chỉ ở một phía. Chỉ có hòa hợp dân tộc mới giải quyết được vấn đề."

Nhà ngoại giao lão thành Võ Văn Sung, một trong những thành viên của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại hội đàm Paris nhắc lại lời cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói về ngày 30.4; "Đó là ngày có hàng triệu người vui và cũng có hàng triệu người buồn". Ông Sung cho rằng: "Thực tế đúng là như vậy và riêng tôi, tôi cũng nhận thấy như vậy. Bởi lẽ, hầu như tất cả các gia đình Việt Nam đều chịu mất mát tang thương do chiến tranh, nhất là ở miền Nam, phần lớn đều có tình trạng những thành viên trong cùng một gia đình từng tham gia cuộc chiến từ hai phía. Niềm vui ngày hoàn thành sự nghiệp độc lập- thống nhất cũng gợi nhắc lại nỗi đau chia rẽ và mất mát của một dân tộc bị chiến tranh xâm lược tàn phá suốt 30 năm ròng...".

Như vậy là trên thực tế tinh thần đoàn kết, hòa giải đã có trong hành xử hàng ngày của mọi người dân cũng như những người có vai trò quan trọng ở hai bên trong cuộc chiến. Thời gian đi qua đã đủ để hàn gắn những vết thương trong lòng mỗi cá nhân. Cần hòa giải và đoàn kết 86 triệu con tim người Việt trong cũng như ngoài nước để hướng đến tương lai, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và chống giặc đói nghèo, đưa thanh thế của dân tộc Việt Nam lên một vị trí mới trong thế giới "toàn cầu hóa" hiện nay. 

Tinh thần đó cần được coi như một mệnh lệnh của cả dân tộc.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nào ai có lòng với nước hơn ai? Nước ơi!

Lưu Trọng Văn


Trên trang web của nhà thơ Du Tử Lê, gã bất ngờ được đọc một bài của nhà thơ viết liên quan tới gã.
Du Tử Lê là một trong 10 nhà thơ nổi tiếng nhất của miền Nam trước năm 1975, ông cũng là nhà thơ có thơ phổ nhạc nhiều nhất trong các nhà thơ hiện nay, những bài hát có ca từ là thơ của ông nổi tiếng như: Khúc Thụy Du, Nếu tôi chết hãy đem tôi ra biển, Đêm nhớ trăng Sài Gòn…đồng thời ông từng là một sĩ quan của quân đội Việt Nam Cộng hòa, và ngày 17.4.1975 ông từng bị kết án tử hình vắng mặt trên Đài phát thanh Giải phóng của Mặt trận DTGP miền Nam cùng nhà văn Mai Thảo và nhạc sĩ Phạm Duy.
42 năm nay ông sống ở Mỹ và công việc đam mê nhất của ông vẫn là làm thơ. Ông là nhà thơ gốc châu Á duy nhất có thơ được chọn đăng trên hai tờ báo lớn nhất nước Mỹ là New York Times và Angeles Times. Năm 2015 ông ra mắt một tập thơ của ông tại Hà Nội.
Gã muốn giới thiệu về nhà thơ Du Tử Lê, với cái lý lịch điển hình của một người gọi là ở "phía bên kia" cùng đoạn trích bài viết của ông mới nhất trong những ngày tháng Tư buồn vui lẫn lộn này để bạn facebook của gã và chính gã có những suy nghĩ về hòa giải hòa hợp dân tộc - một khát vọng cháy bỏng của bất cứ ai yêu nước, thương nòi dù ở bất cứ đâu và dù từng là đối nghịch của nhau.
Gã xin nhắc lại trong câu chuyện với Phạm Duy, như nhiều lần gã khẳng định, gã thực ra chỉ là một cái cớ, để Phạm Duy mượn bài thơ của gã chìa bàn tay hòa giải hòa hợp dân tộc, chìa bàn tay hội tụ nước non mà thôi.
***
Lưu Trọng Văn, nổi tiếng với bài thơ “Về thôi”, viết tặng nhạc sĩ Phạm Duy mà sinh thời, nhạc sĩ Phạm Duy từng cho biết, bài thơ đó là một động lực quan trọng đưa ông tới quyết định, bỏ hết, để trở về Việt Nam.
Tuy nhiên, có một sự kiện, nếu không do chính nhà thơ Lưu Trọng Văn tiết lộ trong một cuộc phỏng vấn dành cho Trọng Thắng Show, có thể nhiều người không tin rằng mãi tới năm 1966, khi đã 15 tuổi, tác giả “Về thôi” mới được đọc bài “Tiếng Thu” của thân phụ ông!!!
Câu chuyện có thể tóm tắt như sau: Ở thời điểm giữa thập niên 1960s ở miền Bắc thì tất cả thơ văn mà chúng ta quen gọi là “Thơ văn Tiền chiến”, vẫn còn bị chính quyền Hà Nội cấm phổ biến, cấm lưu trữ vì bị xếp vào loại văn chương lãng mạn đồi trụy, sản phẩm sa đọa của tiểu tư sản!
Khi biết được Lưu Trọng Văn là thứ nam của tác giả “Tiếng Thu”, một độc giả hâm mộ thơ Lưu Trọng Lư, đã gọi Lưu Trọng Văn về nhà, dẫn tới một gác bếp, với tay, lấy từ trên gác bếp đó một bọc giấy, nhiều lớp. Mà lớp trong cùng là một miếng lá chuối khô. Bên trong mảnh lá chuối khô, lại là một tấm giấy nhỏ… Vị độc giả hâm mộ thơ Lưu Trọng Lư bảo:
“Mày đọc đi!...”
Người con trai thứ của nhà thơ Lưu Trọng Lư cúi đọc những hàng chữ li ti trong miếng giấy nhỏ ấy…
Đó là nguyên vẹn bài “Tiếng Thu” của cha ông mà lần đầu tiên ông mới được đọc:
“Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?
(Lưu Trọng Lư)
Đọc xong bài thơ của cha mình, Lưu trọng Văn đã… bật khóc!
(Nguồn: Trọng Thắng PV Lưu Trọng Văn - Youtube)
Có thể nhiều người cũng sẽ không tin, nếu chính tác giả “Về Thôi” không kể lại rằng: Hai năm sau, tức năm 1968, ông mới được nghe lần đầu, bài hát “Tiếng Thu” do nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc từ bài thơ cùng tên của cha ông.
Tôi nghĩ, đó cũng là một duyên lành khác, trời đất dành cho Lưu Trọng Văn sau nhiều năm, không được quyền biết tới di sản trí tuệ của cha mình!
Vẫn theo lời kể của nhà thơ Lưu Trọng Văn thì một độc giả khác, ái mộ thơ Lưu Trọng Lư, chỉ hơn Lưu Trọng Văn một, hai tuổi, cho biết: Anh đã lén nghe đài phát thanh Saigon nhiều lần.
Một hôm tình cờ được nghe ca khúc “Tiếng Thu” phổ từ bài thơ cùng tên của thân phụ Lưu Trọng Văn, anh đã nhập tâm ca khúc ấy… Tới khi tình cờ đi cùng tầu, người thanh niên yêu thơ liều lĩnh, bất chấp nguy hiểm kia, đã đóng cửa, ghé tai tác giả “Về Thôi” tương lai, để hát cho ông nghe. (Nguồn: Nđd.)
Cũng trong cuộc phỏng vấn kể trên, trả lời câu hỏi của Trọng Thắng về sự hình thành, rồi tương tác giữa bài thơ “Về Thôi”, với nhạc sĩ Phạm Duy… Khiến tác giả ca khúc “Tình Ca: Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi”; quyết định, phải trở về, nhà thơ Lưu Trọng Văn cho biết, đại ý:
Đó là năm 1994, trong một chuyến đi Singapore, ông được nhạc sĩ Võ Tá Hân (khi đó còn làm việc tại Singapore), hỏi có muốn nói chuyện điện thoại với nhạc sĩ Phạm Duy ở Hoa Kỳ?
Tuy chưa bao giờ gặp mặt một trong những người bạn văn nghệ thân thiết nhất của cha mình, vì hoàn cảnh chia đôi đất nước năm 1954, nhưng dĩ nhiên, Lưu Trọng Văn rất muốn được nói chuyện với người bạn tài hoa của cha.
Chưa kể cá nhân ông, bằng cách riêng, cũng biết khá nhiều những ca khúc nổi tiếng Phạm Duy. Câu chuyện được hướng thẳng vào tâm nguyện riêng của hai người; không dè dặt. Không úp mở. Không quanh co.
Phần nhạc sĩ Phạm Duy cho biết, ông đã suy nghĩ rất nhiều về chọn lựa sinh tử “trở về” trước khi quá muộn. Ông rất muốn trở về không phải với chế độ mà với đất nưóc, dân tộc của mình.
Phía nhà thơ Lưu Trọng Văn, tựa như thay mặt người cha quá vãng nói thẳng với bạn của cha rằng, một khi đã nghĩ tới chuyện trở về thì, nên về ngay. Bởi vì theo ông làm gì có trăm năm mà đợi! Làm gì có kiếp sau mà chờ!
Sau đó, Lưu Trọng Văn viết và đọc qua điện thoại bài “Về Thôi” cho Phạm Duy nghe:
“Về thôi, người tình già ơi
Thôn nữ chị
đã qua cầu thóc lép
Thôn nữ em
trăng gầy tuột khỏi chồi tay
Thôn nữ út
lơ đễnh lên đòng nào biết
Khúc tình xưa
Xưa ấy
Xưa rồi
Về thôi
Làm gì có trăm năm mà đợi
Làm gì có kiếp sau mà chờ
Đất Mẹ – Đất Nàng
Con sáo sang sông
tha cọng rơm vàng lót ổ
Mười chín năm bến cũ
Người tình già ơi
Nhớ không?”
LTV. 14.10.1994 (Nđd)
Sinh thời, khi được hỏi về bài thơ “Về thôi” của Lưu Trọng Văn, cố nhạc sĩ Phạm Duy (1921-2013) từng cho biết:
“Mùa Thu năm 1994, khi bài thơ này được thi sĩ gửi từ Saigon tới Thị Trấn Giữa Đàng cho tôi, thì nó gợi trong tôi một câu ca dao cũ:
“Trăm năm dầu lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác đưa...
“Câu ca dao này đã từng là kỷ niệm cho nhiều cuộc tình xa xưa của tôi trên những con đò ở dòng Hương Thủy. Kể từ ngày xuất ngoại, xấp xỉ 30 năm rồi, tôi xa quê hương, xa Huế... Rất nhiều khi tôi có ý nghĩ trở về thăm quê cũ, trở về Huế, Saigon và Hà Nội... nhưng tôi cứ băn khoăn, ngại ngùng, lưỡng lự... Giờ đây Lưu Trọng Văn dùng những câu thơ:
“Làm gì có trăm năm mà đợi
Làm gì có kiếp sau mà chờ…
“… đi kèm với những câu:
“Con chuồn chuồn không lùng nhùng trong mạng nhện
“Con bướm vàng nằm xoài dưới chân ai...
“… để gọi một người trong nòi tình thì -- dù tôi không còn cái thú soạn ca khúc nữa - - tôi đã muốn phổ nhạc nó ngay.
“Bài thơ của Lưu Trọng Văn còn nhắc tôi rằng: đã nhiều năm rồi tôi cứ ngồi khoanh tay chờ đợi một cái gì đó, giống như nhân vật trong một vở kịch nổi danh của Samuel Beckett: En attendant Godot! Hơn nữa, theo tinh thần của câu ca dao kể trên, tôi còn thấy nếu cứ ngồi chờ đợi một con đò xa xưa thì, sau ba thế hệ làm nghề đưa đò, chắc chắn o đò nào cũng đã đi mô mất rồi!
“Thế là tôi không ngần ngại gì nữa, vào đầu năm 2.000, tôi đáp máy bay về Việt Nam, có lẽ cũng chỉ vì có tiếng gọi tha thiết của một thi sĩ, tiếng gọi mơ màng của một o đò, tiếng gọi nồng nàn của tình yêu…
“Và sau dăm bẩy lần về thăm quê hương, tôi quyết định sáng tác một serie mười ca khúc mới, gọi là Mười Bài Hương Ca. Tôi đem bài thơ "Về Thôi" phổ thành: Hương Ca số 1 với tên là Trăm Năm Bến Cũ…” (Nguồn Wikipedia- Mở) .
***
Cứ mỗi lần có chuyện không vui liên quan tới vận nước, liên quan tới dân gã oán than, liên quan tới lòng người phân ly, gã lại nhớ tới Phạm Duy và trong gã cái câu ca ấy lại vang lên cùng nước mắt:
Tiếng nước tôi 4.000 năm ròng rã buồn vui
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi!
Tiếng nước tôi! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi
Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi,nước ơi
Tôi yêu tiếng ngang trời
Những câu hò giận hờn không nguôi
Nhớ nhung hoài mảnh tình xa xôi
Vững tin vào mộng đẹp ngày mai…
Những người như Phạm Duy, người đã phổ bài thơ Tiếng Thu của cha gã nhà thơ bên kia vĩ tuyến 17 chia cắt hai miền, hai chế độ, để đưa ra tuyên ngôn lớn nhất của người nghệ sĩ yêu nước là "chỉ cái đẹp mới hội tụ dân tộc", nào biết ai có lòng với nước hơn ai?
Và những người như Du Tử Lê:
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
Đời lưu vong không cả một nấm mồ
Vùi đất lạ, thịt xương e khó rã
Hồn không đi sao trở lại quê nhà
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
Nước ngược dòng hãy đẩy xác trôi đi
Bên kia biển là quê hương tôi đó
Rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì…
Nào biết ai có lòng với nước hơn ai?
Nước ơi!

