Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 27 tháng 5, 2013

Trích đoạn TT của Hồng Giang

2.
Cái đêm ông Tú Ất đến chơi nhà, Bên Giang Hạ bắt được toán cướp cũng là đêm tôi ra đời. Bố tôi bận việc với đám tuần phiên, mãi đến khuya mới về.
Ông nội tôi chong đèn tiếp chuyện với ông Tú trên nhà trên. Hai người đang luận về nhân tình thế thái. Ông nội tôi hiền, ít nói, chủ yếu Người ngồi nghe ông Tú nói về chiến cuộc bên Nga bên Đức đã bắt đầu. Nét phân vân lộ rõ trên khuôn mặt ông Tú. Có lẽ ông đang cân nhắc lựa lời nói câu chuyện của mình. Kể cũng phải. Đại sự quốc gia còn phải đắn đo, huống chi đại sự của cả hoàn cầu? Đấy đâu phải là câu chuyện dễ nói vào thời buổi này?
Nhà dưới lợp lá gồi, không lợp ngói mũi hài như nhà trên. Mẹ tôi nằm trên giường sải quạt đóng theo lối cổ. Ánh đèn tọa đăng đặt trên bàn soi tỏ mớ tóc đẫm mồ hôi của bà. Tôi còn trong bụng mẹ chưa ra. Thế kỷ sau người ta mới chứng minh được là trẻ con cảm nhận được thế giới ngay từ tháng thứ bảy, khi còn trong bụng mẹ. Chứ thời bấy giờ, ai cũng nghĩ là một đứa trẻ là chưa biết gì, huống hồ nó chưa được mẹ sinh ra!
Thực ra thì tôi biết hết. Tôi nghe thấy mẹ tôi rên rỉ, có lúc kêu lên nhè nhẹ. Chắc mẹ đang đau đớn mà vẫn phải cố ghìm nén, không muốn người nhà lo lắng. Có ai đẻ mà không đau? Sự xuất hiện của một con người trong thế giới nhiều khổ ải này làm sao mà lại không đau đớn được cơ chứ?
Tôi nghe rõ tiếng bà bá, chị gái mẹ tôi an ủi, khích lệ mẹ tôi. Còn mẹ tôi một tay cứ túm chặt lấy tay bà chị. Bá tôi phải bảo:
- Dì cứ nghỉ một lúc.Chốc nữa lấy hơi mà rặn. Bây giờ mình như người vượt cạn phải cố mới được. Nào buông tôi ra để tôi xem mớ lá thơm đã bỏ vào nồi chưa?
Chưa cần xông ngay, nhưng có nồi nước lá lau mình khi sinh nở sau này sẽ tránh được bệnh phong hàn. Nhiều bà mẹ sinh con không biết điều này, lau rửa nước lạnh, sau này cứ hễ mùa rét về là hay nhức buốt chân tay. Bá tôi biết rõ điều này nên bà rất chu đáo. Chỉ có tôi khi đó là chả biết gì. Nói ra có vẻ mâu thuẫn, nhưng mà không sai. Tôi mới chỉ biết cảm nhận, chứ đâu thấu hiểu việc đời? Con người ta dù muốn hay không, có trải nghiệm mới thành kinh nghiệm, mới thành khôn ngoan.
Chính vì ý thức non nớt như thế, đáng lẽ chui ra bụng mẹ đằng đầu thì tôi lại ra đằng chân. Bố khỉ, thế mới dở chứ!
Mẹ tôi lịm đi, gần như không thở được. Bá tôi xoay hết cách mà tôi vẫn đẻ ngược. Có lẽ đó là điềm khác biết với các chị, các anh tôi. Cái sinh linh bé bỏng ngỗ ngược chủ quan mà nghĩ rằng chân bao giờ cũng phải “đi” trước. Hai cái tay như hai cái ngạnh của tôi làm mẹ tôi suýt mất mạng.
Vào những năm cuối thập niên ba mươi của thế kỷ trước người ta đinh ninh là khi người mẹ sinh con cũng có nghĩa bà ta đã một chân trong mồ!
May phúc nhà còn ấm. Bá tôi reo lên: “ ra rồi”. Mẹ tôi ngất. Tôi tím ngắt, không khóc một tiếng nào. Ai đó phát một cái rất mạnh vào mông tôi, đau, rát vô cùng. Tôi khóc ré lên. Mọi người ồn ào “ tốt rồi, khóc được là tốt rồi”!
Bà nội tôi sai người đặt tôi vào cái xảo, bưng ra ngõ đặt tôi nằm ngay bên bờ ao, lối vào nhà. Lúc đó tôi không hiểu tại sao lại làm như thế. Rất có thể tôi bị mèo hoặc chó lôi đi. Bọn chúng chưa thể phân biệt được tôi là một con người hay đơn giản hơn chỉ là cục thịt. Cũng có thể một con rắn, một đàn kiến bò qua.. Những giống vật này thời bấy giờ chưa hiếm như sau này. Hoặc bẩm sinh tôi đã là kẻ hiếu động, chỉ cần tôi giãy nhẹ một cái là cái xảo lăn xuống ao. Đấy là tôi quan sát và nghĩ thế. Thực ra bà nội tôi núp sau rặng hương ngải, canh chừng, chuyện đó sẽ không thể và không bao giờ xảy ra..
Bá tôi lau tay, sửa lại váy yếm đi vòng ra sau nhà, đến, như chưa hề biết gì. Bà bỗng kêu to:
- Bắt được thằng cu nhà ai đây rồi, chú dì mang về nuôi đi thôi!
Chỉ chờ có thế, người trong nhà chạy ra, đèn đuốc sáng rực một vùng. Bá tôi ẵm tôi đi trước, bà nội tôi và người nhà đi sau, cười nói hơn cả bắt được vàng. Mẹ tôi tất nhiên là vẫn nằm dưới nhà ngang, chưa thể đi được.
Tôi đói cồn cào, bởi từ kiếp nảo kiếp nào tôi đã được cái gì vào bụng đâu?
Đáng lẽ mang tôi đến chỗ mẹ tôi, bà bá lại mang lên nhà trên. Ý chừng để bố tôi coi mặt. Thời đó đàn ông đàn ang còn hay giữ ý. Chuyện đẻ đái không ai tỏ ra quan tâm trước mặt người khác để lấy lòng vợ hoặc gia đình nhà vợ như bây giờ. Nhưng bố tôi thì khác. Ông đưa tay đón lấy tôi, lẩm nhẩm:
- Thằng này khá đấy nhỉ. Nhưng sao nó lại có đường gân ngay giữa trán thế này?
Ông Tú lúc bấy giờ đứng đấy, bảo:
- Không sao, tướng này là quý tướng, không phải người thường. Sau này nó không làm quan mới là chuyện lạ!
Cả nhà xôn xao, rì rầm. Còn tôi sau này tôi nghĩ câu nói này của ông Tú Ất sai. Mà cũng có thể là ông nói đúng, nếu như thời cuộc không nghiêng ngửa sau gần chục năm nữa. Năm người chết đói đầy đường. Mã tà, ma cô, tây, Nhật, Việt Minh đủ cả..
Người già luôn thiết thực, bà nội tôi vội đón lấy tôi đưa xuống nhà ngang. Mẹ tôi đã hồi tỉnh. Mẹ đặt tôi nằm gối lên đầu cánh tay mẹ.Sữa mẹ thực là ngon!

Xứ tôi ở không có băng tuyết nên không có tảng băng nào tan ra vào đêm hôm ấy. Cũng không thấy cầu vồng xuất hiện. Mà giá như cầu vồng xuất hiện cũng chẳng ai thấy được nó vào đêm tối như thế này.
Tôi không thể và cũng không nên phét lác về ngày sinh tháng đẻ của mình có những sự kiện lạ lùng, nào là.. nào là.. toàn bố láo cả. Chứ việc bịa ra  đêm hôm đó có một ngôi sao rực rỡ xuất hiện trên bầu trời, bay đi bay lại qua vùng nhà tôi, hay trên núi Nghĩa Lĩnh chợt lóe lên tia sáng năm màu, báo điềm khác lạ ngày thường..đối với tôi việc đó không khó.

Nhưng để làm gì??

( Còn nữa )

Phần nhận xét hiển thị trên trang

RU KIỂU @.COM


Phóng viên đến chụp hình Nick trong ngày đầu tiên Nick đến TPHCM bị cản trở ngay từ vòng ngoài


Đúng là Văn hóa nõ nường
Những trò linh tinh phộc
Những trò xảo biện và những lời nói tục
Hơn bao giờ lên ngôi!
Đừng mặc áo trắng ra đường mùa này nóng nực
Mùa này chó hay phát dại và người phát điên
Tốt nhất rủ mấy em chân không quá ngắn
Lật giở trang “linh tinh phộc” ra mời
Đừng quá âu lo chuyện trên trời, dưới biển
Kẻ hay lo dễ mang vạ vào người,
Sống vô hại như thằng “anh cu Nick”
Tự dưng ẵm ba mươi sáu tỷ..
có ngày
Văn hóa nõ nường không cần lý giải!
kẻ nào biết chơi kẻ ấy mới tài
Ôi nước non một phen thú vị
Linh tinh phộc à,
linh tinh phộc ơi!



