Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 30 tháng 7, 2019

LÀM ĐẠI SỨ TẠI TRUNG QUỐC (Trich hồi kí của tướng Nguyễn Trọng Vĩnh)




Nguyễn Trọng Vĩnh
Chủ nhật ngày 28 tháng 7 năm 2019 7:54 PM

Kết quả hình ảnh cho Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh


Lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh vừa bước sang tuổi 104. Cụ là lão thành cách mạng, trải các chức vụ Bí thư tỉnh ủy (3 tỉnh), Phó Ban thường trực Ban Tổ chức TW, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền VN tại Trung Quốc (12 năm, từ năm 1974 đến năm 1987) kiêm Đại sứ Việt Nam tại Cộng hòa Hồi giáo Pakixtan, Phó Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh Việt Nam. Cụ là một trong 3 ủy viên trung ương đảng Cộng sản Việt Nam khóa III hiện còn sống. Và hiện nay chỉ còn duy nhất cụ là tướng do cố Chủ tịch Hồ Chí Minh phong.

Được phép của Lão tướng, chúng tôi đăng tải Hồi ký "Kể lại cuộc đời" của cụ, do chính tay cụ viết và để lại cho con cháu.


CHƯƠNG BẢY
1

Đầu năm 1974, thấy tôi xong nhiệm vụ ở Lào rồi mà chưa có việc gì khác, nhân đồng chí Ngô Thuyền đau ốm xin về, trên Trung ương Đảng mới quyết định cử tôi sang làm Đại sứ nước ta ở Trung Quốc. Lúc đó Việt Nam còn coi Liên Xô, Trung Quốc như anh cả anh hai cho nên để tỏ ý trọng thị, ta vẫn cử Ủy viên Trung ương Đảng làm Đại sứ hai nước đó. Trước khi lên đường đi sứ, nhân còn thời gian rỗi, tôi tranh thủ đi thăm một số tỉnh biên giới phía Bắc nước ta để nắm bắt một số tình hình cần thiết cho việc làm Đại sứ, hơn nữa tôi cũng muốn biết tình hình đất nước mình nói chung vì từ khi nhận nhiệm vụ giúp bạn Lào, tính ra đã mười năm xa rời thực tế của đất nước mình rồi. Lúc đó đất nước còn đang chiến tranh, đời sống nhân dân còn rất khó khăn, ở đâu quang cảnh cũng đìu hiu, trầm trầm không có gì là khởi sắc. Ngay cả những nơi bây giờ là khu du lịch nghỉ mát nổi tiếng như Tam Đảo, Sa Pa cũng thưa thớt bóng người, dân chỉ trông vào trồng lúa, nuôi lợn, nuôi gà đủ ăn và làm nghĩa vụ giao nộp sản phẩm cho thương nghiệp quốc doanh thôi. Nhà cửa lâu đài biệt thự ở Tam Đảo, Sa Pa bỏ hoang phế, đổ nát, mặc cho dơi bay cú rúc… Nhưng lúc đó cũng có cái hay là môi trường còn nguyên sơ trong lành lắm, động vật hoang dại còn chưa bị săn lùng ráo riết như bây giờ. Còn nhớ khi lên Tam Đảo, một bác nông dân đang chăm ruộng lúa, bắt được con rùa vàng, bác liền vui vẻ tặng ngay cho cu Dũng nhà tôi vì thấy nó có vẻ lạ lùng và thích thú lắm. Một tối chúng tôi và trú nhờ ở huyện lỵ Bảo Thắng (lúc đó thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn), ăn cơm với huyện ủy, đồng chí Bí thư huyện còn tỏ ý rất tự hào vì “cả huyện tôi không có một cái chợ nào”, cho rằng quản lý như vậy là chặt chẽ và giữ được địa bàn trong sạch, không để cho việc buôn bán làm vẩn đục môi trường xã hội, chỉ có sản xuất mới là việc làm đúng đắn cần thiết. Lúc đó cả tôi cũng chẳng lấy thế làm ngạc nhiên, mà cũng chưa biết rõ rằng không có chợ buôn bán thì chính sản xuất cũng không thể phát triển nổi, chỉ quẩn quanh trong vòng tự cấp tự túc mà thôi.

