Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 30 tháng 1, 2015

Máy bay bà già của Việt Nam


FB Đỗ Hùng
Việt Nam mình hiện sử dụng rất nhiều máy bay thuộc hàng cổ lỗ sỉ. Về phản lực chiến đấu thì có MiG-21 (tiêm kích) và Su-22 (tiêm kích - bom), chủ yếu là mua lại hàng các nước Đông Âu thải ra, giá rất mềm mà hàng lại rất cổ các bác ạ. Lịch sử xung trận của MiG-21 thì rất oách. Hôm rồi có bác nhắc lại là thời đánh Mỹ quân ta cho MiG-17, MiG-21 lên nấp đâu trong mây, chờ quân địch tới thì nhảy ra oánh cho một trận chạy té khói.

Cơ mà cũ kỹ thì đi kèm với không an toàn. Không an toàn do máy bay quá cũ, nhiều bộ phận đáng ra phải về hưu lâu rồi giờ hoạt động không còn chính xác như thiết kế nữa. Nó cũng như xương khớp, răng mồm của con người ta. Khi trẻ thì dẻo dai, linh hoạt. Qua bốn mươi thì bắt đầu trệu trạo, đôi khi không tuân theo ý chí của chủ nhân.

Không an toàn còn do các tiêu chuẩn an toàn, công nghệ vào thời điểm mà dòng máy bay đó ra đời rất thấp so với tiêu chuẩn, công nghệ hiện đại. Một ông anh sau khi chuyển loại lái Su-27/30 giải thích với mình: "Chú cứ hình dung bay con MiG-21 thì giống như đi xe Honda 67, chỉ có cái đồng hồ công tơ mét báo tốc độ lúc chính xác lúc không. Còn lên con Su-27/30 thì có đủ thứ, như đi con Bentley, từ tình trạng xăng nhớt, áp suất lốp, nhiệt độ máy móc cho đến camera de...". Tất nhiên là ông anh ví von có chút cường điệu nhưng như vậy thì một người không biết ất giáp gì như mình mới dễ hình dung.

Bên cạnh phản lực chiến đấu, loại trực thăng chiến đấu (gunship) Mi-24 có hỏa lực rất mạnh, nhưng sau khi đánh Khmer Đỏ xong rồi thì đến nay đã về hưu, không thể nâng cấp được.

Các loại trực thăng như Mi-8 (171), UH-1 cũng rất cao niên. UH-1 do Mỹ bỏ lại từ thời chiến tranh, được phe ta tận dụng, mày mò sửa chữa nâng cấp. Mấy năm gần đây, với quan hệ Việt - Mỹ được cải thiện, UH-1 trong biên chế của Việt Nam được các đồng minh của Mỹ, chẳng hạn Úc, sửa chữa nên chất lượng chắc không đến nỗi nào. Nói vậy thôi chứ bản thân tất cả những chiếc UH-1 đang hoạt động tại Việt Nam hiện nay đều đã sống ngót nghét nửa thế kỷ rồi, nâng cấp chẳng qua là biện pháp cực chẳng đã của nhà nghèo chứ ở nước khác người ta cho ra bãi rác và mua cái mới rồi.

Mi-8 (171) là loại trực thăng nồi đồng cối đá vào hạng bậc nhất thế giới hiện nay, nhiều nước phương Tây cũng xài, các chiến dịch nhân đạo của Liên Hợp Quốc sử dụng rất nhiều Mi-171/172. Tuy nhiên, ở Việt Nam thì tuổi đời của Mi-8/171 đã khá cao, sức khỏe phần lớn hư hao. Cũng giống một con Toyota Vios đời 2008 đã chạy 200k cây số với một con đời 2014 mới chạy 20k cây số thì rất khác nhau.

Nói về máy bay bà già không thể không kể đến cụ cánh quạt Antonov AN-26 mà võ sư Nga Pham có lần bay ngắm vịnh Thái Lan. Lúc bạn Nga bay chắc chưa nghe chuyện một chiếc AN-26 đi làm nhiệm vụ đến đâu ngoài Hà Tĩnh thì cửa bung ra, một quân nhân ngồi dựa vào cửa rơi xuống sau vườn chuối nhà dân. Chuyện kể nghe như đùa nhưng nó liên quan tới sinh mạng của con người ta chứ không có gì hài hước cả. Bác nào hay đi về sân bay Tân Sơn Nhất sẽ thấy một bãi toàn máy bay trắng tróc sơn nằm phơi nắng gần đường lăn, chính là AN-26 đấy.

AN-26 quá già nua, nhưng điều đáng kinh ngạc là cụ tổ của cụ ấy, đó là AN-2 vẫn còn hoạt động trong biên chế của Không quân Việt Nam. Cụ AN-2 ra đời ngay sau Thế chiến II (1947, tức chỉ trẻ hơn cụ TBT đương nhiệm của chúng ta 3 tuổi), là loại máy bay một động cơ cánh quạt và 2 tầng cánh. Ở phương Tây ngày nay có một số dân chơi mua loại này rồi độ lại đem ra chỗ đồng không mông quạnh chơi chứ không còn cơ quan đoàn thể nào sử dụng như mình. Thế nhưng tháng 8.2014, trang Soha.vn viết: "Dù đã rất cũ nhưng AN-2 vẫn miệt mài phục vụ trong Không quân Việt Nam với vai trò huấn luyện nhảy dù và bay cảnh báo bão cũng như tìm kiếm cứu nạn. Hiện vẫn chưa có dấu hiệu nào cho thấy “bà già hai tầng cánh” này sẽ sớm được cho nghỉ hưu."

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Vì sao Trung Quốc lo sợ khi Việt Nam có tàu ngầm?


Tàu ngầm Việt Nam chỉ hoạt động trong vùng biển Việt Nam thì việc có 3 chiếc, 6 chiếc hay 60 chiếc cũng vậy thôi…cớ sao Trung Quốc phải hằn học? Đương nhiên, tàu ngầm Việt Nam hoạt động trong vùng biển Việt Nam không phải là hoạt động du lịch, khảo sát khoa học mà hoạt động chiến đấu (tác chiến) để bảo vệ vùng biển chủ quyền.

Lợi dụng thế địa lý, phục kích và tập kích là lối đánh của tàu ngầm Việt Nam.
Rõ ràng, về thái độ của những kẻ lên tiếng lo ngại đã có vấn đề, đằng sau đó là một âm mưu lớn với vùng biển Việt Nam, cho nên, không chỉ khi tàu ngầm xuất hiện mà bất cứ loại vũ khí gì cho phòng thủ, thậm chí bất cứ mối quan hệ nào về quốc phòng với lân bang, cũng đều được coi là sự cản trở hoặc là tạo ra sự nguy hiểm không lường được cho âm mưu đến tối của họ.

Tuy nhiên, chỉ về thái độ thôi thì chúng ta không đáng quan tâm, vì thế giới này có nhiều quốc gia không thích, không muốn quốc gia láng giềng khác mạnh lên để dễ bề khống chế, nhưng thái độ đó gắn liền với một âm mưu thôn tính, chiếm đoạt…thì cũng nên phân tích kỹ một chút để thấy được rằng những lo sợ, hằn học, của kẻ có ý đồ độc chiếm biển Đông không phải là không có cơ sở. Vậy đó là những vấn đề gì?

Thứ nhất là lo ngại sự phát triển lực lượng của Việt Nam. 


Khi Việt Nam đã có tàu ngầm tham gia tác chiến trong đội hình phòng thủ thì nhiều hay ít không quan trọng với Việt Nam mà đó chỉ là sự lựa chọn để đáp ứng với nhu cầu chiến thuật mà thôi.

Điều rất quan trọng cần quan tâm là, Việt Nam đã có đủ cơ sở vật chất hậu cần, kỹ thuật, để phát triển lực lượng tàu ngầm, đáp ứng tình hình khi cần thiết.

Nên nhớ là để có được tàu ngầm tác chiến là không hề đơn giản cho bất kỳ quốc gia nào, riêng Việt Nam, nếu không nhầm thì đã phải chuẩn bị không dưới 20 năm. Và, các chuyên gia quân sự thế giới đã đánh giá sự xuất hiện của tàu ngầm Việt Nam rằng: “Cuộc chơi trên Biển Đông đã thay đổi” là không cường điệu hóa một chút nào.

