Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 7 tháng 11, 2018

Lữ Thị Mai, Trên Dặm Trường Chữ, Nghĩa Nong Chật Ám Ảnh Và, Nỗi Niềm Trong Thơ / Văn.



lu mai 2018
nhà văn Lữ Thị Mai - 2018



1.
Khởi từ nhắc nhở của HT, những ngày qua, tôi tìm đọc lại Lữ Thị Mai. Trở lại với dặm trường chữ, nghĩa nong chật thơ mộng, bất trắc đời thường trong thơ; song song với những ám ảnh xã hội và, bi kịch truyền kiếp (trong truyện) của Lữ, giúp soi tỏ trong tôi hai cảm nhận, gần đây, vốn chập chờn chưa rõ nét. (*)
- Đó là nhiều cây bút thuộc thế hệ 8x và 9x, đã triệt để khai thác liên tưởng hay “cách nói khác” cho thơ / văn của họ. (Nhưng)
- Có dễ vì quá vụ vào cách nói khác, với hy vọng “đốt giai đoạn”, sớm khẳng định sự hiện diện của mình giữa quảng trường văn chương bát ngát... Nên một số người đã rơi vào tình trạng đem vào thơ / văn của họ những liên tưởng vô nghĩa, ngớ ngẩn! Tựa người mù làm xiếc trên những sợi giây hoang tưởng vô hình, giăng ngoài khí quyển.
Thí dụ #1:
Mưa mang theo những bước chân khủng long “hoang oải” chạy trên những nẻo đường ký ức trắng – nắng “hanh hao” trên những ngón tay bỏ quên ngoài phố ốm...”
Thí dụ # 2:
Hoặc để chứng tỏ mình bắt kịp “mặt bằng” thơ / văn thế giới hôm nay với cấu trúc thơ hoặc văn xuôi như:
Buổi sáng hắn trút hết lượng rượu sót lại trong chiếc giầy chiêm bao – Ném vào không gian – để nghe tiếng thủy tinh vỡ trên đỉnh ngọn Himalaya – Hắn nhớ giọt lệ Tibet – Và chiếc váy như tranh của người con gái Nam Phi đêm dạ hội...”
Vân vân...
Rất rõ ràng, rất quyết liệt, không độc giả nào có thể phủ nhận nỗ lực liên tưởng hay cách nói khác của hai câu cho thơ / văn đó, (nếu ai đó, viết như thế!).
Nhưng cũng rất rõ ràng, cũng rất quyết liệt là: Những liên tưởng kia, tự thân không có một tương tích nào từ hình ảnh tới hình ảnh...
Ở thí dụ # 1: So sánh bước chân mưa bão, sấm chớp với “những bước chân khủng long” tuy có mới, lạ thật đấy! Nhưng, chẳng những nó vô cảm, khập khiễng mà, thực tế, chưa người đọc nào được thấy dù chỉ một con khủng long sống còn trên mặt đất!
Ở thí dụ # 2: Những liên tưởng tiếp nhau rơi vào hoang tưởng vì, tất cả mọi hình ảnh nhẩy cóc ấy, không hề có một chút liên hệ thịt, da nào! Từ lượng rượu còn sót lại đêm qua, tới chiếc giầy, tiếng vỡ của những mảnh thủy tinh trên ngọn Hi Mã Lạp Sơn, rồi tới nước mắt người (con gái?) Tây Tạng, và, chiếc váy như tranh của người con gái Nam Phi trong đêm dạ hội... Tuy chúng mới, lạ thật đấy! Nhưng “bản chất”, chúng vẫn là những tiếng “nổ đùng đùng” từ các bản tin thời sự, hay từ … bản đồ thế giới!...
Chưa kể, những cảm thức đó, hoàn toàn xa lạ với cảm thức Việt. Tôi muốn nói, nó không phảng phất một chút “căn tính” hay “bản sắc” Việt Nam nào của ngôn ngữ Việt.
Tôi cho rằng, một người cầm bút (già hay trẻ) viết bằng ngôn ngữ nào, dù theo trường phái văn chương nào, cũng cần có được cái “nền”, cái căn tính của ngôn ngữ đó - - Trước khi nói tới việc bài thơ này, truyện ngắn nọ đã chạm tới... “mặt bằng” văn chương thế giới!!!
Tôi không tin một nhà phê bình văn học ngoại quốc nào khùng, điên tới mức đi tìm những mảnh vụn rơi vãi, mờ nhạt “copy” từ thơ văn của Rumi, Anna Bradstreet, Brian P. Cleary, Larry Lewis, hoặc Cathy Linh Che, Jamaal May, Jane Springer... Hay xa hơn là thơ, văn của Alice Walker, Tony Morrison, Pablo Neruda, E.E. Cummings...trong văn chương của mấy ông / bà Việt Nam, để mà công nhận hay ca tụng!!! Ngoại trừ những người cùng nhóm "selfie" với nhau!!!
.
“Liên tưởng”, tự thân hai chữ này đã xác định tính liên thông giữa các hình ảnh. Nói cách khác, căn bản của mọi liên tưởng hay so sánh phải có một sợi dây liên kết – phải có một đường “link” dẫn tới một so sánh tương cận khả chấp...
Có thể vì không hiểu, hay không nắm được yếu tính của so sánh, liên tưởng, nên một số người trẻ cầm bút (kể cả người già, nhất là những người làm thơ) đã bị “tầu hỏa nhập ma”, khi khăng khăng với quyết tâm tìm kiếm những liên tưởng ... “mới / lạ”, chưa có trong chữ, nghĩa của những người đi trước hoặc cùng thời.. Và, kết quả đáng buồn là, sáng tác của họ bị thực tế văn chương từ chối! Ngoảnh mặt!
Tình trạng này đưa tới nhiều than van, trách móc với những câu hỏi đau đáu ngộ nhận nhức nhối, như:
- “Thơ tôi mới như vậy tại sao không ai đón nhận?”
Hoặc:
- “Tôi thấy thơ / văn của A, B, C tầm thường, cũ rích, không chút hơi hám ‘hiện đại’, không bắt kịp ‘trào lưu thơ / văn thế giới’ mà sao lại được người đọc đón nhận một cách ‘vô tư’, khó hiểu như vậy?”
Ứng dụng vài ghi nhận nhỏ của tôi ở trên vào cõi-giới thi ca Lữ Thị Mai, tôi thấy rõ ràng, dứt khoát, Lữ không “đe dọa” người đọc bằng “thủ pháp” của những “người mù làm xiếc trên những sợi dây hoang tưởng vô hình, giăng ngoài khí quyển”.
Thí dụ với bài thơ “Mê Khúc”, ngay khổ thơ mở đầu rất ngắn, Lữ Thị Mai đã cho thấy khả năng làm mới, cách tân thi ca của mình khi viết: 
chiều làm mưa thanh tân
nhảy nhót trên đường xa xỉ, trên mái tôn chật hẹp tóc buồn
lý trí bảo bước chân cứ đi
đứng dừng lại nơi chiếc cầu gẫy
tiếng cười lẫn tiếng bán buôn
mê mải lằn về đất
 