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Bảy, 29 tháng 4, 2017

NHÀ CẦM QUYỀN MÀ TRÁI LÒNG DÂN, TRÁI ĐẠO LÝ THÌ SẼ CHẾT




Thuận lòng dân nên giữ được nước; 
Trái lòng dân, trái đạo lý thì để mất nước… 

 

LTS: Lịch sử sẽ được hậu thế nhìn nhận như thế nào? Câu hỏi đó luôn tồn tại trong đời sống xã hội vì lịch sử là điểm bắt đầu của hiện tại và tương lai. Một hiện tượng, sự kiện, nhân vật…trong lịch sử sẽ có những những nhận diện và nhận định khác nhau tùy vào cách tiếp cận, cách nhìn khác nhau. Sử học, là đương nhiên, nhưng văn học cũng có thể lấy lịch sử làm đối tượng nghiên cứu, phản ánh…Lịch sử có thể là cảm hứng sáng tạo cho nhà văn. Hai phương pháp tiếp cận, nghiên cứu, sáng tác khác nhau nhưng sử học và văn học luôn có sự giao thoa, ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng/và luôn có các sản phẩm khác nhau. Tiểu thuyết lịch sử là một điểm gặp thú vị nhất giữa sử học và văn học. Tiểu thuyết lịch sử ở Việt Nam thời gian gần đây đang nổi lên bởi các tác phẩm khá bề thế và đi theo đó đang có những đánh giá, bình luận khác về phương pháp sáng tác, về sự thật/chân dung lịch sử trong các tác phẩm. Để tiếp cận vấn đề này, VHNA đã có cuộc trao đổi với nhà văn Hoàng Quốc Hải, tác giả của hai bộ tiểu thuyết Bão táp triều Trần vàTám đời vua Lý đang được dư luận quan tâm. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

PV: Thưa nhà văn, chúng tôi được biết ông vào nghề văn từ lâu, thế nhưng tai sao đến cách đây 20 năm ông mới chọn lịch sử làm đề tài sáng tác của mình?

Nhà văn Hoàng Quốc Hải (NV. HQH):
 Có nhẽ tôi chớm nhận ra xã hội có khuynh hướng lãng quên quá khứ. Bởi chương trình giảng dạy cũng như thi cử trong hệ thống giáo dục của nước ta từ trước thập niên 60 của thế kỷ 20, thường chỉ chú trọng đến giai đoạn lịch sử cận đại, lịch sử cách mạng. Quan sát hệ thống các nhà bảo tàng cũng đủ rõ.
Bảo tàng lịch sử thì quy mô nhỏ, hoạt động rời rạc như bị chìm khuất, còn bảo tàng cách mạng từ Trung ương xuống các tỉnh ngày một phình to và cứ xem cách họ trưng bày hiện vật, cách hướng dẫn khách tham quan, khiến ta có cảm giác lịch sử dân tộc đã được đồng hóa với lịch sử cách mạng. Mặc dù lịch sử cách mạng cũng chiếm phần quan trọng trong lịch sử dân tộc, song nó chỉ là một phân kỳ ngắn ngủi so với tiến trình lịch sử. Việc làm đó không chỉ là việc làm phản khoa học lịch sử, mà nó còn tiềm ẩn nguy cơ suy thoái về mặt đạo lý, chắc sẽ phải gánh chịu hậu quả lâu dài.
Giật mình hơn nữa, khi thấy nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã tiên lượng và cảnh báo từ thập niên 40 của thế kỷ 20 rằng: “Người không biết lịch sử nước mình tựa như một con trâu đi cày ruộng, nó cày bất cứ thửa ruộng nào cũng được, và cày với người chủ nào cũng được”.
Vì những lý do trên tôi tìm về lịch sử, và lấy đề tài sáng tác từ trong lịch sử của dân tộc.
PV: Và tại sao ông lại chọn thời đại Lý – Trần làm bối cảnh lịch sử cho các sáng tạo văn học của mình? Phải chăng ở thời đại đó sự nghiệt ngã của lịch sử đã tạo nên trí tuệ, văn hóa và bản lĩnh Việt mà các thời kì lịch sử trước đó chưa làm nên?