Đúng! Một thế lực quân sự mới đã, đang, hình thành và sẽ phát triển trên Biển Đông.

Thứ hai là tàu ngầm Việt Nam trở nên rất lợi hại bởi có lợi thế địa lý.

Việt Nam án ngữ tuyến hàng hải từ Ấn Độ dương sang Thái Bình dương. Đây là tuyến hàng hải quan trọng có tính sống còn của nhiều quốc gia Đông Bắc Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc.

Không những thế, về mặt quân sự, tuyến vận tải quân sự của Trung Quốc về phía Nam cũng không ngoài tình thế trên. Do đó nếu xung đột quân sự xảy ra, khi cần phải phong tỏa, có thêm lực lượng tàu ngầm tác chiến thì chiến dịch sẽ đạt hiệu quả cao nhất.

Hải chiến hiện đại ngày nay, các lực lượng đối địch hiếm khi đối mặt nhau mà chỉ tiêu diệt nhau khi khoảng cách còn rất xa. Tuy nhiên, nhìn xa hơn, vũ khí có tầm bắn xa hơn, độ chính xác cao hơn, thường được dùng để phô tương thanh thế…mới chỉ là một lợi thế.

Nhưng, mỗi bên, bằng cách nào đó (chiến thuật), mà đưa tên lửa vào trúng mục tiêu trước, mới quyết định sự thành bại của các trận hải chiến. Vì thế, hải chiến, không chiến, trong phòng thủ từ hướng biển của Việt Nam, vấn đề có tính quyết định trong đòn tấn công là các vị trí đợi cơ, vị trí xuất phát tấn công ở đâu mà khi đối phương phát hiện ra thì chúng cũng đã nằm trong tầm hỏa lực.

Do vậy, yếu tố bí mật trong hải chiến hiện đại được nâng lên một khái niệm rộng hơn, đó là, bí mật không những do thế địa lý tạo ra trực quan, mà bí mật còn do thế địa lý tạo ra bằng công nghệ (radar, thông tin liên lạc) để “che mắt, bịt tai địch”, nhằm đưa lực lượng ta vào gần nhất có thể, trong tầm hỏa lực, để công kích mục tiêu.

Trong khi đó, ai cũng biết, tàu ngầm KILO là lợi hại, là “lỗ đen”…nhưng nó là tàu ngầm Diesel-điện nên thời gian hoạt động ngầm là hạn chế mà cần phải nổi để nạp điện.

Đây là một bài toán rất khó cho không ít quốc gia sử dung tàu ngầm diesel-điện là làm sao khi nổi lên nạp điện hoặc ở vị trí đợi cơ hay ở vị trí xuất phát tấn công có lợi nhất…mà vẫn không bị lộ bí mật.

Với Việt Nam, bài toán trở nên quá đơn giản. Bờ biển Việt Nam dài, có những dãy núi ăn sâu ra biển, cho nên, không những chỉ có cảng Cam Ranh là căn cứ lý tưởng cho tàu ngầm trú đậu, trú ẩn và xuất phát tấn công mà các vị trí khác trên bờ biển Việt Nam cũng có thể là nơi cho tàu ngầm Việt Nam thỏa mãn những điều kiện trên: bí mật, bất ngờ.

Tàu ngầm quốc gia nào, kiểu loại gì cũng đều rất mạnh trong tấn công, nhưng rất yếu khâu phòng thủ tự bảo vệ mình. Do đó, khi bị lộ vị trí bởi đối phương phát hiện (bằng máy bay săn ngầm, tàu săn ngầm) là coi như bị loại, nếu như không được các lực lượng khác hỗ trợ, bảo vệ.

Ở vào một thế ịa lý như Việt Nam, tàu ngầm Việt Nam lại chỉ tác chiến trong vùng biển Việt Nam, cho nên, đối phương dùng các phương tiện như máy bay, tàu mặt nước, để săn KILO của Việt Nam thì gặp rất nhiều khó khăn, bởi lẽ, vùng biển, vùng trời Việt Nam không phải là nơi để các loại đó của đối phương “diễn tập”.

Hơn nữa, ở vào một thế địa lý như Việt Nam thì với khả năng của tàu ngầm KILO, tấn công vào sào huyệt đối thủ tiềm tàng cũng không phải là quá khó…

Như vậy thế địa lý đã tạo ra bất ngờ, bí mật, là thế mặc nhiên vốn có, hỗ trợ tự nhiên vô cùng thuận lợi cho tác chiến ngầm của Việt Nam. Rõ ràng, lợi thế địa lý đã tạo ra lợi thế tác chiến, không những với các loại tàu khác mà còn với tàu ngầm cùng loại của đối phương.

Thứ ba là chiến tranh du kích của Việt Nam thăng hoa bởi tàu ngầm.

Tại sao Việt Nam chỉ mua sắm 6 chiếc tàu ngầm KILO mà không là 8, 9…thì như trên đã nói, nhiều hay ít nó phụ thuộc chủ yếu là yêu cầu chiến thuật.

Đó là số lượng ít nhất có thể, để đáp ứng được nhiệm vụ chiến thuật đề ra, đã được cơ quan Tham mưu tính toán kỹ, mà trong đó lợi thế địa lý đã luôn luôn là kim chỉ nam cho tư tưởng quân sự “lấy ít địch nhiều” nói chung và tác chiến ngầm nói riêng của Việt Nam.


Điều này chỉ cho ta thấy mối liên hệ mật thiết của tư tưởng, nghệ thuật quân sự Việt Nam với địa thế Việt Nam mà thời hiện đại, dân tộc Việt đã phát triển lên một tầm cao mới là chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân trong BVTQ…

Thực hiện một cuộc chiến tranh du kích (CTDK) trên đất liền thì không ai bàn cãi, nhưng trên biển, địa hình trống trải…thì chiến tranh du kích hay hải chiến du kích (HCDK) của Việt Nam vẫn tồn tại và phát huy.

CTDK có 2 lối đánh đặc trưng đó là phục kích và tập kích. Hai lối đánh này luôn dựa vào lợi thế địa hình để tổ chức thực hiện, trong đó yếu tố bí mật, bất ngờ, quyết định thành bại của đòn đánh.

Phục kích theo lối truyền thống thì chủ thể là con người, con tàu, ẩn nấp chờ giặc đến (thế tĩnh chờ thế động) đúng tầm là tấn công, nhưng theo lối hiện đại thì máy bay, tên lửa và thậm chí cả pháo binh (luôn ở thế động) vẫn có thể là chủ thể của trận phục kích.

Tập kích là bí mật, bất ngờ, dùng lực lượng cơ động nhanh, uy lực mạnh, tấn công dồn dập vào quân địch khiến chúng tê liệt, tan rã hay thiệt hại nặng. Đây là đòn đánh sở trường của Việt Nam mà bất kỳ lực lượng nào, từ đặc công cho đến không quân, hải quân đều sử dụng.

Nếu như chúng ta có chút kiến thức về địa lý quân sự thì lực lượng phòng thủ biển đảo của Việt Nam sử dụng 2 lối đánh phục kích và tập kích là tối ưu. Sự kết hợp giữa tàu ngầm và không quân luôn tạo ra những quả đấm cực mạnh, cực nhanh, cực hiểm vào tuyến hành lang "bất khả kháng" của kẻ địch.

Sự xuất hiện tàu ngầm Việt Nam giống như một mảnh ghép cuối cùng trong một bức tranh giá trị cao về thẩm mỹ và nghệ thuật-“bức tranh” thế trận phòng thủ biển có chiều sâu, có chiều rộng, có tính liên hoàn của nhiều lực lượng.

Một mảnh ghép cuối cùng làm thăng hoa lối đánh sở trường của Việt Nam đã vốn cực kỳ nguy hiểm cho đối thủ hùng mạnh trong các cuộc chiến tranh trước đây.