Thay vì nói, buổi chiều cho Lữ một trận mưa mới, đẹp như tình yêu mới mẻ, tinh khiết thì, Lữ dùng hai chữ “thanh tân”.
Cũng thế, thay vì mô tả cảnh phố thị chộn rộn giữa tiếng cười (hân hoan?) và rôm rả cảnh buôn bán (thiếu khả tín) thì, Lữ viết, “tiếng cười lẫn tiếng bán buôn”. Và tất cả cùng hăm hở “mê mải lằn về đất”.
Cũng thế, ở khổ thơ thứ hai, cũng ngắn thôi, Lữ viết: 
chang chang ngày
ngột ngạt tình nhân, bụi đường, khói thuốc..(
1) 
Với tôi, chính ba chữ “chang chang ngày” đã dẫn một đường “link” không thể thuyết phục hơn tới hai chữ “ngột ngạt” rồi; xác-định-từ “tình nhân, bụi đường, khói thuốc”. 
Nếu tôi thay mấy chữ “chang chang” của Lữ bằng “ âm âm”, “âm u” hoặc “dễ sợ” hơn... “hoang oải ngày” (một từ đã và đang được chuộng nhất hiện nay ở VN) thì, tôi nghĩ, không biết người đọc phải có mức độ thông minh nào, mới có thể “link” qua trạng thái “ngột ngạt, oi bức” được?!?
Vẫn là “Mê khúc”, tôi thích lắm câu thơ có liên tưởng trực gần và rất thơ. Đó là câu “nghe mộng mị thở dài trên gối cũ” (Có phải chúng ta chỉ nằm mộng khi ngủ? Và, có phải khi ngủ, chúng ta thường có chiếc gối dưới đầu? - - dù cũ hay mới?
Trước khi ra khỏi “Mê khúc” Lữ viết: 
em chỉ là hạt mần cô đơn
khóc trước sự thành tâm của cỏ
 
Liên tưởng từ “hạt cô đơn” qua “cỏ” là liên tưởng gần, đơn giản mà không thể “thành tâm” hơn! Nếu ta hiểu cỏ không có một giá trị nhân sinh thực dụng nào – Vì thế mà nó đã nâng cấp “cô đơn” trong cảm thức của tác giả lên mức tội nghiệp. 
Tôi cũng gặp được những so sánh, liên tưởng thơ mộng mà vẫn chấp chới bất trắc (một thuộc tính đời thường của chúng ta, hiện tại). Như ở bài “Bạch yến nở trong đêm”, Lữ Thị Mai viết: 
mùi hương đang nhắc chúng ta thêm một đêm đã cạn
Tiếng thở dài cũng đầy ứ căn phòng
Làm sao ta gặp được nhau
Hai giấc mơ là hai xứ sở (2)
 
Hoặc: 
bên trong búp sen là mùa hạ chớm buồn
bung nở hoang vu không lý lẽ
 
lúc này em đang hình dung
ngàn mắt nâu lộ ra từ thớ vỏng
ước nhìn em chằm chặp
còn anh chưa khi nào nhìn em lâu..
. (3) 
Tôi không thấy cần thiết phải nói thêm liên hệ thịt / da giữa sen và mùa hè. Tôi cũng không thấy cần thiết phải chỉ ra rằng, hầu hết những cánh lá sen ngoài cùng, thường có màu nâu đặc trưng của nó... Dù cho “còn anh chưa khi nào nhìn em lâu”.
Hay buồn bã hơn: 
đúng là một phần không thể thiếu
Trên những khoảng muốt mềm
Em muốn anh đeo lên chiếc nhẫn đính hôn
 
Và dự định (đó) rơi vào ngày im gió...
(Lữ Thị Mai, “Ngón”) (4) 