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Phát hiện sớm, hay cảnh báo sớm cũng rứa:


NGỤ NGÔN 15

THIÊN THỜI, ĐỊA LỢI, NHÂN KHÔNG HOÀ


Gieo lúa, nuôi lợn, trồng khoai
Phải cần mưa hoà, gió thuận
Buôn bán giữa chợ, giữa đời
Cũng cần con người nhã nhặn.

Nói chung các cụ tổng kết
Muốn thành đạt con người ta
Phải biết, và phải gặp được
Thiên thời, địa lợi, nhân hoà!

Nhưng với nghề văn thì khác
Văn anh có hay đến đâu
Tư tưởng có gì tiến bộ
Người đời biết đến: còn lâu!

Nhưng nếu số anh tốt số
Gặp thằng dở dở, ương ương
Chửi thật hay là chửi giả
Tầm thường bỗng hoá phi thường!

Cái thời dư luận nhộn nhạo
Văn chương, sân khấu, hát ca...
Thiên thời, địa lợi thì được
Nhưng mà nhân phải... bất hoà!

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trả bài:

ĐỪNG HỎI

Thằng Búc lúc nào cũng hỏi:
Bạn đang nghĩ gì?
Thực tình không muốn nói,
Nghĩ gì,
dễ nói thế sao?

Nó lập trình sẵn rồi,
hỏi thế nào chẳng được!
còn mình đã có “trình” nào đâu?
Cứ sống mỗi ngày
đưa,
đẩy
buồn vui
 bất luận thế nào

Không thể lập trình, không thể lên kế hoạch..
trong thế giới vừa mong manh
 vừa mờ ám này
Không thể biết trước điều gì sẽ đến?
chiều hôm nay
hay  vào sáng hôm sau!

Chưa bao giờ thả nổi tâm tư ta đến vậy!
Khi mỉa mai sống đời,
lại gọi “cụôc chơi”
Khủng khiếp nhỉ,
nào ai muốn “chơi” theo kiểu đấy!
Không hẳn vì sợ chơi dao có ngày đứt tay..

- Ta không nghĩ gì vào phút giây này cả!
Đừng hỏi thêm,
lòng đau!





Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chủ Nhật, 26 tháng 5, 2013

Thanh niên ngày nay… chán thật

Thanh niên ngày nay… chán thật

Tôi xin kể về bài giảng của cô giáo tôi. Một lần, kết thúc khoá bài giảng tâm lý học, cô giáo đọc cho tôi một đoạn văn rất lý thú. Tôi đã chép nguyên văn theo trí nhớ và xin hầu chuyện bạn đọc:

Trong một cuộc hội thảo về thanh niên tại Poóc – Mut, bác sĩ R.Gipsơn đã đọc 4 đoạn trích dẫn như sau:

Đoạn thứ nhất: “Tầng lớp thanh niên chỉ biết ăn chơi và rất mất dạy. 
Chúng thường chế giễu người trên và không biết kính trọng những người cao tuổi. Thế hệ con cái chúng ta rất dễ trở thành những người bạo ngược. Thanh niên bây giờ không còn biết đứng dậy chào khi có khách vào nhà và luôn luôn chống đối lại bố mẹ. Tóm lại thanh niên ngày nay hoàn toàn hư hỏng!”.

Đoạn thứ hai: “Tôi mất hẳn niềm tin tưởng với tương lai đất nước khi thấy hiện nay tuổi trẻ đang nắm quyền lãnh đạo. Thanh niên thời đại này quá quắt đến nỗi khó mà tin được họ sẽ đem lại điều gì tốt đẹp cho tương lai”.

Đoạn thứ ba: “Thế giới ngày nay đang trải qua một cơn nguy hiểm. Lớp trẻ không còn biết vâng lời bố mẹ nữa. Có thể đoán rằng chẳng bao lâu nữa sẽ đến ngày tận thế!”.

Đoạn thứ tư: “Tầng lớp thanh niên ngày nay đã mục nát đến tận xương tuỷ. Họ rất lười biếng và xảo trá, khác hẳn với lớp trẻ chúng ta thời xưa. Như vậy thì còn hy vọng gì họ giữ vững được nền văn hoá truyền thống của cha ông nữa!”.

Bác sĩ R.Gipsơn đọc xong, cả hội trường vang tiếng vỗ tay tán thưởng.
Nhưng… chờ khi mọi người đã hoàn toàn im lặng, ông mới cho biết niên đại của các đoạn trích dẫn trên:

* Đoạn 1 vào thời Xôxcrat (470–399 Tr.CN, tức cách đây khoảng 2400 năm).
* Đoạn 2 trích trong một tài liệu vào năm 720 Tr.CN, tức cách ta vào khoảng 2600 năm.
* Đoạn 3 trích trong tìa liệu ngành giáo dục Ai Cập vào khoảng 2000 năm Trc.CN, tức cách ta 4000 năm.
* Đoạn thứ 4 được khắc trên một bình hoa thời thượng cổ ở Babilon, cách đây hơn 4000 năm.

A ha, lớp người này tỏ ra vững vàng và chê lớp người sau. Nhưng không ngờ trước đó họ cũng đã từng bị chê, từng bị lo lắng và bất tín nhiệm. Vậy mà xã hội vẫn tiếp tục phát triển, vẫn tiếp tục văn minh… và ngày càng giỏi giang hơn. Nghịch lý thay!

Thật là thú vị! Xã hội loài người không ngừng vận động và phát triển, vì thế tâm lý người cũng biến đổi cùng với biến đổi của lịch sử. Và tâm lý học đã chỉ rõ rằng không thể so sánh tâm lý lịch đại được. Vậy thì vấn đề đặt ra là tại sao người ta lại cứ ưa so sánh và lắm lúc có kết cục rất hài hước như trường hợp bác sĩ Gipsơn đã trích dẫn ở trên

Bình luận về hiện tượng này, giáo sư tâm lý Phạm Hoàng Gia đưa ra những ý kiến như sau: Hoá ra thời địa nào cũng có những cha mẹ “bất mãn” với thế hệ con cái của mình. Quy luật tâm lý này dựa trên một cơ chế khá phức tạp mà những thành phần chủ yếu là sự tự khẳng định nhân cách, tính cải biên của trí nhớ và sự sai biệt về biểu giá trị định hướng của mỗi thời đại, mỗi lứa tuổi, cho nên muốn giáo dục thế hệ trẻ thì phải đến với họ bằng sự cầu thị khách quan, bao dung và thông cảm, tránh chủ quan, chỉ tin vào ấn tượng của mình và áp đặt theo định kiến có sẵn. Điều đó chỉ làm tăng sự xa cách thế hệ mà thôi.

/** Đoàn Công Lê Huy **/


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đăng đủ một truyện ngắn:


NGÔI NHÀ BÊN CỬA RỪNG.
                    
