Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 26 tháng 2, 2013

Tu Lieu

NHÀ PBVH NGÔ THẢO: ĐÔI LÚC, BÀI THƠ CÓ SỨC MẠNH NHƯ MỘT SƯ ĐOÀN



Mặc dù phải trải qua một cơn trọng bệnh nhưng nhà phê bình Ngô Thảo ở tuổi thất thập vẫn cho ra mắt bạn đọc một cuốn sách rất có giá trị với những ai muốn hiểu rõ hơn về một thời văn nghệ còn chưa xa. Tác phẩm mang tên “Dĩ vãng phía trước” gồm những tư liệu gốc và những ký ức của chính Ngô Thảo.
Nhận xét về cuốn sách, nhà văn Trung Trung Đỉnh nhấn mạnh: “Làm lý luận phê bình, Ngô Thảo luôn luôn có ý thức sưu tầm tư liệu, đặc biệt là làm tư liệu về một số nhà văn cụ thể. Đó là một công việc thiết thực giúp cho các thế hệ độc giả nhận diện chân dung văn học của một thời. Công việc nhọc nhằn này đã bộc lộ đức tính cần cù, tận tụy, vô tư như anh từng sống với bạn bè, tự nó nói lên tấm lòng của anh một cách khiêm nhường đầy trách nhiệm…”.