NV. HQH:
 Sở dĩ tôi chọn hai thời đại Lý – Trần, là bởi hai thời đại đó để lại cho hậu thế nhiều bài học mang tính kinh điển trong công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Và chính trong câu hỏi của ông cũng đã có hàm ý trả lời. Rõ ràng là trong khoảng đầu thế kỷ 11 và nửa cuối thế kỷ 13, lịch sử đặt dân tộc ta đứng trước nguy cơ tồn tại hay không tồn tại.
Nhà Lý tiếp thu một gia tài xộc xệch và nghèo xác cả từ văn hóa đến vật chất, do bạo chúa Lê Long Đĩnh để lại. Nếu tầm nhìn hạn hẹp và tư kỷ, Lý Công Uẩn bước tiếp vết chân của Lê Long Đĩnh, chắc chắn cả dân tộc đã bị bức tử, cả quốc gia đã bị hủy hoại.
May thay, vương triều nhà Lý được tạo dựng bởi trí tuệ của giới đại trí thức Phật giáo. Không những họ ý thức mà còn tỉnh thức trước nguy cơ sụp đổ, nếu không chịu lột xác, tức là không triệt để cách tân nền chính trị đã bị tha hóa dưới triều Lê Long Đĩnh. Vì vậy họ bắt tay ngay vào công cuộc cải cách đất nước một cách hết sức có trí tuệ, có bài bản; lấy bình đẳng, từ bi, bác ái làm động lực xây dựng xã hội, trên cơ sở “Tam giáo đồng nguyên” được triển khai bởi cương lĩnh: xã hội Nho, tâm linh Phật, thiên nhiên Đạo.
Từ đó nhà Lý đưa nước ta trở thành một nước cường thịnh trong khu vực, đặt dấu ấn vững vàng cho nền văn hiến Đại Việt, mở đầu cho một giai đoạn phát triển rực rỡ khá dài. Nhà Trần khi được nước, không những họ không phủ định những thành tựu chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của nhà Lý mà còn tiếp nhận và phát triển lên mức cao hơn.
Ví dụ về tôn giáo, vẫn lấy đạo Phật làm quốc đạo. Về giáo dục, hệ thống trường học được mở mang nhiều hơn. Các khoa thi tiến sĩ để chọn người có học thức, người tài giỏi bổ dụng cho bộ máy cai trị ngày một nhiều thêm. Về quân sự, vẫn dùng chế độ “Ngụ binh ư nông” của nhà Lý, đồng thời khuyến khích các vương, hầu có điền trang, thái ấp lập ra các đội dân binh và tinh binh. Khi thường, họ vẫn ở nơi hương ấp làm ruộng, tham gia việc giữ gìn an ninh trật tự tại địa phương, khi nước có giặc, các đội dân binh này là nguồn bổ sung phong phú cho quân thường trực của triều đình.
Sau cuộc xâm lăng mở đầu của Hốt – Tất – Liệt mang tính thăm dò Đại Việt vào cuối năm Đinh Tỵ (1257), nhà Trần dự liệu đất nước ta đã nằm trong tầm ngắm của người Mông Cổ.
Nhà Trần ý thức được sức mạnh của đế quốc Mông Cổ, nên sớm có chủ trương củng cố đất nước để tạo sức mạnh kháng giặc từ trong lòng dân. Nhà nước chăm lo đời sống cụ thể cho mỗi phận người.
Về nông nghiệp, nếu như trước đây nhà Lý chỉ đắp đê quai vạc (đỉnh nhĩ) để bảo vệ kinh thành và một số vùng phụ cận Thăng Long, thì nhà Trần lo đắp đê ngăn lũ từ nguồn tới biển, lại đặt chức Hà đê chánh phó sứ để giám sát đê điều. Tiếp đó là chia thêm ruộng quốc điền cho dân, giải phóng bớt nông nô, biến họ từ người nô lệ thành người tự do, người có sản nghiệp bằng cách bán ruộng công điền cho họ, cứ mỗi diện (mẫu) là 5 quan, ai thiếu tiền cho mua chịu. Cuộc cải cách này là bước quan trọng để cố kết lòng dân.
Khi thấy nhà Tống có nguy cơ bị quân Mông Cổ tiêu diệt hoàn toàn, nhà Trần ráo riết chuẩn bị lực lượng giữ nước bằng cách huy động triệt để sức mạnh vật chất và trí tuệ của toàn dân tộc. Dùng người tài không phân biệt nguồn gốc xuất thân. Đặc biệt, triều đình đặt niềm tin vào lực lượng trẻ. Mở đầu là việc Hoàng thái tử Trần Khẩm mới 20 tuổi được vua cha (Trần ThánhTông) trao truyền ngôi báu. Hàng loạt các tướng trẻ xuất hiện. Phạm Ngũ Lão chàng trai nông dân mới 18 tuổi được Trần Hưng Đạo dùng làm tướng. Yết Kiêu, Dã Tượng chỉ là gia nô cũng trở thành tướng giỏi…
Thật vậy, chỉ bảy năm sau khi lên ngôi, Trần Nhân Tông đã lãnh đạo toàn quân, toàn dân làm hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Nguyên vào lúc mà mệnh nước có thể ví như vật nặng ngàn cân treo trên đầu một sợi tóc.
Ấy vậy mà vị vua trẻ mới 27 tuổi ấy, cùng với các tướng trẻ hợp sức với cả dân tộc, muôn người như một đã đánh bại hai lần liên tiếp đội quân khổng lồ đông tới 50 vạn tên phải thất bại nhục nhã. Và đích thân Nguyên Thánh tổ phải cử sứ sang Đại Việt tuyên cáo bãi binh, cũng có nghĩa là giặc phải công nhận nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta.
Quả thật là hai thời đại Lý – Trần, triều đình đã triệt để đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên hàng đầu. Họ đặt trọn vẹn niềm tin vào dân. Hơn nữa họ còn giáo dục cho công dân của mình biết liêm sỉ, biết tự trọng, có như vậy mới giữ được quốc sỉ. Thử tưởng tượng, một quốc gia để mất quốc sỉ thì còn gì để nói nữa. Hơn hết, những người lãnh đạo đất nước vừa sáng suốt, vừa độ lượng, khoan dung. Ví như việc tầy trời là một số quan lại trong ngoài triều, khi đất nước lâm nguy, đã hèn nhát có thư xin hàng hoặc ước hàng với giặc. Thoát – hoan lưu giữ đầy một tráp, khi tháo chạy khỏi Thăng Long, y không kịp mang theo.
Dọn dẹp cung điện, một viên quan nội hầu phát hiện ra, đem dâng vua xem, để trị tội những kẻ bất trung. Nhà vua không những không xem mà còn nói để kẻ có tội yên lòng: “Trong lúc thế giặc đang cường, đến ta còn nao núng, nói chi kẻ khác”. Rồi ông sai đốt đi.
Một thời đại như thế với những vị vua anh minh đức độ như thế, quả thật là sự hấp dẫn vô cùng cho sức sáng tạo văn chương. Vì thế mà tôi đã để hết tâm trí và sức lực làm nên hai bộ tiểu thuyết lịch sử “Tám triều vua Lý” và “Bão táp triều Trần”.
PV: Văn hóa Lý – Trần là một thời đại phát triển rực rỡ của văn hóa Việt/Đại Việt. Điều đó xưa nay đã có nhiều người khẳng định. Vậy theo ông, với cảm nhận của một nhà văn, cái tinh quý và độc đáo nhất của văn hóa Lý – Trần là gì?
NV. HQH: Theo tôi, cái độc đáo nhất, tinh túy nhất của văn hóa Lý – Trần là một nền văn hóa nhân bản, hướng thượng. Và mục tiêu cao cả nhất của nền văn hóa ấy đều xuất phát từ con người và vì con người.
PV: Tất nhiên là trong lịch sử sẽ có sự bồi đắp hoặc loại bỏ những tính cách, thậm chí là những yếu tố có tính chất như là phẩm chất của một cộng đồng nhằm hoàn thiện và thích ứng với các điều kiện chính trị – xã hội – kinh tế mới của thời đại, nhưng những cái gì thuộc về giá trị, phẩm chất căn cốt thì không thể thay chuyển được. Cộng đồng người Việt của chúng ta đã có quá trình hình thành từ hàng ngàn, hàng vạn năm trước, nhưng chúng tôi có cảm giác là các phẩm chất Việt tiêu biểu nhất đã được hoàn thiện trong thời đại Lý – Trần. Ông nghĩ sao về điều này? Và ông có thể giúp bổ sung cho chúng tôi các hiểu biết mới về vấn đề này?
NV. HQH: Tôi đồng ý với ông, các phẩm chất tiêu biểu của công dân Đại Việt hầu như đã được hoàn thiện trong các thời đại Lý – Trần. Và dường như đã có sự hao mòn về phẩm chất Việt từ các thời đại tiếp nối. Bởi lẽ giai cấp thống trị các thời đại sau đó khá sa sút về phẩm chất văn hóa, nên họ không đủ nội lực để hoàn thiện phẩm chất chính trị, dẫn đến rối nát trong nội bộ và gây ra sự trì bế trong xã hội, thậm chí có thời đại gây bi thảm cho đất nước bằng cuộc nội chiến, đất nước bị chia cắt tới mấy trăm năm, khiến cả dân tộc phải gánh chịu biết bao đau thương và kéo lùi bước tiến tới cả trăm năm so với các dân tộc khác trong khu vực. Tội ác đó lịch sử không thể tha thứ. Tôi nhớ vào khoảng năm 1950, hồi ấy tôi còn nhỏ lắm, khi đọc trên tờ “Thời Mới” in ở Hà Nội, có bài thơ, chỉ đọc một lần đã gây trong tôi ấn tượng sâu sắc. Tôi đọc đi đọc lại vài ba lần, nay vẫn còn thuộc nhưng tên tác giả thì không nhớ. Đó là bài Hận Sông Gianh. Tôi xin đọc để chúng ta nghe lại:
Đây sông Gianh đây biên cương thống khổ
Đây sa trường đây nấm mộ trời nam
Đây dòng sông dòng máu Việt còn loang
Đây cổ đô xương tàn xưa chất đống
Sông còn đây hận phân ly nòi giống
Máu còn đây cơn uất hận tương tàn
Và còn đây hồn dân Việt thác oan
Bao thế kỷ chưa tan niềm uất hận
Ôi Việt Nam cùng Việt Nam gây hấn
Muôn đời sau để hận cho dòng sông
Mộng bá vương Trịnh – Nguyễn có còn không
Nhục nội chiến non sông còn in vết
Đây sông Gianh nơi nồi da xáo thịt
Nơi dân Hồng tàn sát giống Lạc Hồng
Nơi máu đào nhuộm đỏ sóng dòng sông
Máu nhơ bẩn muôn đời không rửa sạch
PV: Đó là một dòng sông thơ đã được viết bằng máu của dân tộc Việt Nam, là thành quách thơ được dựng bằng xương cốt của dân tộc Việt Nam, là nỗi đau sâu thẳm của những người Việt Nam còn tâm hồn Việt, tính cách Việt, nhân phẩm Việt… Nếu tôi nhớ không nhầm thì tác giả của bài thơ là Đằng Phương, tức giáo sư Nguyễn Ngọc Huy.
Thưa nhà văn, lịch sử là đối tượng nghiên cứu của sử học đồng thời cũng là đối tượng nghiên cứu, phản ánh của văn học. Theo ông thì cái khác nhau cơ bản về cách tiếp cận lịch sử, như là một đối tượng nghiên cứu, của sử học và văn học là gì?
NV. HQH: Thưa ông, sử học và văn chương là hai lĩnh vực chuyên biệt, sử học nghiên cứu lịch sử theo tư duy lô – gích (logique). Văn chương nghiên cứu lịch sử nhằm giải mã nó bằng tư duy hình tượng.
Đối tượng của sử học là nghiên cứu về các sự kiện. Đối tượng của văn học là nghiên cứu về con người trong tổng hòa xã hội.
PV: Ông quan niệm về tiểu thuyết lịch sử như thế nào? Tư liệu và thông tin lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử có độ tin cậy như thế nào? Tôi nghĩ, trong tiểu thuyết lịch sử vẫn phải có hư cấu, nhưng hư cấu như thế nào để không làm méo mó chân dung lịch lịch sử, sự thật lịch sử, ông có thể trao đổi một vài kinh nghiệm?
NV. HQH: Mọi loại hình của tiểu thuyết đều hình thành trên cái nền của hư cấu, tiểu thuyết lịch sử không hề có ngoại lệ.
Vừa qua, Hội đồng lý luận về Văn học – Nghệ thuật Trung ương có cuộc hội thảo bàn về Văn chương và Lịch sử, cũng đề cập đến vấn đề hư cấu, tỷ lệ hư cấu hoặc giải thiêng trong tiểu thuyết lịch sử.
Tôi chắc Hội đồng cũng không thể ra quyết định, ấn định tỉ lệ phần trăm sự thật lịch sử trong tác phẩm văn chương viết về lịch sử, để từ đó lập ra văn bản pháp quy nhằm chế định các tác giả.
Ông hỏi những tư liệu lịch sử và thông tin lịch sử trong tác phẩm văn học viết về lịch sử, có độ tin cậy như thế nào?
Theo tôi, những tư liệu lịch sử và thông tin lịch sử khi còn yên nghỉ trong chính sử, nó thuộc loại nguyên liệu thô. Còn các thông tin trong tác phẩm văn học có độ tin cậy cao hơn, nếu xét trên bình diện tổng thể về quy mô mà nhà văn giải mã lịch sử, chứ không đóng đinh vào các sự kiện chết.
Còn như hư cấu như thế nào, hư cấu tới mức độ nào? Thưa ông, nhà văn phải hư cấu sao cho tác phẩm của mình đạt tới mức chân thực. Vâng, chân thực lịch sử và cả chân thực cuộc sống. Dạ, không ai có thể giới hạn được biên độ hư cấu cũng như khung trời tự do sáng tạo của các nhà văn, trừ khi có ai đó tự nguyện chui đầu vào cái vòng kim cô do giới quyền lực giăng mắc.
Dạ thưa, kinh nghiệm của tôi, nhà văn với thiên chức của nó là tái tạo gương mặt lịch sử, chứ không làm nô lệ cho sự kiện lịch sử.
PV: Ông đã vận dụng phương pháp nghiên cứu sử học như thế nào trong công việc viết tiểu thuyết lịch sử?
NV. HQH: Tôi dùng phương pháp so sánh và loại trừ để tìm ra cái mình cần tìm.
Trong khi tìm hiểu lịch sử, đương nhiên phải dựa vào chính sử. Nhưng tôi không đặt trọn niềm tin vào đó. Bởi bộ sử lớn nhất nước ta là bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” thì trong biểu dâng sách của người chủ biên là nhà sử học Ngô Sỹ Liên đã nói: “Thần dựa vào hai bộ sử trước (do Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên soạn), lại tham khảo thêm dã sử và chuyện dân gian để bổ sung vào”. Cái lý do phải dựa vào dã sử, Ngô Sỹ Liên trần tình: “giáo mác đầy đường đâu chẳng là giặc Minh tàn bạo, sách vở đều trở thành một đống tro tàn, chữ Hợi chữ Thỉ khó phân biệt” (Tự dạng hai chữ này hao hao giống nhau. Ý nói tư liệu chính xác rất thiếu).
Thủ phạm của sự nghèo nàn tư liệu này là do giặc Minh, mà tên tội phạm chiến tranh số 1 này là Minh Thành Tổ. Phải nói trong lịch sử cổ kim của nhân loại, chưa có kẻ thù nào tàn bạo và quỷ quyệt như giặc Minh. Hàng ngàn năm đô hộ nước ta, nhưng chúng vẫn không đồng hóa được dân tộc ta, là bởi ta vẫn còn gìn giữ được nền văn hóa của riêng mình, trong đó có ngôn ngữ, tín ngưỡng, tôn giáo và phong tục tập quán. Nay chúng ra sức tàn sát văn hóa (tức là tiêu diệt tận gốc cái hồn của một dân tộc) khiến cho cái gốc lịch sử của ta nằm trong sách vở biến thành tro tàn.
Tôi lạ lùng nhận thấy, cho tới tận ngày nay, con cháu của kẻ thù vẫn ngoan cố cho rằng tổ tiên nó đã khai hóa cho dân tộc ta, nó giúp đỡ ta như bè bạn.Càng kinh ngạc hơn, cũng không thiếu những người Việt vong bản, vẫn còn rất mơ hồ với bọn tội phạm văn hóa này. Đúng như nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã từng nói, họ như những con trâu, cày ruộng nào cũng được, cày với chủ nào cũng được, chẳng qua họ không hiểu biết về lịch sử của chính dân tộc mình.
PV: Chúng tôi cảm nhận ở thời đại Lý – Trần có ít nhất hai cặp đôi vấn đề nổi lên. Đó là: i; khát vọng, ý chí giữ nước, dựng nước, và, sự thăng hoa trong sáng tạo văn hóa. ii; Sự phát triển của một thể chế và sự hoàn thiện nhân cách một cộng đồng dân tộc. Các cặp đôi vấn đề này có thể được biểu hiện rõ hơn khi liên hệ với nhà Hồ kế ngay sau đó. Khi tìm hiểu thêm về lý do thành công của sự xử lý các mối quan hệ này, chúng tôi cho rằng đó chính là mối quan hệ hài hòa giữa chính trị và văn hóa, giữa quyền lực và tri thức, giữa quyền lợi dân tộc và lợi ích của các cá nhân và nhóm xã hội. Thưa nhà văn, xin ông ý kiến chỉ giáo về những cảm nhận của chúng tôi.
NV. HQH: Tôi đồng ý cách đặt vấn đề và lý giải vấn đề của ông, rằng hai thời đại đó xã hội phát triển được hài hòa là bởi họ lấy văn hóa làm trọng tâm để giải quyết các mối quan hệ xã hội, đặc biệt là quan hệ giữa chính trị và văn hóa, hoàn toàn không có chuyện chính trị hóa văn hóa.
Xin lưu ý, thời nhà Lý, triều đình chưa hình thành lợi ích nhóm, mà chỉ có nhóm lợi ích của các dân tộc thiểu số. Việc giải quyết nhóm lợi ích của nhà Lý trong các đời vua Thái tổ, Thái tông, Thánh tông có thể coi là mẫu mực, bởi không chỉ làm yên lòng các đầu mục dân tộc thiểu số, mà còn cố kết được họ với triều đình, trong khối đoàn kết dân tộc để giữ nước. Tuy nhiên, các sử gia thiển cận đã phê phán chính sách này của nhà Lý không tiếc lời.
Nhà Trần thì phức tạp hơn, ngoài việc đối với các dân tộc thiểu số thì nội bộ giới quý tộc cũng đã hình thành nhóm lợi ích, tiêu biểu là hai nhánh quyền lực Trần Liễu, Trần Cảnh. Sau này là Trần Hưng Đạo với phần còn lại. Tuy nhiên, họ giải quyết khá thỏa đáng, bởi họ lấy Tổ quốc và Nhân dân làm mẫu số chung.
PV: Chúng tôi nghĩ, là người nghiên cứu kĩ về thời đại Lý – Trần nói riêng và lịch sử dân tộc nói chung, chắc hẳn ông có những nhận định của mình về những bài học lịch sử mà thời đại Lý – Trần đã và đang để lại cho chúng ta ngày hôm nay. Ông có thể chia sẻ với bạn đọc của VHNA?
NV. HQH:Vâng thưa ông, hai thời đại huy hoàng nhất trong lịch sử dân tộc, đã để lại cho hậu thế nhiều bài học mang tính kinh điển. Nếu con cháu thông minh và khiêm tốn, thì đây là kho báu gồm kinh nghiệm và trí khôn có thể ứng dụng trong nhiều ngành, nhiều hình thái đối nội và đối ngoại cực kỳ vi diệu.
Ví như trong lĩnh vực tôn giáo, nhà Lý dựa hẳn vào Phật giáo, dùng lực lượng tu sĩ làm đội quân xung kích trên mặt trận văn hóa trong hệ thống chùa làng. Ngoài nhiệm vụ chính của một thầy chùa là hoằng pháp, hướng dẫn người dân tu tập để tiến hóa về mặt tâm linh, thì vị sư ấy còn có nhiệm vụ kiêm chức một thầy giáo dạy chữ cho đám trẻ nhỏ trong làng, ông là người vừa khai tâm, khai trí và khai minh cho dân chúng. Vị tăng đó còn kiêm luôn cả chức năng của người thầy thuốc, là chữa trị bệnh tật cho dân chúng trong làng, hướng dẫn người dân biết hái, biết trồng và biết sử dụng cây thuốc để trị các bệnh thông thường.
Do không nắm được đặc trưng xã hội đó, nên các sử gia đời sau cứ phê phán nhà Lý hoài về “mê đắm đạo nhất thừa”.
Thứ nữa là về mặt pháp luật. Họ làm luật là để phục vụ cho lợi ích của người dân. Ví dụ năm Nhâm Ngọ (1042), Lý Thái tông cho san định bộ Hình thư. Luật ban ra, triều đình cử xuất nạp quan về tận nơi thôn cùng xóm vắng, xem xét khi luật ấy thi hành có điều nào tiện hay không tiện cho dân. Không tiện, có nghĩa là luật xa rời thực tế, không hợp lòng dân, xuất nạp quan tâu báo lên, triều đình lập tức tu chính. Truyền thống ấy được phát huy cao hơn ở đời Lý Thánh tông. Lịch sử còn truyền tụng câu chuyện bất hủ khi nhà vua xử kiện, công chúa Động Thiên ngồi bên cạnh, mặc áo lông cừu mà vẫn kêu rét. Nhà vua truyền lệnh phát chăn ấm và cơm cho tù ăn no. Ngài nói với mọi người: “Dân chúng có người vô tình mắc tội, có người không biết luật mà mắc tội, có người bị quan lại chèn ép mà mắc tội… nên nhất loạt khoan giảm một bậc”.
Và mặc dù đã có hệ thống tòa án các cấp, nhưng nhà vua vẫn cho lập “Đô hộ phủ sĩ sư”, tức tòa giám đốc thẩm, để xử lại các án oan, án ngờ. Và để quan lại trong tòa này giữ được liêm chính, nhà vua ban lộc cho mỗi người một năm được hưởng thêm một trăm bó lúa và hai giành cá khô để dưỡng liêm.
Đơn cử hai vấn đề, một là tôn giáo, hai là luật pháp đều nhằm đối tượng nhân dân và vì nhân dân mà hành hóa. Hai vấn đề đều có quan hệ mật thiết đến đời sống tinh thần và an sinh xã hội, nhà Lý giải quyết rất nhẹ nhàng. Ấy là bởi họ vì lợi ích của muôn dân chứ không vì lợi ích hoàng gia, lợi ích nhóm.
Còn với nhà Trần, tôi cũng xin cử hai bài học mà theo tôi nó có quan hệ đến định mệnh quốc gia.
Thứ nhất là mâu thuẫn giữa hai nhánh quyền lực. Tức là hai dòng trưởng và thứ, có lúc đã gay gắt tới mức tưởng như một mất một còn. Tuy nhiên, họ đã dẹp bỏ được mâu thuẫn, vì họ đặt lợi ích quốc gia lên trên hết.
Bài học thứ hai là khi Hốt-tất-liệt, tên bạo chúa nhà Đại Nguyên, đặt cả dân tộc ta trước nguy cơ bị hủy diệt. Nhà Trần không chỉ đoàn kết trong nội bộ hoàng gia, hoàng tộc mà còn cố kết toàn dân thành một khối. Họ luôn biết lắng nghe kẻ sĩ, lắng nghe dân.
Biểu tượng cao nhất là Hội nghị các bô lão ở điện Diên Hồng, khi quân thù đã sắp kéo 50 vạn hùng binh tràn vào biên ải nước ta. Các vua nhà Trần còn phân vân không biết có chống nổi giặc dữ, và không đo được lòng dân trước thế giặc. Vì thế các vua Thánh tông, Nhân tông liền họp các bô lão tiêu biểu trong cả nước để vấn kế. Và kết quả là đại biểu của toàn dân muôn người như một đòi triều đình: “quyết đánh!”.
Triều đình đã lắng nghe và chấp hành nguyện vọng của toàn dân, nên đã tạo ra được sức mạnh siêu thần nhập hóa, đánh bại đội quân xâm lược khổng lồ mà trước đó nó chưa biết mùi chiến bại. Thậm chí các nước khổng lồ như Nga, Trung Hoa đều đã gục ngã, quy hàng và cam chịu cho người Mông Cổ đặt ánh thống trị.
Vậy là các bài học của hai thời đại Lý – Trần để lại cho hậu thế là chính quyền phải vì dân và biết lắng nghe kẻ sĩ, lắng nghe dân thì muôn việc dù khó khăn, nguy nan đến mấy cũng đều có thể vượt thoát được.
.
Nhà Hồ độc tài chuyên chế, khinh dân, coi thường kẻ sĩ, phớt lờ quyền lợi  và nguyện vọng của dân thì dù có xây thành đá cuối cùng cũng không tìm được  nơi ẩn trốn, bị bắt làm tù binh. Ảnh: Internet.
 