                                       Truyện ngắn của Hồng Giang
   
       Chồng cao to, trắng trẻo, đần đơ, đầu óc như để mãi tận thế giới nào xa lắc. Công việc trước mắt cứ như thể làm để làm. Có chút gì đó chủ quan, lơ đãng. Nhưng khi có ai hỏi việc gì lại hết sức nhanh, nhạy. Tôi yêu cầu lắp thêm chiếc bóng đèn cho đủ sáng, chả hỏi lại, làm ngay. Cô vợ đanh đanh người, da ngăm ngăm, môi mỏng, láu táu, giọng lé xé. Dáng cô ta quen quen, gặp ở đâu rồi? Chịu. Không nhớ ra!
Đêm trước có trận mưa to, phông bạt ướt sũng xếp lại từng đống. Hai vợ chồng nhà này đang gỡ ra từng cái đem phơi. Cô vợ cằn nhằn, tự thanh minh với chính mình: “Thời tiết bây giờ thật khó hiểu, khó chịu. Ti vi thì báo rằng không có mưa, đâm chủ quan. Biết thế, tháo ngay từ hôm trước đã không rách việc thế này..” Chồng bảo: “Ướt thì phơi có sao? Trời không mưa, hạn kéo dài thì còn chết ấy.. ấy chứ..” Vợ nói: “Mình có cấy hái, trồng trọt gì mà mong mưa?” “ Rõ là đầu óc đàn bà, chỉ ích kỉ.. Dân làng mất mùa, lại không đói lây cả mình ấy à?”  “ Ồi dào..” Cô vợ lặng im, không nói nữa, đưa mắt nhìn về phía tôi, có ý nhắc chồng. Thằng chồng cười nhen nhen, ngượng ngịu rút bao thuốc ra mời. Cảm ơn, mình không hút.
Tôi nhờ anh ta cắm lại chiếc amli, mở đầu đĩa. Văn hóa đồng rừng, cứ là tiền trao cháo múc. Người ta xem chán xem chê rồi mới chịu trả tiền. Bất luận thế nào cũng chê ỏng chê eo một vài thứ, để tỏ ra vẻ mình hiểu biết, đừng có khinh người miền núi nha, thế giới này phẳng mẹ nó tự bao giờ rồi ấy nha..Bực bội. Cáu. Chỉ muốn nói vài câu cho bớt khùng! Dưng mà làm cái công việc này là làm dâu trăm họ. Bấy lâu tôi còn chịu đựơc, chịu thêm một lần có làm sao?
Được cái vừa mưa xong, mát trời, phần “trả bài” của tôi hôm nay có vẻ thuận lợi.
Chưa rõ nếp tẻ, đẹp xấu thế nào, chủ nhà ban nãy đã bảo:
- Cứ để đấy đã. Làm vài choóc, xem sau.
Nhưng công việc vẫn là công việc. Lừng xừng rượu rồi, lóng ngóng, dễ hỏng. Xem gần xong, nhà chủ không thấy nói gì.. Cô dâu đã về nhà chồng, đương nhiên không thể có ý kiến gì vào lúc này. Tôi đã thở phào nhẹ nhõm.( Làm nghề nào có nỗi khổ của nghề đó. Dài cổ ra xóa xóa, ghép ghép, biên tập, nâng cao, hiệu ứng hiệu iếc, không khổ bằng cái lúc ngồi đần mặt ra thế này để  nghe lời phán quyết của “thượng đế” ). May mà sự này không xảy ra. Một là video không đến nỗi nào. Hai là “thượng đế” cũng là chỗ quen.. Tưởng vậy đã xong. Đột ngột cô ả phông bạt hỏi:
- Anh làm thế này lấy bao nhiêu tiền một đĩa?
Tôi ngẩn người, sao lại tính đĩa như đĩa ở quán thịt chó, hay lòng lợn tiết canh?
- Ừ thì tôi tính theo đám..
- Cụ thể?
- Ngoài tỉnh người ta tính một, hai triệu một đám. Còn đây nhà quê lấy chút đỉnh xăng xe, công chả đáng bao nhiêu cô ạ!
- Giời đất, lấy thế bằng cả năm cày bừa của nhà quê chúng em à? Hôm trước cái nhà ông gì làm trên suối Triển lấy có hai trăm. Sao ở đây lấy đắt thế?
Lạy giời đất. Hai trăm thì làm cách nào? Có đi thuê nếu mình quay sẵn, ít ra cũng trả công thợ dựng phim hơn hai trăm rồi! Tôi chưa biết nói sao, may mà chủ nhà đỡ lời:
- Chú thông cảm, thím ấy không biết, thật thà hỏi vậy. Tiền tôi trả cơ mà.
Tôi như trút được gánh nặng: “ A, đây là em thím ạ? Không sao, không biết hỏi có gì là sai? Trông cô quen quen, cái ve bên mi mắt trái ..có phải người vùng này?”
- Em là con gái ông Phúng, có lần anh đến nhà em, chắc anh không nhớ?
Ra là vậy. Ông Phúng. Cái  tên nghe ma chay, phúng điếu là tên của ông có căn nhà rất lạ lùng gần cửa rừng, tôi nhớ ra rồi. Đó là một căn nhà kì dị, độc nhất tôi chưa từng gặp ở đâu..
2.
Hồi đó mưa nhiều. Những cơn mưa rừng không ngớt. Suối dâng ngập các tảng đá đầu ông sư hai bên bờ. Từng đám cây đổ ngả nghiêng, bám đen vắt là vắt. Ngoe nguẩy, ngoe nguẩy. Cua đá màu thâm nâu bò ra từng đàn. Có con chim không hiểu vì sao gẫy cánh, mắc kẹt trên ngọn cây. Rắn trắng, rắn xanh chạy lũ trườn loạn xạ ven bờ nước.. Chúng tôi có việc ở sâu trong rừng, vì mưa to quá phải ra đây tìm chỗ trú mưa. Nhưng cái chính vẫn là tìm một chỗ để nấu cơm ăn. Không thể nhịn. Mẻ không ăn cũng chết cơ mà?
Dọc theo suối, mãi rồi cũng gặp một ngôi nhà. Nhà thực sự chứ không phải chòi hay lán thường gặp ven rừng, nơi người ta ở tạm mùa làm nương. Có khi chỉ là trú chân buổi trưa, trú mưa nắng vì ngại về nhà quá xa.
Nhà dựng cột ngoãm, không có vết cưa đục, làm hoàn toàn bằng dao, chả có dấu vết công nghệ nào. Lại thấp bé, dựng chắn ngay giữa tim đường. Trần đời tôi chưa từng thấy nhà kiểu như thế bao giờ. Người ta cứ hay quen mồm kêu “nhà cửa”, “cửa nhà” vì thông thường đã là nhà phải có cửa, to nhỏ mặc lòng. Nhưng ngôi nhà này tuyệt nhiên không có cửa. Bạn sẽ hỏi vậy ra vào bằng cách nào? Đơn giản, cứ theo đường đi chạy dọc giữa lòng nhà qua hai đầu hồi để trống. Gọi là cửa cũng phải, gọi là đường đi cũng phải vì chính nó là lòng đường. Một con đường mòn xuyên qua rừng sâu, dọc theo suối, không mấy khi có người qua lại. Đó là ngôi nhà tận cùng của miền hoang sơ, thưa dấu vết con người. Ai đó có việc qua đây cứ tự nhiên vào, rồi ra dọc theo hành trình không cần xin phép chủ nhân.