2. 
“Khởi từ nhắc nhở của HT, những ngày qua, tôi tìm đọc lại Lữ Thị Mai. Trở lại với dặm trường chữ, nghĩa nong chật thơ mộng, bất trắc đời thường trong thơ; song song với những ám ảnh xã hội và, bí ẩn, bi kịch truyền kiếp (trong truyện) của Lữ...” - - Khiến tôi nhớ tới nhân vật Lão Ngoan Đồng, trong một bộ truyện chưởng của Kim Dung - - Khi nhân vật này bị Đông Tà / Hoàng Dược Sư giam lỏng trên đảo Đào Hoa. Buồn quá, chẳng biết làm gì, Lão Ngoan Đồng bèn nghĩ tới chuyện phân thân cách nào đó, để hai tay đánh ra hai võ công khác nhau. Ngón võ đặc biệt ấy, được Kim Dung đặt tên là “Song thủ hổ bác”. 
Tôi muốn mượn ý niệm “Song thủ hổ bác” của Kim Dung để nói: Lữ Thị Mai, cũng có khả năng đặc biệt nọ (theo tôi); khi Lữ hiển lộng tài hoa của mình trong văn xuôi. 
Bước vào văn xuôi, vẫn với cảm nhận của riêng tôi, Lữ Thị Mai, là một người khác. Cõi-giới truyện của Lữ, dù là đời thường, cũng chất đầy ưu uất, tranh chấp giữa bản năng và, đạo đức. Điển hình như truyện “Đầu làng có một cây vông...” Mô tả bi kịch một gia đình nông thôn - vốn bị vây khốn bởi đạo lý nhọn hoắt của những hàng gai nhọn mọc đầy thân cây vông! Vậy mà cả mẹ, lẫn người chị lớn của nhân vật xưng “tôi” lại cả gan bỏ chồng, bỏ cha theo trai... Để lại một người chồng, người cha bị dư luận đặt tên là “Lập Ngố”: Một người đàn ông của ruộng đồng, mộc mạc, lành như đất!!! 
Về người cha “Lập ngố” của nhân vật xưng “tôi”, Lữ Thị Mai tả:
“...Còn mồ ma nội tôi, bà nhai trầu chậm rãi rồi nhìn xoáy vào từng nét trên mặt chị tôi chép miệng lắc lắc mái đầu bạc trắng: ‘Thằng Lập nhà này vô phúc.’ Lớn lên chút nữa, tôi mới biết chị không hề mang dòng máu của cha. Mấy gã hàng xóm đặt cho cha tôi cái biệt danh là ‘Lập ngố’, người ta bảo cha tôi ngố tới mức có hai đứa con gái không biết đứa nào là con mình. Quanh năm cha chỉ quần quật lo làm ăn, cha theo chuyến bè ông Tính đi buôn gỗ, mùa màng lại quay về đỡ đần vợ con. Mấy chuyện hàng xóm láng giềng đồn đại không phải cha không biết. Cha biết nhưng im lặng. Chiều chiều, ông lại nhâm nhi nỗi buồn với cút rượu suông, dăm điếu thuốc lào. Ông là người khó hiểu. Ngày mẹ tôi bỏ nhà đi theo người đàn ông hay đi cân gạo làng bên, cha cũng chỉ thở dài. Hai chị em tôi chạy ra đầu làng ngóng mẹ. Cha đứng sau lưng chị em tôi giọng nói chùng xuống nặng như chì: ‘Con Thu dẫn em về, con mẹ mày nó không về nữa đâu.’
“Chị em tôi khóc đỏ mắt.
“Ngay tối hôm ấy, cha lục dưới đáy chiếc hòm gỗ cũ một cái áo. Đã có lần mẹ tôi mang cái áo ấy ra hong nắng, mẹ kể đó là chiếc áo cưới mà bà nội dẫn mẹ đi bộ mất nửa ngày lên tận chợ huyện đo vải. Chiếc áo của mẹ màu đỏ hoa vông. Tôi chưa nhìn thấy mẹ mặc lần nào nhưng các cô tôi vẫn kể lại ngày cưới mẹ mặc chiếc áo ấy tôn lên nước da trắng bóc, trông mẹ lộng lẫy lắm.. 
“Tôi đứng nép bên vách nhìn cha cầm chiếc áo trên tay, ông miết những ngón tay lên mặt vải, lên từng đường kim khâu. Rồi ông ấp chiếc áo lên lồng ngực trần đen bóng của mình mà khóc. Cha tôi khóc vụng về. Ông đưa những ngón tay thô kệch lên chùi nước mắt. 
“Ông tẩm dầu đốt cái áo cháy khét lẹt một góc sân. Tôi trở vào căn buồng ngột ngạt tối om, nhìn qua cửa sổ. Dưới ánh trăng sáng lạnh, bóng cha đổ dài trên mặt sân đất...” 
Với đoạn văn trích dẫn trên, người đọc cảm nhận được ngay khả năng nắm bắt tâm lý nhân vật, sâu sắc của Lữ. Đó là thứ tâm lý phức tạp, mâu thuẫn giữa thương yêu và nhục nhã tận cùng của một người đàn ông chất phác bị tình phụ. Ở cả hai mặt của kênh mạch tâm lý này, Lữ còn cho thấy sự vụng về, cá tính của nhân vật nữa. 
Điệp khúc “...Cha tôi khóc vụng về. Ông đưa những ngón tay thô kệch lên chùi nước mắt” được Lữ Thị Mai lập lại nhiều lần trong “Đầu làng có một cây vông...” như những mũi dao khoét sâu thêm vết thương mâu thuẫn hai mặt “thương yêu và nhục nhã”: 
“... ‘Con kia, mày điếc hả?’. Ông quờ tay với cái phích nước ở góc nhà ném choang, nghe những âm thanh đổ vỡ, tôi biết ông đã ném tất cả những gì ông vớ được. Ông xông vào bóp mạnh hai bờ vai tôi lắc lắc. Bàn tay hộ pháp của cha giật mái tóc tôi quấn mấy vòng quanh cánh tay. Miệng ông gào lên: ‘Quân vong tình, quân phản bội...’. Trong cơn say, ông gọi tên mẹ tôi bằng cái giọng chát bứ hẫng hụt. Tôi chỉ biết lặng im. Chỉ biết đau đớn hứng trọn những cái tát của ông. Ông cầm tóc tôi giật mạnh về đằng sau để mặt tôi ngửa lên, rồi bàn tay ông lại vơ nắm hoa vông nhét vào miệng tôi. Tôi không thấy đau. Tôi không gào khóc, chỉ thấy đắng ngắt trong miệng. Ừ! Hoa vông có vị đắng, lần đầu tiên trong đời tôi nhận ra hoa vông đắng thật. Vị đắng như chảy tràn xuống tận cuống họng tôi. Hồi lâu như đã mệt, ông loạng choạng đổ người vào xó nhà bỏ mặc tôi ngồi lặng trong bóng tối. Những cánh hoa vông đã nát, vị đắng tan loãng trên môi. Về sau chính tôi cũng không hiểu sao buổi tối hôm ấy mình không khóc...” (5) 
Trước đó, khi tả về người chị của nhân vật xưng “tôi”, bỏ nhà theo trai, Lữ viết:
“...Cha tôi ngồi ngoài hiên nhìn trân trân vào khoảng không trước mắt, chỉ có nắng, có gió và những sợi khói thuốc lào vất vưởng. Ông không nói gì cả. Chị Thu tôi đã đi rồi. Chị đi tìm người đàn ông ấy. Tôi nhớ lắm buổi chiều mùa hạ nhá nhem cha tôi cầm cái đòn gánh dứ dứ vào mặt chị mà đay nghiến: ‘Quân lăng loàn, mày lăng loàn hệt con mẹ mày. Cút!’. Bên kia hàng rào cúc tần có những cặp mắt xoi mói, những tiếng xì xào bàn tán. Rồi chị đi. Chị không mang theo gì ngoài mấy bộ quần áo cũ gói trong chiếc túi vải nhàu ố. Tôi đưa chị đến đầu làng nơi có cây vông đang trổ hoa đỏ như lửa.
“- Chị định đi đâu?
“- Không biết...
“Tôi nhìn vào mắt chị, cặp mắt ướt át có những sợi lông mi dài và cong, nội tôi vẫn bảo: đó là cặp mắt đa tình và cả tin. Chị tôi đẹp, khuôn mặt chị đầy đặn, đôi môi hồng khi nào cũng như ấp iu điều gì lý thú lắm, mái tóc chị buông qua vạt áo hững hờ. Chị giống mẹ tôi, nhất là đôi mắt. Còn nhớ, ngày nhỏ hai chị em tôi dẫn nhau đi chơi người trong làng thường nhìn chị thở dài. Kẻ hiền lành bảo: ‘hồng nhan bạc phận’, cũng có người nguýt dài cạnh khoé: ‘Mẹ nào con nấy, đĩ một vành’.
“Buổi chiều ấy, đôi mắt chị như có lửa, ôi chao là buồn. Lửa như cháy rần rật trong mắt chị. Như ngày còn bé thơ, chị dang rộng vòng tay choàng qua cổ tôi, hôn lên mái tóc vàng hoe khét nắng của tôi. Chị khóc. Từ nhỏ, hiếm khi tôi thấy chị khóc bao giờ. Gió từ cánh đồng thổi hun hút vây lấy tán vông bứt rụng những cánh hoa đỏ thắm. Chúng chao đảo rồi đáp xuống mặt đất và cuộn mình trong lớp bụi đường.
“- Bao giờ chị về?
“- Không biết...
“Tôi nhìn xuống bụng chị. Cái bụng đã lộ rõ sau lớp áo màu xanh cánh trả. Cách đó hai hôm, nếu cha tôi không kéo tấm vải chị quấn quanh bụng xé toạc thì chắc tôi sẽ không thể biết cái thai nằm trong bụng chị đã được hơn bốn tháng. Tôi không mấy để tâm dù đôi lần bắt gặp chị đi từ bờ ao vào với dăm quả khế trên tay hay có những hôm đang may vá chị chạy nhoài ra giếng nôn thốc, nôn tháo. Chị đi, đôi chân chị nặng nề kéo lê trên mặt đường đất, gót chân nhuốm phèn vàng cạch, rạn nứt của chị hất lên những cánh hoa vông. Buổi chiều ấy sao mà nhiều gió...”
“Đầu làng có một cây vông...” của Lữ Thị Mai, cũng chỉ là khung cảnh một vùng quê. Chúng không hề có cho chúng một “nhan sắc” “ấn tượng”, “hoành tráng” nào!!! Nhưng qua ngòi bút của Lữ với những so sánh, liên-tưởng-muối-mặn-cảm-xúc... thì chúng đã thực sự mới, lạ! Thực sự cách tân văn chương, đáng trân trọng rồi!
.
Tôi không biết trong đời thường, Lữ Thị Mai có bị “giam lỏng” (như Lão Ngoan Đồng) bởi những bốn bức tường xã hội, thời thế bức bối, ngột ngạt hay không? Nhưng, hiển nhiên, với tôi, Lữ đã hai tay, đánh ra hai võ công chẳng những khác nhau mà, còn biến hóa nữa.
Nếu ““Đầu làng có một cây vông...” là một truyện thuộc loại hiện thực xã hội, thì ở “Vết son Thẩm Quyến” lại cho thấy những bi kịch truyền kiếp thẳm sâu hay, lời nguyền tươm máu của định mệnh không thể lý giải giữa hai cõi âm / dương!?! 
Đó là một thứ truyện mang nội dung giống như “báo oan” mà chúng ta hằng thấy trong văn chương từ đông qua tây - - Mà, phương đông được ghi nhận là nhiều nhất. 
Tôi không có ý tóm tắt truyện ngắn được Lữ phóng chiếu từng mảnh đời ngậm, đẫm lời nguyền tươm máu này... (Để độc giả nhận hưởng được trọn vẹn tính “ma quái” của không khí truyện). Tôi chỉ muốn trích dẫn một vài đoạn văn mà, thủ pháp “liên-tưởng-muối-mặn-cảm-xúc” của Lữ vẫn là ưu thế nổi trội nhất trên “dặm trường chữ, nghĩa nong chật ám ảnh và, nỗi niềm trong thơ / văn Lữ Thị Mai”: 
“...Tôi vung tay đưa cái áo về phía chị rồi trở vào phòng ngủ. Buổi chiều mùa hè oi ả. Trong căn phòng gắn máy điều hòa lạnh âm âm. Tôi đưa tay khẽ kéo chiếc váy lên, dưới lớp da trắng mịn nổi lên những đường gân xanh xao nghi hoặc. Con trai tôi vẫn ngủ. ‘Đạp một chút đi con! Mẹ không sợ đau đâu. Con cứ ngoan một cách đáng ngờ như thế mẹ buồn…’ Tôi vỗ vỗ nhẹ vào bụng mình cưng nựng. Cứ thắc mắc sao nó ngủ nhiều đến vậy, sao cái bụng tôi cứ im ắng, sự im ắng làm tôi lo âu sợ hãi. Tôi nhắm nghiền mắt. Cảm giác mồ hôi đang rịn ra khắp lưng tôi. Bức bối đến ngột thở. Giấc ngủ mê man của tôi lởn vởn những hài nhi co quắp trong bọc nước ối. Chúng cựa quậy, chúng quẫy đạp, giãy giụa… nhưng không khóc! Đơn giản bởi chúng còn nằm trong cơ thể sản phụ, chúng chưa có quyền khóc chào đời khi chưa đến ngày đến tháng.
“- Mẹ! Mẹ! Có người cứ muốn đánh dấu vào con đây này!
“Cái thai đã rõ hình hài đứa trẻ giãy giụa. Nó mở to đôi mắt u uất phẫn nộ cầu cứu. M..á..u! Thấy toàn máu là máu. Máu cứ chảy và cái thai oằn mình giữa vũng máu chống đỡ cái dấu nào đó, mà một con người nào đó, đang dằn nó ra để đóng vào… trông nó tựa như sợi dây thừng cỡ lớn vặn mình trặt trẹo...” 
Hay:
“...Tính ngày đã quá hai hôm mà vẫn chưa thấy gì. Đêm nay Tường cứ đòi hát trọn bài hát ấy cho tôi nghe, anh bảo: ‘Không chỉ có em nghe đâu, con chúng mình nghe nữa đấy. Nó sẽ thấy gia đình mình hạnh phúc biết nhường nào’. Trong vòng tay anh, giai điệu êm ái đưa tôi chìm vào giấc ngủ họa hoằn ma mị. Người con gái tôi chưa gặp bao giờ, cô ta quẳng về phía tôi ánh nhìn sắc lạnh. Cả khuôn mặt cô ta trắng bệch nổi bật lên là đôi môi căng mọng màu hồng sáng hệt màu son môi trên cổ áo anh. Cái thai mở to miệng ngáp trong bất lực, nó không cất tiếng khóc mà nói rõ ràng bằng chất giọng đầy phẫn uất: ‘Người ta đòi đánh dấu con’. Cặp môi cô ta nhập nhèm màu đỏ của sự khát máu. Khẽ lia đầu lưỡi lên đôi môi, cô ta nhìn tôi cười thách thức. Cố vươn đôi tay bé nhỏ yếu ớt về phía đứa con tội nghiệp tôi càng thấy nó xa tôi. Nó như bị cuốn chảy phăng phăng theo một dòng sông đỏ thẫm. Dòng sông màu máu, có những lúc ánh lên màu son xa lạ trên cổ áo của Tường. Vết son di chuyển nhập nhằng trong bóng đêm… Có tiếng trẻ con khóc ré lên và một dòng máu chảy dài…
“- Trả con lại cho tôi. Con ơi! Tôi gào lên vô vọng. Tiếng cười man dại của người con gái kì dị ấy xé toạc nỗi đau đớn của tôi...” 
Và:
“Tôi cùng mẹ chồng lên chùa. Bà vận chiếc áo dài nâu chỉ dành cho những hôm đi lễ. Miệng bà lầm rầm khấn, hồi lâu bà sụp xuống vái lạy. Mùi nhang những ngày rằm, ngày tết ấm áp là vậy mà sao ngày dưng tôi thấy rờn rợn, buồn nôn. Tiếng chuông cũng không còn vang lên thanh tịnh bình an nữa mà chung chiêng váng vất. Quay bốn phía chỉ thấy rặt những pho tượng sơn son thiếp vàng chối mắt. Có cái gì nặng nặng âm khí quanh quẩn đâu đây. Tôi nhắm mắt, chắp tay lại thành tâm để tìm một sự giải tỏa. Các pho tượng, khóm hải đường, mẫu đơn sao rặt một màu đỏ, như vết son định mệnh ấy, như dòng sông của những cơn hôn mê quyện đặc màu máu… Tất cả trôi về phía tôi… Đôi chân tôi tê cứng, tôi đứng chôn chân cạnh cây cột lớn chạm trổ rồng phượng mà thấy dòng chảy đỏ ối quấn lấy chân mình nhớp nhúa. Đứa con tôi không còn cất lên lời cầu cứu. Có một người nhấc nó lên hôn. Đôi môi sắc lẹm bật lên lời nguyền thú tính: ‘Tôi phải hôn được con cô’. Đứa bé rũ đi trên tay người ấy, thân thể mềm nhũn khẽ cựa quậy. 
(...) 
“...Tôi giằng lấy đứa con ôm chặt vào lòng. Ngoài kia bóng đêm ma quái bao trùm khoảng sân bệnh viện, bọc lấy những vòm cây. Trong phút giây choáng váng tôi kịp nghe tiếng giày dép gấp gáp, tiếng chuông báo động ngoài hành lang, tiếng con trai tôi khóc thét lên vì khát sữa. 
“Tôi ôm con trong vòng tay rã rời nhìn mẹ chồng tôi mòn mỏi tựa đầu vào vai chị Nết. Gia đình chồng tôi ngồi đầy phòng khách. Họ im lặng, không nói câu gì với tôi cũng không nói chuyện với nhau. Hồi lâu, khi đứa con tội nghiệp của tôi no sữa đã thiu thiu ngủ mới thấy mẹ chồng tôi thở dài: 
“- Chiều qua thằng Nam vừa chở mẹ đi Từ Sơn, Bắc Ninh. Người ta đồn ở đó có ông thầy giỏi lắm… vừa bước vào ông ta đã cao giọng quở: ‘Con trai nhà người xuất ngoại mà trở về lại đem cả dấu son kĩ nữ nên nó chết nó vẫn theo…’ Bà chưa kể hết đã lấy khăn chấm nước mắt rồi quay đi...” (Nguồn từ Tạp chí Hợp Lưu). 