Trái lại nhà Hồ vừa độc tài chuyên chế, vừa khinh dân, khinh nhờn kẻ sĩ, phớt lờ quyền lợi và nguyện vọng của người dân, thì dù có xây thành đá, rốt cuộc cũng không tìm được nơi ẩn nấp. Và chỉ mấy tháng sau khi giặc Minh vào cõi, cả ba cha con Hồ Quý Ly đều bị bắt làm tù binh.
Nước mất là bởi chính quyền nhà Hồ đã tước đoạt hết quyền làm chủ của người dân, khi ấy nước không còn là của dân nữa, thì dân cũng không chứa cái thứ chính quyền đã phản bội họ. Vì vậy nhà Hồ tựa như cái cây đã bật hết rễ ra khỏi lòng đất. Đất không nuôi dưỡng nữa, nó phải chết.
Vâng thưa ông, trên đây tôi chỉ đưa ra vài ví dụ, thực ra các bài học lịch sử do hai thời đại Lý – Trần để lại cho dân tộc ta nhiều vô kể, và đều thuộc hàng kinh điển cả. Cái kho tàng kinh nghiệm đầy trí tuệ ấy, nếu biết khai thác và khiêm tốn áp dụng một cách minh mẫn, chắc chắn chúng ta sẽ có trí khôn và sức mạnh tăng lên gấp nhiều lần, và không một kẻ thù nào dám coi thường dân tộc ta.
Tiếc thay, như mọi người đều biết rằng bài học lớn nhất của lịch sử, là người ta đã không chịu rút ra từ lịch sử những bài học. Vì vậy, dân tộc ta đã và đang phải trả giá quá đắt về sự ngạo mạn cùng với tội bất kính tổ tông.
Nhà Hồ vừa độc tài chuyên chế, vừa khinh dân, khinh nhờn kẻ sĩ, phớt lờ quyền lợi và nguyện vọng của người dân, thì dù có xây thành đá, rốt cuộc cũng không tìm được nơi ẩn nấp. Và chỉ mấy tháng sau khi giặc Minh vào cõi, cả ba cha con Hồ Quý Ly đều bị bắt làm tù binh.