Ông này đen, dong dỏng cao, tóc tai lờm xờm vì lâu không có khái niệm chải đầu, lược là vật xa xỉ không tìm thấy ở đây. Ở cùng ông còn có một phụ nữ cứng tuổi, với mấy đứa trẻ bẩn, lếch thếch, nhọ nhem. Bà ta tóc tai gọn hơn một chút, nhưng chắc chắn cũng không chải lược bao giờ. Bà ta nói giọng khê khê vùng biển. Hỏi quê, bảo Hai Hậu, Hải Dương.. gì đó, lâu ngày tôi không còn nhớ. Còn ông người Trùng Khánh, Cao bằng. Một người vùng biên viễn, đèo cao hút gió, một người miền thùy dương làm sao lại cùng nhau ở đây?
Kể: Loạn biên giới, người đàn ông tên Phúng chết mất vợ con, một mình về đây. Ông đau buồn đến nỗi không muốn nhìn thấy bất kì ai, định sống một mình ở thẳm Hon này cho đến cuối đời. Nhìn thấy cảnh sống gia đình người ta lòng ông lại tái tê, nhức buốt , chịu không nổi. Chỉ có muỗi và chim rừng là niềm an ủi cuối cùng của ông. Coi như đó là cách sám hối tạ tội cùng với vợ con vì sự thiếu chu đáo và quá chủ quan của mình. Dân làng xôn xao sẽ xảy ra chiến sự, ông một mực: “Không thể có chuyện đó, nếu có cứ chặt đầu tôi đi” Ông không tin là sẽ xảy ra chiến sự. Dân làng nhao nhác tản cư bằng nhiều cách, nhiều ngả. Ông vẫn ung dung như không có chuyện gì.. Không ai chặt đầu ông cả.. Hối hận, căm giận, tủi hổ lương tâm mình. Ông sống như bây giờ..
Một buổi sáng ông Phúng bắt gặp người đàn bà bị cảm lạnh, ngất bên bờ suối. Ông đưa người đó về, đánh cảm, thành vợ ông bây giờ. Cuộc hôn phối ngẫu nhiên tồn tại cho đến lúc họ gặp chúng tôi.
Lúc đó tôi chưa dám hỏi bà là ai, từ đâu đến? hoàn cảnh thế nào? Biết được quê quán, tên tuổi là mãi sau này, khi chúng tôi đã là chỗ thân quen.
Tôi biết bạn sẽ tò mò: Tôi là ai, làm gì chốn rừng xanh, núi đỏ heo hút, xa xôi ấy? Thưa bạn: Đó không phải là ý định của tôi muốn kể trong câu chuyện này. Nó là liên chuyện khác, sẽ kể nếu như tôi còn hứng thú. Bằng không, bạn cứ quên nó đi như bao chuyện nhảm nhí, phù phiếm, ngụy tạo người ta dựng lên đầy dẫy thế giới này..
3.
Ngôi nhà đó ông làm một mình, chỉ với một con dao quắm. Thứ dao có mũi cong như một dấu hỏi, chỉ có thể chặt ngang bổ dọc chứ không khoét, đục được như các dạng dao khác. Khái niệm “kèo” ở ngôi nhà này tuyệt nhiên không có.
Lúc đầu, ngay cả ý nghĩ dựng nhà cũng không hề có với ông. Định tìm một cái hang, hang đất hang đá, kiểu gì cũng được. Miễn là có chỗ chui ra chui vào. Nhưng quanh vùng không có cái hang nào như thế ngoại trừ những cái hang bí ẩn, bé tẹo của lũ chồn cáo, nhím, cầy đà, gì gì đó. Những cái hang như vậy không dành cho con người.
Cuối cùng ông dừng lại chính chỗ này, dựng căn nhà kì quặc này bên cửa rừng. Ông bắt đầu treo những quần áo cũ của vợ con còn sót lại lên liếp nứa che dọc hai bên lối đi. Tự nhiên có cảm giác yên ổn được vài hôm. Mùi của người thân nhắc ông nhớ về cuộc sống, ra khỏi cơn mộng du.
Hai tháng như thế trôi qua cho đến ngày ông gặp người đàn bà lạ gục ngã gần ngôi nhà của mình.
Hình như ông trời còn muốn cho ông gặp một cơ hội nữa, chứ thực lòng lúc đó ông không đợi bất cứ điều gì.
Ngoài cái vẻ nhợt nhạt, tiều tụy người ấy chẳng có gì. Bộ quần áo TNXP màu nước dưa bạc đã vá vài chỗ, cái kẹp tóc ba lá han gỉ, đôi tông Lào đứt quai phải nối bằng dây thép, tất cả chỉ có thế. “Vô sản” trăm phần trăm như khái niệm chung thời bấy giờ.
Ông không hỏi người từ đâu đến, thân phận thế nào? Ông đã trải qua nhiều gian khó cuộc đời, mối liên cảm giống như một sợi dây ngầm nối thông cảm tự nhiên, thấy không cần, không nên gợi lại nỗi đau người khác.
Ông lấy bộ quần áo cũ của mình cho cô ấy mặc sau khi đánh cảm xong. Cô thở đều đều, ngủ một giấc dài cho đến sáng hôm sau. Có lẽ chút mật ong rừng đã có hiệu nhiệm. Ông cuống quýt ra phía sau nhà lấy mấy cái bắp non, dùng dao quắm nạo ra, nấu cháo cho cô ăn.
Cô gái tỉnh dần, gượng ngồi dậy. Nước mắt cô ứa ra hai gò má có nhiều vết xây xước do lá cây, do vấp ngã quyệt vào:
- Đây là đâu? Ông là ai?
Ông bảo cô còn yếu, đừng hỏi nhiều. Cứ nghỉ đi, khi nào khỏe muốn về đâu sẽ đưa cô về. Cô lắc đầu:
- Đáng lẽ ông cứ để em chết.. Còn về, em biết về đâu bây giờ?
Tối hôm ấy ông được cô kể về cuộc đời của cô. Một cuộc đời “rất dài và rất xa”, rất buồn..
Có thể “cô chàng phông bạt” tôi kể phần trên được sinh ra từ đêm hôm ấy, hoặc đại loại như đêm hôm ấy về sau..
3.
Số phận là tên bạn phản thùng khốn kiếp nhất, hay là con thú đói rình mồi. Nó không dễ gì buông tha nạn nhân của nó..
Ngôi nhà bên cửa rừng cũng là nơi chứng kiến, chịu đựng những dị biệt, éo le rất ít khi xảy ra nơi những căn nhà khác.
Khả năng của nó chỉ có thể chứa đựng được hai đến ba con người là cùng. Chiều ngang chưa đầy ba mét, dài cũng chỉ nhỉnh hơn một chút. Dung lượng ấy.. hai hay ba đã là quá tải.
Vậy mà có lúc nó phải chứa gần chục con người. Tôi chịu không thể hình dung ra cách người ta ăn nằm, ở, làm vài việc gì đấy.. như thế nào trong không gian chật hẹp, ảm đạm, ám khói đến thế này?
Ngay hôm mưa gió chúng tôi vào đụng mưa, nấu nhờ bữa cơm đã phải bớt hai trong số ba đứa chúng tôi đội nón đứng ngoài mái hiên. Chỉ dựa được mảnh lưng áp vào vách nứa cho đỡ lạnh. Nếu không có mấy mảnh nón mê ai đó vất trên đường đi, hẳn cả hai ướt còn hơn chuột lội nước.
Bạn muốn biết vì sao quân số đột ngột tăng?  Câu chuyện thật giản dị và cũng thật khó hiểu:
Cách chừng hơn năm sau bữa ông Phúng  ( Cái tên ma chạy, hiếu đễ ra làm sao đâu!) gặp người đàn bà bên dòng nước, ngôi nhà này chứng kiến thêm một chuyện. Có một người đàn ông đầu trọc lốc, vùng này chưa ai gặp bao giờ dẫn theo người đàn bà trẻ đẹp nói là vợ, đi tìm người chị gái thất lạc. Người này ôm lấy vợ ông Phúng rồi khóc rống lên:
- Ối chị ơi, chị đi đâu từ đấy đến nay? Em ra trại người ta bảo mẹ chết rồi. Chị ra quân về làng lấy chồng huyện bên. Em sang đến nơi,cái lão chồng chị ấy còn vác thuổng đuổi đánh em.. Thế là làm sao hở chị?
- Lão ấy bảo chị không biết đẻ, lôi con khác về nhà. Chị không đồng ý thế là lão ấy kiếm cớ đuổi chị ra khỏi nhà..
- Thế chính quyền, làng xóm đâu? Chị chịu ra tay không à?
- Làm gì được lão? Lão lấy mình có đăng ký đăng queo gì đâu? Vợ lão đẻ toàn gái, lấy thêm mình, danh nghĩa vẫn là người ăn kẻ ở.. Mà thôi phải tập quên đi những điều khốn nạn mới đủ sức sống được em ạ.
Lão Phúng nói:
- Đúng đấy..quên con mẹ nó đi. Nhớ làm gì cho nặng đầu!
Hai vợ chồng kẻ mới đến không thấy nói chuyện ra đi. Ngôi nhà bên cửa rừng đủ chân tứ trụ triều đình.. Ba năm, thêm năm đứa trẻ ra đời từ vốn tự có của hai cặp vợ chồng này. Nói ngôi nhà này có lúc chứa chấp, chịu đựng gần chục con người là nhẽ ấy..
4.
 Ngày chúng tôi hoàn công công trình nơi rừng sâu, núi đỏ, có ghé qua chào lão Phúng để về xuôi. Cảnh tượng hoang tàn, bi thương đến không ngờ bày ra trước mắt tôi.
Hai bên đầu hồi cách chừng mươi mét có hai ngôi mộ mới, còn chưa xanh cỏ. Lão phúng ngồi ôm bụng phều phào nói: “ Nhà tôi và cậu ấy đi rồi cậu ạ!” Tôi nghe mà chột dạ, không thể tin! Hỏi các cháu đâu lão bảo: “ Hai đứa đi lấy măng bị lũ cuốn, hai đứa người ta nhận làm con nuôi ở ngoài làng Cháy, cách mươi cây. Giờ chỉ còn con bé này..” Lão chỉ tôi đứa bé có cái ve nhỏ mi mắt trái..( Giống hệt cái ve cô chủ phông bạt đầu câu chuyện này tôi đã kể )
Vợ ông em cậu đang lúi húi cào cào cuốc cuốc gì đó trên đồi cao. Bóng chị ta dài ngoằng, vắt qua khe suối, tới mãi đám cây đùm đũm gai sắc như vuốt mèo.
Ra đến đường cái quan còn được nghe nhiều câu chuyện hư hư thực thực về cái nhà ông Phúng này. Đồn rằng em cậu chết, ông ta có tình ý gì với em mợ. Bà vợ uất quá treo cổ tự vẫn. Mấy đứa con thương mẹ, hận bố bỏ nhà tìm nơi khác nương tựa. Bây giờ ông ấy sống như vợ chồng với cô em mợ..
Liệu có hẳn là vậy không?
 Tự nhiên thấy ghê sợ lời đồn thổi vu vơ, ác ý của con người. Không phải trước những cảnh đời không may mắn, ai cũng có lòng trắc ẩn, một chút lòng nhân, một chút hỉ xả, tha nhân.. Không thiếu kẻ xoay lưng, diễu nhại, tội tình người khác!

Chuyện buồn quá. Buồn đến nỗi tôi không dám tìm hiểu thêm, mặc dù sau đó có vài lần qua lại..