Tại sao bạn không cao, nhưng khiến nhiều người phải ngước nhìn? Tàu ngầm KILO của Việt Nam cũng vậy thôi, không nhiều, không hiện đại hơn ai, nhưng khi nằm trong tay một đất nước có lợi thế địa lý như Việt Nam, khi nằm trong tay một đội quân dày dạn trận mạc có truyền thống đánh giặc, sử dụng vũ khí sáng tạo, có một nền nghệ thuật quân sự độc đáo như Việt Nam, thì...đánh giá sức mạnh của nó như thế nào tùy theo sự chủ quan của đối thủ.

Tại sao giới truyền thông Trung Quốc lại lo sợ, hậm hực, bàn tán, trước những chiếc tàu ngầm KILO của Việt Nam mà số lượng mới chỉ đếm trên đầu ngón tay trong khi họ đã có hàng chục chiếc tàu ngầm cũng dạng KILO?

Ở đây không đơn giản là thái độ, mà đằng sau đó, là âm mưu và đặc biệt là nhận thức sự nguy hiểm không lường, luôn tiềm ẩn của chính những chiếc tàu ngầm Việt Nam gây ra khi tác chiến. Xét về mặt quân sự, là không có gì ngạc nhiên, nó phù hợp với logic.
Lê Ngọc Thống
(Đất Việt)
http://baodatviet.vn/quoc-phong/binh-luan-quan-su/vi-sao-trung-quoc-lo-so-khi-viet-nam-co-tau-ngam-3229745/
Phần nhận xét hiển thị trên trang

(GDVN) - Trung Quốc bố trí DF-21 cả ở đông bắc và đông nam, bao trùm lên Nhật Bản, biển Hoa Đông và Biển Đông - Trung Quốc đang tăng cường khoe mình nhiều vũ khí.


Tên lửa đạn đạo chống hạm Đông Phong-21D Trung Quốc
Tờ “Tin tức Trung Quốc” đưa tin, lữ đoàn tên lửa của Lực lượng Pháo binh 2 ở Thiều Quan, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc đã bố trí tên lửa Đông Phong-21D (DF-21D) mới nhất, có thể sẽ làm cho tình hình chiến lược của châu Á đặc biệt là Biển Đông “có lợi hơn cho Trung Quốc”.
Bài báo dẫn phân tích tình báo của Quân đội Mỹ cho rằng, Quân đội Trung Quốc triển khai tên lửa đạn đạo chống hạm Đông Phong -21D ở Thiều Quan, nằm ở dọc tuyến giao thông quan trọng chủ yếu, giáp đường hầm dãy núi Nam Lĩnh, cơ động theo thời cơ, có thể kiềm chế Biển Đông.
Theo bài báo, năm 2011, khi gặp gỡ với phía Mỹ, Tổng tham mưu trưởng Quân đội Trung Quốc đã công khai cho biết, Trung Quốc đang nghiên cứu phát triển tên lửa đạn đạo tầm trung mới Đông Phong-21 đánh các mục tiêu di động trên biển. 3 năm sau, tức vào năm 2014, đơn vị đầu tiên triển khai loại tên lửa này là ở Thiều Quan, tỉnh Quảng Đông, phương hướng tấn công là các mục tiêu ở Biển Đông.
Dẫn chuyên gia phân tích cho rằng, Quân đội Trung Quốc triển khai đơn vị cấp lữ đoàn tên lửa mới ở khu vực đông nam, cùng 1 đơn vị tên lửa cấp lữ đoàn khác triển khai ở đông bắc đã cho thấy, năng lực tấn công của Lực lượng Pháo binh 2 đã "hoàn thiện", khả năng cơ động nhanh chóng, có thể cơ động trên toàn lãnh thổ Trung Quốc.
Tên lửa đạn đạo chống hạm Đông Phong-21D Trung Quốc
Trước đó, tờ “Lợi ích quốc gia” Mỹ ngày 6 tháng 1 đăng bài viết của nhà nghiên cứu Peter Matthes – Quỹ Jamestown cho rằng, để bảo vệ cái gọi là “lợi ích quốc gia” của Trung Quốc ở Biển Đông và biển Hoa Đông, Quân đội Trung Quốc ít nhất thông qua 3 loại thủ đoạn đe dọa/uy hiếp. Thứ nhất là thông qua tổ chức diễn tập quân sự và tuần tra ở trong và ngoài vùng biển tranh chấp để phô trương hiện diện quân sự.
Thứ hai là khoe khoang thiết bị quân sự để đối thủ tiềm tàng phải “suy nghĩ kỹ” trước khi hành động. Thứ ba là tìm cách để giành lấy sự ủng hộ của công chúng đối với cái gọi là “bảo vệ quyền lợi biển Trung Quốc” (như dùng truyền thông xuyên tạc đánh lừa nhân dân Trung Quốc và đánh lừa dư luận quốc tế trong vụ giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 năm 2014?!). Theo số liệu khảo sát gần đây, những nỗ lực không lấy gì làm tốt đẹp, đáng tự hào này của Quân đội Trung Quốc hầu như đã đạt “thành công”.
Quân đội Trung Quốc ra sức thể hiện là họ có khả năng ra vào và (nghênh ngang) hoạt động ở vùng biển tranh chấp, thậm chí cho tàu và quân tới tận bãi ngầm James tuần tra (bất hợp pháp), muốn truyền đi thông điệp rằng Quân đội Trung Quốc có thể tự do hành động ở bất cứ khu vực nào trên Biển Đông.
Quân đội Trung Quốc muốn nhấn mạnh các hoạt động của họ như tuần tra trên không, diễn tập đổ bộ đánh chiếm đảo đá và các hoạt động diễn tập khác cùng với hoạt động chuẩn bị cho đánh thắng chiến tranh cục bộ của họ là để “mài sắc dao kiếm” ở thời bình, tăng cường răn đe các đối thủ.
Tên lửa Đông Phong-21D được cho là "sát thủ tàu sân bay"
Đáng chú ý, lãnh đạo Trung Quốc là động lực quan trọng để Trung Quốc nghiên cứu phát triển ra tên lửa đạn đạo chống hạm Đông Phong-21D. Theo báo Mỹ, loại tên lửa này có thể sẽ triển khai ở tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Tại đó, loại tên lửa này có thể vươn tới toàn bộ Biển Đông.
Theo bài viết, bất cứ hệ thống vũ khí mới nào của Quân đội Trung Quốc như tên lửa Đông Phong-21D, máy bay chiến đấu tàng hình J-20, J-31, tàu ngầm lớp Kilo, máy bay chiến đấu Su-27/J-11, tàu khu trục Type 052C… đều có thể răn đe các nước láng giềng, nhất là Nhật Bản và Hàn Quốc.
Gần đây, lãnh đạo Trung Quốc đã nhấn mạnh, vũ khí trang bị là tiêu chí quan trọng của hiện đại hóa quân đội, là nền tảng quan trọng của an ninh quốc gia và phục hưng dân tộc.
Theo báo Mỹ, Trung Quốc đang đẩy mạnh sử dụng các phương tiện truyền thông để khoe cơ bắp tạo hiệu quả răn đe và thể hiện quyết tâm, năng lực của Trung Quốc. Bất kể thế nào, lãnh đạo Trung Quốc đều có thể kiểm soát Quân đội Trung Quốc, mặt khác, Quân đội Trung Quốc hoàn toàn không chỉ sẽ thông qua “lễ nghĩa” và “quyền lợi mơ hồ” để giải quyết vấn đề.
Liên quan đến tên lửa Đông Phong-21D của Trung Quốc, tờ “Hoàn Cầu” Trung Quốc ngày 23 tháng 1 còn dẫn lời học giả Học viện ngoại giao quốc gia trên báo Hàn Quốc cho rằng, nếu Trung Quốc triển khai tên lửa Đông Phong-21 ở núi Trường Bạch thì đó là một sự cảnh cáo đối với liên minh quân sự Hàn-Mỹ-Nhật.  
Lực lượng Pháo binh 2 Trung Quốc tổ chức huấn luyện tên lửa đạn đạo Đông Phong-21 ở Cát Lâm 
Theo bài báo, Lực lượng Pháo binh 2 đã triển khai một cuộc huấn luyện thường lệ tên lửa Đông Phong-21 ở căn cứ huấn luyện Cát Lâm, đã cung cấp đầy đủ thông tin để phân biệt phiên hiệu đơn vị.
Từ cuối thập niên 1960 trở đi, đơn vị bắn của Trung Quốc luôn huấn luyện ở Cát Lâm. Ngày 15 tháng 1 năm 2015, trên truyền thông nhà nước Trung Quốc, một chuyên gia phân tích cho rằng, hoạt động huấn luyện lần này ở khu vực núi Trường Bạch.
Theo bài báo, hoạt động huấn luyện này nằm ở Cát Lâm, thông tin địa lý này là chính xác. Việc lựa chọn địa điểm như vậy được bài báo cho là để giữ bí mật cho địa điểm bắn tên lửa thực sự của đơn vị Trung Quốc. Đó chỉ là một cơ sở huấn luyện, không phải là địa điểm bắn thực sự.
Tại tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc có 1 cơ sở như vậy, đó là căn cứ huấn luyện có điểm bắn tên lửa và đơn vị tổng hợp của Pháo binh 2. Báo Trung Quốc liên tục cho đó là “huấn luyện thường lệ”, hoạt động này được tiến hành từ “thời ông ngoại” của Thủ tướng Shinzo Abe nhậm chức Thủ tướng Nhật Bản và thời Tổng thống Hàn Quốc Park Chung-Hee.
Theo bài báo, Lực lượng Pháo binh 2 thực sự có 1 lữ đoàn tên lửa Đông Phong-21 đóng ở Cát Lâm. Nhưng, đơn vị này đã đóng ở đó vài chục năm, do đó thông tin hoạt động huấn luyện nói trên không thể là lời cảnh cáo đối với bất cứ ai – báo Trung Quốc tìm cách giải thích.
Tên lửa Đông Phong-21 tầm bắn 1.700-2.100 km được cho là đưa vào triển khai chiến đấu thực tế sau năm 1991, nhưng tên lửa chống hạm Đông Phong-21D mới nhất đã được cải tiến, tầm bắn tăng lên 3.000 km, được tuyên truyền là để tiêu diệt tàu sân bay Mỹ.
Lực lượng Pháo binh 2 Trung Quốc tổ chức huấn luyện tên lửa đạn đạo Đông Phong-21 ở Cát Lâm
Tầm bắn của tên lửa đất đối đất Đông Phong-21 bao trùm toàn bộ lãnh thổ Nhật Bản, trong đó có Okinawa, đầu đạn thông thường của nó là 200-500 tấn, dài 10, 7 m, tốc độ cao nhất 10 Mach. Độ chính xác của tên lửa kiểu cũ là 300-400 m, nhưng độ chính xác của tên lửa mới tăng lên mức 1/10 của tên lửa cũ.
Nếu tên lửa chống hạm Đông Phong-21D triển khai ở núi Trường Bạch thì có thể tấn công các cứ điểm chiến lược của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương như biên đội tàu sân bay Mỹ ở Guam.
Được biết, Trung Quốc triển khai tên lửa Đông Phong-21 ở Sơn Đông để chuẩn bị cho các cuộc xung đột với Nhật Bản xung quanh vấn đề đảo Senkaku. Nhưng có người cho rằng, tuy Sơn Đông cách biển Hoa Đông rất gần, nhưng khó mà ứng phó được các cuộc tập kích của Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản, vì vậy, Trung Quốc đã triển khai nó ở núi Trường Bạch.