Nước mất là bởi chính quyền nhà Hồ đã tước đoạt hết quyền làm chủ của người dân, khi ấy nước không còn là của dân nữa, thì dân cũng không chứa cái thứ chính quyền đã phản bội họ. Vì vậy nhà Hồ tựa như cái cây đã bật hết rễ ra khỏi lòng đất. Đất không nuôi dưỡng nữa, nó phải chết. 
 PV: Trong những bài học đó, bài học nào là đáng giá nhất và bài học nào là đắt giá nhất?
NV. HQH: Theo tôi, bài học đáng giá nhất là nhà Trần đã thuận theo lòng dân nên giữ được nước, làm cho dân tộc ta ngẩng cao đầu và kiêu hãnh trước kẻ thù hùng mạnh nhất thời đại.
Và bài học đắt giá nhất là nhà Hồ làm trái lòng dân, trái đạo lý, chuyên quyền và tàn bạo nên để mất nước về tay quân thù.
PV:Thưa nhà văn, nghiên cứu thời đại Lý – Trần, chắc là ông đã đọc, nghiên cứu văn học của thời đại này rất nhiều. Những thâu nhận từ nền văn học này đã giúp ông trong quá trình tái tạo chính lịch sử thời đại này bằng văn học như thế nào?

NV. HQH:
 Thưa ông, văn học thời Lý -Trần có vẻ đẹp mà không thời nào có được. Trước hết là giá trị mỹ học. Tiếp đó là sự hào sảng khoáng đạt, ung dung tự tại, với vẻ thâm trầm uẩn ảo, toát ra từ cốt cách của một nền văn hóa ở tầng cao trí tuệ.
Tiếp thu tinh hoa đó, và tôi đã chuyển tải tinh thần đó vào trong hai bộ tiểu thuyết lịch sử “Tám triều vua Lý” và “Bão táp triều Trần”. Tuy nhiên, trình độ có hạn, nên dung lượng được chuyển tải bị hạn chế nhiều.
PV: Câu cuối chúng tôi muốn hỏi nhà văn là trong viết tiểu thuyết lịch sử thì cần nhất điều gì và kiêng kị nhất điều gì?
NV. HQH: Thưa ông, điều cần thiết đối với người viết tiểu thuyết lịch sử là phải giữ được cái tâm trong sáng, phải trung thực và phải biết nâng niu những giá trị do lịch sử để lại. Và điều kiêng kỵ nhất đối với người viết tiểu thuyết lịch sử là không được đem tà tâm gửi vào lịch sử.
PV: Cảm ơn ông rất nhiều về cuộc trao đổi hôm nay. Hy vọng chúng ta sẽ có những trao đổi trong thời gian tới.
Phan Thắng thực hiện

Phần nhận xét hiển thị trên trang

“LỊCH SỬ LÀ SỰ THẬT, BƯNG BÍT SỰ THẬT LÀ HÈN VÀ CÓ TỘI VỚI DÂN TỘC”



LỊCH SỬ LÀ HỒN THIÊNG CỦA GIỐNG NÒI, TRÍ KHÔN CỦA DÂN TỘC 
GS Mạch Quang Thắng


3_2
    

Khoa học lịch sử là sự phản ánh sự thật. Hư cấu là điều tối kỵ với sử học. Xuyên tạc là gây tội với sử học. Như thế, sự thật là nguyên tắc tối thượng của sự phản ánh trong khoa học lịch sử. 
    Chẳng thế mà đọc “Sử ký” của Tư Mã Thiên bên Trung Quốc, tôi thấy rằng, có câu chuyện thời Xuân Thu, ba anh em quan Thái sử Bá, Thái sử Trọng, Thái sử Thúc lần lượt bị chém đầu chỉ vì dám viết sự thật “Tướng quốc nước Tề là Thôi Trữ giết vua“, chứ không chịu viết như lệnh của Thôi Trữ là “Tiên Vương chết vì bệnh nặng”.  Đến người em thứ tư là Quý, vào triều thay các anh làm quan Thái sử, người em này vẫn viết: “Hạ ngũ nguyệt Thôi Trữ thích quân”.
   Thái sử Quý đã có câu nói khảng khái với Thôi Trữ để muôn đời sau phải nghĩ về cái nguyên tắc bất di bất dịch đó trong việc hành nghề sử: “Ông có thể giết chết Thái sử nhưng không thể giết chết được sự thật“. 
   Sự thật lịch sử là thế. Nó hiên ngang giữa Trời. Chữ Dũng thách thức cái chết. Nó mạnh hơn cả cái chết!  Đó là chuyện của đời xưa ở Trung Quốc. Không biết là có đúng như thế không?. 
   Chứ nói về sự thật thì khó có nhà sử học ở bất cứ nước nào trên thế giới lại không lấy “nhận rõ sự thật, nói rõ, viết rõ sự thật” làm điều răn hành trong học tập và trong hành nghề, giống như sinh viên ngành y Việt Nam phải “thuộc” lời thề của ông tổ nghề y trên thế giới là Hypocrite và những lời dạy của Hải Thượng Lãn Ông. Còn khi hành nghề có đạt được cái điều ấy không thì lại là một chuyện khác.
   Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Hà Văn Tấn là chuyên gia hàng đầu trong giới sử học Việt Nam về phương pháp sử học. Lời của ông vẫn vang bên tai các thế hệ học trò: “Biết sự thật không dễ, và dám nói lên sự thật nhiều khi càng khó hơn. Muốn viết sử phải biết phương pháp sử học và trước hết phải là người trung thực chứ không phải là tên cơ hội“.
Cả một thời phổ thông và đại học, chúng tôi được mấy quý thầy triết học, chủ nghĩa xã hội khoa học dạy rằng, nguồn gốc chiến tranh thời hiện đại là do chủ nghĩa đế quốc, do chế độ tư hữu mà ra. 
   Mấy quý thầy dạy sử thì khác. Chỉ cần dùng phương pháp miêu tả lịch sử thôi thì cũng thấy luận đề trên đây không vững.
   Trung Quốc xã hội chủ nghĩa đánh Việt Nam xã hội chủ nghĩa ở biên giới phía bắc để “dạy cho Việt Nam một bài học”, thực chất là xâm lược chứ chẳng phải là “xung đột”  hay “va chạm”gì cả. 
   Ở đây, đế quốc ở đâu ra? Tư hữu ở đâu ra? Làm gì có! Cứ mỗi lần hai bên (Việt Nam và Trung Quốc) gặp nhau có vẻ hữu hảo ở đâu đó, kể cả trên đất Hà Nội và trên đất Bắc Kinh, thì Trung Quốc lại gây ra chuyện mới ở Trường Sa và Hoàng Sa. 
    Ông Tập Cận Bình nói rất ngang trong tháng 9/2015 với chuyến thăm Mỹ khi dự Hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc.
   Gần đây nhất sang làm việc tại Việt Nam, đến nói chuyện tại Phòng Diên Hồng của Quốc hội Việt Nam đang họp, ông ấy nói như thế nào chúng ta đều biết rõ. 
   Nhưng vừa rời Việt Nam sang làm việc tại Singapore thì ông Tập lại nói rằng, từ thời cổ đại những đảo trên Biển Đông vốn đã là của Trung Quốc. 
   Không phải xâm lược chỉ là bởi chế độ tư hữu. Không phải chỉ là do đế quốc, tư bản. Sự thật tự nó nói lên cái mà con người cứ nhìn sai hoặc cố tình nhận thức sai. Sự thật càng được nhận thức rõ và càng được tôn trọng bao nhiêu, thì tính hấp dẫn, tính giáo dục nhân cách càng cao bấy nhiêu, với mọi lứa tuổi. 
   Trong thế giới phẳng hiện nay, thời đại thông tin 3.0, chúng ta thấy con người có rất nhiều cơ hội để tiếp nhận sự thật thông tin. Nhưng sự thật cũng không dễ thấy như người ta tưởng. 