5. Không ngờ lại có ngày gặp được cô “phông bạt” hôm nay.
Thấy hiển hiện ngôi nhà bên cửa rừng, đêm đêm lập lòe ánh lửa. Có những đêm đom đóm nhiều như sao trên trời sa xuống thành một vệt dài bên khe suối. Tiếng bìm bịp hay tiếng con gì đó khắc khoải kêu..Ngôi nhà bé nhỏ sực nức tiếng cười, mùi đàn bà, mùi bắp non, lúa mới..
Nhưng mà thôi, chẳng nên nhắc lại, hỏi em thêm làm gì?
 Em bảo em con ông Phúng.. chỉ cần nhớ vài kỉ niệm vui về ngôi nhà bên cửa rừng. Chuyện khác quên đi như bao chuyện trong đời.
Tôi cũng mừng cho em!

                        Thác bản Lan 4/2013


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Làm thơ như bắt giận!


Thơ văn xuôi
Thi giới Ðặng Ðình Hưng




Bến Lạ
     Thơ tự do không chỉ là một hình thức bãi bỏ niêm luật thông thường trong thơ cổ điển, mà còn thể hiện một nhu cầu, một đòi hỏi, một cần thiết của con người nói những điều muốn nói và nghĩ những điều muốn nghĩ một cách tự nhiên, không bị ràng buộc bởi quy luật của chữ nghĩa và lề luật của đời sống. Thơ tự do, cũng như hội họa trừu tượng, vì gạt bỏ những hình thức bề ngoài như niêm luật (trong thơ cổ điển), như tỷ lệ hình thái, phân lệ bối cảnh, ước lệ không gian (trong hội hoạ cổ điển), nên có khả năng mở rộng tâm giới, tìm đến cõi vô biên của tiềm thức mà không một quy luật cụ thể nào của loài người có thể giam hãm nổi.
     Gạt bỏ niêm luật còn có nghĩa là tìm đến một trật tự mới cho ngôn ngữ tâm thức, trật tự do chính mình đặt ra hoặc có khi nó tự đến. Trật tự đó thể hiện sức sáng tạo của mỗi cá nhân, không ai giống ai, không ai có thể áp đặt cho ai. Tự do trong thơ hay trong nghệ thuật bao hàm ý nghĩa toàn diện, sinh động và tâm linh: con người, do đó, có thể sống hoàn toàn "tự do" trong một ngục tù hãm giam thể xác. Hoàn cảnh trớ trêu, nghiệt ngã và hạnh phúc đó, Ðặng Ðình Hưng đã cố gắng tìm đến, đã cố gắng vươn tới trong thi phẩm Bến Lạ(1).
     Thi giới Ðặng Ðình Hưng nơi Bến Lạ quanh quẩn trong một quỹ đạo tròn. Tròn đây là vòng tròn tương sinh trong Xuân Thu Nhã Tập hay sự bay bổng của tư tưởng trong vùng nội tâm. Tròn đây cũng là vòng tử sinh của kiếp người. Và tròn đây cũng là vòng tròn tù túng, chật hẹp gói trọn Ðặng Ðình Hưng trong cái án Nhân Văn Giai Phẩm đằng đẵng suốt đời.
     Ðặng Ðình Hưng sinh ngày 9-3-1924 tại làng Thụy Dương, huyện Chương Mỹ, Hà Ðông và mất ngày 21-12-1990 tại Hà Nội. Thi phẩm Bến Lạ của Ðặng Ðình Hưng xuất bản tại Sàigòn cuốn năm 1991 là một công trình nghệ thuật khác lạ và xa lạ với chúng ta.
     Qua lời giới thiệu, Hoàng Hưng viết về hoàn cảnh sáng tác dẫn vào thi giới Ðặng Ðình Hưng với những lời cân nhắc, hàm súc, và khó có thể chính xác hơn trong nhận định về cảm quan và thế giới quan của Ðặng Ðình Hưng:
 "Bắt đâu làm thơ từ cuối những năm 1950, đến khi qua đời, nhà hoạt động nghệ thuật Ðặng Ðình Hưng để lại sáu tập thơ. Tất cả đều chưa từng công bố rộng rãi, song một vài đoạn trích được in trên các báo vào dịp ông qua đời khiến công chúng thơ sửng sốt vì một tính cách thơ, một thi pháp hết sức độc đáo.
 "Bến Lạ là bài thơ dài tác giả viết trên giường bệnh vào lúc ông bước đến tuổi 60. Từ những không gian chật chội cầm tù thân xác: " Tôi lại đi ... jữa cái nong hình záng lưng tôi ..."ông hành hương vào thế giới vô tận của nội tâm [...].
 " Có lúc mỉa mai vì thất vọng, có lúc cố lấy dáng một người hùng, có lúc như lẩn thẩn, ngây dại ... Tâm sự rối bòng bong ấy thật ra ai chả có. Chỉ có điều là ông thành thật nói hết. Thật với chính ông vì toàn bộ thơ ông là độc thoại trong nỗi cô đơn khó lòng chia sẻ.
 " Có lẽ cái cảm giác khó hiểu khi tiếp xúc lần đầu với thơ Ðặng Ðình Hưng cũng từ đó. Lại thêm lối nói nhiều chiều, dấp dính, lưng chừng, mâu thuẫn, xa xôi, hàm súc, vốn là lối nói thường ngày của ông." (Tựa, tr. 5&6)
     Những lời mở đầu của Hoàng Hưng, người bạn vong niên của tác giả đã dẫn đường cho chúng ta an nhiên bước vào Bến Lạ.
    Về hình thức, Bến Lạ có thể gọi là thơ tự do, hay thơ văn xuôi, hoặc thơ tự do làm theo thể văn xuôi. Lối cấu trúc gồm những câu đơn (mệnh đề độc lập - theo cấu trúc thơ), xen kẽ những câu phức tạp (gồm mệnh đề chính, mệnh đề phụ, chuyển tiếp bằng liên từ hay không có liên từ - theo cấu trúc văn xuôi) với một vài cách tân đúng hơn là lập dị trong cách thay đổi mẫu tự: d viết thành z, gi viết thành j ... Câu văn thường không chấm, phẩy, hoặc không sắp đặt theo thứ tự lô gic: đó là ngôn ngữ riêng của Ðặng Ðình Hưng, lạ lùng, lập dị, không giống ai.
     Dòng đầu trong Bến Lạ, Ðặng đình Hưng viết:
 Tôi lại đi ...
 jữa cái nong hình záng lưng tôi, một bảng đen trước mặt, một vòng phấn zưới chân, zính zính... những con 8 lộn zọc nhẵn thín nam châm gói trong hạt thóc jống của không biết
     Ðó là một thứ ngôn ngữ bệnh não, ngôn ngữ tâm thần, tự sự nội tâm, qua lớp vỏ bề ngoài bí hiểm, lửng lơ, đứt khúc, ẩn giấu bề trong đau thương tột độ.
     Ðộng tác đi, tôi đi hay anh đi, thông thường thể hiện hình thức tự do của con người: qua hành động đi, con người làm chủ động tác và điều khiển phương hướng theo ý mình.
 Nhưng " Tôi lại đi ... jữa cái nong hình záng lưng tôi, một bảng đen trước mặt, một vòng phấn zưới chân, zính zính... những con 8 lộn zọc nhẵn thín nam châm gói trong hạt thóc jống của không biết" thì khác. Vì động tác đi ở đây bị giới hạn trong quỹ đạo tròn, giống như cái nong - có lẽ là hình ảnh cái lưng gù của ai hay chính tác giả. Và mỗi bước chân lại được quây kín bởi một vòng phấn. Bao vây hai lần: vòng trong vòng ngoài. Hơn nữa tôi lại đi khác với tôi đi. Tôi lại đi, có nghĩa là tôi đã đi nhiều lần rồi và lần nào cũng chỉ có thế: chỉ đi được trong cái vòng tròn tròn như cái nong hoặc hơn nữa là cái vòng tròn vặn chéo thành con số 8 lộn dọc, vẫn kín mít mà thôi. Không những thế còn có bảng đen chặn trước mặt, vòng phấn vẽ dưới chân, bồi thêm những yếu tố "ngoại vật": dính dính, nam châm, gói trong ... loại "ngoại vật" thu hút, không nhả ai ra cả. Và sau cùng là ... không biết. Tất cả những thứ đó, nhào lên một hợp kim tù túng, một trạng thái đóng, một bi kịch của kẻ bị giam hãm chung thân không biết từ đâu và do một mệnh lệnh nào. Nhưng chính hình dáng con số 8 lộn dọc, lộn ngang
 lại dẫn đến vô cực, vô cùng trong quy ước toán học: Thi sĩ sử dụng sự giam hãm của mình để tìm đến vĩnh cửu qua động tác sáng tạo.
     Hiểu được tâm trạng ấy của tác giả, chúng ta dễ dàng đi hết đoạn đường còn lại. Thong thả bước vào thế giới Ðặng Ðình Hưng, chúng ta lật trang thơ thứ nhì:
 Tôi khắc biết mênh mông một cái bẹn Epicure ngập chìa truồng bốn fía cơn mưa tu lơ khơ xanh đỏ con sập sành -bọ ngựa bậu vào nhảy tung! cõng đi chơi trên lưng Nilông -Cáctông của Ðịnh Mệnh!
  Tôi hề biết
 / kể cả quả mít nứt
 Tôi đã tìm ở sau cái gương / cũng không có jì hết
 Tôi đã tiếp đau thương những nhỏ nhỏ thường thường
 Ðã húp ra đi từng bát những nhạt nhạt mềm mềm và rất ngon
     Có nhiều cách cảm nhận những dòng trên đây:
 - Cảm nhận như một bức hoạ lập thể gồm nhiều lớp cảnh (plan) dồn ép, chen vai thích cánh nhau. Mỗi plan là một hình ảnh hiện ra, khắc vào tâm trí trong đơn vị nhỏ nhất của thời gian: cái bẹn Epicure, cơn mưa tu lơ khơ (tu lơ khơ là loại bài lá 56 con, khi chơi, ai đánh hết bài trước là được), con sập sành, con bọ ngựa...
 - Cảm nhận triết lý: cái bẹn Epicure biểu hiện tư tưởng triết lý theo Epicure: cảm giác là  cơ sở của mọi nhận thức. Mục đích của con người là tìm hạnh phúc. Mà hạnh phúc là thú vui trong cảm giác. Thú vui ở đây không có nghĩa là hưởng lạc một cách dung tục mà là tìm đến sự rung động tuyệt vời trong cảm giác: tự giải thoát mình khỏi những thành kiến, những gò bó, áp bức của xã hội như tôn giáo, cường quyền, dư luận...
     Nhà thơ, trong vòng tù túng thân thế và thể xác đã tìm thấy hạnh phúc trong sự sáng suốt nhận diện cảm giác của mình và do đó tìm đến chính mình, đến bản thể của mình. Ðồng thời, mỗi lúc đang sống, tức là mỗi nghiệm sinh, con người có một quyết định tự do hành động mà không một lý tính nào có thể giải thích được, theo nhân sinh quan của Sartre. Nhân sinh quan này thoát thai từ tiền đề: bản chất của cá nhân không có tính cách định mệnh. Vì thế mà Ðặng Ðình Hưng nói đến Ðịnh Mệnh một cách hài hước và châm biếm: Cõng đi chơi trên lưng Nilông - Cáctông của Ðịnh Mệnh.
    Những dòng chữ khập khiễng, khật khờ, vô trật tự và có vẻ vô nghĩa trên đây phủ đầu cho một cách nhìn sâu sắc và có cơ sở triết học:
     Trên đường tìm về bản thể của mình và của sự vật, Ðặng Ðình Hưng đã tiếp cận, đã sờ mó được những đau thương, cụ thể hóa chúng, khiến chúng trở thànhnhững nhỏ nhỏ thường thường và còn biết thêm rằng: đau thương không để cách đêm phải hâm lên mới dùng đượcRa đi cũng vậy. Ra đi, một hành động nhờ sức xúc tác của đợi chờ, một trạng thái, đã biến chất thành thể lỏng khiến nhà thơ có thể húp được và thấy rất ngon. Vai trò của giác quan do đó là nguồn của mỗi nhận thức - và làm chủ cá thể.
     Trong sâu lắng của tâm linh và cảm giác, nhà thơ còn tiếp xúc được với những hiện tượng bất thường và độc đáo như những chiều zài zại zột, những chân trời chấm hết, những cột đèn - đã đi, những cái tôi đuổi theo níu lại hai mùa.
     Ở Ðặng Ðình Hưng còn hiện diện một vùng thèm muốn, khát khao những cái tầm thường nhỏ nhoi như: một thỏi phấn, tắm nước nóng, cọ bàn chân khô, lau cái khăn lông, những miếng ngon  đậy lồng bàn... và những khát vọng đắm say:căng lên cái yếm thắm nồng nàn ...
     Ở Ðặng Ðình Hưng còn có những nghĩ ngợi lẩn thẩn:
Ai mà jữ lại được làn khói thuốc lá cứ cuộn khoanh đố anh vẽ nổi màu xanh?
Trong đôi guốc, tôi chú ý nhất cái chật chật của đôi quai
Sao cứ đi đi, những cái va li cứ về Bến lạ!
     Ở Ðặng Ðình Hưng, mọi giam hãm trở thành vô nghĩa, bởi thi nhân đã thoát ra ngoài vòng kiềm tỏa của sức mạnh và áp bức và những khát vọng tầm thường, cơ bản của con người nếu không được thỏa mãn trong cõi đời thường thì vẫn sống trong cõi đời riêng, trong vô thức. Thế giới riêng của Ðặng Ðình Hưng, có những đau thương rỉ máu, khô kết thành vết sẹo, bồng to, thập thò như những con ếch, gồ ghề và đầy rẫy trên mọi nẻo đường:
Hễ mưa
Một cái túi to tôi ra đường vồ sẹo