3. 
Để chấm dứt, tôi xin được dùng nhận định của nhà phê bình văn học Trần Thiện Khanh. Ông viết: 
“Là một khuôn mặt thơ trẻ mạnh bạo, có nhiều tìm tòi thể nghiệm, thơ Lữ Thị Mai có cái nồng nàn mê mải của người yêu tìm chữ, có cái âu lo của người sợ gặp một bình minh rỗng nghĩa, một mùa nhàn nhạt nào đó trở lại. Lữ Thị Mai cũng bước đầu thể hiện được cái duyên riêng, cách nhìn riêng trong những câu văn xuôi giàu hình ảnh của mình. Truyện ngắn, tản văn của Mai có thể xem như một góc tạo nghĩa khác cho cuộc sống, một cách định nghĩa về cái tôi nội cảm của chị. Cũng có thể nghĩ đến một điệu khác, giọng khác của một người giàu suy tư, nhạy cảm giữa nhịp sống hối hả ồn ào.” (Trang mạng Tuổi Trẻ Thủ Đô). (6) 
Du Tử Lê
(Garden Grove, June 2015)
_________
Chú thích:
(*) Lữ Thị Mai sinh năm 1988.
(1), (2), (3), (4), (5) Nguồn dutule.com (theo Hợp Lưu và, Wikipedia-Mở)
(6) NguồnWikipedia - Mở.