   Có công nghệ cao để nhận biết sự thật thông tin thì cũng có công nghệ cao để gây nhiễu, để giấu giếm, để xuyên tạc, để che lấp sự thật. Mà không phải một người làm những việc đó. Nó lại hay bị che lấp, bị giấu giếm, bị gây nhiễu muôn màu, muôn vẻ.
  Có khi cả một tổ chức, một nhà nước, một đảng chính trị làm những việc che giấu, gây nhiễu đó.
   Chẳng thế mà trên thế giới nói chung, không ít người dân – những người đóng thuế nuôi bộ máy nhà nước – bị lừa để bỏ phiếu ủng hộ cái điều gì đó của nhà nước khi cần lấy phiếu! 
   Có người nói với tôi là việc nhận ra sự thật không khó. Tôi lại thấy khó. Ngay cả những con số trong các văn bản tư liệu để viết sử cũng vậy. Số liệu “ma”, số liệu dối nhiều lắm.
  Những quý thầy cô dạy môn Xã hội học cứ hay chứng minh cho tôi rõ là kết quả điều tra xã hội học (bằng phiếu hỏi) là chính xác lắm. Tôi không tin, bởi tôi từng thấy sự không chính xác từ nhiều điều tra kiểu ấy ở Việt Nam. 
   Người viết sử không biết tin vào con số nào đây? Khó quá! Ngay những con số gần đây. Nợ công hiện nay ở Việt Nam là chiếm bao nhiêu phần trăm GDP? 
   Ngân sách tài chính với số liệu nào đây? Mỗi tổ chức, mỗi cá nhân đưa ra những con số khác nhau.
   Viết sử không tránh khỏi miêu tả sự kiện, con số. Nhưng sự kiện và con số nào nói lên sự thật? Miêu tả không khéo thì lại sa vào “chủ nghĩa miêu tả” mà có người dùng thuật ngữ Pháp là anecdotisme. 
   Tôi thấy trong viết sử, có người cứ mê tín các con số của ngay các đối tượng nghiên cứu đưa ra. Đã mê tín các con số của đối tượng đưa ra thì cái chuyện lấy nhận định của đối tượng làm nhận định của chính mình là chuyện thường, mặc dù nhận định đó là rất chủ quan, không đúng sự thật. 
   Thực ra, nếu làm như vậy thì người nghiên cứu sử đã đi từ chủ nghĩa miêu tả tiến đến chủ quan, định kiến, mà nhiều người dùng thuật ngữ Pháp để diễn tả là “chủ nghĩa đóng màu” (fixisme).
   Nhiều quý thầy cô dạy học sinh về tình yêu Tổ quốc.
    Tổ quốc là những điều có thật ở bên chúng ta, bên các em học sinh tuổi đời còn trẻ. Nói và viết về sự thật như thế nào đây?
   Tôi đi điền dã (nghiên cứu thực tế), thấy nhiều điều phản cảm. Nói tới tính ưu việt của xã hội mà cứ thấy nhiều điều chưa phản ánh được cái đó. Sự thật nằm ở đâu? Chẳng lẽ cứ nằm mãi ở lý luận, lý thuyết.
   Đọc lại phần viết về chủ nghĩa xã hội phong kiến của C.Mác và Ph.Ăngghen trong bản “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” (công bố năm 1848), tôi thấy rằng để gột rửa được tính phong kiến trong tư duy và hành động của con người Việt Nam vốn có truyền thống hàng ngàn năm lịch sử phong kiến, thật không đơn giản! 
   Trong Khổng Tử phong kiến, ngay từ trước Công nguyên, ông ấy đã hình dung và mong muốn có một thế giới đại đồng hẳn hoi. 
   Nhưng đại đồng của ông ấy vẫn nhuốm màu đẳng cấp của cái tôn ti trật tự phong kiến, vua phải ra vua, quan phải ra quan, dân phải ra dân, quân tử phải ra quân tử, tiểu nhân phải ra tiểu nhân, phụ nữ phải làm tròn cái đạo của phụ nữ,…
   Tính chính danh phải là một nguyên tắc trong hành xử của một xã hội. Do đó, cái đẳng cấp, đặc quyền đặc lợi là cái chi phối hết thẩy trong xã hội phong kiến Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng đó là cái cũ mà cái mới cần phủ định ở xã hội Việt Nam hiện đại. Quý thầy triết học dạy chúng tôi như thế.
   Đặc quyền, đặc lợi, đẳng cấp hiện nay ở nước ta khá lớn. Chúng lại được trốn dưới nhiều dạng chính sách, dạng hành động tưởng là nhỏ. Nhưng cái tưởng là nhỏ ấy lại lòi ra cái tư duy không nhỏ của cái cũ mèm, lạc hậu của phong kiến mà không theo kịp sự tiến bộ của nhân loại.
   Từ cái thời Việt Nam chưa thịnh hành viết và nói tiếng Anh thì tôi thấy đã xuất hiện nhiều cái chữ VIP rồi. Người ta đem VIP ra gắn với những người có chức có quyền. 
   Chứ không gắn với ông bà công nhân, nông dân mà trong lý thuyết quý thầy cô cứ giảng cho học sinh họ là hai giai cấp quan trọng. 
   Nhiều nước trên thế giới đã bỏ VIP trong dịch vụ rồi. Là hạng thương gia khi đi máy bay. Người ta bỏ tiền đắt hơn gấp đôi hạng thường để mua vé hạng thương gia. 
   Và người bỏ tiền mua vé hạng thương gia đó có quyền hưởng dịch vụ tốt hơn nhiều so với hạng thường. Đó là hàng hóa, là thương mại. Sòng phẳng. Công bằng. Hợp lẽ phải. 
   Nhiều nước còn cho rằng, nước họ không có chế độ phục vụ VIP cho một số ít người không chịu bỏ tiền mua dịch vụ đó. Nhiều nước coi tất cả những người dân, đặc biệt những người đóng thuế, là VIP. 

  Nếu bạn nào đi du lịch một số nước châu Âu, ở Bắc Âu, cứ quan sát mà xem. Đến nhà ga sân bay, nhìn xem, họ có phòng chờ dành cho những ai có vé hạng thương gia, chứ không có phòng VIP và thương gia lẫn lộn.
Ở nước mình, trong phòng họp của một cơ quan nào đó thì thấy rằng, ghế ngồi của các cán bộ thì to như nhau, đến ghế của thủ trưởng thì lại to hơn lên. Để làm gì nhỉ? Để phân biệt thủ trưởng to hơn chăng? 
   Ngồi họp Quốc hội thì đại biểu nào thuộc đoàn nào thì phải ngồi theo đoàn ấy chứ. Năm 1994, có lần tôi được nghe một cán bộ kể lại một câu chuyện. 
   Chuyện rằng, trước đây, khi họp Quốc hội, trên đoàn chủ tọa có rất nhiều người ngồi. Dứt khoát là có những nhân vật đứng đầu các tổ chức chính trị-xã hội ở Việt Nam. 
   Một vị đại biểu Quốc hội lúc đó góp ý rằng, không được ngồi như thế, hãy về ghế ngồi theo đoàn đại biểu của mình đi; rằng, cứ bảo là xây dựng nhà nước pháp quyền mà cái vị trí ngồi cũng không nhận ra nổi thì xây cái gì!…
   Dạy học sinh về sự thật lịch sử qua những cái đó ra sao đây? Thì đó là sự thật mà. Nhưng sự thật đó phản ánh bản chất không? Hay là thầy cô giáo chỉ dùng cái phương pháp miêu tả để rồi học sinh muốn hiểu, muốn bình luận như thế nào là tùy, theo kiểu tư duy mở trong cái phương pháp dạy và học tích cực?
   Người ta nói môn học Lịch sử quan trọng lắm. Nhưng, môn học Lịch sử đích thực phải là sự thật lịch sử. Thầy cô giáo phải chuyển tải tri thức và tư duy sử trên cái nền sự thật đó chứ như hiện thời thì chưa được. 
  Viết các tác phẩm sử học cũng vậy. Chứ viết như hiện nay thì nhiều tác phẩm còn nặng về “chính trị hóa” (chính trị hành vi, chứ không phải chính trị trong “chính trị học”). 
   Không ít thầy cô giáo, không ít các “nhà” sử học còn miêu tả và nhận định sử học không dựa trên căn cứ của sự thật. Như thế mà cứ chứng minh môn Lịch sử quan trọng lắm thì khó mà thuyết phục. 
   Có điền dã, có thực tế, có nghiên cứu cho ra đầu ra đũa, đừng tin những gì trong các báo cáo viết. Như thế mới tìm ra sự thật, tìm ra chân lý. Như thế mới đúng là khoa học lịch sử. Như thế mới gọi là vai trò to lớn của khoa học lịch sử.
   Tôi nghe nói là Việt Nam đang bắt đầu viết quốc sử. Cần quá. Tuy muộn. Muộn còn hơn không. Nhưng viết như thế nào thì lại là vấn đề cực kỳ quan trọng. Sự thật vẫn là tiêu chuẩn của các tập quốc sử. 
   Nhưng, đừng ngồi chờ viết xong quốc sử. Hãy đưa ngay vào giáo khoa những tri thức của sự thật. Chẳng hạn, phải bổ sung ngay kiến thức về lịch sử chủ quyền và vấn đề hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam vào sách giáo khoa phổ thông. 
   Lịch sử là hồn thiêng của giống nòi và là trí khôn của dân tộc. Lịch sử là sự thật, không đúng sự thật không thể gọi là lịch sử. Lâu nay, viết sử ở nước ta có vẻ nửa vời, phiến diện, nó mang đầy tính chính trị thô thiển…
   Kẻ bưng bít sự thật là kẻ hèn. Không những hèn mà còn có tội với dân tộc. Mong cho viết lịch sử đúng sự thật. Để không còn cảnh nhiều người Việt Nam chán sử. 
   Và đó là yêu cầu mới, yêu cầu cực kỳ cấp thiết, yêu cầu cực kỳ quan trọng việc của đưa tri thức lịch sử vào các bậc học ở Việt Nam. Mà con đường hay nhất để thực hiện điều đó là nên để môn Lịch sử thành môn học độc lập.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