     Cuối cùng Bến Lạ là gì? Bến Lạ không những lạ lùng trong bút pháp và thi pháp mà còn làm ta sửng sốt vì những hình tượng mới trong thơ; như sự tù hãm của hai chữ RA ÐI: cứ đến I tôi lại nhớ lộn về, như sự khám phá những chiều dài khôngkilômét, như sự bất lực của con người trước thời gian: tôi già rồi, tôi không làm gì được quyển lịch, như sự di chuyển của cố định: cột lumière cũng lễ mễ đi về Bến lạ, như sự câm nín chung thân của những hình thù im lặng xúc lên từng cùi dìa kí ức ...
     Bến Lạ, là một cứu cánh xa vời, là chân trời Ðặng Ðình Hưng muốn đạt đến, là một chuyến đi xa, một miền đất hứa, nhưng không thể hiện được.
     Bến Lạ, cũng lại rất gần, có thể ở ngay gầm giường, bởi vì trong mỗi chúng ta đều chở một con tàu. Cho nên, nếu không thực hiện được cuộc viễn du trong đời thường thì ai cấm được ta thể hiện trong vòng nội tâm, riêng lẻ.
     Bến Lạ là thơ, là Tự Do, do đó không ai rào được, không ai chấm phẩy được và cũng không có cách nào ngăn chặn được.
 Ðó là phong cách độc đáo của Ðặng Ðình Hưng, một phong cách lập dị, bí hiểm để nói những điều muốn nói, nghĩ những điều muốn nghĩ, và dĩ nhiên không phải ai cũng hiểu và ai cũng thích.
 