Một xã hội cởi mở và bao dung


in-god-we-trust-dollar
Có lẽ không có câu viết nào, chỉ có 4 chữ ngắn gọn, nhưng mang cả một thông điệp lớn được quảng bá rộng rãi nhất trên thế giới bằng câu In God We Trust. Vì đây là câu được in trên tất cả các loại giấy bạc hiện tại của Hoa Kỳ.
Là câu viết cô đọng Đức tin của người Hoa Kỳ từ ngày tìm được vùng Đất Hứa để lập quốc!
Ban đầu là cuộc di cư của một số người phản đối sự hà khắc của Thanh giáo ở Anh nên lần lượt tìm cách sang các nước lân cận để thực hiện quyền được tự do thờ phượng Thượng Đế theo đức tin của họ. Từ năm 1607, 1608 họ đã lần lượt đến Hòa Lan, rồi sau đó chuẩn bị cho một cuộc hành trình dài bằng tàu để đi tìm một vùng đất mới, vùng đất mà họ hoàn toàn được Tự do.
Tháng 9 năm 1620 một con tàu nhỏ, tên là Mayflower, rời Plymouth ở Anh mang theo 102 người bắt đầu cuộc hành trình tìm Tự do mà sau nầy sách vở gọi họ là đoàn người Hành Hương (Pilgrims). Họ phó thác mạng sống, vượt đại dương và chỉ trông cậy hoàn toàn vào đức tin. Sau 66 ngày chịu bao khắc nghiệt của thời tiết, giông bão, sóng gió, đói khát để cuối cùng thả được neo ở Cap Cod, cách xa nơi dự rù là Hudson River. Tiếp tục cuộc hành trình, một tháng sau họ đến được Massachusetts Bay và quyết định ở lại đây. Dần dần làng Plymouth, cái tên mang kỷ niệm nơi xuất phát được hình thành. Năm sau đó, tháng 11 năm 1621, nhờ được mùa, chỉ còn 53 người sống sót đã cùng với một số người da Đỏ, những người đã giúp đỡ họ trong những ngày khốn khổ khi vừa đặt chân đến một vùng đất vừa xa lạ vừa gặp lúc thời tiết vô cùng khắc nghiệt, tổ chức lễ Tạ ơn đầu tiên. Cho dù đã hoàn tất cuộc hành trình và số người bị chết gần phân nửa nhưng đức tin vào Thượng Đế của họ vẫn không hề thay đổi. Rồi diễn biến theo thời gian dài đằng đẵng, ngót 3 thế kỷ sau, qua rất nhiều tranh cãi, từng bước, từng bước để cuối cùng, năm 1941, Tổng thống Roosevelt đã ký ban hành đạo luật, quyết định chọn ngày Thứ Năm, tuần lễ thứ tư của tháng Mười Một hàng năm là ngày lễ Tạ ơn của đất nước và dân tộc Hoa Kỳ.
Một ngày lễ đặc biệt, mang một ý nghĩa vô cùng thiêng liêng của mọi sắc dân sinh sống trên đất nước nầy.
Câu In God We Trust được khởi đầu từ lá thư ghi ngày 13 tháng 11 năm 1861 của Mục sư Watkinson ở Ridleyville, Pennsylvania gửi ông Bộ trưởng Tài chánh Salmon P. Chase lúc bấy giờ, nói về đức tin và dòng chữ tổng cộng có 13 chữ cái (letter) là God, Liberty, Law trên lá cờ Hoa Kỳ lúc đó, tượng trưng cho con số 13 tiểu bang đầu tiên. Yếu tố quan trọng của dòng chữ nầy là God (Thượng Đế) đứng trước tiên, kế đến là Liberty (Tự do) và sau cùng là Law (Luật pháp) đã diễn tả đúng theo trình tự họ thực hiện được.
Đề nghị của Mục sư Watkinson được nhiều người thảo luận đã đưa đến việc Quốc hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật ngày 22 tháng 4 năm 1864 cho phép đúc 4 chữ In God We Trust (thay cho God, Liberty, Law) đầu tiên trên đồng coin 2 xu và đến ngày 30tháng 7 năm 1956 thì chính thức in trên tất cả giấy bạc đưa vào sử dụng từ năm 1957.
Từ một nhóm người Hành Hương nhỏ bé tiến đến hình thành một quốc gia Hoa Kỳ ngày nay, một đất nước giàu mạnh và văn minh nhất thế giới, thì câu viết In God We Trust không đơn giản chỉ là câu chữ được quảng bá toàn cầu mà chính nó còn mang theo sự thiêng liêng của đất nước và dân tộc Hoa Kỳ kể từ ngày lập quốc!
Tuần trước, một cơ sở lớn mới xây, đã khánh thành khoảng 3 tháng qua, tại thành phố tôi đang ở, tốn 80 triệu, dành cho các ban ngành làm việc. Tất cả được trải thảm màu xanh. Phòng khách khu vực dành cho văn phòng Pinnellas County Sheriff được trải thảm có dệt thêm huy hiệu của cảnh sát, một biểu tượng thật trang trọng, cũng giống như một số cơ sở về an ninh tại Hoa Kỳ, bỗng có người phát hiện trên cái huy hiệu hình tròn đó, sai một chữ. Nhưng chữ sai lại mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với đức tin của người Hoa Kỳ (như đã tóm lược bên trên) Câu đó viết đúng phải là In God We Trust nhưng trên tấm thảm dệt là In Dog We Trust! Chữ God là Thượng Đế biến thành Dog là con chó! Trị giá tấm thảm chỉ 500 đô, vì thế cảnh sát thông báo cho hãng dệt thảm. Hãng dệt thảm nhận trách nhiệm và sẽ thay tấm mới. Nhưng chuyện không dừng ở đó khi bên ngoài hay tin nội vụ. Ban đầu cảnh sát dự trù sau khi thay thảm mới họ sẽ đem vứt tấm thảm cũ vào thùng rác nhưng khi bức ảnh chụp tấm thảm với dòng chữ In Dog We Trustđược đưa ra công luận thì có một số người gọi điện thoại và gửi email đòi giữ lại. Họ muốn mua nó thay vì vứt đi, vì họ là những người yêu chó! Rồi nhiều người cũng muốn mua nên sau cùng cảnh sát quyết định rao bán đấu giá tấm thảm trong vòng một tuần. Có 83 người tham dự từ khắp nơi trên thế giới và kết quả là một người, không cho biết danh tánh, đã mua được tấm thảm tình cờ nổi tiếng nầy, với giá 9,650 đô! Cảnh sát cho biết họ sẽ dùng số tiền nầy gửi tặng cho một trung tâm chăm sóc chó mèo bị bỏ rơi hay thương tật mà chưa được người nhận nuôi!
Tờ báo thuộc loại Best Newspaper của Tiểu bang đã có 3 số tường thuật về diễn tiến sự việc nhưng không đưa câu chuyện vừa kể lên trang nhất mà chỉ đăng ở trang giữa của phần tin tức về Tiểu bang và Thành phố với tựa đề rất nhẹ nhàng, “đánh vần sai” (misspelled), cho dù đây là tấm thảm được dệt thành chứ không phải viết tay. Vì nếu là viết tay thì cách giải thích viết sai chính tả có lẽ dễ được đồng ý hơn! Nhưng, “chuyện chẳng có gì mà ầm ĩ”, nó chỉ là thứ tin tức lặt vặt, không đáng quan tâm! Còn TV hình như cũng muốn phớt lờ.
Liệu tin và ảnh tấm thảm nầy được phổ biến mà có liên quan đến đạo Hồi thì bọn thánh chiến Hồi giáo cực đoan sẽ phản ứng ra sao?
Vì thế, cùng một vấn đề nhưng mức độ hiểu biết­­ của người dân khác nhau sẽ có kết quả khác nhau, đôi khi còn trái ngược đến bất ngờ như đang xảy ra. Một bên là sự thân thiện, cởi mở và bao dung, đã làm lợi cho công ích xã hội, còn bên kia thì máu người vô tội phải đổ! Cực đoan, cho dẫu cực đoan về vấn đề gì thì cũng dễ đưa đến xung đột một cách vô ích. Là bài học mà Charlie Hebdo đã vướng phải tại Pháp với cái giá phải trả trước tiên chính là mạng sống con người.
(Jan 27th, 2015)
© Hồ Phú Bông