SÁCH MỚI: “BIÊN BẢN CHIẾN TRANH 1-2-3-4.75”



 TBT Ông Trần Mai Hạnh tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh với tư cách đặc phái viên của Việt Nam Thông tấn xã. Ông là tác giả cuốn tiểu thuyết tư liệu lịch sử “Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75” vừa ra mắt bản dịch tiếng Anh hôm 27/4.
tran-mai-hanh-1474099129
“Lịch sử chính là sự thật”
Chia sẻ quan điểm của mình về lịch sử với BBC Tiếng Việt hôm 27/4, ông Hạnh nói: “Tôi nghĩ những sự kiện lịch sử chỉ diễn ra có một lần, cũng như đời người chỉ sống có một lần. Thời gian càng trôi xa, các sự kiện càng bị lớp bụi thời gian phủ mờ.”“Người ta rất dễ giải thích theo cái quan điểm của mình, hoặc đề cao quá mức, hoặc là thanh minh, hoặc là giải thích lại theo ý của mình những sự kiện lịch sử. Tôi quan niệm rằng cái quan trọng nhất của lịch sử chính là sự thật. Sự thật là món quà vô giá của thượng đế trao cho con người. Nhìn từ phía nào cũng thế, phía người chiến thắng là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày ấy hay phía bại trận là phía Việt Nam Cộng hòa và phía Hoa Kỳ, nhìn ở góc độ nào cũng được, nhưng cuối cùng nó phải là sự thật.”
Ông cho biết sau khi viết bài tường thuật về “giây phút lịch sử ở Sài Gòn” ngày 30/4, và được các báo đăng lại trong ngày 1/5/1975, ông đã “nảy ra ý định chụp dựng lại một cách trung thực những năm tháng cuối cùng của chiến tranh, về phía chính quyền Sài Gòn và cả phía Hoa Kỳ nữa.”
“Chịu trách nhiệm về sự thật”
Ông cho biết ông viết cuốn “Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75” dựa vào những tài liệu nguyên bản của phía chính quyền Sài Gòn và phía Hoa Kỳ ngày đó. Những tài liệu này ông thu thập được trong thời gian đi theo chiến dịch Hồ Chí Minh.
Ông cũng nói 21 tài liệu nguyên bản, trong đó có cả những tài liệu thu được từ nơi ở và làm việc của tổng thống Việt Nam cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu, phòng làm việc của đại tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng quân lực Việt Nam Cộng hòa vào buổi trưa và buổi chiều ngày 30/4/1975, được công bố trong cuốn sách mới của ông.
“Tôi không có xen bất cứ bình luật nhận xét cá nhân nào của tôi cả. Mà để sự thật của các sự việc toát lên – sự sụp đổ [của chế độ Việt Nam Cộng hòa] là tất yếu hay không tất yếu, ai là người chiến thắng, ai là người thất bại, vì sao chiến thắng và vì sao thất bại. Khi tôi đã hạ bút xuống viết cuốn sách “Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75″, dùng từ biên bản là tôi đã ký thác cả sinh mạng của mình vào cuốn sách này. Tôi chịu trách nhiệm về sự thật.”
“Tôi không có bình luận nhận xét nào mà cuốn sách của tôi chủ yếu là đưa ra những gì chân thực nhất của phía bên kia.” ông Hạnh nói thêm.
“Thống nhất đất nước là thiêng liêng nhất”
Nhà văn Trần Mai Hạnh nói với BBC ông tin rằng cuốn sách của mình sẽ góp phần vào việc hòa giải giữa các bên của cuộc chiến.
“Hòa giải hay không hòa giải thì cũng phải trên cơ sở của sự thật, chứ không thể đánh lộn các khái niệm để hòa giải được. Nếu khép lại quá khứ trong một mớ bùng nhùng thì làm sao hòa giải được,” ông bình luận.
“Cuốn sách của tôi là sự thật, và tôi viết cuốn sách này rất nhân văn và tôn trọng phía bên kia, từ cách xưng hô, từ cách đánh giá. Ai bỏ chạy thì tôi nói là bỏ chạy, ai chiến đấu đến tận cùng thì nói là chiến đấu đến tận cùng. Những người rất có trình độ và có tư cách thì nói họ có trình độ và tư cách. Không phải là bôi xấu.”
“Nếu bức tranh nó chân thật thì tôi nghĩ nó sẽ góp phần vào hòa giải, không hận thù ở đây,” nhà văn nói.
Khi được hỏi ông nghĩ gì về quan điểm cho rằng “tất cả đều thua trong các cuộc chiến”, ông Hạnh đáp:
“Người Việt Nam không có ai muốn cầm súng cả…nhưng cái cao hơn tất cả là độc lập tự do của một dân tộc, quyền tự do của một con người, thống nhất của cả nước. Đó là điều thiêng liêng nhất. Người ta không thể đi làm nô lệ được mà phải chiến đấu đến cùng để thống nhất đất nước.”
“Tôi quan điểm lịch sử là tự nó diễn ra. Lịch sử là sự thật. Không phải anh thắng thì nói thế nào cũng được, mà anh thua thì muốn nói thế nào cũng xong. Nếu có tranh cãi nhau cũng phải tranh cãi bằng sự thật.”
Với việc nhà xuất bản Sự thật công bố bản tiếng Anh, ông hy vọng cuốn “Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75” sẽ đến tay độc giả ở các nước và nhận được nhiều tranh luận và phản hồi.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bước ngoặt Đồng Tâm

 
28/04/2017 - Cuộc khủng hoảng ở xã Đồng Tâm (huyện Mỹ Đức - Hà Nội) tạm thời chấm dứt khi dân làng trao trả 19 chiến sĩ cảnh sát cơ động, tháo dỡ những hàng rào “cố thủ” ở làng Hoành sau một tuần nghẹt thở. Cả xã hội như vỡ òa vui mừng, vì không có trấn áp xảy ra, đồng thời chính quyền cam kết không truy cứu trách nhiệm hình sự “toàn dân làng” vì hành động được cho là bạo lực.

Những biểu ngữ được người dân treo bên ngoài hàng rào nhà văn hóa thôn Hoành (xã Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà Nội). Ảnh: Hoàng Như/Zing 

Kết quả ấy có được sau một cuộc đối thoại vô tiền khoáng hậu, với cam kết 3 điểm của Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Nguyễn Đức Chung, trước sự chứng kiến của Đại biểu Quốc hội Lưu Bình Nhưỡng - Phó chủ nhiệm Ủy ban Dân nguyện của Quốc hội, Đại biểu Dương Trung Quốc, Bộ Công an, chính quyền các cấp... Ít nhất, cho đến thời điểm này, nguyện vọng của người dân Đồng Tâm đã được đáp ứng, bằng những quyết định: tạm đình chỉ thi công dự án, thanh tra toàn diện đất đai, điều tra hành vi bắt người của lực lượng công vụ của chính quyền TP Hà Nội.

Qua vụ việc, dễ dàng nhận thấy, những yêu cầu của người dân Đồng Tâm là chính đáng. Họ cần được minh bạch tình trạng pháp lý của ruộng đất, cũng như quá trình thu hồi đất của chính quyền. Để đạt được những nguyện vọng ấy, họ phải hành động quyết liệt, bắt giữ con tin và “bảo vệ lãnh thổ” của làng. Cho dù, biết rất rõ như vậy là vượt rào pháp luật, dân làng vẫn bất chấp những hậu quả pháp lý mà họ có thể đối diện.

Vậy, vì sao để đạt được sự đồng thuận xác đáng, thỏa lòng dân, hay có thể nói rộng hơn là công lý thì ông Chủ tịch Hà Nội và dân làng phải dùng một thỏa thuận “giấy tay” chưa hề có trong trình tự thủ tục pháp luật? Vì sao những bức xúc của người dân Đồng Tâm đã tích trữ thời gian dài, đã nhiều lần tràn lên các đơn thư khiếu nại nhưng họ vẫn thống thiết muốn được chia sẻ, được ai đó lắng nghe? Phải chăng, đó là hệ quả của một chính quyền cơ sở xa rời dân chúng, đến mức trở thành vô hiệu lực? Là hệ quả của các văn bản pháp luật về đất đai có những vấn đề bất cập?

Những bức xúc kiểu Đồng Tâm đang là thực tế nhức nhối trong xã hội hiện nay, một lần nữa đặt ra nhu cầu cấp thiết về hoàn thiện hệ thống luật pháp của nhà nước pháp quyền.


Đối thoại với dân về những bức xúc xã hội không phải là việc xưa nay hiếm. Có thể nhắc lại câu chuyện ở xã Cảnh Dương (Quảng Trạch - Quảng Bình) tháng 7 năm ngoái. Ngay sau khi thủ phạm Fomosa gây thảm họa môi trường biển miền Trung được công bố, người dân ở đây đã yêu cầu một cuộc đối thoại với chính quyền, để từ đó họ có những kiến nghị kịp thời đến cơ quan quản lý. Nhiều vụ việc khác cũng đã được giải quyết nhanh chóng, kịp thời sau những buổi đối thoại trực tiếp với người dân ở các địa phương trong thời gian qua.