 
Ô Mai
     Ô Mai, theo lời giới thiệu của nhà xuất bản là tác phẩm cuối cùng của Ðặng Ðình Hưng, được viết ít lâu sau Bến Lạ (1991). Ô Mai do nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành.
     Cũng như Bến Lạ, Ô Mai là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, một thi pháp lạ lùng trong văn - thơ, mà chúng tôi xin mượn chữ của Ðặng Ðình Hưng, gọi là mộtthể nghiệm. Ðây không phải là văn mà cũng không phải là thơ. Ðây là sự phủ nhận văn chương (phủ nhận việc làm văn), phủ nhận văn vần. Nhưng sự phủ nhận này lại là một xác quyết: có thơ mặc dù không có vần; có văn, mặc dù không làm văn chương. Hệt như sống không cần vung vãi cử chỉ, ba hoa chích chòe, vẫn là sống. Kẻ phung phí động tác, xả láng ngôn từ, khoa lộng ngôn ngữ, đôi khi không sống. Mà chính cái kẻ im lìm, bị cùm mồm bịt mắt kia, tưởng như chết, vậy mà đang sống, sống sâu xa, mãnh liệt, sống đài các, an nhiên, sống cao hơn người. Ở Ðặng Ðình Hưng có cái kiêu sa của kẻ khinh người, có cái phong lưu quyền quý của kẻ hơn người: đó là tác phong tự tại. "Trên cái nền tự tại này, thỉnh thoảng ... lại chồm lên một cơn xáo động... "xáo động thể nghiệm". Thế là có thơ.
     Có lẽ khó tìm được chữ nào phù hợp hơn chữ "nhập" của Ðặng Ðình Hưng để diễn tả ấn tượng mà Ô Mai gieo vào tâm hồn người đọc. Gọi là tùy bút, là tự sự, là độc thoại nội tâm, là thể nghiệm hay là gì ... gì... đi chăng nữa, thì đó cũng là thơ, là sống, là tình yêu. Nó nhập vào ta, ám ta, bắt cóc ta, như một thứ mẹ mìn, nháy mắt đã chớp hồn đứa trẻ.
     Sự nhập ấy cũng có thể lĩnh hội như một sự nhập thiền. Tức là đi đến tận cùng của cảm xúc, đi đến tận cùng của nhận thức, đó là sự lãnh hội bằng trực giác. Nhưng trái với thiền, sự lãnh hội này không khô khan trai tịnh, mà là một sự lãnh hội nghệ thuật vô cùng kỳ vị, linh động và hào hứng, bởi nó dồn dập những hình ảnh, rạo rực những cảm xúc, xốn xang phá giới, nó là sản phẩm của nhà thơ.
     Thể cách "nhập" này, ngay trong khai từ, Ðặng Ðình Hưng cũng đã rõ ràng định vị nó:
"Những câu hỏi thường lệ: đi đấy à - giờ này chưa đi à - vừa có người tìm ông.
Ai nhỉ? Hỏi thôi, chứ người đó thì biết. Chỉ người đó, không ai, không ai tìm cả.
Vắng. Anh thường ngồi jờ dài, chẳng nghĩ. Chỉ cảm. Cảm bằng da. Da của mắt - bàn tay- chủ yếu là lưng. Tới mức toàn thân gắn hẳn vào không khí, đồ vật, tường, buồng. Rầm rì một cái chợ không lời dưới chân, anh rầm rì vỗ theo. Toàn thân, một con sông trôi, xô đẩy những cảm giác, những sực chợt. Một cơn mưa hình záng. Những hạt hột vỗ vỗ. Anh gọi đó là "nhập" - Thấy.
     Hình ảnh cuộc sống khuôn nhịp, cuộc sống thuộc lòng mà nhà thơ vừa mở ra cho chúng ta xem chính là cuộc sống được theo dõi, được chiếu cố, được chỉ điểm, giờ đi, giờ về của chính tác giả.
     Nhưng trên cuộc sống còm cõi, xanh xao, vo ve ruồi nhặng KGB ấy, Ðặng Ðình Hưng thể nghiệm một đời phong lưu tài tử khác: một cuộc nhập thiền. Thiền ở đây là sống thực. Là kệ thây ruồi muỗi. Là cứ sống dào dạt trong nội tâm, sống trực tiếp bằng xúc giác: "cảm bằng da tới lúc toàn thân gắn hẳn vào không khí, đồ vật, tường, buồng". Nhà thơ nuôi mình bằng những phút nhập thiền như thế và đã thăng hoa trong cuộc đời triền miên tù túng của mình.
     Về mặt hình thức, đoạn "văn" trên nếu viết xuống hàng thì có thơ ngay:
 ... rầm rì một cái chợ không lời dưới chân
 anh rầm rì vỗ theo
 toàn thân
      một con sông trôi
           xô đẩy những cảm jác, những sực chợt
 Một cơn mưa hình záng
 Những hạt hột vỗ vỗ
 Anh gọi đó là nhập - thấy
     Bởi cấu trúc thơ tiềm ẩn qua những mệnh đề độc lập, tự chủ, qua những hình ảnh sinh động vừa hiện thực vừa vô thường. Nếu "diễn nghĩa" thì có thể có một bối cảnh như thế này: "... tới lúc anh không còn nghe thấy tiếng động bên ngoài nữa, tất cả là một cái chợ không lời, rầm rì, gợn sóng, dưới chân anh. Lòng anh rầm rì vỗ theo những đợt sóng ngầm, xô đẩy những cảm giác, sực đến rồi đi, chợt lúc vô cùng vô tận như những cơn mưa hình dáng, sa xuống, vỗ xuống, vỗ xuống tâm hồn anh ... Anh chợt tỉnh ... Anh chợt thấy..."
     Ðấy mới chỉ là một cách "diễn nghĩa", còn nhiều cách khác. Sự thiếu vắng chủ từ và liên từ làm cho ngữ nghĩa trở nên lấp lửng, hình ảnh lửng lơ. Vắng vần nổi nên nhịp điệu ngầm âm thầm tác dụng. Tất cả có thể đảo ngược và chồng chéo lên nhau, tùy theo trí mường tượng của người đọc. Ngay câu đầu, chữ ai, đã có ý nghi vấn - xác định. Ai? Chứ còn ai nữa! Những hình ảnh liên tiếp kéo theo cứ lấp lửng, nhát gừng (Vắng - chẳng nghĩ - chỉ cảm - cảm bằng da ...) chứng tỏ nhà thơ sử dụng khoảng trống như một phát biểu: nói những điều không nói. Cho nên, những chữ, những trạng thái, có vẻ đơn phương như "vắng", chẳng nghĩ, chỉ cảm, ... thực ra chỉ hiện diện để khỏa lấp lớp địa tầng đang rạn nứt dưới da, cơn dông tố đang bão bùng trong huyết quản.
     Ðừng lầm rằng đây là những dòng văn đơn giản, viết dễ dàng. Sự dễ dàng này chính là một cuộc thử nghiệm không đơn giản, tựa như những đường cong arabesques của Matisse trong những bức La danse. Ðó là sự đơn giản tìm tòi ròng rã hàng năm, hàng nhiều năm, bằng cách vẽ đi, vẽ lại trên nhiều bản phác thảo. Ðó là sự vụng về toan tính. Ðó là những sơ hở cố tình chỗ này để lấp đầy chỗ khác: một tổng thể đơn giản nhưng cực kỳ phức âm. Ðó chính là sự đơn giản trong văn chương mà Trang Tử khơi nguồn như mẫu mực nghệ thuật.
     Ðọc Ô Mai của Ðặng Ðình Hưng, chúng ta có cảm tưởng trở thành trẻ con, chưa biết gì về những cái gọi là "sự đời", kể cả những tầm thường nhất như "cái thèm" chẳng hạn. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ, con người có bao lần thèm trong đời? Nhưng hiểu cái thèm ấy đến độ bóc trần tới xương tủy, giải phẫu nó, phân chất nó, thì chỉ ngòi bút của Ðặng Ðình Hưng mới đi đến kiệt cùng.
     Về nhân dáng cái thèm, nhà thơ dùng ẩn dụ "ô mai" để nhận diện, để chụp ảnh. Khó có chân dung nào thay thế và đồ đúc chữ thèm khéo và giống bằng Ô Mai. "Ô Mai em", "em Ô Mai anh", những hình ảnh vô cùng đẹp, vô cùng kín đáo, vô cùng quyến rũ, đắm say và nồng nàn. Ô Mai, ngọt bùi, chua, mặn, là "sức nặng ghê gớm của tình yêu, vị cuối của tình đời". Và cũng chính Ô Mai đa mang sự sống, Ô Mai là cái dạ dày, là trái tim, là cơ nguyên, cơ năng, cơ quan tác thành và dinh dưỡng con người:
 "Nếm cả một cái chợ không fải chuyện dễ. Fải có một động cơ cực mạnh: Thèm. Có thèm mới ăn được. Kiểu nhà thơ, người ta ăn tái
 ăn tái bình minh
 ăn tái buổi chiều
 ăn (ràu rạu) cả mặt trời
...
Anh cảm thấy bất lực. Không phải thiếu thèm. Ngược lại, thèm cứ chồm. Mênh mông! Không điều khiển được. Chợt thu gọn lại -một thèm bé- bé da diết: một mùi hương tóc.
Tóc cả thảy bẩy loại: ngắn - dài vai - tóc óng chanh bồ kết - tóc mồ hôi nức nở (vuốt cho em) - tóc đêm nhòe dưới vòm đèn
 Hương trời tóc -thở tóc- jật mình! hương người.
....
Có người bảo đây là cơn thể ngiệm số 7. Thực ra, anh không đặt tên, đánh số [...]. Không đánh số được cái thèm.
 Kể từ buổi một dúm nguyên âm ă ấ ra đi, chưa bao jờ anh thấy fức tạp hơn cái cơn thể ngiệm này - cơn thèm. Thèm tổng hợp, đóng cục, đem cắt ra bằng các fích tự vị, không được [...]. Mà thú vị, thèm đi, thèm lại. Một cực thèm có thể tới ba lần. Có khi hàng ngày. Ðiểm cao của thèm có khi chụm lại tất cả các thứ thèm: ăn, nghe, nhìn, ngắm.
....
 Anh lại phải ra chợ.
 Không như trước ngồi ngắm suông ở một quán, mà sà xuống cụ thể như mọi người: ăn - gắp - xin tí tương dấm. Ăn trực tiếp xách lên tay một con cá chép, mở cái mang ra xem có hồng tươi. Lên tay một tảng thịt. Nghe trọng lượng. Ði duyệt một lượt các mẹt gan - tim - bù dục - chân jò - thủ - lòng tràng. [...] Nhưng đẹp nhất vẫn là gạo. Gạo có khuôn mặt hiền. Ðố thấy một mảy may ác ý. [...]. Anh đi duyệt một lượt - có khi hai lượt - các loại: tẻ - nếp- trắng - đỏ (may ra còn đỏ lốc). Nói riêng về nếp, với cái mùa chớm sương, chỉ nom hình một hạt nếp là đã thấy sữa và hương trời. [...]
 Nhìn anh loay hoay [...]. Từ một quả bầu - dài mặt - đến con kiến - tha fương. Từ một bóng gà xa đi vào bụi thẳm tới những vệt bước chân đi quên bên một sườn đồi. Từ một cựa mình gối bé đến bóng đôi đi trên bãi biển xa vời...