NGUỒN:
https://dutule.com/p111a6693/12/lu-thi-mai-tren-dam-truong-chu-nghia-nong-chat-am-anh-va-noi-niem-trong-tho-van-

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tác phẩm văn học thế giới của 6 câu chuyện


baomai.blogspot.com
 
"Đóng góp có ý nghĩa nhất của tôi đối với văn hóa," tiểu thuyết gia Kurt Vonnegut mô tả luận văn thạc sĩ trước đây của ông về nhân chủng học, "lại bị bác bỏ, bởi vì nó quá đơn giản và trông giống như đùa."

Luận văn này đã chìm vào lãng quên không còn lại dấu vết, nhưng Vonnegut vẫn tiếp tục trong suốt đời để cổ súy cho ý tưởng lớn đằng sau bản luận văn, đó là: 'mọi câu chuyện kể đều có hình dạng có thể vẽ ra đồ thị trên giấy'.

Mô hình hóa truyện kể

baomai.blogspot.com
  
Trong một bài giảng vào năm 1995, Vonnegut vẽ ra biểu đồ của nhiều câu chuyện trên bảng đen để phác họa vận may của nhân vật chính đã thay đổi như thế nào xuyên suốt câu chuyện trên một trục trải dài từ 'tốt' đến 'tệ'.

Các đồ thị này có điểm 'dưới hố' tức là nhân vật chính gặp phiền toái nhưng sau đó lại thoát ra được ("mọi người thích kiểu câu chuyện đó, họ nghe không bao giờ chán!") và 'chàng có được nàng', tức là nhân vật chính tìm thấy điều tuyệt vời nào đó, nhưng để mất và cuối cùng có lại được.

"Không có lý do gì mà những mô hình đơn giản của truyện kể không thể được đưa vào máy tính," ông cho biết. "Đó là những mô hình đẹp."

Nhờ vào những kỹ thuật đào sâu văn bản mới, giờ đây việc này đã có thể làm được.

baomai.blogspot.com
  
Giáo sư Matthew Jockers tại Đại học Washington State, và sau này là các nhà nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm Câu chuyện Toán hóa tại Đại học Vermont, đã phân tích dữ liệu của hàng ngàn tiểu thuyết để tìm ra sáu mẫu câu chuyện cơ bản - bạn có thể gọi đó là nguyên mẫu - tạo nên những khuôn thước cho những câu chuyện phức tạp hơn.

Các nhà nghiên cứu Vermont đã mô tả mô hình câu chuyện đằng sau hơn 1.700 tiểu thuyết Anh ngữ như sau:

1. Từ bần hàn trở nên giàu có - sự vươn lên từ bất hạnh, đạt đến hạnh phúc
2. Từ giàu sang trở nên bần hàn - bi kịch khi từ sướng rơi xuống khổ, bi kịch
3. Icarus - vươn lên rồi rớt đài
4. Oedipus - suy sụp, vươn lên rồi suy sụp một lần nữa
5. Cinderella - vươn lên, sụp xuống, vươn lên
6. Người dưới hố - sụp xuống, vươn lên

baomai.blogspot.com
  
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng cách phân tích tình cảm để lấy dữ liệu - một kỹ thuật thống kê mà những người tiếp thị thường dùng để phân tích các bài đăng trên mạng xã hội, theo đó mỗi từ được cho một 'điểm tình cảm' nhất định dựa trên dữ liệu thu thập từ đám đông.

Dựa trên từ ngữ được chọn, một từ có thể được xếp vào dạng 'tích cực' (vui sướng) hay 'tiêu cực' (buồn bã); nó có thể được gắn kết với một hay nhiều hơn trong số tám cảm xúc tinh tế hơn, bao gồm sợ hãi, vui mừng, ngạc nhiên và trông ngóng.

Chẳng hạn, từ 'vui sướng' là tích cực và liên quan đến niềm vui, sự tin tưởng và mong đợi. Từ 'từ bỏ' là tiêu cực và liên quan đến sự giận dữ.

baomai.blogspot.com
  
Thực hiện phân tích tình cảm trên mọi từ ngữ trong một cuốn tiểu thuyết, một bài thơ hay vở kịch và biểu diễn kết quả theo thời gian, chúng ta có thể thấy trạng thái đã thay đổi ra sao xuyên suốt trình tự câu chuyện và do đó cho thấy một dạng diễn biến tình cảm.

Mặc dù đó không phải là công cụ hoàn hảo - nó phân tích từ ngữ cách biệt mà bỏ qua bối cảnh - nó có thể giúp ta có những hiểu biết không ngờ khi được áp dụng trên những đoạn văn lớn.

Chúng tôi đã xem xét những câu chuyện được yêu thích nhất từ cuộc thăm dò 100 câu chuyện định hình thế giới của BBC Culture và tìm cách xác định sáu hình mẫu câu chuyện.