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trạng Chu


TP - Các nhà văn xúm xít vào nghe Đỗ Chu nói. Chuyện thời sự chính trị nóng hổi trong nước đến chuyện Tây Tầu. Chuyện cung đình ông này lên ông kia xuống đến chuyện Mỹ Nga, Hàn Nhật. Đỗ Chu có tài biện giải những lắt léo lôi thôi của sự việc như trạng, mà anh là trạng thật.

Mới sáng tinh sương mà ông cụ đã đứng dưới cổng gọi với lên ời ời: “Dậy đi! Dậy đi! Dậy đi Bắc Ninh chơi, hôm nay chủ nhật!”.

 
Tranh của: Nguyễn Xuân Hoàng


Rồi ông cười cười: Hôm nay tao có tí việc với mấy đứa quan họ, phải có mày với thằng Chu đi tháp tùng.
Nhìn ông già xách cái túi vải là tôi biết, quà cho chị em quan họ đây mà.
Vâng, bố cứ yên tâm, tôi mau mắn gật đầu.
Đấy là ông già Kim Lân vậy.

Hồi ấy có khi ông cũng chỉ ở tuổi tôi bây giờ. Không hiểu sao bây giờ tôi chả thấy mình già tí nào, vậy mà lúc đó, cả tôi, cả anh Đỗ Chu, và mọi người đều thấy ông cụ thật là già, ra dáng một trưởng lão. Mặc dù nói đến “mấy đứa quan họ” thì tôi cũng biết tỏng ông nói đến “đứa” nào rồi. Tình cảm con người ta kể cũng nhiều lắt léo.

Đã thành lệ, mỗi lần ra khỏi Hà Nội là hai ông con như có một thỏa thuận ngầm thế nào cũng qua Bát Đàn “đánh bát phở” cho ấm bụng. Ông không phải người khảnh ăn, nhưng khá rành cách ăn, cách đánh chén.
Ông bảo Hà Nội xưa ăn phở thanh cảnh chứ đâu có chuyện chém to kho mặn như cái “anh” Bát Đàn hôm nay. Phở Bát Đàn nổi tiếng ngon là nhờ bát to, nhiều thịt, hợp với lối sống thời bao cấp, lấy cái “chất” làm trọng. Xếp hàng một tí, chật chội một tí, nhưng bê bát phở lên là thấy ngay cái sự hào hứng rộn lên từ trong bụng.

Một cuốc xích lô, hai cha con đã có mặt ở bến Nứa. Bến Nứa như là cái trạm trung chuyển lúc nào cũng đông, lúc nào cũng chen chúc. May mà tôi có cái thẻ thương binh mỗi lần mua được hai vé, chúng tôi ung dung lên xe có ghế ngồi phì phèo. Ông bảo bây giờ mình đến Bắc Ninh thì thằng Chu vẫn chưa dậy.

Thằng ấy sớm cũng phải mười giờ. Tao chưa thấy thằng nào có cái tật ngủ trưa xấu như thằng này, khôn nhất hạng. Về Bắc Ninh nó như ông con Trời. Nhà cửa đề huề, vợ con đâu vào đấy, cơm bưng nước rót, có mẹ già, vợ khỏe, con ngoan, lên Hà Nội bốc phét chán mồm, nhoáy một cái “người anh em” đã tếch về Bắc Ninh đắp chăn cười thiên hạ.

Tôi cũng đã có đôi ba bận theo ông về Bắc Ninh chơi với anh Chu, cũng khá thạo cung cách của anh, thạo cả lề thói dân dã nhưng thực ra rất vương giả.

Quả đúng như ông nói, hai cha con về đến sân gần chín giờ mà nhà cửa vẫn vắng hoe. Ông lên giọng: “Chu ơi, Chu à, dậy đi, tao với thằng Đỉnh về chơi này”.

Ngó vào nhà thấy có cái màn xô buông ở gian cạnh bóng ngưòi cọ quậy. Ông Kim Lân bảo: “Thôi, tao với mày đi loanh quanh tí. Thằng này chưa chịu dậy đâu”. Hai cha con vừa quay ra tới cổng thì gặp một người đàn bà trạc ngoài năm mươi, tay cắp nón, tất tả đi vào.

Chị ta xởi lởi: “Con chào ông, chị chào chú. Chắc ông và chú đi thăm bác Chu”. Chúng tôi chưa kịp trả lời thì chị đã liến thoắng: “Khổ thân bác Nhu nhà cháu ông và chú ạ. Bác giai hình như bị liệt lâu lắm rồi”. Tôi ớn lạnh xương sống, hỏi lại: “Chị nói sao? Anh Chu bị liệt?” - “Dạ vâng” , rồi chị hạ giọng: “Chả là lúc nào cũng thấy bác ấy nằm với cái chăn vắt ngang bụng”.