Mặc dầu, về lý thuyết người dân có nhiều công cụ pháp lý để bày tỏ nguyện vọng của mình, đó là hoạt động bầu cử, tiếp xúc cử tri, khiếu nại, tố cáo... nhưng diễn biến của cuộc sống là vô cùng phong phú, do đó, có nhiều nơi, nhiều lúc, lãnh đạo chính quyền cơ sở quan liêu, cứng nhắc đã không lắng nghe kịp thời những đòi hỏi bức bách từ cuộc sống. Vụ việc Đồng Tâm đánh dấu một cột mốc quan trọng với phương cách giải quyết vấn đề của chính quyền trong tình huống tưởng chừng “một mất, một còn”. Nổi rõ qua vụ việc này là ý nguyện chính đáng của nhân dân được đặt lên vị trí số một, bởi ý chí chính trị bao trùm là chính quyền của dân, do dân và vì nhân dân như hiến định. Vụ Đồng Tâm còn là dịp để nhìn lại những bức xúc xã hội, thông qua các con số thống kê về khiếu nại, tố cáo. Tại cuộc họp ngày 17.4.2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Trưởng ban Dân nguyện Nguyễn Thanh Hải cho biết 70% đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến vấn đề đất đai...

Với định chế “đất đai là sở hữu toàn dân”, hệ quả pháp lý là quyền tài sản của người dân về đất đai không được ghi nhận đầy đủ. Cho nên quá trình phân bổ lại nguồn lực này trong nền kinh tế thị trường, người dân luôn đứng ở thế bị động, thiệt thòi, và con số đơn từ khiếu nại, tố cáo như đã nêu là một phản ảnh sinh động.

Người dân luôn luôn đòi hỏi và giám sát quá trình thực thi pháp luật sao cho đúng đắn, công bằng, nghiêm minh. Nhưng đó chỉ là một vế của vấn đề. Từ thực tế đời sống, những nhà lập pháp cần chỉ ra các quy định bất cập chưa hợp lòng dân, hay còn nhiều lỗ hổng để những nhóm lợi ích tận dụng xâm phạm đến lợi ích của đa số dân chúng.

Những bức xúc kiểu Đồng Tâm đang là thực tế nhức nhối trong xã hội hiện nay, một lần nữa đặt ra nhu cầu cấp thiết về hoàn thiện hệ thống luật pháp của nhà nước pháp quyền, không chỉ là các quy phạm pháp luật chuyên ngành, mà còn là phải trao công cụ pháp lý cho chính người dân khi họ có nhu cầu bày tỏ nguyện vọng của mình: Luật Biểu tình vẫn nhiều lần trễ hẹn.

Duy Thông
http://nguoidothi.vn/vn/news/chuyen-hom-nay/binh-luan/7896/buoc-ngoat-dong-tam.ndt


Phần nhận xét hiển thị trên trang

TÀI NÓI LÁO

TRUYỆN CƯỜI DÂN GIAN - 

Có một anh giàu rất sành về khoa nói láo, những câu chuyện anh ta bịa ra thần tình, khéo léo đến nỗi nhiều người đã biết tính anh ta rồi, mà vẫn mắc lừa.
Nhờ cái tài ấy, anh ta nổi tiếng khắp vùng. Tiếng đồn đến tai quan. Một hôm, quan đòi anh ta đến nha môn, chỉ vào chồng tiền và một cây roi song to tướng để trên bàn:
- Ta nghe đồn anh nói láo tài lắm, lâu nay thiên hạ bị anh lừa nhiều rồi.
Bây giờ anh hãy bịa ra một chuyện gì lừa được ta thì ta thưởng cho ba mươi quan tiền. Trái lại, anh không lừa nổi ta, thì sẵn chiếc roi song kia, ta cho anh ba chục roi.
Anh nói láo nghe xong, gãi đầu gãi tai, bẩm:
- Lạy quan lớn, đèn trời soi xét. Quả bấy lâu nay con mắc tiếng oan, con có nói láo bao giờ đâu ạ! Nguyên con có ông tằng tổ đời xưa đi Sứ bên Tàu, đem về được một bộ sách nói toàn chuyện lạ, con xem thấy hay hay, đem kể lại, nhưng chẳng ai tin, cứ bảo rằng con nói láo…
Câu trả lời gợi tính tò mò của quan. Quan liền bảo:
- Thế à? Vậy anh có thể cho ta mượn xem được không?
- Trăm lạy quan lớn… Ngài xá cho, vì… con làm gì có sách ấy! Con nói láo đấy ạ!

Phần nhận xét hiển thị trên trang

ĐỒNG Ý LÀ CHÚNG TA LÀ HAI ANH EM, NHƯNG AI LÀ ANH AI LÀ EM.


Gần đây nghe TT Thích Chân Quang nói dân VIỆT là em của Tàu làm cho mình cảm thấy bực bội.
Nhưng công bằng mà nói, ông không phải là người đầu tiên nói tào lao như thế (nếu có), nhiều người Việt Nam cũng tự nhận một cách thành kính rằng họ có nguồn gốc từ người Tàu. Chẳng hạn như mấy năm trước có một cô mà tôi quên mất tên viết trên BBC mà trong đó có câu “Người dân Việt Nam bắt nguồn từ Trung Quốc, Vua của Việt Nam cũng khởi tổ từ người Trung Quốc, coi vua Trung Quốc như anh như cha… từ Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, hay Lý Công Uẩn, rồi các gia tộc họ Trần, Lê, Nguyễn, v.v…”và Tố Hửu cũng dã nói tào lao như vậy.

Nhưng đó là một nhận định không có chứng cứ khoa học. Chứng cứ khoa học thuyết phục nhất là gen, là chất liệu di truyền. Đã có nhiều nghiên cứu về nguồn gốc dân tộc và văn minh Đông Nam Á, và tôi có lần xem một bài báo cũng khá lâu rồi. Một trong những tác giả đi tiên phong về lĩnh vực nghiên cứu này là Bác sĩ Stephen Oppenheimer, người Anh và nay làm việc ở ĐH Oxford. Trong cuốn sách nổi tiếng “Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast Asia”, qua những dữ liệu được thu thập một cách công phu từ nhiều ngành nghiên cứu khác nhau, Oppenheimer đi đến kết luận rằng Đông Nam Á là cội nguồn của văn minh hiện đại, và người Đông Nam Á chính là tổ tiên của người Tàu. Đó là một thách thức ghê gớm với quan điểm chính thống, nhưng cho đến nay khó ai có thể bác bỏ dữ liệu của Oppenheimer.
Gần đây, một nghiên cứu hết sức công phu về nguồn gốc dân tộc chứng minh rằng nhận định của Oppenheimer có thể đúng. Đó là công trình nghiên cứu qui mô lớn gọi là HUGO Pan Asian SNP Consortium công bố trên tập san Science người Đông Á có nguồn gốc từ Đông Nam Á. Nghiên cứu này phân tích khoảng 50,000 SNP trên 2000 người thuộc 73 sắc tộc, và họ đi đến kết luận:
• Người Đông Á và Đông Nam Á có cùng nguồn gốc;
• Người Đông Á chủ yếu xuất phát từ cư dân vùng Đông Nam Á.
Xin nhắc lại Đông Á ở đây là Tàu, Hàn Quốc, Mông Cổ, và có thể kể cả Nhật. Nên nhớ rằng ngày xưa không có người Thái, Việt, Mã Lai, v.v. mà chỉ có Đông Nam Á nói chung. Do đó, nói Đông Nam Á ở đây tôi muốn nói đến người Thái, Mon-Khmer, Tạng-Miến, Mã Lai, hay gọi chung là Bách Việt.
Đây là một nghiên cứu có thể nói là “final say” Thật ra, trước đó cũng đã có một vài nghiên cứu cho thấy người Đông Nam Á chính là tổ tiên của người Đông Á. Dĩ nhiên, cũng có nghiên cứu cho thấy kết quả ngược lại, nhưng do phương pháp chưa tốt nên cũng khó thuyết phục. Tôi thì thấy chứng cứ trên (Đông Nam Á có trước Đông Á) rất thuyết phục. Thuyết phục là vì nhiều dữ liệu ngoài di truyền cũng cho thấy Đông Nam Á là một trung tâm văn minh thế giới cổ.
Trước hết, hãy nói về trồng lúa nước. Nhiều sách vở Việt Nam (và thế giới) cho rằng Tàu là dân tộc đầu tiên thuần hoá và phát triển kĩ thuật trồng lúa nước. Sách sử Tàu còn viết rằng mấy quan thái thú Tàu như Nhâm Viên và Tích Quang dạy người Việt làm lúa nước . Nhưng bây giờ thì chúng ta biết rằng quan điểm này SAI. Người Đông Nam Á mới chính là chủ nhân của kĩ thuật này. Hạt lúa lâu đời nhất được tìm thấy trong một hang động ở Thái Lan. Điều này có lí vì nghề trồng lúa nước đòi hỏi người dân phải nắm vững và thích nghi với thời tiết, môi trường sông nước, rất thích hợp với người Đông Nam Á.
Thứ hai là thuần hoá gia cầm. Nghiên cứu di truyền gần đây cho thấy tất cả các loài gia cầm như gà, chó, heo, v.v. trên thế giới đều có nguồn gốc từ Đông Nam Á. Trong cuốn “Origin of species”, Darwin cũng từng khẳng định rằng tất cả các giống gà nuôi trên thế giới đều có nguồn gốc từ gà rừng Đông Nam Á. Trong một bài viết cho Tập san National Geographic, W. G. Solheim II nhận xét rằng Đông Nam Á là nơi phát triển nền chăn nuôi đầu tiên trên trái đất. Điều này phù hợp với giả thuyết Đông Nam Á là một cái nôi văn minh nông nghiệp đầu tiên của con người, và cư dân tại đây rất là những người phát minh ra kĩ thuật trồng lúa nước, chăn nuôi, và truyền các kĩ thuật này lên phía Bắc (tức là có trước ở miền Nam của Tàu ngày nay).
Câu chuyện người Đông Nam Á là tổ tiên người Đông Á khá dài dòng và phức tạp, Câu chuyện chúng ta nói ở đây xảy ra gần 10 ngàn năm trước, và xảy ra trong bối cảnh di dân từ Phi châu. Nói tóm lại, một nghiên cứu mới nhất và qui mô lớn nhất công bố trên Science cho thấy người Đông Nam Á chính là tổ tiên của người Đông Á, kể cả người Tàu. Phát hiện này giúp chúng ta suy nghĩ lại nguồn gốc dân tộc, mà cũng khẳng định câu của Nguyễn Trãi:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cỏi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Đúng quá!
Nghiên cứu mới nhất công bố trên Science và lời Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi còn là một lời nhắc nhở cho TT Thích Chân Quang và những ai còn ảo tưởng rằng tổ tiên của chúng ta là người Tàu.

Phần nhận xét hiển thị trên trang