Thần khúc (Dante Alighieri, 1308-1320)

Dạng câu chuyện: Từ bần hàn trở nên giàu có

baomai.blogspot.com
  
Bài thơ sử thi có cấu trúc chặt chẽ và đối xứng tuyệt mỹ của Dante dõi theo hành trình tưởng tượng của ông xuống địa ngục với sự tháp tùng của - còn ai khác nữa? - thi  Virgil.

Chắc chắn là mọi thứ khởi đầu tồi tệ trong Thần khúc với số điểm tình cảm thấp và tiếp tục tụt dốc khi bộ đôi này đi xuống các vòng xoáy địa ngục.

baomai.blogspot.com
  
Sống sót từ địa ngục một cách thần kỳ, kế đó họ leo lên Đỉnh núi Thanh lọc, nơi linh hồn của những kẻ bị rút phép thông công, những kẻ lười biếng và đầy dục vọng trú ẩn, và Beatrice - người phụ nữ lý tưởng của Dante - cuối cùng cũng thay thế Virgil làm bạn đồng hành của ông.

Sự thăng thiên của cặp đôi này lên thiên đường được đánh dấu bằng niềm vui sướng ngày càng lớn khi mà nhà thơ hiểu được bản chất thật sự của đức hạnh và linh hồn của ông nhập vào làm một với 'Tình yêu vốn làm di chuyển Mặt Trời và các vì tinh tú'.

Bà Bovary (Gustave Flaubert, 1856)

Dạng câu chuyện: Từ giàu sang trở nên bần hàn

baomai.blogspot.com
  
Có một khoảnh khắc trong câu chuyện của Flaubert về bà nội trợ chán nản và không có lòng tin khi mà nhân vật chính của chúng ta, bà Emma Bovary, chiêm nghiệm rằng do cuộc đời của bà cho đến lúc đó thật là tệ, phần đời còn lại của bà chắc chắn phải tốt hơn.

Nhưng không phải vậy. Bà Emma bước vào những cuộc tình tuyệt vọng và thất bại, chỉ đem lại cho bà sự khuây khoả thoáng chốc trước thực tại chán ngắt, dày vò trong cảnh một phụ nữ bay bổng phải lấy người đàn ông tẻ nhạt nhất trên đời, bị nợ nần tàn hại chồng chất và cuối cùng tự sát bằng cách uống thạch tín.

baomai.blogspot.com
  
Người chồng đau khổ của bà, sau khi phát hiện ra vợ ông đã nhiều lần ngoại tình, cũng qua đời, và đứa con gái giờ đây mồ côi của họ được đưa đến sống cùng với bà và người bà này cũng qua đời.

Cô bé đến sống với một người dì nghèo khổ và người dì này bắt em làm việc ở một nhà máy bông. Đó là một bi kịch kinh điển, được thúc đẩy với một sự tập trung không ngừng nghỉ vào mục tiêu tối hậu là sự sụp đổ hoàn toàn.

Romeo và Juliet (William Shakespeare, 1597)

Dạng câu chuyện: Icarus

baomai.blogspot.com
  
Romeo và Juliet theo lẽ tự nhiên được xem là bi kịch, đúng như lời miêu tả của chính Shakespeare. Thế nhưng khi bạn phân tích tình cảm thì câu chuyện dường như gần hơn với mô hình Icarus: vươn lên rồi sụp đổ.

Suy cho cùng, chàng phải tìm được nàng, yêu nàng trước khi cả hai mất nhau.

baomai.blogspot.com
  
Đỉnh điểm lãng mạn xảy ra khi vở kịch đi được khoảng một phần tư quãng đường: đó là cảnh nổi tiếng ở ban công khi mà cả hai bày tỏ tình yêu bất diệt dành cho nhau.

Mọi việc đi xuống kể từ đó. Romeo giết chết Tybalt và chạy trốn và kế hoạch đưa Juliet trốn ra ngoài để hội ngộ với Romeo đem đến một tia hy vọng hão huyền nhỏ nhoi cho thảm kịch, nhưng một khi Juliet đã uống thuốc độc thì không gì có thể tránh được bi kịch cuối cùng.

Phẩm giá và Định kiến (Jane Austen, 1813)

Dạng câu chuyện: Người dưới hố hay Cô bé Lọ Lem

baomai.blogspot.com
  
Nửa đầu của cuốn tiểu thuyết của Austen là các vũ hội và những cuộc vui chè chén say sưa, những lời nói dí dỏm và lời cầu hôn không nghiêm túc từ những người như cha xứ khôi hài Mr Collins.

Mọi việc chuyển sang hướng xấu khi Bingley ra đi và Elizabeth bắt đầu có ác cảm với Darcy (do hiểu lầm, dĩ nhiên rồi).

baomai.blogspot.com
  
Tình cảm trong tiểu thuyết chuyển sang hướng hoàn toàn tiêu cực sau lời cầu hôn tai hại của Darcy và xuống đến đáy khi Lydia bỏ nhà trốn đi cùng với Wickham không đáng tin.

Đương nhiên, đây cũng là cơ hội cho Darcy chứng tỏ bản thân mình - điều mà chàng đã làm với phẩm giá và lòng tự tin, giúp chàng chiếm được trái tim của Elizabeth và đảm bảo cho câu chuyện có một cái kết có hậu vừa phải, khi mà mọi người đều khôn ngoan hơn một chút so với trước.

Frankenstein (Mary Shelley, 1818)

Dạng câu chuyện: Oedipus

baomai.blogspot.com
  
Cuốn tiểu thuyết kinh điển của Shelly kể về câu chuyện đau buồn của dị nhân do Victor Frankenstein tạo ra theo lời kể của chính Victor được Đại úy Walton nhắc lại trong loạt thư từ mà ông gửi cho chị gái mình.

Có lúc, dị nhân đó đảm nhận vai trò tường thuật, khiến cho cuốn tiểu thuyết trở thành truyện trong truyện, rồi trong một truyện khác nữa.

Thật ra điều này là khoảnh khắc nhẹ nhõm trong tổng thể một cốt truyện xoáy xuống đáy từ những mô tả hạnh phúc về cuộc sống ban đầu với Victor mở đầu lời tường thuật cho đến kết thúc kinh hoàng.

baomai.blogspot.com
  
Tại thời điểm chuyển hướng then chốt ở hai phần ba câu chuyện, dị nhân đưa ra cho Victor một cách giải thoát - tạo ra cho ông ta một người bạn nữ đồng hành.

Tuy nhiên Victor từ chối. Kể từ đó, định mệnh của ông đã an bài. "Hãy nhớ, tôi sẽ có mặt cùng ông trong đêm tân hôn của ông," dị nhân đe dọa. Và lời đe dọa đó đã được chứng minh.

Vịt con xấu xí (Hans Christian Andersen, 1843)

Dạng câu chuyện: Phức tạp

baomai.blogspot.com
  
Là truyện ngắn nhất trong số này, câu chuyện cổ tích nổi tiếng của Hans Christian Andersen cũng là truyện có cấu trúc phức tạp nhất với hai đồ thị tình cảm kiểu 'xuống hố' được lồng vào trong khung sườn 'từ rách rưới thành giàu có'.