Khoảng giữa năm 1974, tôi lên đường sang Trung Quốc. Từ khi đó cho đến tháng tư năm 1975 thì quan hệ Việt - Trung vẫn còn bình thường. Sau ngày thắng lợi của ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, Trung Quốc có cử một đoàn đại biểu cao cấp do ông Đặng Tiểu bình dẫn đầu đến Sứ quán ta chúc mừng thắng lợi. Ngày hôm sau, Trung Quốc tổ chức một cuộc mít tinh lớn ở Quảng trường Thiên An Môn để chào mừng chiến thắng của Việt Nam. Trong cuộc mít tinh đó, Đặng Tiểu Bình đọc diễn văn, tôi đọc đáp từ. Trong đáp từ tôi cũng có nói “nhân dân Việt Nam rất biết ơn Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc đã giúp đỡ to lớn cho nhân dân Việt Nam. Thắng lợi của Việt Nam không tách rời khỏi sự giúp đỡ của nhân dân Trung Quốc”. Trong thực tế, khách quan mà nói Trung Quốc giúp ta nhiều thật: vũ khí, lương thực, thực phẩm, quân trang quân dụng, nếu không có sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô và Trung Quốc, ta cũng khó thắng Mỹ. Nhưng việc đánh ta, giết hại đồng bào ta, phá sạch nhà cửa của cải của ta năm 1979 đã xóa sạch ân nghĩa đó.
Cũng trong thời gian đó, ông Xi-ha-núc (Quốc vương Cam-pu-chia) và bà hoàng Mô-nic cùng sống ở Bắc Kinh, họ được Trung Quốc dành cho một biệt thư riêng. Họ quan hệ khá tốt với Đại sứ quán ta, với tôi. Có lúc ông Xi-ha-núc mời tôi và một số Đại sứ thân tình đến đánh cầu lông trong biệt thự riêng. Ngày Quốc khánh của Việt Nam, ông ta cũng đến chúc mừng. Cũng có lúc tôi viết thiếp mời hai ông bà sang Sứ quán ta ăn cơm. Trước đây đã có thời Xi-ha-núc ở Việt Nam khá lâu, cũng được dành một biệt thự ở phố Nguyễn Du Hà Nội, ăn Tết Nguyên đán ở Việt Nam do Thủ tướng Phạm Văn Đồng mời, ông ta có vẻ thân và kính trọng Thủ tướng lắm. Có lần ở Bắc Kinh, ông ta còn ngỏ ý với tôi là muốn được sang Việt Nam ăn Tết. Tuy ăn ở tại Trung Quốc nhưng xem ra ông ta thích ở Việt Nam hơn Trung Quốc. Ngay cả bọn Pôn-pốt Yêng-sa-ri sau này phản bội đem quân đánh Việt Nam, thi hành tội ác diệt chủng ở Cam-pu-chia, nhưng trước đó cũng có quan hệ tốt với Việt Nam, vì cùng chung kẻ thù là bọn Mỹ xâm lược. Khi Mỹ dựng lên chính phủ Lon-non, lật đổ Xi-ha-núc thì Đảng của Pôn-pốt đứng ra đánh Lon-non. Đã có vài lần chính Yêng-sa-ri sang xin viện trợ của Trung Quốc đã phải đến Sứ quán ta nhờ tôi điện về xin Chính phủ ta chuyển giúp vũ khí của Trung Quốc vào Cam-pu-chia giúp họ; cũng có lúc tôi đã mời Yêng-sa-ri ăn cơm ở Sứ quán. Nhớ lại lúc tôi còn làm việc ở Lào, ba nước còn chiến đấu chống Mỹ và bọn tay sai của Mỹ, đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn cũng đã từng mời đồng chí Kay-xỏn Phôm-vi-hản và Pôn-pốt (lúc đó gọi là đồng chí Thanh) sang hội đàm giữa ba Tổng bí thư. Hôm chiêu đãi hai Tổng bí thư Đảng Lào và Cam-pu-chia, tôi cũng được mời đến dự.
Lại nói chuyện Trung Quốc đối với Việt Nam, năm 1976, không khí quan hệ đã bắt đầu đi xuống. Phía Việt Nam cử đoàn quân sự cao cấp do đồng chí Võ Nguyên Giáp đứng đầu mục đích chính là để cảm ơn Trung Quốc. Trước khi đi, đồng chí Giáp đã nghe Vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao ta báo cáo tình hình, nhưng có lẽ bản báo cáo của đồng chí Hoàng Bảo Sơn lúc đó còn quá lạc quan nên đồng chí Giáp chưa tin, khi sang đến Trung Quốc đồng chí gọi tôi đi dạo nói chuyện riêng. Tôi báo cáo là thấy tình hình xấu đi, đồng chí Giáp cũng đồng ý như vậy. Quả thật, chuyến đó Trung Quốc đối xử với đoàn rất kém trọng thị. Khi đến thăm Tỉnh Cương sơn (di tích cách mạng của Trung Quốc) cùng với đoàn Tổng tham mưu trưởng quân đội Triều Tiên. Người ta đã bố trí đoàn Triều Tiên (cấp thấp hơn đoàn ta) ăn ở phòng sang trọng hơn, bố trí đoàn ta ăn ở phòng thường, thậm chí cho ngồi những chiếc ghế không có lưng dựa. Vì vậy, khi về đến Vũ Hán họp đoàn, nhận xét chuyến thăm, thì cả đoàn đều bất bình, đồng chí Giáp cũng bực lắm. Mọi người đều muốn gặp Bộ Ngoại giao Trung Quốc để nói rõ những sự đối xử không tốt đó và biểu thị thái độ bất bình. Nhưng tôi góp ý: Ta nên biết vậy thôi, bây giờ làm thế chỉ thêm căng thẳng, không giải quyết được vấn đề gì. Đoàn đồng chí Giáp cuối cùng đã đồng ý với tôi và ra về. Trên xe lửa, phía Trung Quốc vẫn chưa thôi thái độ xấu, cố dọn cho đoàn có cả một chiếc bát mẻ miệng (thật chẳng xứng mặt nước lớn chút nào?).
Tiếp đó lại đến vụ “nạn kiều”, ban đầu phía Trung Quốc gây ra việc dụ dỗ ép buộc người Hoa ở Việt Nam về nước để tìm cớ xa lánh Việt Nam bắt tay với Mỹ để tìm kiếm nguồn vốn là kỹ thuật từ Mỹ và đồng minh, để họ thực hiện mục tiêu “Bốn hiện đại hóa” của họ. Nói cho khách quan, thì phía lãnh đạo của ta cũng thành kiến và nghi ngờ người Hoa sẽ là đội quân thứ 5 của Trung Quốc nên cũng muốn tống người Hoa đi cho rảnh. Không những gây ra vụ “nạn kiều”, lên án Việt Nam xua đuổi Hoa kiều, Trung Quốc còn ngầm xui Khơ-me đỏ (Pôn-pốt Yêng-sa-ri) quay giáo đánh vào biên giới Tây Nam của ta, khiến Việt Nam vừa kết thúc cuộc chiến tranh lâu dài gian khổ với đế quốc Mỹ, lại phải đương đầu với chiến tranh Tây Nam, đánh nhau với người “bạn cũ”, hòng làm cho Việt Nam không bao giờ đủ mạnh để thoát khỏi quỹ đạo của Trung Quốc. Xét về nguyên nhân sâu xa, có thể nói: với tư tưởng bá quyền nước lớn vốn thâm căn cố đế, đã từ lâu, Trung Quốc muốn kéo ta vào tầm ảnh hưởng của họ, bắt ta phải thuần phục họ. Hơn nữa, những người cầm quyền Trung Quốc cũng thường có thói quen đối xử với các nước nhỏ theo phương châm “thuận ngã giả xương, nghịch ngã giả vong” (theo lời ta thì được tốt đẹp, chống lại ta thì ta cho chết). Tuy biết họ như vậy nhưng phía ta mà khôn khéo hơn thì khó để họ lấy cớ gây hấn với ta, bởi vì Trung Quốc lại còn cái bệnh giả nhân giả nghĩa, rất muốn và rất cần che đậy dã tâm của mình. Trong thời gian sau năm 1976, ở Việt Nam cũng có những cái đầu nóng, khi Trung Quốc cố ý gây hiềm khích qua vụ “nạn kiều” thì phía ta lại cũng có ý “tát nước theo mưa”, thành kiến với người Hoa, kỳ thị người Hoa ở Việt Nam, bất kể có người đã là Đảng viên là anh hùng đã đóng góp thực sự cho cách mạng Việt Nam. Tiếp đó ta lại vội vã ký hiệp ước hợp tác hữu nghị với Liên Xô (vào tháng 11 năm 1978) nên cũng góp thêm phần làm cho Trung Quốc ra mặt thù địch với Liên Xô). Cho đến khi Việt Nam buộc phải đánh cho Pôn-pốt một đòn đau, tiến quân vào tận Nông-pênh thì Trung Quốc càng có cớ để động binh, thực sự gây chiến tranh với Việt Nam mà theo Trung Quốc nói công khai là “dạy cho Việt Nam một bài học” (về “tội” câu kết với Liên Xô và đánh Cam-pu-chia), Trung Quốc nói cần phải “chi viện” các đồng chí Khơ-me đỏ. Cuộc chiến tranh tháng 2/1979 tuy trên phương diện quân sự thì Trung Quốc thua, buộc phải rút quân về nước còn bị ta bắt sống nguyên một đại đội; nhưng Trung Quốc cũng đã đạt được nhiều mục đích riêng của họmà mục đích hàng đầu vẫn là để cầu thân với Mỹ (vốn là kẻ thù số một của ta vừa bị Việt Nam đánh cho thua đến “lấm lưng trắng bụng”) và phá hoại ba tỉnh của ta là Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai.
2.
...Lược lại một đoạn lịch sử quan hệ Trung Quốc - Việt Nam, thì thấy: ngay từ những năm 50 của thế kỷ 20, khi hai nước còn “hữu hảo” lắm, thì họ đã muốn chinh phục ta bằng lý luận tư tưởng Mao Trạch Đông qua nhiều con đường như sách báo, các đoàn cố vấn, các mối quan hệ qua lại… Ta cũng có thời kỳ bị ảnh hưởng về lý luận tư tưởng đó. Bằng chứng là lúc đó trong trường Đảng của ta còn có chương trình học tư tưởng Mao Trạch Đông và trong thực tiễn cũng làm nhiều việc theo cách của Trung Quốc như việc cải cách ruộng đất đấu tố địa chủ hoặc việc chỉnh đốn tổ chức cũng tổ chức đấu tố “phản tỉnh” trong nội bộ. Sau này, khi phát hiện cải cách ruộng đất là sai lầm, gây tổn thất nghiêm trọng, ta mới tỉnh ngộ, từ bỏ tư tưởng Mao Trạch Đông và không tổ chức thực tiễn theo phương pháp của Trung Quốc nữa. Thất bại trong việc chinh phục bằng lý luận tư tưởng, Trung Quốc chuyển sang chính sách chinh phục ta bằng kinh tế. Từ năm 1954 về sau. Trung Quốc đã giúp ta xây dựng hàng loạt nhà máy xí nghiệp (như Gang thép Thái Nguyên, Phân đạm Bắc Giang, Cao su - xà phòng - thuốc lá Thượng Đình Hà Nội, Bóng đèn phích nước Rạng Đông v.v….) nhưng chất lượng sản phẩm không cao bằng được Trung Quốc, một mặt vì họ cung cấp thiết bị và công nghệ cũ, mặt khác dù có công nghệ tốt họ cũng không chuyển giao cho ta.
Giúp nhiều như vậy, một mặt họ bắt ta phải hàm ơn, phải đi theo; mặt khác, buộc ta phải lệ thuộc họ về phụ tùng nguyên liệu. Vì vậy họ tiếp tục giúp ta về tiền và vật chất mãi đến khi chúng ta giải phóng hoàn toàn miền Nam. Cũng còn một mục tiêu là giúp Việt Nam là để giữ an toàn cho phía Nam Trung Quốc (nếu để Mỹ chiếm được cả Việt Nam thì sẽ diễn ra việc như vụ Mỹ ném bom sông Áp-lục sát biên giới và cả vào đất Trung Quốc hồi chiến tranh Triều Tiên). Sau khi ta ký hiệp định Giơ-ne-vơ, nước ta chia làm hai miền, Trung Quốc gợi ý ta xây dựng miền Bắc trước và thực hiện trường kỳ mai phục ở chiến trường miền Nam. Ý đồ là giữ chúng ta luôn ở thế yếu thì họ mới dễ khống chế (vì ta chỉ có một nửa nước). Họ không muốn ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, trở thành một nước mạnh tuột khỏi tay Trung Quốc. Nhưng khi Mỹ đã gây hấn ném bom ra miền Bắc, đổ quân vào miền Nam thì Trung Quốc vẫn giúp ta về vũ khí trang bị, về quân nhu hậu cần để an toàn cho họ. Sau Tết Mậu Thân, khi Mỹ giao động quyết tâm, ta cũng thấy có thời cơ thương lượng, thì Trung Quốc không muốn ta đàm phán mà muốn ta “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” vừa để cho ta kiệt quệ vừa để Mỹ sa lầy phải tìm đến Trung Quốc.
Qua nhiều sự việc Việt Nam chỉ làm theo ý mình mà không làm theo ý họ, rồi các nhà máy giúp Việt Nam cái thì kém hiệu quả, cái thì bị chiến tranh làm hư hại… Trung Quốc thấy việc lấy kinh tế để điều khiển Việt Nam có vẻ không thành công họ bèn chuyển sang thời kỳ ép ta về quân sự từ hai phía hòng khiến ta phải quy phục: phía Bắc nước ta thì họ làm nhiều con đường ra sát biên giới Việt Nam, phía Nam nước ta thì họ giúp tài chính và trang bị cho Pôn-pốt để nắm vững quân bài, hình thành hai gọng kìm kẹp hai đầu đất nước ta và đồng tình cho Pôn-pốt đánh ta làm cho ta tổn thất và không yên ổn để xây dựng lại đất nước.
Trong bối cảnh như vậy, quá trình tôi làm Đại sứ ở Trung Quốc đúng là một quá trình chủ yếu là tranh cãi và đối phó. Thường xảy ra việc như thế này: Mỗi khi có đoàn đại biểu nào của Việt Nam sang Trung Quốc thì tối hôm đó, trên đài truyền hình và phát thanh của Trung Quốc đều nói đến vấn đề “chủ quyền của Trung Quốc trên các đảo Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa là không thể tranh cãi” (tức các quần đào Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam). (Đối với các đoàn từ cấp Phó thủ tướng là họ đều làm như thế). Từ khi xảy ra vụ “nạn kiều” và việc ta ký hiệp ước hợp tác hữu nghị với Liên Xô thì các phương tiện thông tin đại chúng của Trung Quốc lúc nào cũng ra rả lăng mạ “tập đoàn Lê Duẩn”. Khi tôi cho trưng bày hình ảnh Pôn-pốt đánh phá biên giới Tây Nam nước ta ở bảng thông tin của sứ quán (đặt ngoài hàng rào) từ phía Trung Quốc mời tôi lên Bộ Ngoại giao để gặp Thứ trưởng Hàn Niệm Long, ông ta lên tiếng phản đối, đòi ta phải dỡ bỏ những hình ảnh và lời tố cáo đó. Nhưng tôi lại nói: “Những việc mà tôi trưng bày ra, đó đều là sự thật, chẳng lẽ Trung Quốc lại sợ sự thật? Hơn nữa, cái bảng thông tin mà chúng tôi treo ảnh trên hàng rào Sứ quán đó là nằm trong phạm vi chủ quyền của nước tôi, tôi không dỡ bỏ”. Ông ta nói: “Trung Quốc không cho phép nước nào nói xấu nước thứ ba trong lãnh thổ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”. Tôi nói: “Đồng chí nói sai rồi, cách đây ba hôm, tôi thấy đồng chí còn giúp cho Đại sứ của Pôn-pốt họp báo nói xấu Việt Nam chúng tôi và cuộc họp báo đó có nhiều cán bộ Trung Quốc làm phiên dịch cho họ”. Nói xong tôi ra về.
Ngày đến ngày 19-5, Sứ quán ta dự định chiếu phim Hồ Chủ Tịch vào buổi tốm hôm 19-5, đúng ngày sinh nhật Người. Ta đã gửi giấy mời đến Sứ quán các nước (lúc đó ở Bắc Kinh có độ trăm Sứ quán nước ngoài) trước đó bảy ngày. Đúng buổi chiều hôm ta đã mời, Trung Quốc lại điện tất cả các Sứ quán, mời đích danh các vị Đại sứ đúng 17 giờ đến Đại lễ đường nhân dân ở Bắc Kinh để xem triển lãm về Thủ tướng Chu Ân Lai. Thong thông lệ quốc tế, bao giờ các Đại sứ cũng phải ưu tiên đối với nước chủ nhà. Thế nên cũng chiều hôm ấy, chúng tôi phải huy động toàn lực ra làm giấy mời, rời buổi chiếu phim của ta sang 18 giờ chiều tối hôm sau. Thật là vất vả với cái trò trẻ con của phía Trung Quốc!
Rồi lại rất buồn cười là dạo đó Trung Quốc bố trí hai chiếc xe ô tô con luôn luôn “chầu chực” ở hai cửa của Sứ quán ta, cán bộ sứ quán mình đi đâu nó theo đấy, ngay Đại sứ đi nó cũng đi theo.
Một lần nữa Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại mời tôi lên, đưa công hàm phản đối Chính phủ Việt Nam xua đuổi và tước đoạt “nạn kiều” Trung Quốc. Tôi nói: “Chính phủ Trung Quốc kêu gọi người Việt gốc Hoa về nước đã làm lỡ cả một số công việc của chúng tôi tại nơi mà họ đang đảm nhiệm trong cơ sở sản xuất và công sở. Hơn nữa, vào năm 1953, Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thỏa thuận với nhau là người Hoa ở Việt Nam được coi như công dân Việt Nam, do Việt Nam quản lý. Do đó, ở miền Bắc nước tôi đã không có Hoa kiều nữa. Vậy lẽ nào chúng tôi lại xua đuổi công dân của chúng tôi, cho dù họ là gốc Trung Quốc. Còn ở miền Nam, trong thời kỳ Nguyễn Văn Thiệu cầm quyền, người Hoa đều đã đăng ký quốc tịch Việt Nam. Vậy cho đến nay trên cả nước Việt Nam đều không có ai là Hoa kiều nữa”. Hàn (Niệm Long) nói: “Vậy các ngài cũng công nhận chính quyền Nguyễn Văn Thiệu à?” - Rồi cuộc đối thoại cũng kết thúc.
Trong năm 1977, lại một lần nữa Trung Quốc mời tôi, cũng lại tranh cãi vấn đề Hoa kiều và người Hoa, không bên nào chịu bên nào. Sau khi đấu khẩu như vậy, Trọng Hi Đông (Thứ trưởng Ngoại giao, nguyên là tướng trong quân đội) nói: “Sống hòa bình với nhau thì tốt hơn, chiến tranh thì phức tạp đấy”. Tôi nói: “Tôi cũng đã là tướng, tôi cũng biết thế nào là chiến tranh. Và chúng tôi đã thắng Pháp và thắng Mỹ”.
Một lần khác, Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại mời tôi lên gặp một Thứ trưởng Ngoại giao. Ông ta nhờ tôi gửi công hàm về cho Chính phủ ta, đồng thời thông báo: “Do chính phủ Việt Nam bức hại Hoa kiều nên Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quyết định đưa hai tàu Trường Lực và Minh Hoa vào cảng Hải Phòng và cảng Sài Gòn để đón nạn kiều của chúng tôi”. Tôi nói: “Tôi sẽ chuyển công hàm về cho Chính phủ. Nhưng trước hết tôi nói ở Việt Nam không có nạn kiều. Và Chính phủ chúng tôi còn xem xét, tàu Trường Lực và Minh Hoa có được phép vào Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh hay không đã, vì hai cảng đó thuộc chủ quyền của Việt Nam, không ai được tự tiện vào”.
Khi tôi từ Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra về, các phóng viên báo chí quốc tế xúm lại hỏi tôi, tôi nói lại sự việc vừa rồi và nói thêm: “Cảng thành phố Hồ Chí Minh và cảng Hải Phòng đâu phải là cái ao nhà của Trung Quốc mà họ tự ý quyết định đưa tàu vào được”. Sau đó các phóng viên đã đưa tin ra thế giới và tỏ ra thú vị với cách ông Đại sứ nói “cảng Việt Nam không phải là cái ao nhà của Trung Quốc”.
Ngoài những lần như vậy, còn có nhiều lần khác nữa, Bộ Ngoại giao Trung Quốc luôn mời tôi lên, ngoan cố vu cáo Việt Nam ta, lần nào tôi cũng phải đấu lý với họ. Về nguyên tắc, lập trường thì mình rất kiên quyết giữ vững, nhưng về thái độ mình phải đúng mực. Thường là họ phải chịu mình vì họ đuối lý.
3.
Một lần tôi về nước báo cáo (lúc đó muốn về Việt Nam, phải bay từ Bắc Kinh sang Mát-xcơ-va mới bay về được Hà Nội). Ra sân bay Bắc Kinh, nhân viên sân bay muốn bắt tôi đi vào cửa kiểm tra hành lý, tôi không chịu, tôi nói: “Tôi là Đại sứ, tôi được “miễn trừ ngoại giao” theo nguyên tắc quốc tế, nên không ai được kiểm tra khám xét. Nếu các ngài ngăn cản không cho tôi đi, tôi sẽ họp báo tố cáo các ngày vi phạm công ước quốc tế”. Nhân viên sân bay chạy đi đâu đó, ý chừng là đi báo cáo thỉnh thị cấp trên. Sau đó mở cho tôi đi theo đường cửa không soát hành lý.
Lần khác, tôi cũng ra sân bay về nước, họ lại định bắt tôi đưa hành lý vào cửa kiểm soát có chiếu tia X, tôi không chịu. Họ nói đây là kiểm tra an ninh thôi mà. Tôi nói: “Kiểm tra gì tôi cũng không đồng ý, các người nghĩ tôi là không tặc à? Từ trước tới nay tôi chưa hề được biết có nhà ngoại giao nào làm không tặc cả. Nếu nghĩ tôi là không tặc, tại sao lại chấp nhận tôi làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền bên cạnh Chủ tịch nước các người? Tôi nói cho các người biết, là phía Trung Quốc cũng có Sứ quán ở nước tôi, mà nguyên tắc ngoại giao là đối đẳng, nếu các người cố tình kiểm tra hành lý của tôi, tôi sẽ báo cáo về chính phủ, để bên Việt Nam cũng kiểm tra hành lý của Đại sứ các người khi xuất cảnh. Mà nước tôi thì chưa có phương tiện kiểm tra hiện đại, nhân viên Việt Nam sẽ phải mời Đại sứ các người đồng ý như vậy thì hãy làm bừa đi”. Nhân viên Trung Quốc lại phải chịu lý của tôi, lại phải mời tôi đi theo cửa tự do, không kiểm tra hành lý nữa.