Trời đất quỷ thần ơi, cắn rơm cắn cỏ lạy thánh mớ bái, phỉ phui cái miệng nhà chị này! Người ta không dậy không có nghĩa là người ta bị liệt. Sao mà cứ nói lấy được thế!

Ông Kim Lân hỏi: “Chị là giáo viên, bạn với cái Nhu à?” - “Cháu dạy khác trường chị Nhu ông ạ, nhưng tuần nào cháu cũng sang đây thuê sách về cho tổ bộ môn đọc. Nhà bác ấy nhiều sách hay”. Tôi nói: “Bác ấy vẫn còn ngủ”. Chị đon đả: “Tôi quen rồi, cứ việc vào lấy sách trong giá rồi gửi tiền thuê vào trong ống bơ, chả hỏi han gì đâu”.

Tôi cảm thấy có một không khí thật thân thương gần gũi. Ông Kim Lân dường như quá quen với chuyện này nên không lấy đó làm điều. Hai cha con lần ra đầu ngõ, chặc lưỡi: ta ra tìm cốc nước chè, “thằng Chu” hay sang đó kéo thuốc lào.
***

Hai ông con uống nước chè, ăn kẹo lạc, nghe dân làng nói chuyện về “bác Chu” đến lắm chuyện khôi hài. Người ta nhắc đến Đỗ Chu đều với giọng yêu mến, trân trọng, cấm thấy ai suồng sã, khó chịu. Áng chừng mười giờ rưỡi, tôi bảo ông Kim Lân, giờ này chắc anh ấy đã dậy. Về đến ngõ, y rằng đã thấy Đỗ Chu đang đứng vạch quần tè vào gốc sấu trước hiên nhà. Sao lại tè lung tung thế, tôi nghĩ trong bụng, chưa kịp nói thì ông Kim Lân đã bảo, chắc nhà không có ai. Nhà quê sướng nhất là đái bậy! Tôi cũng là người nhà quê nhưng tôi không thấy thế.

Đỗ Chu lại quay vào trong cái mùng xô, hồn nhiên nói với ra: “Ông và chú uống nước”. Tôi đành lấy cái phích nước, pha trà cho có việc. Ông Kim Lân thì ngồi kéo thuốc lào, Đỗ Chu vén màn gọi với xuống nhà: “Nhu ơi, Nhu à”. Lập tức chị Nhu nhào lên “chào ông, chào chú” xong đứng chờ.

Đỗ Chu nói: “Bây giờ mình lên chợ mua tôm cua ốc ếch gì đấy về lo bữa trưa cho ông với chú ăn. Mua một con gà để tối nấu cháo, đạp xe lên báo cho mấy đứa quan họ lo chuẩn bị tối lên đây hát cho ông và chú nghe”. Chị Nhu “vâng” một tiếng rồi dắt xe đạp ra đường.

Chiều hôm ấy, sau khi đi thăm mấy nàng quan họ về, tôi và ông Kim Lân được anh Đỗ Chu mời lên xem căn gác nhỏ như cái tổ chim, thiết kế của anh. Một cái bàn gỗ, một cái phản mộc, trên có khuôn cửa sổ rộng mở ra sau vườn. Đây là căn gác đặc biệt nhất thế giới, tôi dám chắc nó có một không hai, dưới sàn sách ném từng đống, không có các thiết bị tối tân, không có sự trang hoàng cầu kỳ, tuyệt nhiên không có ti vi tủ lạnh.
Độc nhất ở góc phòng phía trong được trổ một cái lỗ, lỗ này thiết kế khá tinh vi nhưng cũng dễ nhận ra ngay vì nó được làm bằng một vỏ chai bia Vạn Lực Trung Quốc. Chai bia được đập đáy gắn vào lỗ thủng chĩa ra sau vườn, để khi làm việc mệt, khi mót tiểu, chủ nhân của nó chỉ việc tè vào lỗ chai, nước tiểu phóng thẳng ra bụi cây dưới vườn. Tè xong tác giả của những truyện ngắn thơ mộng chỉ cần đổ một cốc nước lã là rửa sạch.
Một sự tự do đến kỳ quặc không ai nghĩ ra. Vừa thuận lợi lại vừa ích lợi vì dưới kia, đường nước tiểu được căn đúng một cái thùng tro dành để làm phân tuới cây trong tương lai gần.

Chị Nhu là nhà giáo, là một phụ nữ Kinh Bắc truyền thống, lấy việc đảm đang chăm chồng nuôi con là niềm hạnh phúc. Chị không bao giờ tham gia vào chuyện của chồng. Chồng chị là người nổi tiếng, chị biết, nhưng chị không bao giờ lấy điều ấy ra khoe với ai.

Việc của chị là gia đình chồng con, đóng góp với xã hội bằng nghề dạy học. Thế là đủ vui, đủ bận. Vậy mà khi chị bị tai biến, anh Chu một tay chăm lo vợ. Bằng tài thuyết khách của mình, bằng tình cảm riêng, anh đã mượn được tạp chí Văn nghệ quân đội một căn phòng vốn là kho để lặt vặt ở phía sau, dọn sạch, kê một cái giường cho vợ nằm.

Và anh như trở thành một Đỗ Chu khác: Ít nói hẳn. Lầm lũi, cần mẫn, siêng năng, anh không “khiến” bất kỳ ai “nhúng tay” vào, kể cả các con, từ tắm giặt đến cơm nước thuốc men cho vợ. Anh vào tận Văn phòng Trung ương rước được cụ thầy thuốc chuyên lo chăm sóc sức khỏe cho lãnh tụ ra, bắt mạch, kê đơn bốc thuốc cho chị Nhu. Anh đi bốc thuốc, về, sắc thuốc cho vợ hết ngày này sang tháng khác, nâng giấc cho vợ khẽ khàng, đến khi chị Nhu tỉnh dần, tỉnh dần rồi khỏi dần, khỏi dần.

Tôi hồi ấy ở Văn nghệ quân đội nên được chứng kiến từ đầu. Nhìn anh chăm sóc vợ mà thấy cảm phục anh hơn, trước đó, không phải không có chuyện này chuyện kia tức, ghét Đỗ Chu, nhưng qua cái đận này thì chả có cái gì xấu của anh còn đọng lại. Tức ghét bay biến. Nhiều khi tự thấy mình xấu hổ vì cái sự tức ghét kia. Anh chăm chị Nhu cũng kỹ càng như anh chăm sóc những trang văn, những đứa con của đời anh vậy. Tôi nghĩ thế và tự lấy đó làm gương cho cuộc sống của mình.

***
Ở Hội Nhà văn có những nhân vật đặc biệt, nói hay, nói nhiều, chuyện đông tây kim cổ thảy đều am tường. Ngày xưa có Chế Lan Viên, Nguyễn Khải, thời chúng tôi có anh Đỗ Chu, anh Nguyễn Khắc Phục. Đỗ Chu đến phòng nào lập tức phòng đó biến thành nơi tụ tập. Các nhà văn xúm xít vào nghe Đỗ Chu nói. Chuyện thời sự chính trị nóng hổi trong nước đến chuyện Tây Tầu. Chuyện cung đình ông này lên ông kia xuống đến chuyện Mỹ Nga, Hàn Nhật. Đỗ Chu có tài biện giải những lắt léo lôi thôi của sự việc như trạng, mà anh là trạng thật. Nghe Trạng Chu nói thì đến con kiến trong lỗ cũng phải bò ra nghe.