- PV: Nói thật là tôi rất thích tên tác phẩm mà anh xuất bản gần đây nhất, “Dĩ vãng phía trước”. Nhưng tôi lại hiểu theo nghĩa là, thực sự tương lai của chúng ta đã được định hình bởi những gì chúng ta đã làm trong quá khứ. Đối với anh, quãng đời trải nghiệm trong chiến tranh đã mang lại cho anh những gì để anh có thể an tâm hơn với tương lai?
- Nhà phê bình văn học Ngô Thảo: Cảm ơn bạn đã biết đến cuốn sách. Đó là tập tư liệu văn học chủ yếu của các nhà văn quân đội sống và làm việc ở Tạp chí Văn nghệ quân đội, nơi tôi có 15 năm làm biên tập viên. Thế hệ chúng tôi ra trận khi miền Bắc đã có 10 năm xây dựng trong hòa bình.
Một lớp trẻ quê ở nông thôn như chúng tôi đã được đi học, kịp tốt nghiệp đại học. Chỉ có điều, đón chúng tôi trên chặng đầu vào đời là một cuộc chiến tranh nhằm giải phóng miền Nam để thống nhất đất nước. Mọi ước mơ, dự định riêng tư đành gác lại. Những năm tháng gian khổ, ác liệt ở chiến trường luôn mơ có ngày về lại với thế giới xưa.
Với chúng tôi, để về lại chốn xưa, chỉ có một con đường là đạp lên chông gai, chiến thắng kẻ thù. Dĩ vãng phía trước là lời động viên người chiến sĩ hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng như anh nói, một nhà triết học từng nhận xét: Tương lai là quá khứ quay trở lại theo một mặt phẳng khác. Ngày trước thường nghĩ đó là một ý nghĩ tiêu cực.
Nhưng nhìn vào sự phát triển của thế giới hiện tại, hình như họ đã nói đúng. Đối với riêng tôi, những năm mặc áo lính, đặc biệt những năm ở mặt trận B4, trực tiếp tham gia các trận đánh, chia sẻ vui buồn với đồng đội, những phẩm chất cơ bản làm nên hình ảnh ANH BỘ ĐỘI CỤ HỒ đã tập nhiễm tự nhiên vào chúng tôi. Là người may mắn còn trở về, còn tiếp tục thực hiện ước mơ xưa, câu hát trong hàng quân vẫn luôn ngân lên trong cuộc sống ngày thường hôm nay “Vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh”...
Máy móc, khô cứng quá phải không? Có thể. Nhưng không hề giả dối đâu. Tôi nghĩ vẫn còn nhiều những người lính đã qua chiến tranh như chúng tôi, cùng chung tâm trạng về lẽ sống giản dị đó.
- Anh đã nhiều năm làm việc ở nhà số 4 Lý Nam Đế, từng có nhiều cơ hội để hiểu hơn về những tên tuổi mà bây giờ đã trở thành biểu tượng của nền văn học mang quân phục của chúng ta. Nếu mà nói một cách ngắn gọn, liệu có thể đưa ra một nhận định chung nào về đội ngũ những người cầm bút trong quân đội giai đoạn chiến tranh hay không?
- Tôi nghĩ, họ đã sống và viết với tư cách những sĩ quan quân đội mẫu mực. Đó không chỉ là những nhà văn mặc áo lính mà thực sự là những người lính với vũ khí lợi hại là cây bút. Trước khi cầm bút, họ đều đã là những người lính trực tiếp chiến đấu và trưởng thành từ các đơn vị. Khi đã là nhà văn, họ vẫn thường xuyên bám sát các nơi xảy ra chiến sự ác liệt.
Tác phẩm của họ đã có sức cổ vũ, động viên các chiến sĩ ở chiến trường, hàng vạn thanh niên xung phong ra mặt trận. Mấy cán bộ cao cấp ở chiến trường Khu Năm, trong các bài phát biểu khi nhà thơ Thu Bồn mất gần mười năm trước, hơn một lần khẳng định, trong những năm tháng chiến đấu ác liệt, nhiều bài thơ của Thu Bồn có sức mạnh như một sư đoàn. Mà không chỉ Thu Bồn…
Theo anh, đâu là lý do giúp các nhà văn ở số 4 Lý Nam Đế suốt những tháng năm dài đằng đẵng trong chiến tranh đã kìm tỏa được tất cả những suy tư rất điển hình của kẻ sĩ nói chung để thực hiện một cách chỉn chu, ít ra là ở mức độ có thể chấp nhận được thời đó, những nhiệm vụ người lính?
- Lý do quan trọng nhất, như tôi đã nói, vì trước hết, trên hết, bao giờ họ cũng có ý thức rõ ràng và dứt khoát rằng, họ là những người lính, những ANH BỘ ĐỘI CỤ HỒ. Lại xin lưu ý, đội ngũ nhà văn quân đội trong thời kỳ chống Mỹ là một lớp người còn lại sau những năm tháng có nhiều biến động về lực lượng trong các cuộc đấu tranh về tư tưởng.
Bài học của những người tài năng đi trước giúp họ có ý thức tự khép mình vào những khuôn khổ có phần nghiêm khắc của kỷ luật quân đội thời chiến. Đó là nói về kỷ luật sinh hoạt và sáng tác. Còn trong trao đổi nghề nghiệp và thế sự, họ vẫn có một không gian rộng rãi, thoải mái của những đồng nghiệp đã sống lâu bên nhau, hiểu rõ những mặt hay dở của nhau.
Cũng không thể không nhắc đến những người lãnh đạo thời đó: nhà thơ Thanh Tịnh, Vũ Cao, nhà văn Từ Bích Hoàng, với phương châm mà nhà thơ Vũ Cao nói đùa là lãnh đạo văn nghệ sĩ có nghĩa là không lãnh đạo gì cả. Bởi ông biết, họ đều là những nhà văn đã có ý thức đầy đủ về vị thế và trách nhiệm của mình. Gửi gắm niềm tin là tạo nguồn năng lượng tinh thần cho họ được tự do sáng tạo.
Anh nghĩ thế nào về những giai đoạn khác nhau của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhà văn mà theo tôi, là người rất tiêu biểu cho những phát triển biến đổi trong tâm thế nhà văn ở số 4 Lý Nam Đế?
- Nguyễn Minh Châu được xem như là nhà văn có công đầu trong mảng văn học viết về người lính, với nhiều tác phẩm đặc sắc. Ông cũng là nhà văn đi đầu trong thời kỳ văn học đổi mới. Thật ra, về nhận thức, tư tưởng, hai giai đoạn này chỉ là sự kế tiếp nhau của một quá trình, theo sự phát triển của đất nước. Mà không chỉ riêng ông nhận ra điều đó.