Có lần tôi ngồi xe có cắm cờ Việt Nam đi từ Sứ quán ta ra, đến một đoạn đường nọ, mặc dù đồng chí Quảng đang lái rất nghiêm chỉnh đúng luật, thế mà cảnh sát Trung Quốc lại thổi còi bắt dừng xe, nói rằng anh đã vi phạm luật giao thông, rồi bắt lái xe xuất trình giấy tờ. Giấy tờ đủ cả ! Đồng chí lái xe nói: “Tôi đi đúng luật, không vượt đèn đỏ, không lấn sang phần đường của xe khác?”. Rồi họ cũng phải cho đi tiếp vì không biết làm cách nào, không tìm ra cái gì để bắt bẻ nữa (chủ yếu là họ làm chậm hành trình để tôi sai hẹn với đối tác hoặc với Đại sứ nước nào đó).
Trong trường Đại học Bắc Kinh có nhiều sinh viên nước ngoài, có lần Trung Quốc đã xúi bẩy số sinh viên các nước thân Trung Quốc đến biểu tình trước Sứ quán ta. Ta đối phó việc đó bằng cách tuyên truyền vận động để họ hiểu biết sự thật, ai phải ai trái, phần lớn họ hiểu ra và thôi không tụ họp ở đó nữa. Nhưng cũng còn có 4,5 sinh viên cả trai lẫn gái còn ở lại chỗ gốc cây bên kia đường đối diện của Sứ quán ta. Tôi phải cho người đóng cửa Sứ quán vào và cử đồng chí Lê Công Phụng (lúc đó làm phiên dịch tiếng Anh) ra giải thích cho đám sinh viên đó. Vì cửa đóng sinh viên không vào được bên trong, họ ném trong bì thư (có lẽ bên trong viết nhưng nội dung phản đối Việt Nam) vào sân của Sứ quán. Đồng chí Phụng cầm phong bì ném ra, họ lại nhặt ném vào, đồng chí Phụng lại ném ra và nói: “Các bạn đã bị Trung Quốc lừa rồi, hãy về mà chăm chú học đi thôi”…
Cứ cái cách như vậy thật mệt. Sau này gặp đồng chí Ngô Thuyền, người tiền nhiệm của mình, tôi nói đùa: “Anh thì sang Trung Quốc uống rượu, tôi thì sang cãi nhau!”.
Trong thời gian quan hệ hai nước căng thẳng thì các đường đi lại giữa ta và Trung Quốc bị cắt hết: cả máy bay, tàu hỏa, điện thoại. Chúng tôi ở Sứ quán giữa Bắc Kinh mà cứ như ở đảo. Hàng ngày chỉ có hai ca liên lạc VAC, một ca buổi sáng, một ca buổi tối để liên hệ và nhận chỉ thị từ trong nước. Thành thử có nhiều việc xảy ra, chúng tôi phải tự động đối phó. Cũng vì vậy, nên mỗi lần tôi hết nhiệm kỳ Đại sứ, Bộ Ngoại giao báo cáo Thủ tướng Phạm Văn Đồng thì đồng chí lại bảo: “Cứ để đồng chí Vĩnh ở đấy”. (Hơn nữa, trong tình hình khó khăn như vậy, chẳng ai muốn sang thay. Lúc ấy lương tôi chỉ được có 90 đô la một tháng, trong khi lương Đại sứ Thái Lan cùng ở Bắc Kinh là 3.000 đô la. Đến năm 1990, đồng chí Đặng Nghiêm Hoành sang làm Đại sứ ở Bắc Kinh, lương được 600 đô la một tháng. Lái xe của sứ quán Lào cũng được 400 đô la một tháng).
Do đã ở liền vài nhiệm kỳ ở Bắc Kinh, nên theo thông lệ quốc tế, tôi trở thành Trưởng đoàn ngoại giao một thời gian khá dài. Ngoại giao đoàn rất coi trọng chức trưởng đoàn đó, các Đại sứ mới đến Trung Quốc, sau khi đi chào các vị lãnh đạo của nước chủ nhà thì đều phải đến chào trưởng đoàn ngoại giao; khi tổ chức ngày Quốc khánh nước mình thì cũng đến mời trưởng đoàn ngoại giao, mà lại bố trí ngồi chỗ trang trọng nhất trước mặt mình. Khi có Đại sứ nào rời nhiệm, nếu có tổ chức gặp gỡ để chào từ biệt ngoại giao đoàn, thì cũng mời trưởng đoàn ngoại giao và trưởng đoàn ngoại giao sẽ thay mặt các Đại sứ phát biểu ý kiến tiễn biệt. Trong suốt thời gian làm Trưởng đoàn ngoại giao, tôi đã phải làm đến 60 bài diễn văn ngắn để chào mừng hoặc tiễn biệt những người đồng nghiệp. Tuy ngắn vậy thôi, nhưng cũng không phải dễ làm, bởi vì mỗi vị Đại sứ đại diện cho mỗi nước khác nhau, quan hệ với ta cũng khác nhau, 60 bài đòi hỏi phải sát hợp với những hoàn cảnh khác nhau đó. Có lần ông Đại sứ Thụy Điển đã nói với tôi: “Tôi theo dõi thấy ngài phát biểu không lần nào giống lần nào”.
Có chuyện ông Đại sứ Mỹ, khi đến nhận chức thì không đến chào tôi, nhưng khi rời chức, tổ chức gặp gỡ để từ biệt thì lại đến Sứ quán ta thông báo cho tôi là đã hết nhiệm kỳ và mời tôi đến dự. Tôi nói: “Khi ngài mới đến, hoặc là ngài còn hận Việt Nam, hoặc ngài sợ Trung Quốc nên đã không đến chào tôi. Nhưng hôm nay ngài đã đến và mời tôi tới dự buổi gặp mặt từ biệt, tôi nhận lời và sẽ phát biểu ý kiến tiễn chân ngài”. Cái khó là trong trường hợp này là, ca ngợi ông ta thì không được mà nói xấu ông ta cũng không xong. Tôi phải tìm những câu vô thưởng vô phạt để nói, cuối cùng thì cũng chức sức khỏe ông ta và gia đình, chúc ông ta lên đường gặp mọi sự may mắn. Các Đại sứ khác nghe vậy cũng thấy là được.
Mặc dù Trung Quốc lúc đó chẳng ưa gì Đại sứ Việt Nam, lại càng không ưa gì một người luôn đấu lý (và lại hay làm họ cứng họng) như tôi, nhưng cũng vì tôi làm Trưởng đoàn ngoại giao nên dịp mừng Quốc khánh của họ hay dịp các nguyên thủ các nước đến thăm mà Trung Quốc mở tiệc chiêu đãi trọng thể, bao giờ họ cũng phải mời tôi ngồi bàn danh dự.
Rõ ràng phía Trung Quốc không muốn tôi làm Trưởng đoàn ngoại giao nhưng không có cách gì truất chức đó của tôi, nên lắm khi họ bày ra những chuyện nực cười, rất trẻ con để chọc phá tôi.
Cái lần đoàn ngoại giao đi thăm tỉnh An Huy của Trung Quốc, khi kết thúc hành trình, lãnh đạo địa phương tổ chức tiệc chiêu đãi tại một công viên. Trước khi vào phòng tiệc, một cán bộ ngoại giao Trung Quốc đến nói với tôi: Những lần trước ngài đã phát biểu rồi, lần này nên làm khác đi, để ông Đại sứ Tan-za-nia (người thứ hai sau trưởng đoàn) phát biểu ý kiến. Tôi nói: “Nếu không cần phải phát biểu ý kiến gì thì thôi, còn nếu có, thì theo thông lệ quốc tế, tôi sẽ phát biểu chứ không phải người khác. Nếu các ngài cố ý làm trái, tôi sẽ không dự bữa tiệc này. Vả lại tôi cũng chẳng nói xấu gì về nước các ngài”. Cán bộ Trung Quốc nói: “Sẽ không có ai phát biểu cả”. Vậy mà ngay lúc đó, phía Trung Quốc lại đi vận động ông Đại sứ Tan-za-nia phát biểu trong bữa tiệc. Nhưng ông Đại sứ Tan-za-nia nói: “Không được! Phát biểu là quyền của ông Đại sứ Việt Nam. Chỉ khi nào ông ấy ủy quyền cho tôi thì tôi mới được nói”. Trong khi các Đại sứ khác đều đi vào phòng tiệc, tôi vẫn đi ở vườn hoa chưa vào. Lúc sau, cán bộ ngoại giao Trung Quốc ra mời tôi vào ngồi ở bàn số Một, đối diện với Tỉnh trưởng An Huy. Bên cạnh tôi vẫn còn chỗ trống, thì ra ông Đại sứ Tan-za-nia cũng ngại nên vẫn loanh quanh ngoài vườn hoa chưa vào. Họ lại phải đi tìm và mời vào chố trống đó. Lúc khai tiệc, chắc theo đạo diễn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ông Tỉnh trưởng không nói gì. Tôi vẫn chủ động đứng lên nâng cốc, cảm ơn về chuyến đi, chúc sức khỏe Tỉnh trưởng cùng Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc đi cùng và tôi quay lại chúc sức khỏe các bạn đồng nghiệp. Tôi chúc xong mọi người mới bắt đầu cầm đũa.
Trong thời kỳ làm Đại sứ, thỉnh thoảng tôi có tổ chức họp báo, lúc thì để giới thiệu tình hình nước ta, lúc thì để tố cáo bọn Pôn-pốt khiêu khích đánh phá biên giới Việt Nam. Khi Trung Quốc đánh ta, tôi cũng họp báo và tố cáo rằng: “Trung Quốc đang dùng 3 sư đoàn tiến đánh Việt Nam”. Một nhà báo Mỹ đứng lên nói: “Ngài Đại sứ nói quá lên thế chứ, còn theo tình báo của chúng tôi thì đâu có nhiều quân đến thế?”. Tôi nói: “Việc chúng tôi thì chúng tôi biết hơn ai hết. Còn tình báo của các ngài thì chúng tôi cũng đã biết. Tết Mậu Thân năm 1968, quân chúng tôi vào đánh khắp nơi, đánh cả vào Sứ quán Mỹ, mà trước đó tình báo Mỹ có biết gì đâu!”. Các nhà báo cười ồ cả lên. (Đến đây tôi chợt nhớ một chuyện về ngài Đại sứ, cũng là Mỹ ở Trung Quốc: Khi đến nhận chức ở Bắc Kinh, ông ta không đến chào tôi, vì vậy sau đó mỗi khi đứng cương vị Trưởng đoàn ngoại giao có việc gì cần gửi thông báo đến các Đại sứ, tôi không gửi cho Sứ quán Mỹ và cho ông ta. Một số Đại sứ khác ở Trung Quốc thấy tôi có thái độ “tẩy chay” Đại sứ Mỹ, đã đến vận động tôi đừng làm như vậy. Nhưng tôi nói, khi đến ông ta cậy thế nước lớn không đến chào tôi, vì vậy tôi cũng không việc gì phải giao thiệp với ông ta. Không biết có phải ông Đại sứ Mỹ đã được chuyển đến tai câu nói đó của tôi hay không, mà khi tổ chức chiêu đã rời nhiệm sở, ông ta lại phải đến tận nơi mời tôi?).
4.
Làm Đại sứ ở Trung Quốc trong những năm Trung Quốc cố tình khiêu khích và biến Việt Nam thành kẻ thù, đã đành là rất căng thẳng thần kinh và hao tổn thể chất; nhưng với tôi, cũng không phải là hoàn toàn chỉ có vất vả gian khổ. Cũng có những khi được “đắc ý” chứ. Ấy là niềm vui sau những cuộc đấu lý với Trung Quốc. Họ thì hùng hùng hổ hổ, đập bàn đập ghế, dùng những lời lẽ đao to búa lớn để vu cáo trắng trợn và đe dọa ta. Tôi thì vận hết “nội công” cố sức kiềm chế để không bị cuốn vào cái kiểu hùng hổ bất lịch sự, phi ngoại giao đó, để tìm những lý lẽ và ngôn từ đích đáng, đập lại họ, buộc họ phải rút dù. Sau mỗi cuộc như vậy, tôi thấy như người đánh cờ, thắng được một ván là có được một niềm vui.
Hơn nữa, cũng có những lúc mình được hưởng cái sung sướng thực sự, đó là vào những cuộc “lữ hành ngoại giao” mà phía Trung Quốc, với cương vị nước chủ nhà đã tổ chức cho đoàn ngoại giao đi chơi thăm thú các nơi phong cảnh đẹp hoặc lạ ở trên đất nước họ. Tôi nghĩ nếu không có dịp làm Đại sứ thì đã mấy khi mình được du lịch không mất tiền nhiều như vậy?
Năm 1974, khi mới sang Trung Quốc, tôi được đi chuyến “lữ hành ngoại giao” thăm Côn Minh, đó là một thành phố đẹp và loại nhất của Trung Quốc, thuộc tỉnh Vân Nam sát với Việt Nam ta. Côn Minh còn được người Trung Quốc gọi là “Xuân Thành” vì khí hậu rất tốt, quanh năm mát mẻ như mùa xuân. Ở Côn Minh có rất nhiều phong cảnh đẹp và kỳ lạ như Thạch Lâm, Hồ Điền Trì, Ôn Tuyền v.v… rất nhiều chùa chiền đẹp và khuôn viên rộng lớn, sạch sẽ. Vì Côn Minh ở độ cao trên 1.500m nên người dân lúc nào cũng mặc áo len, trông lại càng nhiều màu sắc bắt mắt, ở đây cũng lưu truyền câu nói “nhất vũ thành đông” (tức là hễ có một trận mưa là rét như mùa đông). Ở đây có hai vị thuốc quý là đông trùng hạ thảo và tam thất (ở Vân Nam trồng thì gọi là Điền thất, Điền thất là thứ tam thất hàng đầu của Trung Quốc). Ở Côn Minh, chúng tôi được thưởng món đặc sản “bún qua cầu” rất lạ. Một sợi bún dài như vô tận được cho đi qua một bát nước dùng mà trên mặt có váng mỡ để giữ cho được nóng lâu. Người ăn cứ việc hút sợi bún đó mà ăn đến no thì dừng lại. (Phải mở ngoặc là lúc đó Trung Quốc còn chưa trở mặt với ta, tôi còn được vợ đồng chí Lý Thế Thuần đưa đi và làm phiên dịch - Khi tôi đã nghỉ hưu, đồng chí Lý Thế Thuần làm Đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội).
Năm 1975, tôi lại được cùng đoàn ngoại giao đi Tân Cương, đó là nơi biên giới xa xôi, giáp với Liên Xô. Ở đây cuộc sống và phong tục rất khác lạ. Họ cho ăn thịt cừu và uống sữa ngựa. Thứ sữa đó mùi vị như bia, uống vào thấy hơi say say, họ nói chỉ có khách quý mới được uống, còn thì chỉ dành cho bệnh viện, nhất là cho người bị bệnh lao. Ở Tân Cương có giống dưa lưới và đào bẹt (gọi biển đào), ăn cực ngon. Chúng tôi đến Tân Cương đúng vào mùa đào chín, họ cho vào vườn tha hồ hái, ăn chán thì thôi. Chúng tôi cũng gặp nhiều người dân địa phương ở đây, họ ăn mặc rất rực rỡ, đàn ông thì cao lớn, phụ nữ thì xinh đẹp như tiên, trông họ có vẻ như lai Á lai Âu, nét mặt thật sáng sủa.
Năm 1976, lại được đi chơi núi Thái Sơn (thuộc tỉnh Sơn Đông). Mặc dù không phải núi cao và lớn hàng đầu của Trung Quốc, nhưng Thái Sơn (cao 1.500m so với mặt nước biển) lại rất nổi tiếng, đã đi vào câu nói hàng ngày và văn thơ của Trung Quốc. Ở Trung Quốc người ta thường nói “có mắt mà không nhìn thấy Thái Sơn” hoặc “nặng như Thái Sơn”… Ngay cả trong thơ ca Việt Nam cũng có câu “Công cha như núi Thái Sơn - Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” v.v… Phong cảnh ở đây rất đẹp, y như trong tranh thủy mặc ở Trung Quốc vậy. Và rất tự hào là trong chuyến đi đó, cả đoàn ngoại giao, chỉ có tôi và hai vợ chồng ông Đại sứ Hung-ga-ri là trèo được mấy ngàn bậc đá lên tận đỉnh Thái Sơn, đứng đó để ngắm ra tận biển Đông của Trung Quốc được xem mặt trời mọc từ biển lên rất hay. Tận trên đỉnh cao như vậy mà người Trung Quốc từ xưa đã xây được lâu đài đình các nguy nga, kể cũng đáng nể.
Năm 1980, sau khi Trung Quốc đã gây hấn đánh Việt Nam rồi, nhưng vì vẫn có chuyến “lữ hành ngoại giao” và vì tôi là Trưởng đoàn nên họ phải mời tôi cùng đoàn đi chơi tỉnh An Huy, thăm thắng cảnh Hoàng Sơn, cũng là một trong những cảnh đẹp hàng đầu của Trung Quốc, có nhiều cây thông cổ thụ mọc trên vách đá cheo leo, đủ hình đủ thế, theo đường núi lên đến đỉnh thì thấy đền đài cổ kính, xây cất rất đẹp và công phu. Từ cổ xưa, các triều đại phong kiến Trung Quốc đã hay tìm những nơi có cảnh thiên nhiên đẹp, cho xây dựng lên những công trình tráng lệ và cũng may cho đất nước Trung Quốc là ít bị chiến tranh tàn phá nên bây giờ các công trình còn lại khá nhiều.
Thông thường đoàn ngoại giao đi đến tỉnh nào thì Tỉnh trưởng ở đó tiếp đón và khi kết thúc chuyến đi thì Tỉnh trưởng lại đãi tiệc. Trước bữa tiệc, sau khi Tỉnh trưởng phát biểu thì đến Trưởng đoàn ngoại giao thay mặt các Đại sứ đọc đáp từ. Thời kỳ quan hệ hai nước đang căng thẳng thì tôi làm Trưởng đoàn ngoại giao, khi nói đều phải tránh không ca ngợi lãnh đạo và thành tích của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, chỉ ca tụng cảnh đẹp của địa phương, sự đón tiếp của những nơi đoàn đến thăm, các sản vật quý của địa phương, chúc sức khỏe các vị lãnh đạo địa phương để lãnh đạo phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân trong địa bàn… (Riêng lần đi An Huy này thì có chuyện buồn cười như đã thuật ở phần trên).
Thời gian ở Bắc Kinh, tôi cũng tạo được điều kiện cho vợ chồng Minh Hà (con gái thứ 3 lấy chồng người Đức là Verner) từ Đức sang thăm Trung Quốc. Và một lần từ Trung Quốc bay sang Mát-xcơ-va, tôi và bà xã cũng tranh thủ đi xe lửa sang chơi bên Đức, thăm nhà con gái.
Cũng nhờ việc làm Đại sứ ở Bắc Kinh nên tôi còn được biết cả thủ đô các nước Triều Tiên, Ap-ga-nit-xtan, Pa-kit-xtan nữa.
Vào mùa hè năm 1977, có Hội nghị quốc tế về nông nghiệp do Triều Tiên đăng cai. Bên nước điện sang cử tôi và anh phiên dịch tiếng Anh đi dự, vì vậy có dịp thăm quan thành phố Bình Nhưỡng thủ đô Triều Tiên. Thành phố đó không gọi là lớn nhưng rất đẹp, các công trình kiến trúc cũng đẹp, có vẻ phô trương, đồ sộ. Ví dụ có một nhà hát chỉ độ 500 chỗ nhưng khuôn viên khá lớn và trang trí rất lộng lẫy. Đường phố hai bên trồng toàn cây ngô đồng, đang mùa hè nên lá rất xanh tốt. Tôi được ăn một bữa tiệc ngồi cùng bàn với ông Kim Nhật Thành và lần đầu tiên được biết món “kim chi” nổi tiếng của Triều Tiên, rất ngon.
Một lần tôi đi tháp tùng đồng chí Nguyễn Duy Trinh (Bộ trưởng Bộ Ngoại giao) đi thăm Ap-ga-nit-xtan, đến thủ đô Ca-bun, thật tiếc là thủ đô đó chẳng gây cho mình ấn tượng và cảm xúc gì. Sau khi đi thăm Ap-ga-nit-xtan (lúc đó có chính quyền thân Liên Xô), đoàn sang thăm Pa-kit-xtan nhưng chẳng được việc gì, họ đối xử rất nhạt nhẽo vì họ đang theo Trung Quốc, mâu thuẫn với Ap-ga-nit-xtan. Ở Pa-kit-xtan không được uống bia rượu và ăn thịt lợn, vì nước đó theo đạo Hồi. Pa-kit-xtan lúc đó rất nghèo và phụ thuộc Trung Quốc. Có một con đường lớn nối từ thủ đô Is-la-ma-bat đến Trung Quốc men theo sườn dãy Hi-ma-lay-a, được biết là do Trung Quốc làm giúp. Thành phố Ca-ra-si, nơi có sân bay quốc tế, gọi là lớn nhưng lúc đó cũng rất lèo tèo.
Có một việc dường như cả những người thân cũng ít biết đến, đó là thời gian tôi được cử làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Trung Quốc, thì cũng kiêm luôn cả chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam ở Pa-kit-xtan. Khi bay từ Bắc Kinh sang Is-la-ma-bat, qua dãy Hi-ma-lay-a nóc nhà thế giới, nhìn thấy tuyết phủ dày trắng, mấy người cũng đã nói đùa với nhau: giá mà rơi xuống đây thì đố có ai tìm được! Đến thủ đô Pa-kit-xtan tôi phải đi trình quốc thư; rất ấn tượng với nghi lễ của nước này: họ cho xe song mã, có lính bồng súng rất trang trọng và rất oai đến đón. Đại sứ được ngồi xe song mã, đằng sau có 6 người lính cưỡi ngựa cầm giáo hộ tống vào phủ Tổng thống.
Lại nói chuyện về đi lại ở Trung Quốc, ngoài những chuyến đi với đoàn ngoại giao, còn có một chuyến đi đáng nhớ nữa. Đó là chuyến đi theo đường sắt Côn Minh - Thành Đô vào năm 1977. Dạo đó ở thành phố Côn Minh, ta có một cơ quan Tổng lãnh sự, lại có khá đông các gia đình Việt kiều. (Số bà con đó trước làm thợ hỏa xa phục vụ đường sắt Hải Phòng - Côn Minh từ thời Pháp, sau ở lại Côn Minh). Vì vậy tôi có xuống thăm cơ quan và bà con. Bình thường xuống Côn Minh, tôi vẫn đi theo đường xe lửa phía Đông, từ Bắc Kinh qua Trịnh Châu, Vũ Hán, Trường Sa, Quý Dương rồi đến Côn Minh và ngược lại. Đồng thời, theo quy định của Trung Quốc thì khách nước ngoài muốn mua vé xe lửa phải mua qua “lũ hành xã” (kiểu như du lịch quốc doanh bên ta) mới được. Những lần đó không hiểu sao anh em ở cơ quan Lãnh sự quán lại tự đi mua được vé, mà lại mua được vé theo con đường phía Tây. (Tức đường từ Côn Minh đến Thành Đô rồi qua Tây An, Thái Nguyên về Bắc Kinh). Tôi cũng thích đi theo con đường đó vì chưa đi lần nào, hơn nữa lại nghe nói rất nhiều về việc hoàn thành đoạn đường Thành Đô - Côn Minh mới làm, Trung Quốc coi là thắng lợi lớn vì đoạn đó rất khó thi công… Tôi đi cùng hai đồng chí Bí thư ở Sứ quán. Trên đường, qua quan sát thì thấy quả là “danh bất hư truyền”, không thể không ngạc nhiên thán phục công trình hoành tráng như thế. Xe lửa phải đi trên sườn núi đá dài rất hiểm trở, vì vậy có nhiều hầm tuy-nen chui qua núi, nhiều cầu cạn chênh vênh bắc giữa hai ngọn núi và nhiều đoạn leo đèo dốc quanh co. Có đoạn qua sông Kim Sa nổi tiếng hung dữ (đã được nhắc đến trong truyền thuyết thày trò Đường Tăng và Tôn Ngộ Không đi Tây Trúc lấy kinh). Trên tàu, chúng tôi vô tư dùng tiếng Việt nói chuyện với nhau nên đã gây chú ý cho nhân viên xe lửa Trung Quốc, có lẽ vậy họ mới đi gọi điện báo cho người ở đâu đó. Một lúc sau, thấy hai nhân viên ăn mặc sắc phục đường sắt đến ngồi bắt chuyện với chúng tôi. Khi đến Thành Đô, họ nói: “Xe lửa bị hỏng, đề nghị các vị xuống phòng đợi”, họ xách hộ hành lý cho chúng tôi. Sau đó họ nói tầu bị nghẽn còn lâu mới sửa xong. Họ đưa chúng tôi vào một khách sạn trong Thành Đô. Ngày hôm sau chúng tôi đường dẫn đi xem thành phố, được thăm nhà lưu niệm thi hào Đỗ Phủ. Tối về họ nói: “Thôi các vị phải đi máy bay về Bắc Kinh thôi”. Tôi nói: “Chính phủ chúng tôi cấp tiền có hạn, không đủ tiền mua máy bay”. Họ nói, sẽ giúp đòi lại tiền tàu của cơ quan đường sắt để các vị mua vé máy bay. Tôi nói, dù có lấy lại được thì số tiền đó cũng không đủ mua vé máy bay, chúng tôi còn nghèo, phải tiết kiệm. Chúng tôi sẽ đợi đến bao giờ xe lửa thông thì chúng tôi sẽ về Bắc Kinh. Không còn cách nào, cuối cùng họ phải nói thẳng: “Tuyến đường xe lửa này, Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa không cho phép người nước ngoài đi”. Lúc này chúng tôi mới biết họ là công an mật đã lên kèm chúng tôi từ giữa đường đến Thành Đô. Sau đó phía Trung Quốc phải bỏ tiền lấy vé máy bay cho đoàn chúng tôi về Bắc Kinh. Thì ra đường sắt Thành Đô - Côn Minh mà Trung Quốc cố làm cho bằng được đó là con đường chiến lược bí mật của họ. Năm 1979 khi Trung Quốc tấn công ta thì cũng có một cánh quân xuất phát từ Đại quân khu Thành Đô vào đánh ta ở hướng Lào Cai. Ta bắt sống được một Đại đội, họ khai rằng, họ là quân của sư đoàn 150, quân đoàn 50 thuộc Đại quân khu Thành Đô, được chở bằng xe lửa từ Thành Đô đến biên giới Việt Nam qua Côn Minh.
5.
Khoảng cuối năm 1985 (tức cuối kỳ làm Đại sứ), bỗng nhiên tôi bị những cơn tim đập nhanh (140 nhịp một phút), phải đến bệnh viện Trung Quốc để khám. Nhưng đi đến giữa đường thì cơn tim đó lại dừng nên đến bệnh viện khám không thấy gì. Lần thứ hai cũng vậy, lần thứ ba thì cùng với cơn tim đập nhanh lại kèm theo sốt nhẹ, tôi phải vào nằm viện để điều trị. Bệnh viện cũng làm đủ mọi động tác xét nghiệm cần thiết như: đo điện tim, siêu âm tin phổi thận, rửa ruột, xét nghiệm máu, soi dạ dày v.v… Sau một loạt khám nghiệm cẩn thận như thế mà họ cũng chỉ kết luận được là “tim đập nhanh đậu tính kèm theo sốt”. Tôi đề nghị điều trị theo cách Đông – Tây y kết hợp. Họ chấp nhận nên hàng ngày cho thuốc viên đồng thời sắc thuốc bắc cho tôi. Họ bố trí tôi nằm riêng một phòng có điều hòa nhiệt độ và mắc vào người tôi những dụng cụ để theo dõi nhịp tim thường xuyên, có màn hình hiện lên trước mặt, nằm ở giường cũng có thể trông thấy. Hễ hơi động cựa mình hoặc dãy chân một tý là màn hình hiện lên con số 150 nhịp/ phút ngay. Về ăn uống bệnh viện cũng lo rất khá, 5 bữa một ngày. Sáng sớm thì bánh bao hoặc sủi cảo, giữa buổi uống sữa, trưa ăn cơm, 2-3 giờ chiều ăn bánh ngọt hoặc hoa quả, tối ăn cơm. Điều trị được ba, bốn ngày, bệnh tim vẫn không chuyển biến. Thế là lại phải nhịn ăn, lấy máu xét nghiệm, lại rửa ruột… vẫn không tìm ra nguyên nhân gì. Rồi đến một lúc tôi không ăn được, không ngủ được, thỉnh thoảng lại còn bị cảm (sau mới biết là nằm trong phòng có điều hoà nhiệt độ thường xuyên, tôi không quen nên mới bị cảm lạnh). Tình hình cứ thế kéo dài, tôi ngày càng gầy sút, chân tay trở nên uể oải không có lực. Đến nỗi việc tắm rửa cũng không tự mình làm được, phải nhờ anh em trong Sứ quán mình vào tắm giúp. Rồi đến lúc giơ tay lên đánh răng rửa mặt cũng thấy mỏi rã ra. Sau một tháng tôi sút mất 10 cân, chân tay lẩy bẩy, đi lại phải vịn, phải lần. Tôi nghĩ nếu cứ nằm đây thì sẽ suy sụp đến chết mất. (Trong khi đó ở Sứ quán, anh em đã họp bàn với nhau, nói đến việc nếu Đại sứ chết thì chôn ở Bắc Kinh hay đưa thi hài về nước). Tôi nói với bệnh viện là mình đỡ rồi, xin về Sứ quán chữa ngoại trú, tôi không dùng máy điều hoà nhiệt độ, chỉ dùng quạt ở mức nhẹ nhất, cho quay đi quay lại phe phẩy thôi. (Ngoài trời lúc đó đang là nóng nhất trong năm). Về ăn uống thì chú Quế (nấu cơm cho tôi đã lâu năm rất tận tình) thường đi mua thịt bò về làm cho chín tái đi rồi ép lấy nước cho tôi, hoặc chú nấu cháo gà cho, nhưng tôi vẫn chỉ ăn được một chút. Tôi thấy ngủ được hơn trong bệnh viện và uống được chút nước thịt cũng hấp thu tốt hơn. Hàng ngày tôi vào bệnh viện cho họ bắt mạch và cắt thuốc bắc về uống, vì hàng ngày vẫn còn sốt âm ỷ. Tôi xem đơn thuốc họ kê cho thì thấy trong đó có nhiều vị tác dụng tư âm thanh nhiệt, lần nào cũng thế. Từ trước tôi đã có mua và đọc nhiều sách thuốc của Trung Quốc, đã có chút hiểu về Đông y; vì vậy khi đọc đơn thuốc đó, tôi suy nghĩ: đã tư âm thanh nhiệt mãi mà không khỏi sốt, ắt trong người phải có chỗ viêm nhiễm nào đấy (mà có thể nó chưa đủ lớn để thày thuốc phát hiện được). Tôi nhờ anh Bảng phiên dịch tiếng Trung Quốc ra hiệu thuốc mua cho vị kháng sinh thực vật là bồ công anh, kim ngân hoa vàliên kiều về bỏ vào thang thuốc của bệnh viện sắc uống trong ba ngày. Uống xong ba ngày thì hết sốt, sau đó tôi thấy trong người ngày càng khá hơn lên, dần dần ăn được ít cơm. Tuy vậy người vẫn còn yếu. Tôi định rủ bà xã về nước (tôi nghĩ nếu có chết thì chết trong nước cho khỏi phức tạp, phiền hà đến cơ quan, tổ chức). Vừa lúc đó, chị Lan bác sĩ của Sứ quán lại phát hiện bà xã tôi bị vàng da, vàng mắt; đưa đi bệnh viện khám thì ra viêm gan cấp tính, phải nằm viện chuyên khoa cách ly điều trị một tháng. Khi bà xã tôi khỏi bệnh ra viện, chúng tôi cùng rời Bắc Kinh về nước. Khi ra sân bay, bác sĩ của Sứ quán vẫn phải đưa tôi đến tận chân thang máy bay. Về đến Hà Nội, bác sĩ của Bộ Ngoại giao ta phải ra tận máy bay đón tôi. Khi tôi có việc lên Bộ Ngoại giao, chỉ có thể đứng dưới nhắn người của vụ Trung Quốc xuống mà gặp. Tôi không còn đủ sức trèo lên tầng ba để làm việc. May mắn là tôi có đem về được hai hộp bột tam thất Vân Nam (là thứ tốt nhất hồi đó, ở Việt Nam hầu như không thể kiếm được). Tôi uống bột tam thất, đồng thời động viên bà vợ cùng ăn gạo lứt để chữa bệnh. Kiên trì ngày một bữa gạo lứt trong hơn hai tháng thì sức khoẻ tôi đã hồi phục như bình thường.
Người ta nói “trong cái rủi có cái may”, bị một trận ốm thập tử nhất sinh ở Bắc Kinh như trên đã nói, rõ ràng là chẳng ai muốn, nhưng qua trận ốm đó tôi lại học được nhiều việc, tôi trở nên chú ý suy ngẫm, rút kinh nghiệm về bảo vệ sức khỏe và thêm hứng thú đi sâu nghiên cứu Đông y hơn. Sau này khi có điều kiện, tôi đã mầy mò nghiên cứu học hỏi cho có bài bản và trở thành thày lang của gia đình, chữa được nhiều bệnh cho vợ con, cháu chắt, bạn bè….
Cái thời những năm 80 thế kỷ trước, ở trong nước mọi thứ hàng hóa đều khan hiếm. Mỗi lần về nước là cán bộ nhân viên Sứ quán ta đều tranh thủ mua các thứ hàng tiêu dùng đem về, kỳ cho hết tiêu chuẩn trọng lượng hàng được phép theo quy định của hàng không mới thôi. Chú Quế đầu bếp của tôi cũng vậy, mua cả táo tàu (thứ táo nhỏ của Tàu sấy khô, quả nhăn nheo màu đỏ nâu hoặc đen) đem về ngâm vào phích nước nóng để uống. Một hôm chú khoe với tôi: “Cái ruột phích của em ngâm táo tự nhiên lại sáng choang như mới”. Nghe vậy, tôi bèn nghĩ: có lẽ trong táo tàu có chất a-xít gì đánh tan được cặn can-xi bám trong ruột phích nước. Rồi một lần về nước tôi cũng mua theo mấy cân táo tàu, về qua Thái Lan, ngủ ở nhà khách Sứ quán ta ở Băng-cốc cùng với một đồng chí cán bộ của ta cũng đi qua, tôi đem táo tàu mời đồng chí đó ăn. Đồng chí nói: “Trước đây tôi bị sỏi thận, có người bạn cũng cho tôi một cân táo tàu. Sau khi ăn ít hôm thì thấy đau bụng dưới nhiều, hai ba hôm mới khỏi”. Tôi hỏi: “Từ đó đến nay anh còn thấy đau nữa không?”. Đồng chí nói không. Thế là liên hệ việc này với việc cái ruột phích của chú Quế, tôi phát hiện ra rằng trong táo tàu có chất làm tan sỏi can-xi, khi ăn táo tàu nó bào mòn viên sỏi làm sỏi nhỏ đi đến mức có thể bài tiết ra ngoài qua đường niệu, trên đường đi ra, nó chà xát vào niệu quản làm đau. Đến lúc đồng chí Bảng được điều sang làm phiên dịch cho tôi thay một đồng chí khác đã hết nhiệm kỳ. Gặp tôi, Bảng nói: “Em bị sỏi thận đang điều trị thì Bộ bắt sang đây”. Tôi bảo Bảng ra ngoài hiệu thuốc mua lấy một cân rưỡi táo tàu, hai buổi, buổi sáng chiều trước bữa cơm đều ăn lấy một vốc. Mấy hôm sau Bảng nói với tôi: “Em có cảm tưởng sỏi nó đi đến gần xương cụt rồi”. Vài hôm sau nữa thì sỏi ra ngoài. Từ đó trở đi Bảng không bị đau thận nữa. Thế là chắc chắn “phát hiện” được thứ thuốc vừa ngon vừa lành là táo tàu nên dùng đủ liều lượng thì có thể làm tan sỏi can-xi trong thận!
Tôi nghĩ, 13 năm ở Bắc Kinh, vừa phải đấu tranh căng thẳng với Bộ Ngoại giao Trung quốc, vừa phải chống đỡ bệnh tật, nếu mình không đọc sách và biết về thuốc, cứ phó thác thân mình cho các giáo sư bác sĩ ở bệnh viện Bắc kinh thì có lẽ đã chết từ lâu rồi. Tự mình cứu mình nên đã sống thêm được vài chục năm nữa. Vào năm 1985, sau khi quan hệ Trung Quốc – Việt Nam đã bình thường hoá trở lại, Hiệp hội Ngoại giao Trung Quốc đã mời tôi với đồng chí Ngô Minh Loan, đồng chí Nguyễn Minh Phương là ba Đại sứ cũ ở Trung Quốc sang thăm nước họ. Tôi lại làm Trưởng đoàn, Đại sứ Lý Thế Thuần lại hỏi tôi muốn đi thăm nơi nào? Tôi nói tôi đi thăm đã gần hết các tỉnh của Trung Quốc, chỉ còn Hàng Châu và Thâm Quyến là chưa được đi. Hiệp hội Ngoại giao đã đáp ứng một cách nhiệt tình mấy nguyện vọng của tôi, mời cả đồng chí Hứa Pháp Thiện (tên Việt Nam là Thanh) vốn là cố vấn của Cục Tổ chức chúng tôi trong kháng chiến chống Pháp đến dự buổi chiêu đãi của họ (trong bữa tiệc có cả Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc đến dự). Cuộc gặp rất vui vẻ. Phó Thủ tướng Trung Quốc cũng có buổi tiếp chúng tôi. Sau đó Hiệp hội cử một nữ Trưởng phòng là Trịnh Nại Linh tháp tùng chúng tôi đi thăm quan các nơi như Hàng Châu, Thâm Quyến. Đi đến đâu họ cũng bố trí cho chúng tôi ở khách sạn 5 sao, riêng tôi được bố trí ở phòng VIP bằng tiêu chuẩn Phó thủ tướng có phòng ngủ, phòng khách riêng. Ở địa phương nào cũng có Phó tỉnh trưởng đến tiếp đón. Tôi thấy chỉ mới cách 8 năm thôi mà Trung Quốc thay đổi ghê gớm. Thâm Quyến xưa chỉ là bãi đất hoang mà nay trở thành một thành phố hiện đại hoàn chỉnh. Trong thành phố có một công viên rất rộng lớn gọi là tiểu Trung Hoa, họ xây dựng tất cả các danh lam thắng cảnh (thu nhỏ) tiêu biểu của các tỉnh Trung Quốc (ví dụ trong đó có Cố Cung, Trường Thành, Tây Hồ, Thái Hồ…). Còn Quảng Châu, Bắc Kinh tựa hồ như đã lột xác, trở thành những thành phố tráng lệ sầm uất gấp hàng chục lần so với lúc tôi làm Đại sứ.
Khi tôi đã thôi nhiệm vụ Đại sứ về nước, thì ở Việt Nam, Trung Quốc đã lần lượt thay mấy đời Đại sứ: Lý Thế Thuần, Trương Đức Duy, Lý Gia Trung, Tề Kiến Quốc đến Hồ Càn Văn. Họ đều biết tôi từ khi họ còn là các cán bộ phiên dịch của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đã dịch cho quan chức ngoại giao Trung Quốc “đấu đá” với tôi. Vì biết tôi là Đại sứ kỳ cựu nên mỗi khi có dịp chiêu đãi nhân Quốc khánh Trung Quốc hay nhân dịp kỷ niệm thành lập quan hệ ngoại giao hai nước, họ đều nhớ mời tôi.
Năm 1987, tôi được chính thức cho phép rời Sứ quán ở Bắc kinh sau khi đã hoàn thành tốt nhiệm kỳ Đại sứ dài dặc nhất trong lịch sử các Đại sứ Việt Nam ở nước ngoài: mười ba năm. Nghỉ ngơi trong một thời gian thì Bộ Ngoại giao yêu cầu tôi viết Hồi ký 13 năm làm Đại sứ ở Trung Quốc. Tôi đã viết xong và nộp cho Bộ Ngoại giao. Đến năm 1990 thì thực sự nghỉ hưu.
Khi về nước được hai năm, tôi gặp một đồng chí quan lúc đó là cán bộ của Ban Tổ chức Trung ương. Đồng chí hỏi: “Anh được tặng Huân chương Hồ Chí Minh năm 1987, anh đã nhận được chưa?”. Tôi bảo tôi không biết gì! Ban Tổ chức Trung ương bèn hỏi bên Bộ Ngoại giao. Thì ra Vụ Tổ chức Bộ Ngoại giao đã nhận, đem cất đi rồi quên mất (!) Vì vậy cho nên mãi đến năm 1990 trước khi tôi nghỉ hưu, Bộ Ngoại giao mới mời tôi lên. Đồng chí Bộ trưởng trao huân chương cho tôi và tặng một số tiền kèm theo là 100.000 đồng trong cuộc họp mặt có đông đủ cán bộ từ Vụ trưởng, Vụ phó trong Bộ. Lúc đó tôi mới tức cảnh làm bốn câu thơ:
“Vừa rồi được tấm Huân chương
Xa xôi nó phải đi đường hai năm
Bộ Ngoại giao tặng thêm một trăm
Đủ tiền làm một bữa nem ăn mừng!”.
Như vậy, năm 1990 đã kết thúc một quãng đời quan trọng của tôi mà tôi gọi là “thanh niên ba sẵn sàng”. Tôi luôn sẵn sàng chấp hành mọi sự điều động của Đảng, Nhà nước, không tính toán thiệt hơn, không hề có đề nghị, yêu cầu gì, nhận được mệnh lệnh là lên đường đi làm nhiệm vụ thậm chí không đợi cả làm đủ giấy tờ thủ tục, chẳng ngại sự thiệt thòi về lương bổng, về chế độ đãi ngộ, về nhà cửa. Với việc nào, tôi cũng chỉ đinh ninh một điều là làm sao cho tốt nhất so với năng lực của mình. Trong thời gian từ khi kết thúc kháng chiến chống Pháp đến năm 1990, tôi được phân công làm nhiều công tác như đã thuật ở trên, nhưng có thể nói có hai việc lớn và làm thời gian dài nhất là làm Cố vấn cho Bạn Lào và làm Đại sứ ở Trung Quốc (tổng cộng hơn 20 năm) và cũng là hai việc tôi có nhiều kỷ niệm đáng nhớ hơn cả và về cơ bản có thể nói là “đã đạt yêu cầu”. Vì vậy, tôi có thể mượn lời của con gái Nguyên Bình trong câu đối nôm na nó viết tặng tôi nhân buổi mừng sinh nhật 80 tuổi để làm câu kết cho câu chuyện đi sứ nước người của tôi:
Làm Cố vấn miền Tây, ghi lời Bác, không làm “lão Toàn quyền”*, 
luôn nhớ chữ “chủ quyền của bạn”.

Đi Đại sứ nước Tàu, theo ý Đảng, chẳng ngại “người Đại quốc”, 
giữ trọn điều “Quốc thể về ta”.
*Trước khi đi Lào nhận nhiệm vụ mới (làm Trưởng đoàn cố vấn giúp Lào – cuối 1964), Hồ Chủ tịch cho gọi ông Nguyễn Trọng Vĩnh tới ăn cơm và dặn dò một số điều. Người nói vui với Nguyễn Trọng Vĩnh: “Chú sang bên ấy, chú có ý kiến gì thì chú góp với Bạn để Bạn làm, chú không được làm thay và chú không được làm “Lão toàn quyền” đấy nhé!” – Chú thích của Bà Nguyễn Nguyên Bình, con gái Đại sứ Nguyễn Trọng Vĩnh.
Hết chương 7


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Biểu tình hay không biểu tình? Có còn biểu tình hay không?


Không có một cuộc biểu tình nào xảy ra dù là của Đảng Cộng sản tổ chức để phản đối Trung Quốc, trong khi vụ Tư Chính xảy ra gần cả tháng rồi. Ba ngày sau, RFA tiếng Việt theo sau, viết một bài nội dung y hệt, tìm thấy câu trả lời cũng y hệt. Tôi thì tôi thấy nguyên nhân có thể là phức tạp hơn.

Người dân biểu tình phản đối Dự luật Đặc
khu và Luật An ninh mạng. Photo Courtesy
Để có một cuộc biểu tình xảy ra cần có hai điều kiện liên quan với nhau: Mục đích của cuộc biểu tình và những người sẵn sàng biểu tình cho mục đích đó. Biểu tình tại Việt Nam trong những năm vừa qua có những nguyên nhân sau đây, và cũng là mục đích, xếp theo thứ tự quan trọng: Chống Trung Quốc, Đòi đất đai, Chống ô nhiễm môi trường, Đòi tăng lương.

Đương nhiên đây là nhận xét chủ quan của tác giả.

Mục đích chống Trung Quốc được mọi người đồng ý dễ dàng với nhau là nguyên nhân lớn nhất, nó kích thích tinh thần dân tộc chủ nghĩa của người Việt Nam chống phương Bắc, vốn có lịch sử cả ngàn năm nay.

Cuộc biểu tình lớn nhất xảy ra vào năm ngoái, 6/2018, được xem là cuộc biểu tình lớn nhất từ năm 1975 đến nay, chống Dự luật Đặc khu và Luật An ninh mạng. Mà Dự luật Đặc khu và Luật An ninh mạng này được Đảng Cộng sản đang cai trị soạn thảo. Người dân thấy rằng không có con đường nào khác là phải lên tiếng.

Khi những tin tức đầu tiên về vụ Tư Chính được đưa ra, dù không phải là chính thống, người ta thấy rằng nhà nước Việt Nam đã có nỗ lực đương đầu với người Tàu ngoài biển. Người ta vừa đồn đoán với nhau về chuyện gì đang xảy ra một vài ngày, thì đùng một cái báo chí nhà nước được phép đưa tin một cách rầm rộ, rồi việc phản đối bằng công hàm cũng được đưa tức thì.

Ngòi nổ được tháo đúng lúc.

Đảng Cộng sản đã thành công lần này trong việc không để cho những cuộc tụ tập không do họ kiểm soát, điều họ sợ nhất trên đời, xảy ra.

Một viên chức ngoại giao nói với tác giả, rằng ông thở phào nhẹ nhõm khi nghĩ tới cuộc biểu tình chống Trung Quốc trong vụ giàn khoan Hải Dương năm 2014. Trong cuộc biểu tình này đã có người Tàu bị thiệt mạng, nhiều cơ sở của họ bị đập phá. Người ta nói với tôi rằng, người Tàu đã làm áp lực đưa tàu của họ vào để chuyển công dân của họ đi. Việc đó cuối cùng không xảy ra.

Đó là mục đích. Mục đích biểu tình không còn, thì đương nhiên không có biểu tình.

Hơn nữa, tôi đặt câu hỏi cho loại nguyên nhân thứ hai: Còn có ai sẵn sàng đi biểu tình không?

Từ những cuộc biểu tình đầu tiên diễn ra vào những năm 2000, tại Việt Nam đã hình thành một tầng lớp đối kháng, mà một số đông được qui tụ trong các tổ chức dân sự, thậm chí các đảng phái chính trị. Những người này hoạt động rất tích cực trong những cuộc biểu tình, trong những kháng nghi thư, trong những bình luận phản kháng trên mạng xã hội.

Dĩ nhiên là Đảng Cộng sản rất không thích những tổ chức mà họ không kiểm soát. Do đó nhiều cố gắng liên tục được đảng thực hiện để làm suy yếu các tổ chức này. Với bộ máy công an khổng lồ, quyền lực không giới hạn, đảng đã thành công trong việc phá hoại các tổ chức này. Nhiều người bị bắt bỏ tù, nhiều người bị trục xuất ra khỏi Việt Nam.

Theo ý kiến chủ quan của tôi, vụ Tư Chính lần này đánh dấu một bước lùi của phong trào đối kháng Việt Nam, vì họ không còn ai nữa.

Song song với việc bố ráp, bắt bớ, mà đỉnh cao là vụ đàn áp khốc liệt sau vụ biểu tình chống luật đặc khu vào tháng 6/2018, Đảng Cộng sản dường như đã kiểm soát được mạng xã hội, hay ít nhất họ thấy rằng, điều lo ngại về một cuộc cách mạng Facebook, từa tựa Mùa xuân Ả Rập, đã không xảy ra. Mà ngược lại, dường như Facebook lại đóng một vai trò van xả hơi của những bực bội trong xã hội.

Người ta nói rằng, Việt Nam có rất nhiều tài khoản Facebook, nhưng nếu chúng ta quan sát kỹ, và hãy đặt câu hỏi khu vực Facebook của những người đối kháng là bao nhiêu? Tôi cho rằng không nhiều.

Khu vực này không chồng lên các khu vực khác như là bán hàng, làm đẹp, nấu ăn, văn nghệ thể thao,… Tức là nó hình thành nên một cái mà người phương Tây gọi là Echo Chamber, tạm gọi là Phòng cách âm, chúng ta nói chúng ta nghe với nhau.

Nhưng tôi cho rằng, Đảng Cộng sản cũng có ngó vào cái phòng cách âm đó, để điều chỉnh hành động của họ, tháo van kịp thời.

Bày tỏ trên Facebook rồi thì nhu cầu xuống đường có thể đã giảm đi một ít.

Tại sao không còn những người sẵn sàng biểu tình nữa, nếu phán đoán của tôi là đúng?

Người ta nói rằng, sự thay đổi chỉ có thể xảy ra khi xã hội có một tầng lớp trung lưu đủ mạnh và độc lập. Việt Nam không có tầng lớp ấy.

Khi Việt Nam bắt đầu cải cách kinh tế cách đây hơn 30 năm, người ta đã hy vọng một tầng lớp trung lưu độc lập hình thành. Hơn một thế hệ đã sinh ra và lớn lên nhưng điều đó đã không xảy ra.

Giới trung lưu Việt Nam đa số sống trong các thành thị lớn, cuộc sống của họ khá hơn rất nhiều so với đại đa số cư dân nghèo khó ở nông thôn. Họ không có nhu cầu phải thay đổi. Ờ, thì không khí có ô nhiễm, tham nhũng có làm cho họ bực bội, nhưng họ vẫn thấy họ rất vững vàng. Chưa nói đến chuyện tầng lớp này lại đang gắn chặt vào sự nhũng lạm có tính cách hệ thống hiện nay.

Chẳng lẽ bức tranh dân chủ hóa Việt Nam lại u tối như thế ư? Và phải chăng Đảng Cộng sản Việt Nam hoàn toàn yên tâm, vì không còn nguyên nhân biểu tình mà cũng không có người biểu tình nữa?

Trong thời gian gần đây, người ta hay nói đến chuyện Việt Nam đang trôi về phía Mỹ, xa rời Trung Quốc trong cuộc cạnh tranh quyền lực giữa hai cường quốc này. Nếu điều này đúng thì quả là mục đích chống Trung Quốc không còn nữa.

Nhưng nguyên nhân của biểu tình, lần này là những bất ổn xã hội, vẫn còn đó. Đó là nông dân vẫn mất đất đai và công nhân vẫn bị bóc lột thậm tệ. Hai điều nói trên tồn tại song song với sự cai trị độc quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đảng Cộng sản không thể nào ngăn chận cán bộ của mình cướp đất đai của dân chúng, khi mà họ một mình một chợ, không ai kiểm soát quyền lực của họ cả.

Đảng Cộng sản không thể nào ngăn chận công nhân bị bóc lột khi mà họ không có nghiệp đoàn tự do.

Đảng Cộng sản không thể nào kiểm soát quyền lực của chính họ.

Cách đây hơn chục năm, khi hòa bình ở Bắc Ái Nhĩ Lan và xứ Basque được tái lập, với những vị dân cử của họ ra chấp chính ở Quốc hội, một người bạn Pháp có nói với tôi rằng: Chẳng phải là chửi nhau bằng mồm trong Quốc hội là tốt hơn chửi nhau bằng lựu đạn ngoài phố hay sao?

Tôi xin hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam, rằng bà Cấn Thị Thêu có xứng đáng được đại diện ít nhất là cho người dân ngoại thành Hà Nội hay không?

Bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh có xứng đáng được đại diện cho người dân thành phố Nha Trang hay không?

Hai người đà bà ấy nào có muốn xuống đường biểu tình rồi bị tù tội!

Việt Nam vẫn không có những người chấp chính được dân bầu lên. Trong khi người Việt không thiếu những người giỏi giang có thể đại diện cho toàn dân.

J.N.

Jackhammer Nguyễn
Nguồn: (baotiengdan.com)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

LUẬN CỨ BÀO CHỮA CHO HÀ VĂN NAM TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM


Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh ngày 30/07/2019
Kết quả phiên tòa sơ thẩm Hà Văn Nam: Thời gian từ 7g 30 đến 13 g ngày 30/7/2019 thì kết thúc. Anh Hà Văn Nam bị tuyên án "Tội gây rối trật tự công cộng" theo điểm c, d khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự. Án phạt 30 tháng tù. 

Kính thưa Hội đồng xét xử,
Tôi, Luật sư Hà Huy Sơn Công ty Luật TNHH Hà Sơn thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội là người bào chữa cho anh Hà Văn Nam. Tôi xin được trình quan điểm bào chữa như sau:
Trước hết, tôi xin cám ơn anh Hà Văn Nam và gia đình đã mời tôi làm người bào chữa.


I. Tóm tắt vụ án: 

Sự việc xảy ra khoảng 13 giờ 30 phút ngày 31/12/2018, tại Trạm thu phí Phả Lại thuộc địa phận xã Đức Long, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

Ngày 04/01/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 32 về tội “Gây rối trật tự nơi công cộng” theo điều 318 Bộ luật hình sự. Ngày 04/03/2019, Cơ quan CSĐT ra Quyết định số 99 khởi tố bị can đối với anh Hà Văn Nam về tội “Gây rối trật tự nơi công cộng” theo khoản 2 điều 318 Bộ luật hình sự.

Ngày 05/03/2019, bị bắt tạm giam cho đến nay.
Ngày 03/05/2019, Cơ quan CSĐT ra Bản kết luận điều tra số 65/BKLĐT. Ngày 29/05/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân ra Cáo trạng số 81/CT-VKSQV truy tố Hà Văn Nam ra trước Tòa án nhân dân huyện Quế Võ về tội “Gây rối trật tự công cộng” quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự.

Điều 318. Tội gây rối trật tự công cộng
1. Người nào gây rối trật tự công cộng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
c) Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng;
d) Xúi giục người khác gây rối;

II. Vi phạm tố tụng:

Mục III “Lý do và căn cứ đề nghị truy tố; tội danh, khoản, điểm của Bộ luật hình sự được áp dụng; những ý kiến đề xuất giải quyết vụ án” của Bản kết luận điều tra số 65/BKLĐT, ngày 03/05/2019 của Cơ quan điều tra đề nghị truy tố anh Nam: “Quá trình điều tra xác định Nam có hành vi gây rối trật tự công cộng với vai trò xúi giục”. Như vậy CQĐT chỉ truy tố anh Nam theo điểm d “Xúi giục người khác gây rối” khoản 2 Điều 318. Nhưng Cáo trạng số 81/CT-VKSQV ngày 29/05/2019 lại truy tố anh Nam thêm điểm c “Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng;” khoản 2 Điều 318 là không có căn cứ bởi các lý lẽ sau:

Căn cứ các bút lục trong hồ sơ vụ án, không có chứng cứ xác định anh Nam có hành vi của người thực hành theo quy định tại Điều 17 “Đồng phạm” của Bộ luật hình sự. Xe ô tô đỗ trên các làn giao thông được cho rằng gây ách tắc giao thông không có xe anh Nam và anh Nam không phải là người điều khiển phương tiện đỗ tại các làn xe của Trạm Phả Lại ngày 31/12/2018. Anh Nam là người ngồi trên xe do anh Thục điều khiển.

Điều 4 Luật giao thông đường bộ 2008, quy định:
“Điều 4. Nguyên tắc hoạt động giao thông đường bộ
5. Người tham gia giao thông phải có ý thức tự giác, nghiêm chỉnh chấp hành quy tắc giao thông, giữ gìn an toàn cho mình và cho người khác. Chủ phương tiện và người điều khiển phương tiện phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc bảo đảm an toàn của phương tiện tham gia giao thông đường bộ.”
Mặt khác, anh Nguyễn Thanh Tùng là Trưởng ca trực ngày hôm đó, sau khi giải thích thắc mắc cho anh Thục và anh Nam không được. Anh Tùng đã đồng ý cho anh Thục đỗ xe tại làn thu phí để anh Thục, Nam, Liên và Mạnh vào gặp Trưởng trạm thu phí (Trang 4 – Cáo trạng). Nên không có việc anh Nam gây cản trở giao thông quy định tại điểm c.

III. Mặt chủ quan và mặt khách quan của tội phạm:

1. Mặt chủ quan của tội gây rối trật tự công cộng là lỗi cố ý trực tiếp. Để cáo buộc anh Nam phải chịu trách nhiệm hình sự thì phải chứng minh anh Nam có lỗi cố ý trực tiếp.
Khoản 1 Điều 10 Bộ luật hình sự, quy định:
Điều 10. Cố ý phạm tội
Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;

Về mặt chủ quan Nam không có mong muốn gây ra ách tắc giao thông trên Quốc lộ 18 ngày 31/12/2018. Anh Nam không có lời nói, hành vi nào chứng tỏ có mong muốn gây ra ách tắc giao thông trong suốt quá trình xảy ra vụ việc ngày 31/12/2018.

Anh Nam nói với Phong, Thục: “đến Trạm thu phí nhân viên yêu cầu mua vé thì không mua vé và nói lý lẽ mình là người dân xung quanh Trạm và cương quyết không mua vé, nếu họ không cho đi thì đỗ xe ở đó yêu cầu gặp lãnh đạo trạm giải quyết (BL 533, 534, 557, 567, 505, 517, 1008, 1039), Cáo trạng - trang 3. Không cho đi thì đỗ chứ không phải là cứ đỗ ở làn thu phí để gây ách tắc giao thông.
2. Hành vi gây ra ách tắc giao thông xảy ra từ (14 giờ 00 - 15 giờ 35) ngày 31/12/2018, có 02 giai đoạn:
2.1. Giai đoạn 1 (14 giờ 00 – 14 giờ 40): Trạm BOT không cho xe khiếu nại, không mua vé qua trạm.
2.2. Giai đoạn 2 (Từ 14 giờ 40 – 15 giờ 35): Từ khi ông Long Trưởng trạm xin ý kiến cấp trên cho xả trạm nhưng xe không ra khỏi làn đến 15 giờ 35 phút (Cáo trạng – trang 8).
- Giai đoạn 1: xảy ra ách tắc giao thông là do lỗi của Trạm BOT. Người dân địa phương không đi hết đoạn đường BOT mà phải mua vé 100% là vô lý. Họ có quyền nại là chính đáng. Họ có quyền không phải trả tiền cho dịch vụ mà họ không sử dụng. Việc Trạm BOT không cho xe của họ qua, khi họ khiếu nại chính đáng đã gây ra ách tắc giao thông là lỗi của Trạm BOT.
- Giai đoạn 2: Khi đã xả trạm mà các xe không ra khỏi làn, gây ra ách tắc giao thông là do lỗi của lái xe. Không phải lỗi của Hà Văn Nam vì Hà Văn Nam chỉ khuyên “không cho đi thi đỗ xe”.

IV.Đề nghị:

- Với các lý lẽ trình bày ở trên, tôi đề nghị Hội đồng xét xử xem xét:
1- Bác truy tố của Viện kiểm sát theo điểm c khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự.
2- Anh Hà Văn Nam không có lỗi cố ý trực tiếp gây ra ách tắc giao thông trên Quốc lộ 18 tại Trạm thu phí BOT Phả Lại vào 14 giờ 00 – 15 giờ 35 phút ngày 31/12/2018.
3- Không có căn cứ buộc tội anh Hà Văn Nam.
Tôi xin cám ơn sự lắng nghe của các quý vị,
Quế Võ, ngày 30 tháng 07 năm 2019.
Người bào chữa

Luật sư Hà Huy Sơn


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Mạng xã hội và triết học : Triết học của Facebook thực sự đã lạc hậu ?


Bàn về mối quan hệ giữa Facebook với triết học, thật ra, đã có hẳn một cuốn sách như ở dưới.




Còn mới đây, ông Nguyễn Mạnh Hùng đã cho biết triết học của Fb hiện đã lỗi thời. Cần phải viết một mạng xã hội cho riêng Việt Nam với một triết học mới.



Một ít bài luận bình về mạng xã hội và triết học.

Cập nhật dần.


---


1.

Vào FB bạn xem gì trước nếu không phải là số like. Nhiều like nhiều tiền, đó là “triết lý vị bạc” của anh Zuckerberg mà từ lúc lập trình không ngờ tới. Tay nào hay triết lý cao siêu thường nghèo lõ đít. Mạng XH phải hấp dẫn sao cho trai gái mê đếm like quên cả yêu.
Trong một cuộc gặp gỡ với cộng đồng doanh nghiệp CNTT tại Sài Gòn, ông Nguyễn Mạnh Hùng, Bộ trưởng 4T, nói về ý tưởng VN nên phát triển MXH riêng. "Tại sao không nghĩ đến việc tạo ra mạng xã hội mới thay Facebook vì triết lý của Facebook giờ không còn phù hợp với thế giới nữa. Đã đến lúc cần một mạng xã hội mà giá trị do cộng đồng tạo ra được chia sẻ chứ không đổ về cho một người", ông Hùng nói.
Không rõ ông Hùng nhắc “triết lý FB” là ý gì, nhưng lịch sử của FB thì không có triết lý nào cả. FB sinh ra ngẫu nhiên do trò chơi của lũ sinh viên “tài” có nhưng chẳng biết ném “năng” vào đâu, vớ vẩn nghịch dại nên khôn.
Số là vào năm 2003, tay sinh viên IT năm thứ 2 của đại học Harvard có tên Mark Zuckerberg đang mài đũng quần trên ghế nhà trường TBCN, y lập trình cho một trang website gọi là Facemash. Y chọc ngoáy vào máy chủ của trường, ăn cắp toàn bộ ảnh của sinh viên và đưa lên Facemash với câu hỏi “Hot or Not – có nóng hay không?” với mục đích đùa vui.
Trong 4 tiếng đầu tiên khi Facemash hoạt động có tới 450 người xem và 22 ngàn lượt duyệt ảnh, do cánh trẻ thích so bản thân với tay bên cạnh “mình Hot còn hắn Not”. Trường Harvard đã phải hạ trang xuống, buộc tội Zuckerberg đã xâm phạm đời tư, vi phạm bản quyền và suýt bị đuổi học. May quá, chi bộ đảng của trường không kỷ luật “do đồng chí này không là con đồng chí nào”
Sau đó vài tháng, trước kỳ thi cuối cùng về mỹ thuật của trường, tay Zuck ngợm còn đưa ảnh nghệ thuật lên trang với phần comment bên dưới cho bạn học tha hồ còm và chia sẻ chóng mặt.
Phần gọi là Facebook – “album mặt mẹt” – do Zuck phát triển, bao gồm ảnh cá nhân và thông tin của từng người được đưa lên trang trong khi trường này chỉ có bản thông tin trên giấy. Khi so sánh, Zuck bảo, tớ làm việc này trong một tuần trong khi trường mất vài năm mới xong. Zuck gọi đó là Thefacebook ra đời năm 2004.
Ý tưởng đó được đầu tư 1000$ và cùng mấy ông thanh niên “không có tính đảng” tụ tập đông người là Eduardo Saverin, Dustin Moskovitz, và Chris Hughes, tạo ra Facebook như hôm nay. Họ có công lớn là bỏ chữ Thế (THE) trong tên web Thefacebook và sau đó cánh đầu tư nhảy vào, mua domain (tên miền facebook.com) với giá 200.000 đô.
Dân thế giới dùng FB là do khả năng chia sẻ, like, tag liên kết bạn bè, hiện có tới 2,5 tỷ tài khoản hoạt động ngày đêm. Tiền thu được do quảng cáo bán hàng trong lúc dân tính like. Giá trị cổ phiếu của FB năm 2004 là 0,4$, năm 2005 tăng 9$ (2150%), 2006 đã lên 48$ và năm 2018 là 200.
Từ 0,4$ lên 200 đô, kinh khủng, công ty có tài sản net khoảng 140 tỷ đô, Zuck sở hữu 71 tỷ đô do nghịch ngợm mà nên. Giờ có tiền y đi chém gió, cưỡi trâu cũng thành sự kiện truyền thông mà không nhớ suýt bị đuổi học.
Hàng đêm VN có nửa dân số thức đếm like trên FB, nghe nói quốc gia này mang lại cho FB tới 500 triệu đô/năm. Những Fbker thuộc câu lạc bộ ngàn like kiếm tiền nuôi bồ là do những người like đóng góp. Huy San bảo bắt ai là người đó bị bắt, dân sướng rên nên like tặng tiền. Thảo Mượt văng tục cũng ra tiền do bạn đếm l** tặng like.
Muốn có mạng XH kiểu Zuckerberg có lẽ bắt đầu bằng trò đơn giản kiểu “nóng hay không nóng” như đám sinh viên Harvard để dân chúng bỏ việc ngồi “thík”, càng đông càng nhiều tiền. “Triết lý FB” nghe xa quá, với lại dân ta nghe triết gần thế kỷ đủ rồi.
Phát triển mạng XH phải hấp dẫn để trai gái yêu nhau, thay vì rủ rỉ tâm sự ven hồ cho lãng mạn, thì chúng dán mắt vào smartphone...vầy
“Gái yêu dở dại dở khôn//Đêm dăm ba bận dạng l*n đếm like//Trai yêu dở sống dở die (chết)//Ngày dăm ba lượt dí like vào l*n”.
Đảm bảo tiền về hơn Facebook, nói thật ý.
Cua Times

nhận xét hiển thị trên trang

NHỮNG NGỘ NHẬN VỀ NƯỚC NGA



Nguyễn Trần Sâm-
Dân tộc Nga là một trong những dân tộc vĩ ại. Nó đã sản sinh ra cho nhân loại những tên tuổi lớn như Pushkin, Tolstoy, Dostoyevsky,… trong văn học; Chaikovsky, Shostakovich,… trong âm nhạc,…; Kolmogorov, Pontryagin,… trong toán học; Mendeleyev, Cherenkov, Kapitsa,… trong khoa học tự nhiên – những tên tuổi đã tạo ra không ít những giá trị lớn lao. Đó cũng là một dân tộc đã góp phần quyết định vào việc loại bỏ họa phát-xít, giúp cho loài người được sống tương đối bình yên trong mấy chục năm qua.
Vào những năm từ cuối thập niên 50 đến đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, những thanh thiếu niên từ đất nước Việt Nam đang chìm trong khói lửa và những khổ ải do chiến tranh gây ra, được đến với một nước Nga mà mọi thứ đối với họ giống như ở thiên đường. Không chỉ mức sống cao hơn ở Việt Nam hàng chục lần, mà sự đối xử giữa những con người với nhau cũng thật sự mẫu mực. Những thầy cô người Nga và nhiều người lớn khác thì coi những thanh thiếu niên Việt Nam như thể con mình. Từng được sống trong bầu không khí đầy tình người đó, những người Việt Nam mãi mang trong tim tình yêu và sự biết ơn, không chỉ với những người Nga cụ thể, mà với cả dân tộc Nga nữa.
Trong những tháng năm khói lửa của cuộc chiến tranh khốc liệt, nhiều người Nga đã sát cánh với người Việt Nam. Nhà nước Liên Xô mà lực lượng nòng cốt là người Nga đã dành cho VN một sự chi viện to lớn.
Đó là sự thật không thể phủ nhận.
Tuy nhiên, không thể vì tình cảm mà có những ngộ nhận theo kiểu tô hồng mọi mặt, đặc biệt khi thời thế đã thay đổi. Trong số những người ngộ nhận kiểu đó có cả những quan chức và học giả trên bậc thang rất cao (bộ trưởng, giáo sư, hoặc hơn thế nữa). Xin nêu một vài điều ngộ nhận phổ biến và nhận định tương ứng của chúng tôi.
Ngộ nhận thứ nhất: Người Nga tốt nhất thế giới và đại đa số dân Nga hiện nay vẫn yêu VN như thời VN chống Mỹ.
Đúng là đã từng có nhiều người Nga rất tốt. Nhưng ngày nay nếu sang Nga, người Việt không còn được thấy con người trong xã hội Nga hiện nay tốt như thế nữa. Một số tầng lớp còn có thái độ bài Việt điên cuồng. Để lý giải về điều này, cần phải viết nhiều trang. Ở đây chúng tôi chỉ xin nói sơ qua về ba lý do: 1) tư cách của nhiều người Việt ở Nga không tốt; 2) xã hội Nga đã thay đổi, mối quan tâm của con người ngày nay khác trước; 3) sự tốt bụng thể hiện trước đây chủ yếu là thật, nhưng cũng có vài chục phần trăm là do được khích lệ bởi các yếu tố chính trị.
Cũng nên nhớ rằng không phải chỉ người Nga mới tốt. Quý vị hãy đi những nước khác nữa. Ở những nơi khác cũng rất nhiều người tốt, thậm chí cực tốt, mà đó là lòng tốt tự nó có, không được nhân lên bởi các yếu tố chính trị.
Người Nga sang phương Tây còn bị kỳ thị, có phần giống như người Việt, người Trung Quốc. Những hiện tượng như trong các giải bóng đá quốc tế, người Nga hay bị chơi xỏ (người Việt ở Đông Nam Á cũng vậy) có lý do của nó. Với chính sách đối ngoại, và cả đối nội, của mình, chính giới Nga đang làm cho hình ảnh nước Nga ngày một xấu đi trong con mắt bạn bè quốc tế.
Ngộ nhận thứ hai: Nga là cường quốc hạng 1 thế giới, ngang hàng với Mỹ.
Nhiều người cho rằng Liên Xô trước đây và nước Nga ngày nay có sức mạnh ngang hàng với Mỹ. Điều này không đúng. Về kho vũ khí, quả là Nga có những thứ mà người Mỹ cũng phải gờm; nhưng Mỹ còn có nhiều thứ ghê gớm hơn. Tuy nhiên, chúng tôi không muốn tranh luận về điều này. Còn về mặt kinh tế và tầm ảnh hưởng thì Nga thua Mỹ rất nhiều. Tổng thu nhập quốc nội của Mỹ năm 2013 là 16.8 ngàn tỉ USD (với 318 triệu dân), của Nga chỉ vào khoảng 2 ngàn tỉ USD (rất khó tìm con số chính thức) với 143 triệu dân. Với tiềm lực kinh tế chưa bằng 1/8 của Mỹ, nếu Nga dốc sức chạy đua vũ trang thì kinh tế nước này sẽ nhanh chóng kiệt quệ.
Về đời sống, kể cả thu nhập lẫn những quyền tự do, dân chủ và mối quan hệ giữa người với người, nước Nga còn thua phương Tây nhiều lắm. Nếu có điều kiện, quý vị hãy đi mà so sánh.
Về quan hệ đồng minh, Nga chỉ còn nắm được vài quốc gia lạc hậu nhất ở Trung Á, vốn thuộc Liên Xô trước đây. Tất cả những nhà nước cựu Soviet “có máu mặt” đều lần lượt bỏ Nga để quay sang Tây. Đầu tiên là 3 nước Baltic, sau đó đến Moldova, Gruzia, rồi Ukraina, sắp tới là Bạch Nga (Belarus). Đó là lý do khiến người Nga, đặc biệt là Putin, rất điên tiết. Và khi điên thì họ càng không hiểu được rằng cần tự hỏi tại sao người ta lại bỏ mình mà đi. Hiện Nga đang phải ve vãn Trung Quốc, vài nước trong nhóm BRICS và vài nước Mỹ Latin, thậm chí cả Triều Tiên, để bớt trơ trọi. Trong khi đó, số các nước đồng minh và thân Mỹ ít nhất đã có vài ba chục.
Ngộ nhận thứ ba: Putin là chính khách số 1 của thế giới. Putin cũng yêu VN như người VN yêu nước Nga. VN là đối tác quan trọng nhất của Nga.
Những người ngưỡng mộ Putin ở Việt Nam, kể cả những giáo sư hay viện trưởng viện nghiên cứu này nọ, khi nói về ông ta đều thể hiện cái vẻ làm cho người nghe có cảm giác họ rất gần gũi với ông ta. Họ đặt mình vào vị trí người phát ngôn của Putin và có vẻ rất hãnh diện về vài trò tự nhận ấy. Có những điều mà chính Putin không dám nói, nhưng mấy phát ngôn viên này nói thẳng ra với vẻ rất hăng. Thí dụ gần nhất là về vụ MH17. Trong khi Putin không hề phủ nhận trách nhiệm của lực lượng thân Kreml trong việc bắn hạ (nên nhớ chỉ có truyền thông Nga phủ nhận), thậm chí còn bóng gió biện hộ cho hành động man rợ này, thì các phát ngôn viên này cực lực lên án thái độ của phương Tây. Và họ cũng thường xuyên dẫn lời, tổng thống Vladimir Putin nói thế này, tổng thống Vladimir Putin nói thế nọ, giống hệt như Lenin nói thế này, Lenin nói thế nọ trước đây. “Cảnh cáo Mỹ đến Crưm, tổng thống Putin không đùa!” một vị tướng nói. “Với toàn bộ tầm nhìn chiến lược toàn cầu của Putin cũng như của nước Nga,… chuyện chấp nhận để Trung Quốc để thao túng ở Biển Đông rồi đe dọa Việt Nam, trước hết là một đồng minh chiến lược của nước Nga ở Đông Nam Á, chắc chắn Nga sẽ không thể chấp nhận”, một vị TSKH viết. Dân thường như tôi, nghe họ nói mà phục sát đất, kính nể vô cùng!
Nhưng thật mỉa mai! Ngay vào lúc có biết bao nhiêu người Việt hy vọng ông anh Nga đe TQ không được ăn hiếp VN thì Putin đến Thượng Hải ôm hôn Tập Cận Bình, ký một loạt những hợp đồng lớn, và không hề quan tâm chút nào đến nguyện vọng của mấy vị tướng với giáo sư người Việt.
Ngộ nhận thứ tư: Các nhà lãnh đạo VN có thể khéo léo “khuyên nhủ” để lãnh đạo Nga đưa nước này trở về chế độ Soviet như trước đây hoặc một chế độ tương tự như vậy.
Đúng là Putin hiện nay đang cai quản nước Nga theo kiểu khá giống với thời kỳ độc đảng. Đa đảng, nhưng các đảng khác quá yếu. Và với những mưu ma chước kiểu KGB, Putin đã triệt hạ mọi đối thủ chính trị tiềm năng.
Tuy nhiên, ông ta làm điều này không phải vì các “đồng chí” lãnh đạo VN. Ông ta làm vì chính ông ta. Khi thấy chế độ Soviet tan rã, Putin đã tỏ ra sẵn sàng phục vụ ông chủ mới, lúc đó là Yeltsin. Với tham vọng một mình cai quản thiên hạ, ngay cả chế độ Soviet cũng không thể làm ông ta vừa lòng. Tham vọng quyền lực thể hiện ra trong mười mấy năm qua cho thấy rõ điều đó. Mô hình nhà nước mà ông ta thích là kiểu nhà nước của al-Assad, Gaddafi, Saddam Hussein. Cũng vì tham vọng quyền lực vô hạn mà ông ta đã không chịu nổi khi Gruzia và Ukraina có ý định ngả theo EU. Năm 2008, ông ta đã dội bom xuống Tbilisi chính vì lý do đó. Các đồng chí VN cũng ít nhiều cần cho ông ta, nhưng không thật sự quan trọng. Và với tính tự cao không giới hạn, khi nói những lời mỹ miều về lãnh đạo VN, chắc chắn ông ta cười thầm trong bụng.
Có một người trên đường đi chỉ dừng lại ở nước Nga vài ngày, nhưng đã có những cảm nhận rất đúng về nước Nga. Đó là nhà văn Đào Hiếu. Trong phần cuối của tiểu thuyết Lạc Đường, mặc dù thừa nhận “Nước Nga có một quá khứ huy hoàng, một nền nghệ thuật vĩ đại, một cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại”, ông vẫn nhận ra ngay nước Nga hiện tại thật lạc lõng trong thế giới này và có những mặt tầm thường.
Một người khác, nhà văn, nhà thơ, dịch giả Thái Bá Tân, người đã từng ở Nga khá lâu, đã viết những dòng sau đây về nước Nga ngày nay:
“Giá cả cao ngất ngưởng, Người Nga mặt đăm chiêu, Công khai ghét người Việt. Người da đen cũng nhiều. Quảng trường Đỏ vẫn thế. Vẫn thế lăng Lênin, Không ai xếp hàng viếng, Thậm chí chẳng ai nhìn.”
Nói những điều trên, chúng tôi không muốn khẳng định rằng nước Nga xưa kia cái gì cũng tốt, còn bây giờ thì cái gì cũng dở. Không. Cái dở hiện nay chính là hậu quả của một cái gì đó ẩn sâu bên trong cấu trúc xã hội mà chưa được nhận ra khi mọi thứ đang còn êm ả ngoài bề mặt. Giống như việc hai ông cán bộ già ở ta, trong vở kịch Ông Không Phải Là Bố Tôi của Lưu Quang Vũ, khi ôn lại quá khứ những năm đầu thập niên 1950, đã nhận ra: “Hóa ra những cái lộn xộn bây giờ bắt đầu từ thời đó.”
Sống trong thế giới ngày nay, không thể dùng lối nghĩ của 40-50 năm về trước được nữa. Trong một vấn đề như xung đột Nga-Ukraina, không thể chỉ nhìn bằng con mắt của những người “tựa mạn thuyền rồng” (“thuyền rồng” ở đây là nước Nga và Putin). Vậy còn cách nhìn của những người từng du học ở Ukraina và chịu ơn những con người ở đó, và cách nhìn của nhiều người khác nữa, thì sao?
BAOMOI.COM
Chủ tịch Quốc hội Nga đang nêu lên khả năng thay đổi hiến pháp khi có thông tin rằng điện Kremlin đang xem xét cách để ông Putin có thể tiếp tục làm tổng thống sau khi hết nhiệm kỳ hiện tại. Theo hiến pháp hiện hành, ông Putin sẽ khôn...


nhận xét hiển thị trên trang