Điều đó có nghĩa là mọi thứ nhìn chung trở nên ngày càng sáng sủa hơn cho chú vịt con theo diễn biến của câu chuyện, nhưng mạch truyện cũng có những khoảnh khắc sáng và tối: vịt con nở ra từ trứng nhưng lại bị bắt nạt vì không giống những con vịt khác.

Nó phát hiện được mình có thể bơi được tốt hơn những con vịt khác và trải nghiệm một điềm báo về sự gần gũi khi một đàn thiên nga bay ngang qua trên đầu nhưng sau đó gần như chết trong cái lạnh của mùa đông.

Cuối cùng, nó cũng trở thành thiên nga theo cách đã được dự báo ngay từ đầu.

baomai.blogspot.com
  
Đương nhiên, điểm rút ra là: "Sinh ra trong ổ vịt ở nông trại không gây hậu quả về sau đối với một loài chim nếu như nó nở ra từ trứng thiên nga."

Câu chuyện kết thúc với giọng điệu vui nhất khi con thiên nga kêu lên rằng nó 'chưa bao giờ mơ tới niềm hạnh phúc như thế này'.



Miriam Quick

baomai.blogspot.com

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bài thơ rất hay của Tuan Chu. "Tình hữu nghị hằn lên cột mốc..."


Tuan ChuTheo dõi
Lâu lắm tớ chỉ làm vè chém phây. Hôm nay hội vhnt Hải Phòng giao liu với hội vhnt Cao Bằng, cách trung cuốc khoảng 200m, được mời cả nhậu lẫn đọc thơ trước loài người, tớ làm bài thơ cấp tốc hầu các bạn.
Đọc mà nước mắt rơi, tổ sư...Thơ đây:
CAO =
Thu lạc bước tôi về vùng Khuổi Nậm
Chén rượu nồng Pắc Bó poong hây
Thác Bản Dốc oằn mình ôm giới tuyến
Hạt dẻ quê mình Trùng Khánh hóa chất đầy
Ôi oai hùng ngày rừng Trần Hưng Đạo
Ừ một thời sáng gươm giáo Phúc Sen
Tình hữu nghị hằn lên cột mốc
Đất nước anh hùng, mình tôi thấy tôi hèn…
Cọn nước quay vật dòng đời trôi mãi
Ngói âm dương vắng bóng Thăng Hen
Hang Cốc Bó chuyển mình đi cửa mới
Bóng Bác Hồ nhập nhoà điệu hát then
Giá tôi được 1 lần hôn hòn đất
Giá tôi được nhảy xuống tắm sông Bằng
Giá tôi được một ngày không sợ hãi
Tôi sẽ hóa mình thành cháo bẹ rau măng…

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Ba, 6 tháng 11, 2018

LẦN ĐẦU TIÊN ĐƯỢC BIẾT.



Image result for cỠ mỹ và trung quốc images
Dưới đây là nguyên văn một bài viết của một công dân Trung Quốc sau vài tháng Mỹ thi triển cuộc chiến tranh thương mại Mỹ Trung.
Nó cho thấy, vụ vây, lấn, tấn, phá TQ của Tổng thống Trump cũng đem lại lợi ich nào đó cho người dân TQ như tác giả Trương Kiến Hoa này.
Để thêm cái nhìn về cuộc chiến này tôi đăng toàn văn bài viết này để ta cùng suy ngẫm.
……
Lần đầu tiên được biết.
Sự thức tỉnh và lời cảm ơn của một cư dân mạng Trung Quốc gửi đến Tổng thống Mỹ Donald Trump vì đã giúp anh được “khai sáng” từ chiến tranh thương mại Trung-Mỹ…
Tháng 6 năm 2018 Blog Mộ Lương trên Sina của Bloger Trương Kiến Hoa có đăng tải bài viết được truyền đi rất nhanh trên wechat và các diễn đàn, ĐCS Trung Quốc muốn xóa cũng không kịp.
Trong bài viết của mình Trương Kiến Hoa cho biết, thu hoạch lớn nhất từ chiến tranh thương mại Trung – Mỹ là được “khai sáng”. Trong thời gian 2, 3 tháng qua Trương Kiến Hoa đã hiểu được rất nhiều kiến thức và hiện thực mà cả đời cũng khó biết được.
Một vài nội dung nổi bật trong bài viết của Trương Kiến Hoa là.
Lần đầu tiên được biết, năm xưa Trung Quốc gia nhập WTO đã hứa hẹn rất nhiều. Nhưng hơn 10 năm sau những hứa hẹn này hầu như không thực hiện được.
Lần đầu tiên được biết, xe hơi nhập khẩu, thuế quan của Mỹ là 2,5%( gần đây Trump nói là 2%) còn thuế quan của Trung Quốc là 25%. Có nghĩa là người dân Trung Quốc nếu mua cho mình một chiếc xe Mỹ giá 24 vạn tệ( khoảng 840 triệu đồng) thì phải mua cho đảng một chiếc và nhà nước một chiếc.
Lần đầu tiên được biết, 10 năm trước, giá dầu thô trên thế giới là 147 đô/thùng, giá dầu trong nước là 6,3 tệ/ lít đến nay giá dầu thô thế giới là 75.56/thùng, giá dầu trong nước lại tăng lên 7,4 tệ/lít. Và lời giải thích ảo nhất là giá của cái thùng đắt lên.
Lần đầu tiên được biết, năm 2013 Trung Quốc và Nga kí một hiệp ước, Trung Quốc sẽ mua dầu của Nga trong 25 năm với giá 145 đô/ thùng. Hiện nay mua của Mỹ chỉ với giá 43 đô/ thùng, mỗi thùng chênh 102 đô.
Lần đầu tiên được biết, đậu tương của Trung Quốc chủ yếu nhập từ Mỹ, giá đậu tương của Mỹ chỉ bằng 60% giá đậu tương của Trung Quốc và còn biết lượng nhân khẩu làm nông của Mỹ chỉ chiếm chưa đến 2% tổng dân số.
Lần đầu tiên được biết, con chip không phải làm từ nhựa mà từ hàng trăm triệu hàng tỷ mạch tích hợp công nghệ cao hợp thành. Sản xuất con chip cần đầu tư lớn, chu kì dài, không phải do một nhóm người nghèo phát minh.
Lần đầu tiên được biết, thiết bị quan trọng tạo nên chip – máy in thạch bản Trung Quốc không chế tạo được.
Lần đầu tiên được biết, điện thoại quốc nội khiến người dân tự hào chỉ là cái vỏ bề ngoài.
Lần đầu tiên được biết, kinh tế TQ hơn 10 năm phát triển với tốc độ nhanh như vậy có nhiều lý do, nhưng yếu tố đầu tiên là gia nhập WTO.
Lần đầu tiên được biết, TQ đem thứ bệnh cũ, không giới hạn, không tuân thủ ký ước, thủ xảo đầu cơ, giả dối đã quan dùng để áp dụng với trường thương mại quốc tế.
Lần đầu tiên được biết, ưu thế TQ có được là nhờ thủ đoạn thương mại bất công bằng chính là trợ cấp xuất khẩu thương mại phi pháp, thao túng tỷ giá hối đoái nhân dân tệ, hàng giả ăn cắp quyền sở hữu trí tuệ, xây dựng hàng rào bảo vệ thương mại cản trở đối thủ cạnh tranh nước ngoài tiến nhập một cách phi pháp.
Lần đầu tiên được biết, trong đàm phán thương mại, yêu cầu của Mỹ là trong các phương diện thuế quan, tiếp cận thị trường, quyền sở hữu trí tuệ cần toàn diện bình đẳng.
“Hỗ Huệ” mà Mỹ nói vốn có nghĩa là bình đẳng mà Trung Quốc lại dịch thành thuận nghịch.
(hết phần sưu tầm) / FB Huy Cường
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trung Quốc bị chất vấn ở Liên Hiệp Quốc về các trại cải tạo Duy Ngô Nhĩ