     Trái với quy ước tạo hình thông thường trong thơ cổ điển: bằng những phép tu từ như ẩn dụ, hoán dụ, bằng phép tỉnh lược ngôn từ để làm nhòa ý, phiếm định câu thơ, nhà khoa học Ðặng Ðình Hưng ngược lại, tạo những hình ảnh rõ, sắc, nét, in sâu vào tâm cảm người đọc, rồi bỏ lửng, chém treo ngành, tạo khoảng trống. Chính những khoảng trống ấy, nhân chéo hình tượng, gây ấn tượng mới. Sự phức âm trong thơ Ðặng Ðình Hưng được hình thành bằng cách nhân chéo những lời lấp lửng với khoảng trống. Nói cách khác, bằng sự giao thoa giữa trống và đầy, giữa không và có.
     Từ một động tác hoặc một trạng thái tầm thường và thường xuyên của con người (như thèm), nhà thơ đào sâu, mở rộng và nâng cao mãi ra bằng những hình ảnh, bằng âm thanh, bằng nhạc tính, bằng màu sắc, bằng cụ thể hóa, bằng trừu tượng hóa, ... để đi tới những mối tương quan với các động tác và các trạng thái khác. Rồi từ những động tác và các trạng thái phụ trội ấy, lại nẩy sinh những hình ảnh khác, trong những môi trường khác: Từ thèm sang tóc, từ tóc sang hương, từ hương sang gạo, từ gạo sang ... bước chân đi quên bên sườn đồi... v.v.
     Do đó mà từ cái "thèm" đơn mỏng và nhạt nhẽo của một ký hiệu ngôn ngữ, nhà thơ đã cụ thể hóa (thèm đóng cục) và trừu tượng hóa (thèm tổng hợp), nhân cách hóa (ăn trực tiếp, nghe trọng lượng, ...) đã sống với nó triền miên, biết rõ tâm khảm và bệnh lý của nó, từ đó nhà thơ xây dựng nên một "nhân vật" với những vật vã thể xác và tâm linh, với những toan tính dự trù, lo âu, phiền muộn. Thèm không còn là một ký hiệu ngôn ngữ, một trạng thái sinh lý nữa, thèm chi phối não trạng và tâm linh con người, thèm trở thành bạn đồng hành trong đời sống, thèm chính là sống, là sự thèm sống, thèm yêu, thèm giao lưu, thèm ăn, thèm ở... Thèm là sức sống của con người đẩy đến tận cùng, dứt điểm.
     Nhà thơ xử lý như vậy không riêng gì với cái thèm mà với những ký hiệu khác của ngôn ngữ. Nhìn ảnh, nhà thơ hỏi tội thời gian:
"Ảnh. Thuốc long ra. Những khuôn mặt chập lại. Fải nhẹ tay bóc ra. Lâu chưa? Không mở ra mà nhìn [...]. Thời jan ăn cả đá và sắt ... Chả cứ người - nhan sắc và công danh".
     Dưới mắt nhà thơ, cô đơn, trần trụi và gọn gàng:
"Cô đơn, tôi về tôi - ông về ông. Tiện!"
     Ðể vẽ một con phố, ông cũng chỉ cần dăm ba nét phác:
"Phố: Những dòng đi, lúc đậm, lúc nhạt, vội - vướng - tránh xe nhau."
mà chỉ những người đã sống với phố, đã ở trong phố, đã thuộc lòng tâm hồn phố, mới vẽ được như thế.
     Và đây là cuộc đối thoại giữa hai cô đơn:
- jó! jó! em phong phanh không lạnh?
- lạnh sao! ngồi bên lửa anh.
- lửa vòm tóc em - lửa mùa hương một - hương chanh- hương bàn tay hương sớm - ôi bàn tay em trắng
- áo lấm anh ơi, khỏa vào chậu trắng - vè anh
.......
tặng em cốc lửa ban đầu - ước mơ tặng người mơ lên môi cùng uống lửa - uống mùa hương vị ấy ngây ngây ngày chớm lửa - lửa bồi hồi biết lửa - lửa bùng quên - bùng bốc cháy - xoay vần"
     Chúng ta tìm thấy đốm lửa Bachelard nơi đây: Tình yêu là giả thuyết khoa học đầu tiên về sự hình thành lửa: Lửa là sản phẩm của sự cọ sát giữa hai thân. Trước khi là con của Thượng Ðế, lửa là bào thai của tình yêu, phát xuất tự con người. Tình yêu là đốm lửa truyền đi và đốm lửa chính là tình yêu tình cờ bắt gặp. Với Ðặng Ðình Hưng trong cuộc sống cách ly tuyệt đối, tình yêu vừa là biến thể của cô đơn, vừa là sự giao lưu giữa con người và cái bóng của chính mình. Tình yêu ở đây thể hiện như một ngộ giác: Người yêu là sản phẩm của chính mình, của tác dụng xúc giác giữa mình với không khí, đồ vật, tường, buồng, ... và cuộc thám hiểm ấy đưa nhà thơ tới cơn thể nghiệm cuối  cùng: "thôi thèm" mà Ðặng Ðình Hưng gọi là "đồng xu cuối", nói chữ là "thế chân tường", tức là đã đạt được trình độ siêu hầm:
"Thôi nghe - nhìn - nếm - ngửi
....
Chui lên khỏi hầm, ngồi đối diện với người đời sống động, mà anh vẫn thấy cách li như thể ngồi trong một cái lồng trong suốt bằng không khí, việc người, người làm, việc mình, mình làm.  [...]Người đời thấy buồn cười - không chấp - người ta quen dần đi, rồi quên."
     Trạng thái "thôi thèm"  dấn nhà thơ vào vùng trời khác: vùng trời vô cảm giác, đoạn tuyệt với giao lưu, vùng trời cô đơn tuyệt đối mà cũng đau xót vô vàn:
  mưa cả bốn mùa
  lại bốn mùa đi
  một hầm
  một bóng
     Cả một thế hệ Nhân văn, những Văn Cao, những Ðặng Ðình Hưng, những Hoàng Cầm, Lê Ðạt, Trần Dần, Phùng Quán ... đã bị sa thải, bỏ quên đi như thế: một hầm, một bóng, với những cái "vali đựng các cơn thể ngiệm buộc từng chồng, fân loại đánh số và những thể ngiệm dở dang (non) quàn lại ... Cái đống hiện thân một mảng đời dài. Một cuộc tổng tảo mộ ... Một thể ngiệm xong, vào vali. Tiếp một thể ngiệm, lại vào vali. Thế thì hết đời. Jời đầy...
  tàn xuân...
  tàn thu...
  lại tàn thu...
     Từ kiếp jời đầy bắt nguồn sự phủ nhậnphủ nhận văn chương, phủ nhận khuôn sáo, gò ép vần điệu, phủ nhận mẫu tự cổ điển, phủ nhận khoa ngôn lộng ngữ, và cũng từ đây nẩy sinh một nghệ thuật mới: thi pháp Ðặng Ðình Hưng. Trong Bến Lạ và Ô Mai.
     Nếu Bến Lạ mang ám ảnh tù tội của chữ đi - cứ đến I tôi nhớ lộn về- , thì Ô Mai dang tay mở rộng, vẽ nên hình hài, não trạng của chữ thèm kèm theo định mệnh jan truân, jời đầy của những con người trên trái đất, vì ngòi bút, vì nghệ thuật, vì nhân cách của mình mà phải ... xuống hầm, siêu hầm ... trong suốt cuộc đời.
     Hôm nay nhà thơ đã đi xa, mang theo thể nghiệm của mình trong vali, về bến lạ. Ngày tiễn đưa:
"Hôm ấy, trời se se - mùa chuyển, anh thấy người gai gai khó nói - như man mác - như mây trôi - lại như trống trải cô li - như tiếng gọi mùa:
Xuân hạ thu đông
đi jữa mùa em jó lộng
   thu cùng.
........
     Vĩnh biệt nhà thơ, nhà thơ đi vào mùa, vào mưa, vào nắng, vào không gian, vào thời gian, vào vũ trụ, vào cỏ, cây, mây, gió, vào vạn vật, vào tình yêu... và như thế, người đã rời xa cõi vo ve trần thế để bước vào vĩnh cửu.
TK
Phần nhận xét hiển thị trên trang