Tôi đã từng được chứng kiến một “pha” ngoạn mục, ấy là một hôm, Nguyễn Khắc Phục đang cao đàm khoát luận trong phòng Nguyễn Minh Châu về các triết luận cao siêu của Căng, của Nít, rồi chuyện cụ Xôcrát đến ông Nguyễn Hữu Đang nhà ta đối thoại với các triết gia hàng đầu của Pháp quốc. Chuyện đang cao trào thì Đỗ Chu đến. Nguyễn Khắc Phục coi như không có chuyện gì xảy ra, tiếp tục nói về chủ nghĩa hiện sinh và các nhà tư tưởng trụ cột của trường phái này. Một lúc sau thì Đỗ Chu lặng lẽ giữ ý, biến mất, không để lại dấu vết. Thế mới biết các nhà hùng biện của chúng ta cũng có sự kiêng kị nhau khá rõ ràng.
Ở Hội Nhà văn từ khi được thành lập đến nay, có hai “ông cụ” hoành tráng nhất, ấy là cụ Cơ Chế và cụ Đặc Thù, cả hai cụ ấy đều đứng sừng sững gác hai bên cánh cổng tạo nên vẻ, khi thì nghiêm trang huyền bí, khi thì xáo trộn xuôi ngược. Mà cái sự nghiêm trang thường chỉ diễn vào dịp đại hội Hội Nhà văn. Có cờ đèn kèn trống uy nghi trang trọng, có các vị lãnh đạo quốc gia, các vị đầu ngành của đất nước đến nhiệt liệt chào mừng.

Thậm chí có binh lính nghiêm trang gác bảo vệ, có xe hụ còi mỗi khi đoàn đại biểu đi ra diễu hành trên đường phố. Đấy, không có ngài Cơ Chế và không có “Cụ” Đặc Thù thì làm sao có được sự vinh danh hùng vĩ như vậy? Thế còn cái sự lộn xộn dễ thương của mấy anh nghệ sĩ thì tất nhiên, nghệ sĩ người ta phải khác người đời và luôn được người đời để ý, dựng thành đủ thứ tin đồn, đủ thứ huyền thoại.

Nếu hay thì trong dân gian truyền tụng và nếu dở thì nhân dân thảy đều cho qua vì các nghệ sĩ rất kém tổ chức, làm cái gì quy lát bài bản là y như rằng, trở nên xộc xệch. Nghệ sĩ mỗi người một tính cách, một vòm trời, không ai đại diện cho ai nhưng ngài ấy sẵn sàng đại diện cho cả dân tộc. Không thể bắt nghệ sĩ xếp hàng nghiêm ngắn, càng không thể yêu cầu anh ta mặc đồng phục, hát đồng ca, hô khẩu hiệu. Lãnh đạo văn nghệ sĩ vừa là lãnh đạo cao cấp, vừa là nghệ nhân, một thứ cán bộ lãnh đạo không lãnh đạo gì cả.

Chân dung cụ Nguyễn Đình Thi là bức chân dung điển hình nhất của nhiều thế hệ cán bộ Hội Nhà văn: Sang trọng, tài hoa, dân dã, sắc sảo, hiền hòa, ai cũng nể trọng. Một trong những cán bộ không chức vụ gì cả, nhưng thâu tóm mọi câu chuyện mọi tình hình tình huống của Hội, ấy là anh Đỗ Chu. Anh Đỗ Chu ngất ngưởng ở các quán nước chè, các quán rượu quanh khu vực Hội Nhà văn bao năm nay và ngất ngưởng ở trong cơ quan Hội bấy nhiêu năm, không ông Tổng thư ký nào, không ông Chủ tịch hội nào, không ông Ban chấp hành nào không kiềng nể Đỗ Chu.

Đỗ Chu vừa là nghệ sĩ, nhân sĩ, vừa là cán bộ có đủ “mác” cho một cán bộ lý tưởng của cách mạng: Đã từng kinh qua lính thời chiến tranh, đã từng đoạt đủ các thứ giải thấp cao của Hội Nhà văn và của quốc gia, lan cả sang quốc tế. Hỏi Đỗ Chu giữ chức vụ vai trò gì, tất nhiên chức vụ thì không, nhưng vai trò thì có đấy! Vai trò gì? Ở đây có một thứ nhiệm vụ không nhiệm vụ gì cả. Có một thứ trách nhiệm không trách nhiệm gì cả. Có một thứ vai trò có rất nhiều vai trò, nhưng thực ra, chả vai trò gì cả.

Anh Đỗ Chu ngất ngưởng ở các quán nước chè, các quán rượu quanh khu vực Hội Nhà văn bao năm nay và ngất ngưởng ở trong cơ quan Hội bấy nhiêu năm, không ông Tổng thư ký nào, không ông Chủ tịch hội nào, không ông Ban chấp hành nào không kiềng nể Đỗ Chu.

Đến Hội Nhà văn Việt Nam mà chưa gặp Đỗ Chu coi như chưa làm việc, chưa gặp ai, chưa nắm được tình hình gì! Đỗ Chu là tai là mắt thậm chí là người phát ngôn (không chính thức) nhưng vô cùng quan trọng của Hội. Các nhà văn ở tỉnh xa về Hà Nội, ai may mắn được gặp Đỗ Chu chỉ một lần, một lần vài cốc bia hơi, vài chén rượu lạc, chịu khó nghe, và chỉ có nghe, Đỗ Chu giảng giải, chỉ dẫn, chỉ đạo, đến khi về tỉnh nhà thì tha hồ mà có chuyện với anh em. Tôi lắm lúc lẩn thẩn nghĩ dại, sau này, lỡ bác Chu ra đi thì cái “chân’’ của bác có ai thay thế được không nhẩy.

Chắc là thời thế sẽ khác và cái “chân” của bác Đỗ Chu sẽ chuyển cho một nhà văn có gương mặt mới, chưa rõ hình thù nó sẽ ra làm sao, phải bình tâm mà chờ đợi thôi các bạn ạ.

Hà Nội đêm mùng 6 tháng 8 năm 2014
 
Ảnh: Nguyễn Đình Toán


Ai khiến nhà văn đi gỡ bom nổ chậm…




Tôi chơi với anh Đỗ Chu cũng là vì anh gần gũi với ông Kim Lân và Nguyễn Trí Huân. Mà ông Kim Lân và Nguyễn Trí Huân đều là chỗ thân tình của tôi. Ở đời cứ hay bìu díu với nhau thế. Hình như các cụ gọi đấy là cái duyên. Phải duyên phải số nó vồ lấy nhau. Tôi mãi mãi chơi với anh Đỗ Chu vẫn chỉ là chơi theo, đến khi ông Kim Lân mất, thỉnh thoảng anh em vẫn qua lại với nhau. Chuyện cũ lắm khi thấy vui, lắm lúc thấy xao xác trong lòng. Ví như chuyện anh Đỗ Chu đi thực tế với Nguyễn Trí Huân vào trong tuyến lửa khu Tư.

Lúc ấy hai người đều là nhà văn trẻ của quân chủng Phòng không không quân. Đỗ Chu đã rất nổi tiếng với những truyện ngắn giầu chất thơ, đậm chất Paustovski. 
Giữa thời chiến tranh khốc liệt ùng oàng, truyện ngắn của Đỗ Chu là khoảng lắng dịu dàng khiến người ta phải ngỡ ngàng. Nguyễn Trí Huân còn khá non cả tuổi quân lẫn tuổi nghề.

Với Huân lúc ấy là nhà văn trẻ ra chiến trường tất phải xông xáo. Đến một đơn vị đang làm nhiệm vụ gỡ bom nổ chậm, Huân ta xung phong đi cùng chiến sĩ đến tận nơi những trái bom phát nổ không biết lúc nào ấy, phải “sờ” được vào nó về mới hả.

Bác Đỗ Chu thì biến đi đâu mất. Khi “sờ” được thần chết rồi, về phía sau, Nguyễn Trí Huân hí hửng kể cho Đỗ Chu nghe, tưởng được ông nhà văn liền anh khen, không ngờ lại bị một trận mắng xối xả:
“Sao mày ngu thế? Ai khiến mày vào chỗ ấy, làm cái việc ấy? Mày vào thì làm được gì? Nhà văn thì phải viết chứ không ai khiến nhà văn đi gỡ bom nổ chậm. Mày mà chết thì là cái chết ngu chứ anh hùng gì…”.
                                
Tóm lại là ngu! Việc tháo bom nổ chậm là việc của chiến sĩ công binh, người ta có nghiệp vụ, thằng nhà văn vào đấy chỉ để “sờ” một cái, rồi về, hỏi có ngu không!

Tất nhiên luận về hai sự hèn ngu thì còn nhiều cách luận khác nhau, nhưng đến khi Nguyễn Trí Huân khoác ba lô đi chiến trường miền Nam, ở hậu phương, tết năm nào Đỗ Chu cũng vác một cành đào với cặp bánh chưng, cùng cái phong bao có mấy đồng nhuận bút còm về tận quê Huân biếu bà mẹ có hai con trai đều đang ngoài chiến trận.
                  
Năm nào cũng như năm nào, cho đến sau 1975, gặp nhau ở Sài Gòn, anh Chu nói với Huân: “Tao mừng mày còn sống, giờ tao trả bà cụ cho mày. Viết được gì thì cứ thong thả mà viết, trước mắt là về quê lấy vợ, có cháu cho bà cụ vui”.

Trung Trung Đỉnh
(Nguồn: Báo điện tử Tiền Phong)  

Phần nhận xét hiển thị trên trang

TIN THAM KHẢO NCBĐ


Theo nhiều phương diện, tình hình tại Đông Á hiện nay giống như Châu Âu trước Chiến tranh thế giới I, khi các cường quốc Châu Âu đang trỗi dậy thách thức các cường quốc cũ. Khả năng một cuộc chiến tranh tại Châu Á liệu có xảy ra?


Các nước Đông Nam Á và Trung Quốc hiện vẫn không thể giải quyết được những tuyên bố chồng lấn của mình tại khu vực vốn được ước đoán có nhiều dầu mỏ và có giá trị chiến lược với trên 5 nghìn tỷ USD thương mại qua lại mỗi năm. Philippines và Việt Nam đã yêu cầu Tòa án trọng tài quốc tế ra phán quyết về những yêu sách vùng Đặc quyền Kinh tế trong khu vực Biển Đông của Trung Quốc, nhưng bất kỳ quyết định nào cũng đều vô nghĩa vì Trung Quốc cho rằng Tòa án không có thẩm quyền.
Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Tập Cận Bình, Trung Quốc lần đầu tiên đã tuyên bố muốn trở thành một cường quốc chi phối tại Châu Á, thông qua khẳng định chủ quyền với các đường biên giới tranh chấp trên bộ và trên biển chưa giải quyết tại Châu Á và dẫn dắt các tổ chức khu vực. Trung Quốc hiện không chứng tỏ sự đe dọa, tuy nhiên các hình ảnh vệ tinh cho thấy, Trung Quốc đang bí mật xây dựng một đường băng trên quần đảo Trường Sa cho phép máy bay quân sự Trung Quốc hạ cánh tại quần đảo này trong trường hợp chiến tranh xảy ra.
Bất chấp bầu không khí hiếu chiến gia tăng tại khu vực, một số nhà lãnh đạo và doanh nhân Châu Á cho rằng tăng trưởng và thương mại tại Châu Á - vốn đang ngày càng trở thành đầu tàu của toàn bộ nền kinh tế thế giới - sẽ giúp ngăn ngừa cẳng thẳng gia tăng. Các nền kinh tế Châu Á ngày càng gắn kết chặt chẽ và Trung Quốc cũng đã có thỏa thuận thương mại tự do với 10 nước Đông Nam Á. Tuy nhiên, những mối quan hệ thương mại này có lẽ sẽ không ngăn được một cuộc chiến tranh trong tương lai. Theo nhiều phương diện, tình hình tại Đông Á hiện nay giống như Châu Âu trước Chiến tranh thế giới I, khi các cường quốc Châu Âu đang trỗi dậy thách thức các cường quốc cũ. Như đã từng xảy ra tại Châu Âu, bế tắc tại Đông Á hiện nay có thể kết thúc đẫm máu. Trung Quốc và các nước Đông Nam Á đang ngày càng công khai đối nghịch lẫn nhau. Bắc Kinh cảnh báo ExxonMobil và các công ty dầu khí lớn khác không được liên doanh với các nước Đông Nam Á thăm dò Biển Đông; cảnh cáo công khai các nước Đông Nam Á không được thách thức tuyên bố về biển và đất liền của Bắc Kinh...
Môi trường nguy hiểm của Châu Á hiện nay xuất phát một phần từ sự mềm yếu của Mỹ. Mặc dù chính sách xoay trục về Châu Á đầy tham vọng, nhưng nó mới chỉ dừng lại ở những lời cam kết. Nhiều nước Châu Á đang băn khoăn liệu Mỹ có thực sự là người bảo trợ an ninh khu vực trong những thập kỷ tới. Trong bối cảnh đó, giới lãnh đạo mới của Trung Quốc đã trở nên mạnh mẽ hơn về chính trị và mang tính dân tộc chủ nghĩa nhất trong các vấn đề đối ngoại kể từ thời Mao Trạch Đông. Trong 3 năm qua, Tập Cận Bình và nhóm các nhà lãnh đạo quanh mình đã phá vỡ phương châm của Đặng Tiểu Bình và từ bỏ chính sách tấn công ngoại giao với Đông Nam Á. Phong cách hành xử quyết đoán của Tập Cận Bình trong chính sách đối ngoại khiến nhiều nước láng giềng của Trung Quốc dường như ngày càng cảm thấy bị đe dọa. Bên cạnh việc tuyên bố phần lớn chủ quyền với Biển Đông và Hoa Đông, các công ty dầu mỏ nhà nước Trung Quốc dưới thời Tập đã triển khai các giàn khoan dầu, được hộ tống bởi các tàu hải quân hoặc cảnh sát biển, tới các vùng nước tranh chấp. Nhiều nước tại Đông Á hiện nay rõ ràng sợ hãi sức mạnh gia tăng của Trung Quốc cũng như việc Trung Quốc sẵn sàng sử dụng sức mạnh đó.
Thực tế, Châu Á đang ở trong một cuộc chạy đua vũ trang nhanh chóng. Theo Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm, mua bán vũ khí tại Đông Á hiện đã tăng hơn 100% kể từ năm 2005. Các cuộc đụng độ tại Biển Đông và Hoa Đông như giữa tàu Trung Quốc và Việt Nam, tàu Trung Quốc và Philippines, tàu Trung Quốc và Nhật Bản hiện xảy ra hầu như hàng ngày.
Nếu chiến tranh xảy ra tại Đông Á, nó có thể dễ dàng lôi kéo Mỹ tham gia. Mặc dù chính quyền Obama không công khai tuyên bố sẽ phản ứng thế nào đối với một cuộc xung đột đột tại Biển Đông hay Hoa Đông, nhưng Mỹ đang có hiệp ước đồng minh với Philippines, Nhật Bản và Hàn Quốc, có trách nhiệm bảo vệ những nước này trước các cuộc tấn công. Mỹ cũng đang tăng cường quan hệ đối tác quân sự gần gũi với Việt Nam, Singapore, Indonesia và các nước Châu Á khác.
Tổng thống Obama chỉ còn hai năm trong nhiệm kỳ và sau đó không có gì bảo đảm một Tổng thống mới của Mỹ sẽ giúp khôi phục lại sự yên tĩnh tại Châu Á. Là Ngoại trưởng trong nhiệm kỳ đầu của Obama, bà Hillary Clinton được cho là cứng rắn hơn trong đối đầu với Trung Quốc. Bà Clinton cũng nhiều lần cho rằng chính sách đối ngoại của Tổng thống Obama là mềm yếu và nếu trở thành Tổng thống, bà sẽ cứng rắn hơn trong các vấn đề an ninh quốc gia. Nhưng bà Clinton cũng không dám mạo hiểm về chiến tranh giữa các cường quốc lớn nhất. Tuy nhiên, mọi người đã nói những điều tương tự như vậy về các nhà lãnh đạo Đức và Anh trước khi nổ ra cuộc Chiến tranh thế giới I.
Joshua Kurlantzick là thành viên cao cấp tại Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Hội đồng Đối ngoại Mỹ. Bài viết được đăng trênThe National.
Trần Quang (gt)


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chém gió kiểu này nghe bườn quá!









Phần nhận xét hiển thị trên trang