Biểu tình trước Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc ở Genève phản đối Bắc Kinh. Dòng chữ trên biểu ngữ: "Trên 1 triệu người Duy Ngô Nhĩ bị giam giữ tùy tiện tại Trung Quốc. Liên Hiệp Quốc cần phải lên tiếng!"


Hôm nay 06/11/2018 tại Genève, Trung Quốc bị các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc chất vấn về việc giam giữ gần một triệu người Duy Ngô Nhĩ trong các trại cải tạo, một chủ đề ngày càng bị thế giới chỉ trích.

Trong khuôn khổ cuộc Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát về nhân quyền (UPR theo tiếng Anh, EPU theo tiếng Pháp) tổ chức bốn năm một lần đối với 193 quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc, Trung Quốc trình bày bản báo cáo và tất cả các nước đều có thể đặt câu hỏi. 

Một số nước đã công khai các chất vấn. Chẳng hạn Hoa Kỳ vốn nắm vững vấn đề này, đã đòi hỏi Bắc Kinh làm rõ căn cứ của việc hình sự hóa việc tiến hành các nghi lễ tôn giáo, và giải thích vì sao lại cưỡng bức người dân đi cải tạo. Washington cũng yêu cầu công bố số lượng tù nhân bị giam giữ tại tất cả các trại cải tạo ở Tân Cương trong năm năm qua. 

Anh quốc muốn biết khi nào Trung Quốc mới thực hiện khuyến cáo của một ủy ban Liên Hiệp Quốc, nhằm « chấm dứt việc giam giữ người không thông qua xét xử ». Hoa Kỳ và Đức đòi hỏi Liên Hiệp Quốc phải được vào điều tra tại Tân Cương và Tây Tạng. 

Ngoại trưởng Úc Marise Payne hôm nay cũng bày tỏ « quan ngại sâu sắc » về việc cả triệu người Duy Ngô Nhĩ bị đi cải tạo, và sẽ đề cập vấn đề này với người đồng nhiệm Vương Nghị trong chuyến thăm Bắc Kinh hai ngày 8 và 9/11. 

Ban đầu Trung Quốc chối cãi là không có trại cải tạo nào, nhưng sau khi các hình ảnh vệ tinh được công bố, cùng với bằng chứng là các văn bản chính thức của chính quyền địa phương trên internet, lại nói rằng đó là những « trại dạy nghề » cho người Duy Ngô Nhĩ tiếng Hoa, các môn thể thao và múa. 

Tuy nhiên AFP tham khảo trên 1.500 cáo thị đấu thầu công khai trên mạng đã nhận thấy 181 trại được cho là « dạy nghề » ở Tân Cương đặt mua chủ yếu là ma-trắc, còng tay hoặc bình xịt hơi cay. Nhiều người bị tống vào trại cải tạo chỉ vì để râu dài, choàng khăn hoặc chúc mừng các lễ hội Hồi giáo trên internet. 

Ngoài Tân Cương, các vấn đề khác về nhân quyền ở Trung Quốc cũng được nêu ra trong UPR lần này. Từ khi Tập Cận Bình lên nắm quyền năm 2012, những tiếng nói ly khai bị đàn áp mạnh mẽ và việc giám sát bằng kỹ thuật số tăng cao. Tháng 07/2017, giải Nobel hòa bình Lưu Hiểu Ba đã chết trong tù. Về phía Bắc Kinh, trong báo cáo UPR khẳng định« Trung Quốc phản đối việc chính trị hóa vấn đề nhân quyền ».


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nếu CĐ không thực hiện các mục đích trên thì nó tồn tại làm đếch gì?!




Lưu Trọng Văn

Hãy sờ gáy mình trước, thưa Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam!

Ông Ngọ Duy Hiểu PCT TLĐLĐ VN khi đề cập đến việc sẽ ra đời tổ chức công đoàn độc lập, đã nói tại QH:

"Chúng tôi có một số điều lo ngại, rằng nếu không cẩn thận, tổ chức này sẽ hình thành một loại tổ chức công đoàn gọi là công đoàn vàng. Ở đó giới chủ tự thành lập lên, sau đó thao túng, biến công đoàn ấy là tay chân của giới chủ”.


Ông Hiểu lưu ý khả năng một loại tổ chức nữa là đại diện người lao động nhưng tham gia để thực hiện hoạt động chính trị và chống phá, gây phức tạp cho trật tự an toàn xã hội. Ông nói tiếp:

“Đây là các vấn đề mà chúng ta cần có giải pháp ngăn chặn. Chúng tôi rất ủng hộ tổ chức đại diện người lao động ra đời nhưng đó phải là một tổ chức thực sự vì người lao động, cùng người lao động hỗ trợ, tạo điều kiện phát triển doanh nghiệp”.

Dạ, gã từng là công đoàn viên của tổ chức CĐ của ông và hơn thế nữa, gã từng là phóng viên của báo Lao động cơ quan ngôn luận của tổ chức CĐ của ông, xin thưa với ông là gã quá rành tổ chức CĐ ấy là thế nào rồi ạ.

Ông hãy xem lại tổ chức CĐ của mình có thực sự vì người lao động, bảo vệ quyền lợi của người lao động chưa đã? Có làm cảnh mông má hình thức cho các tổ chức chính trị khác thậm chí cho cả giới chủ tư bản đỏ, tư bản đen hiện nay không đã?

Gã nghe ông dạy đời cho các CĐ độc lập tương lai mà thấy buồn cười. Xin CĐ của ông hãy thực hiện ngay cái điều ông lên giọng dạy dỗ các CĐ của người lao động do chính người lao động chọn đi!

Theo gã, đó mới chính là điều lo ngại nhất mà ông nên lo ngại.

Còn chuyện ông lên lớp giáo huấn rằng CĐ độc lập không được làm chính trị thì xin thưa với ông duyên cớ gì CĐ của ông được quyền là một tổ chức đoàn thể chính trị còn CĐ khác lại không?

Hơn nữa ông quá ấu trĩ về chính trị dẫn đến không hiểu bản chất chính trị là gì.

Giản đơn chính trị trước hết là: Bảo vệ quyền làm người, quyền mưu cầu hạnh phúc của con người.

Nếu CĐ không thực hiện các mục đích trên thì nó tồn tại làm đếch gì?!

Phần nhận xét hiển thị trên trang