Hầu hết các nhà văn đều có chung tâm trạng và suy nghĩ. Nhưng tài năng Nguyễn Minh Châu là thể hiện được những điều nhiều người nhận biết trong những tác phẩm cụ thể. Nếu Nguyễn Khải luôn mượn nhân vật làm người phát ngôn cho các tư tưởng của nhà văn, thì Nguyễn Minh Châu lại thông qua số phận các nhân vật để thể hiện những quan sát nhân thế của mình. Cũng như những thời kỳ trước, không phải mọi cái mới xuất hiện đã được công nhận ngay.
Sự phản ứng từ nhiều phía cũng có lúc làm nhà văn nao núng. Ông từng viết: “Xưa ở chiến trường sống bên cạnh cái chết nhưng khi ngồi viết thì thanh thản, còn về sau này, nhất là những năm 1983-1984, có đôi khi mình cầm bút mà cảm giác y như đứng giữa  trận tiền”. Là nói vậy, kể cả tự nhận mình là “người nhát gan” nhưng trong từng tác phẩm càng gần về cuối đời, ông vẫn giữ được khí phách của một nhà văn chiến sĩ. Chính sự đổi mới của đất nước có sự góp sức bằng những tác phẩm được viết với sự mẫn cảm của một số nhà văn như Nguyễn Minh Châu.
Theo anh, đâu là những bài học cuộc đời mà nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi lại cho lớp đồng nghiệp đi sau?
- Ngoài tác phẩm, nhà văn cũng viết một số bài lý luận, trao đổi về văn học. Trong bài cuối viết trên giường bệnh, ông có nói một ý mà tôi nghĩ đến giờ vẫn còn tính thời sự: “Tôi nghĩ thời nào và ở đâu cũng vậy, các nhà văn chỉ có một công việc chính và duy nhất là viết cho hay, ngoài ra, bằng uy tín của mình anh phải tham gia tiếng nói vào những vấn đề của con người trước những bất công, trước cái ác, anh không có quyền dửng dưng thây kệ khi con người bị đày đọa và chà đạp, và công việc đó nó phải là phản ứng tự nhiên của nhà văn. Nhưng với các nhà văn nước ta, có vẻ hình như vì mang tư tưởng tự ti do tiếng nói bé bỏng, đôi khi chúng ta y như những kẻ bàng quan trước những vấn đề cấp bách của con người. (Dĩ vãng phía trước trang 165).
Tôi biết anh là người được coi là đầu tiên đã đưa câu nói nổi tiếng của một nhà văn Xôviết vào nước ta: “Một nửa cái bánh mì là bánh mì nhưng một nửa sự thật không phải là sự thật”. Nhưng tôi lại cho rằng, trong những điều kiện thời chiến, nếu chúng ta tư duy theo kiểu tuyệt đối ấy thì rất lợi bất cấp hại, thậm chí trong nhiều trường hợp sẽ có hại cho cuộc chiến đấu chung. Anh nghĩ thế nào?
- Tôi không biết tiếng Nga, nên câu này tôi đọc trong một bài viết trước đó. Họ nói đây là một câu ngạn ngữ Nga. Nguyên văn là: “Một nửa cái bánh mì vẫn là bánh mì, nhưng một nửa sự thật đã là sự giả dối”. Tôi trích dẫn câu này vào năm 1984, trong tham luận tại hội nghị bàn về văn học sau chiến tranh.
Khi nói về mức độ chân thực của những tác phẩm viết trong chiến tranh, do kỷ luật nghiêm ngặt về bí mật trong thời chiến, cũng như mọi mục tiêu phải che mắt kẻ địch. Văn học cũng phải biết tuân theo nguyên tắc ngụy trang. Vì thế không thể đòi hỏi văn học trong chiến tranh phải nói hết sự thật như nó vốn có. Và đó sẽ là điểm khác nhau của văn học viết về chiến tranh sau chiến tranh.
Đề phòng mọi sự hiểu lầm tôi đã nói, không vì thế mà đánh giá văn học viết trong chiến tranh không chân thực. Đáng tiếc, do nhiều lý do, có thể có cả những người không đọc kỹ bài viết, họ đã ghép tôi vào những người phủ định thành tựu văn học cách mạng. Thời gian đã trả lời.
- “Dĩ vãng phía trước”, nếu ta nhìn không đúng về dĩ vãng sẽ có hại cho việc tạo dựng tương lai. Nhưng theo anh, liệu có nên nhìn về dĩ vãng và phán định một cách chủ quan và phiến diện, không đếm xỉa gì tới những điều kiện khách quan cụ thể của một thời mà nói theo chữ của nhà văn Lê Lựu là “xa vắng” không?
- Dĩ vãng là lịch sử. Và văn học viết về lịch sử còn là một câu chuyện dài kỳ. Giỏi lắm một nhà văn trong tác phẩm của mình chỉ có thể đưa ra một cách nhìn riêng của họ. Và đó là một dấu hiệu sự phát triển của văn học nước ta những năm sau đổi mới: Những cách nhìn cá nhân được tôn trọng. Nhưng đồng tình hay không lại là một vấn đề khác.
Tôi tôn trọng các tác giả có cái nhìn riêng về các thời kỳ, các sự kiện, các nhân vật trong quá khứ. Nhưng tôi không thấy mình trong những trang viết của Lê Lựu cũng như một số cây bút khác. Có thể vì họ là những người bị ngọn triều lịch sử cuốn đi, nên có vai trò bị động trong mọi hoàn cảnh. Còn tôi, luôn thấy mình là đồng tác giả của cuộc chiến, những hay dở của nó mình đều can dự và chịu trách nhiệm, nên không thể đứng bên lề để phán xét, phân xử.
Và tôi tự hào nhưng cũng thấy đau buồn về một thực tế không như mình từng tưởng tượng, hy vọng và mong ước. Và đó là điều tôi luôn thấy mình đã không làm tròn được lời hứa với những đồng đội đã hy sinh mà nhiều lần tôi đã thay mặt đơn vị hứa trong các điếu văn đọc ở chiến trường, trong đó có phần hứa sẽ thay họ tổ chức thật tốt đời sống cho những người thân của họ. Hàng triệu người lính trở về có lẽ cũng đang ngày đêm thao thức vì điều đó, bởi trong họ vẫn luôn khắc ghi lời bài hát VÌ NHÂN DÂN QUÊN MÌNH. Nhà văn viết về người lính hôm nay có lẽ không nên quên phẩm chất CAO THƯỢNG đó.
Xin cảm ơn anh!
HUYỀN ANH

Không có nhận xét nào: