Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 30 tháng 8, 2018

CHÍNH PHỦ NÓI SẼ KHÔNG CHIẾM ĐOẠT DINH THỰ VUA MÈO




Bộ trưởng Mai Tiến Dũng:
Nhà nước không trưng thu dinh thự "Vua Mèo"

Người lao động
30/08/2018 19:37

(NLĐO)- Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng cho biết UBND tỉnh hà Giang đã chỉ đạo Sở TN-MT thu hồi sổ đỏ dinh thự "Vua Mèo" đã cấp cho Phòng Văn hóa - Thông tin Huyện Đồng Văn và quan điểm của Chính phủ là không có chuyện trưng thu dinh thự của "Vua Mèo". 


Tại buổi họp báo Chính phủ thường kỳ vào chiều 30-8, trả lời câu hỏi Báo Người Lao Động về quan điểm của Chính phủ đối với việc sở hữu và quản lý dinh thự "Vua Mèo" tại Hà Giang và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) khu dinh thự này nên cấp cho ai, giao ai quyền quản lý...?, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng cho biết mục tiêu của việc lập hồ sơ di tích quốc gia và di tich quốc gia đặc biệt là nhằm xây dựng các phương án bảo tồn, phát huy các giá trị. 

"Việc xếp hạng di tích không nhằm để xác lập hay chuyển quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất của di tích"- ông Dũng nhấn mạnh.

Ông Mai Tiến Dũng cho biết thêm sau khi nhận được phản ánh của ông Vương Duy Bảo (cháu nội "Vua Mèo" Vương Chí Sình), Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo UBND tỉnh Hà Giang rà soát, báo cáo vào ngày 31-8.

"UBND tỉnh Hà Giang đã rà soát, chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Giang thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho Phòng Văn hóa - Thông tin Huyện Đồng Văn. Vụ việc rất rõ ràng, chúng ta phải tôn trọng giữ gìn di tích, chúng ta khẳng định cơ quan nhà nước không trưng thu tài sản đó. Trong quá trình thực tiễn, liên quan đến trước đây có đầu tư, tu bổ, khi nhận được báo cáo cụ thể của UBND tỉnh Hà Giang, Chính phủ sẽ có thông tin chính thức"- Bộ trưởng Mai Tiến Dũng nói.

Trước đó ngày 21-7, ông Vương Duy Bảo (cháu nội vua Mèo Vương Chí Sình) có đơn gửi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đề nghị giải quyết trả lại mảnh đất gắn với tòa dinh thự hơn 100 tuổi của họ Vương.

Trong đơn, ông Bảo bày tỏ bức xúc khi biết UBND tỉnh Hà Giang đã cấp sổ đỏ cho Phòng Văn hóa Thông tin Huyện Đồng Văn sử dụng lâu dài mảnh đất gắn liền với tòa dinh thự họ Vương từ năm 2012.

Ngày 16-8, Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình có văn bản yêu cầu UBND tỉnh Hà Giang, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch báo cáo tổng quan quá trình xử lý, giải quyết kiến nghị của ông Vương Duy Bảo về các vấn đề liên quan đến tòa dinh thự họ Vương.

Sau khi nhận chỉ đạo của Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình về việc yêu cầu UBND tỉnh Hà Giang và Bộ VH-TT-DL có báo cáo tổng quan và quá trình xử lý các vấn đề liên quan đến tòa dinh thự họ Vương tại xã Sà Phìn (huyện Đồng Văn), trong đó có việc cấp giấy chứng nhận sử dụng đất của tòa dinh thự, UBND tỉnh Hà Giang đã chỉ đạo Sở TN-MT, Sở VH-TT-DL, UBND huyện Đồng Văn xác minh, làm rõ việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tòa dinh thự họ Vương cho Phòng VH-TT huyện Đồng Văn.

Theo báo cáo của của các ngành chức năng tỉnh Hà Giang, ngày 19-7-2012, Sở TN-MT tỉnh Hà Giang giao cho Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất và Phát triển quỹ đất phối hợp với Phòng VH-TT huyện Đồng Văn (đơn vị được UBND huyện Đồng Văn giao quản lý khu di tích kiến trúc nghệ thuật nhà Vương) thực hiện đăng ký, kê khai và đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khu di tích kiến trúc nghệ thuật nhà Vương.

Ngày 11-9-2012, thừa ủy quyền của chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang, giám đốc Sở TN-MT ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khu dinh thự "Vua Mèo" cho Phòng VH-TT huyện Đồng Văn.



Minh Chiến - Thế Dũng

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trật tự thế giới: Phiên bản nào?


Sự trổi dậy không mang tính hòa bình như rêu rao mà ngược lại đầy tính gây hấn, trên Biển Đông cũng như trong các chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với các quốc gia láng giềng và khắp nơi, đã làm bao người quan ngại đối với nền trật tự hiện nay và nền hòa bình tương lai. Trung Quốc có tham vọng bá quyền và có khả năng qua mặt Hoa Kỳ về kinh tế trong một thập niên rưỡi, tuy về mặt quân sự và khoa học kỹ thuật thì còn xa mới bắt kịp, ít nhất là ba thập niên nữa.

Cuối cùng thì tương lai của trật tự thế giới chủ yếu tuỳ thuộc vào tài năng lãnh đạo chính trị của Hoa Kỳ và Trung Quốc. Kết quả bầu cử Hoa Kỳ vào ngày 8 tháng 11 năm 2016 đã gây sốc không những cho người Mỹ mà toàn thế giới. Không lâu sau đó, giới lãnh đạo chính trị Úc nhìn thấy nhu cầu cấp bách trong việc hoạch định lại chính sách ngoại giao, dưới thời Trump và xa hơn. Từ tháng 12 năm 2016 đến tháng 5 năm 2017, Đặc vụ Bạch thư Chính sách Ngoại giao Úc đã tổ chức được 24 thảo luận bàn tròn trên khắp nước Úc, gặp mặt trao đổi với hơn 60 chuyên gia hàng đầu của Úc về chuyên đề này, và nhận hơn chín ngàn hai trăm đệ trình [1].

Đặc vụ này cũng đã tiếp xúc với đủ mọi thành phần trong xã hội Úc, từ sinh viên, nông gia, lãnh đạo doanh nghiệp, giới khoa bảng cho đến đại diện của bao nhiêu tổ chức xã hội dân sự trên khắp Úc để tìm hiểu nguyện vọng và quan điểm của họ. Tháng 3 năm 2017, Bộ Ngoại giao và Thương mại Úc (DFAT) triệu tập tất cả các đại sứ, ủy viên cao cấp và tổng lãnh sự từ khắp nơi trên thế giới về thủ đô Canberra để bàn về các mục tiêu ngoại giao, thương mại và chính sách phát triển trong bối cảnh chính trị toàn cầu bất định hiện nay [2].

Giới lãnh đạo chính trị Úc nhận định rất rõ tầm quan trọng của việc hoạch định một chiến lược ngoại giao có tầm nhìn năm đến mười năm để giúp lèo lái quốc gia trong bối cảnh chính trị mới. Đó là sức mạnh của Hoa Kỳ đã gia giảm mà lãnh đạo hiện nay lại có vẻ không muốn tiếp tục nhiệm vụ của mình, trong khi sự trổi dậy của Trung Quốc tuy góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của Úc trong những thập niên qua nhưng đã gia tăng những quan ngại về an ninh quốc phòng và xâm nhập tình báo mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) rõ ràng đứng phía sau.

Một năm sau, với bao nhiêu tham khảo và tranh luận sôi nổi và bao nỗ lực lớn lao trong việc vận dụng trí tuệ và chuyên môn hàng đầu của quốc dân, đứng đầu là Bộ Ngoại giao và Thương mại Úc DFAT, chính quyền Úc đã công bố Bạch thư này vào ngày 23 tháng 11 năm 2017 [3]. Trong Bạch thư này, Úc ghi nhận là không riêng gì Úc mà hầu như toàn cầu đang ở trong giai đoạn thử thách đối với những luật lệ và nguyên tắc mà trước nay đã là nền tảng vững chắc cho sự hợp tác quốc tế. Xu hướng chống lại toàn cầu hóa, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, sự thay đổi cán cân quyền lực toàn cầu, và sự cạnh tranh địa chính trị đang trắc nghiệm trật tự quốc tế. Úc ghi nhận sau Thế Chiến II, nền an ninh và thịnh vượng của Úc đã được trợ giúp bởi lãnh đạo toàn cầu của Hoa Kỳ, nền kinh tế toàn cầu ngày càng rộng mở và sự phát triển của các định chế và luật lệ quốc tế. Các nguyên tắc như thị trường mở, tầm quan trọng của luật lệ và quy tắc để hướng dẫn sự hợp tác quốc tế, sự công khai ghi nhận các quyền và tự do phổ quát, và nhu cầu để các nhà nước phối hợp chặt chẽ với nhau đối với các thử thách toàn cầu, đã giúp cho Úc đạt được các quyền lợi và giá trị của mình. Đặc biệt Úc ghi nhận tầm quan trọng của vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ để bảo đảm nền an ninh toàn cầu, kể cả xuyên qua các mạng lưới đồng minh của Hoa Kỳ và sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại Á châu và Âu châu.

Nói tóm lại, Úc đề cao giá trị của trật tự quốc tế do Hoa Kỳ hình thành và lãnh đạo, cho Úc cũng như sự thịnh vượng toàn cầu, kể từ hậu Thế Chiến II đến nay.

Vài hàng về chữ nghĩa

Trước khi đi vào chi tiết, tôi xin dành vài hàng để nói về chữ nghĩa. Tiếng Anh, chữ liberty có nghĩa là tự do. Theo tự điển Oxford thì liberty là trạng thái được tự do trong xã hội từ các ràng buộc mang tính cưỡng chế áp đặt bởi uy quyền (hay chính quyền) lên cách hành xử hay quan điểm chính trị của một người. Chữ Liberal thì nhiều người Việt dịch là tự do, như Liberal Party là Đảng Tự do, là không chính xác. Liberal, cũng theo tự điển Oxford, có nghĩa là sẵn sàng tôn trọng hoặc chấp nhận cách hành xử hoặc ý kiến khác với cái của mình; cởi mở với các ý tưởng mới; tôn trọng các quyền và tự do cá nhân v.v… Nói cách khác, liberal nên hiểu là phóng khoáng hay cấp tiến. Liberalism (hay liberals, tức những người theo chủ nghĩa này), là một triết học chính trị ảnh hưởng nhất đối với Tây phương, điển hình là các triết gia Rene Descartes từ thế kỷ 17, John Locke thế kỷ 17/18, John Stuart Mill thế kỷ 19 và John Rawls thế kỷ 20. Chủ nghĩa này cũng có bao nhiêu nhánh khác nhau, nhưng tựu chung đề cao hai giá trị chính: tự do (liberty) và bình đẳng (equality). Phần lớn những người theo xu hướng này đề cao giá trị tự do hơn bình đẳng. Ngoài ra, xu hướng này đề cao sự tiến bộ không ngừng của xã hội, đặt nặng vai trò của lý luận và của khoa học kỹ thuật. Do đó chủ nghĩa/người cấp tiến là thích hợp nhất cho liberalism/liberal.

Trở lại Bạch thư này, cụm từ trật tự quốc tế dựa trên quy luật (rules-based international order), trật tự quốc tế (international order), hay trật tự dựa trên quy luật (rules-based order) được sử dụng nhiều lần. Trước, trong và sau khi Bạch thư này được công bố, các chuyên gia và các nhà khoa bảng cũng tranh luận rất nhiều về các chữ nghĩa hay định nghĩa này. Một tên khác phổ biến hơn từ nhiều thập niên qua là trật tự quốc tế cấp tiến (liberal international order) nhưng cuối cùng Bạch thư chọn rules-based international order có lẽ vì hai lý do chính. Một, để trung hòa hơn, vì chính quyền hiện nay là thuộc liên Đảng Cấp tiến (Liberal Party) và Đảng Quốc gia (National Party) trong khi đây là chính sách cho toàn quốc gia. Hai, để đề cao yếu tố quy luật trong trật tự này. Hoa Kỳ, phần lớn, tôn trọng luật quốc tế và hành xử đúng mực, nhưng không phải lúc nào cũng thế. Khi cần Hoa Kỳ vẫn cho mình là ngoại lệ hoặc/và ngoại hạng. Với cung cách hành xử của Trump cùng với những thách thức lớn lao lên nền trật tự hiện nay, đặc biệt từ Trung Quốc tại Biển Đông và mộng bá quyền của họ, các nhà chính trị và ngoại giao Úc vì thế mà quyết định cần phải nhấn mạnh đến trật tự quốc tế dựa trên quy luật.

Trật tự qua lăng kính của chủ nghĩa cấp tiến

Tại Hoa Kỳ, tức cái nôi của trật tự này, cuộc tranh luận về nguồn gốc, động cơ và tiến trình của trật tự này cũng tốn bao nhiêu bút mực và giấy in. Gần đây nhất là các bài viết trên các số mới nhất của tạp chí Foreign Affairs, tạp chí hàng đầu của Hoa Kỳ về các vấn đề ngoại giao. Cụm từ liberal international order được sử dụng nhiều nhất, nhưng thỉnh thoảng các chữ trật tự thế giới hay trật tự toàn cầu (world order or global order) cũng được dùng.

Liền sau khi Trump thắng cử cuối năm 2016, nhà khoa học chính trị nổi tiếng Joseph S. Nye Jr, tác giả của “quyền lực mềm”, đã bày tỏ quan ngại đối với tương lai của trật tự [4]. Theo Nye thì trật tự quốc tế cấp tiến xuất hiện sau năm 1945 là sự bố trí lỏng lẻo của các định chế đa phương trong đó Hoa Kỳ cung cấp các mặt hàng công cộng toàn cầu như chế độ thương mại tự do hơn và tự do của biển cả, và các quốc gia yếu hơn được sự bảo vệ từ sức mạnh của Hoa Kỳ.

Theo Nye thì Hoa Kỳ đã cho Anh vây khoản tiền lớn, ủng hộ các chính phủ tại Hy Lạp và Thổ Nhỉ Kỳ theo xu hướng Tây phương năm 1947, đầu tư rất lớn vào việc tái kiến thiết Âu Châu qua Kế hoạch Marshall năm 1948, lãnh đạo liên minh bảo vệ sự xâm chiếm Nam Hàn năm 1950, và ký hiệp định an ninh mới với Nhật năm 1960. Các hành động này cũng như những việc khác đã tăng cường sức mạnh của trật tự và kiềm chế quyền lực của Sô Viết. Tuy ghi nhận nhiều vấn đề và giới hạn của nó, Nye biện luận rằng sự thành công quá rõ của trật tự này trong việc bảo đảm và ổn định thế giới trong hơn bảy thập niên qua đã đưa đến sự đồng thuận mạnh mẽ rằng bảo vệ, tăng cường và mở rộng hệ thống này là nhiệm vụ trọng yếu của chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ. Nye kết luận rằng người Mỹ và dân tộc khác có thể không để ý đến an ninh và thịnh vượng mà trật tự này đã cung cấp cho đến khi không còn nữa, và tới lúc đó thì đã quá trễ.

Một trong các học giả hàng đầu về chủ nghĩa cấp tiến quốc tế hiện nay là G. John Ikenberry, giáo sư chính trị và bang giao quốc tế tại Đại học Princeton có cùng quan điểm này. Ikenberry biện luận rằng nếu Trump thực hiện các lời hứa bầu cử của mình về thương mại, liên minh, luật quốc tế, đa phương, bảo vệ môi trường, tra tấn và vấn đề nhân quyền, thì nó sẽ kết thúc vai trò của Hoa Kỳ như là người bảo đảm cho trật tự thế giới cấp tiến (liberal world order) [5]. Khi Trump tuyên bố “Kể từ nay trở đi, Hoa Kỳ sẽ là trên hết”, thì Trump đã đặt vấn đề với những thành tựu mang lại do nền trật tự Hoa Kỳ thiết lập trước đây. Đối với người cấp tiến, bảy thập niên qua tuy không hoàn hảo nhưng Hoa Kỳ cũng như trật tự này đã đem lại những thành tựu lớn lao. Ikenberry nhận định trong suốt thời gian này Hoa Kỳ đã vận dụng được quyền lực nhất trên sân khấu chính trị, vậy mà Trump lại cho đây là thời đại mà quốc gia mất mát và suy sụp. Sự thách thức của Trump cho nền trật tự cấp tiến là rất nguy hiểm vì nó coi thường các quy tắc và giá trị của nền dân chủ cấp tiến. Tổng thống lại đi đặt vấn đề về tính chính đáng của các thẩm phán liên bang, tấn công vào truyền thông, và không tỏ vẻ tôn trọng Hiến pháp hay nền pháp trị. Các sự thật, bằng chứng, kiến thức khoa học, sự cần mẫn và cẩn trọng trong công việc, đàm thoại lý luận – các yếu tố cần thiết trong đời sống chính trị dân chủ - bị phỉ báng hàng ngày. Do đó Ikenberry nhận định từ xưa đến nay, trật tự được thiết kế bởi các cường quốc đến rồi đi, nhưng họ thường kết thúc bằng bị ám sát, không phải bằng tự sát. Thế mà Hoa Kỳ, một cường quốc hàng đầu thế giới, lại bắt đầu tự phá huỷ lấy trật tự mình xây dựng nên!

Năm sau, cũng trên tạp chí Foreign Affairs, số mới nhất tháng Bảy/Tám, Ikenberry tỏ vẻ lạc quan hơn về sự tồn tại của trật tự này. Có lẽ một phần là do sự thay đổi đáng kể trong thái độ và chính sách mà chính phủ Trump đã thực hiện trong gần một năm qua. Cùng viết với Daniel Deudney, hai vị giáo sư này nhận định rằng rằng Trung Quốc và Nga đã làm tiêu tan mọi hy vọng chuyển hóa sang dân chủ, trong khi Hoa Kỳ và Anh, hai nước bảo hộ của trật tự quốc tế cấp tiến, lại tự chọn thái độ tự huỷ [6]. Tuy nhiên hai ông tin rằng chủ nghĩa cấp tiến (liberalism) trong đó nền dân chủ cấp tiến (liberal democracy) như là một hệ thống chính quyền, và nền trật tự cấp tiến (liberal order) như là một khung sườn định hình chính trị quốc tế, sẽ tiếp tục ngự trị. Lý do, theo hai ông, vì tính cách tương thuộc (interdependence). Khi sự tương thuộc về kinh tế, an ninh và môi trường càng gia tăng, thì người dân và chính phủ khắp nơi sẽ phải làm việc với nhau để giải quyết vấn đề, nếu không sẽ bị tổn hại nghiêm trọng trên bình diện toàn cầu.

Hai giáo sư nhận định sau Thế Chiến II, các nền dân chủ cấp tiến đã hợp tác để tạo ra một trật tự mà phản ảnh quyền lợi chung của họ. Sau hơn bảy thập niên, mặt dầu có những điểm bất toàn của nó, nó đã bám rễ quá sâu, trong đó hàng trăm triệu người, nếu không phải là tỷ người, đã có những hoạt động và mong đợi nhắm vào các định chế và khuyến khích của trật tự này, cho nên không dễ gì thay đổi nó. Nếu nghĩ rằng một vài năm theo xu hướng mị dân mà quốc gia sẽ đột ngột thay đổi chủ nghĩa cấp tiến là điều không tưởng. Các xã hội tư bản dân chủ cấp tiến đã phát đạt và mở mang vì nó rất giỏi trong việc kích thích và vận dụng sáng tạo nhưng đồng thời giải quyết các ảnh hưởng quá đà của chính nó hay các yếu tố tiêu cực ngoại cuộc.

Các tranh luận về trật tự

Tuy áp đảo, biện luận này đã bị phê bình từ nhiều học giả và khuynh hướng khác nhau. Phản biện lại cái nhìn của Ikenberry là giáo sư chính trị học Graham Allison, người đã đặt tên “bẫy Thucydides” [7]. Allison biện luận rằng xu hướng đang ngự trị hiện nay (tức cấp tiến) đưa ra ba luận điểm chính [8]. Một, trật tự cấp tiến đã là nguyên nhân chính của nền hòa bình lâu dài giữa các cường quốc trong bảy thập niên qua. Hai, thiết kế nền trật tự này là động lực chính của khế ước Hoa Kỳ đối với thế giới trong giai đoạn đó. Ba, tổng thống Hoa Kỳ hiện nay Donald Trump là mối đe dọa chính của nền trật tự này, và qua đó nền hòa bình thế giới.

Allison phê bình các luận điểm của Ikenberry, Nye và luôn cả lời kêu gọi của cựu phó tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden trong những ngày cuối của chính quyền Obama “hãy hành động khẩn cấp để bảo vệ nền trật tự quốc tế cấp tiến”. Allison cho rằng tuy tất cả các mệnh đề trên đều chứa đựng một số tự thật, mỗi cái có nhiều phần sai hơn đúng. Nền hòa bình lâu dài không phải là kết quả của trật tự cấp tiến mà là phó sản của sự cân bằng quyền lực nguy hiểm giữa Sô Viết và Hoa Kỳ trong bốn thập niên rưỡi của Chiến tranh Lạnh, rồi một giai đoạn ngắn thống trị của Hoa Kỳ. Khế ước Hoa Kỳ đối với thế giới không được định hình bởi lòng ham muốn được phát huy chủ nghĩa cấp tiến ở ngoài nước hoặc để xây dựng một trật tự quốc tế mà là nhu cầu phải làm những gì cần thiết để duy trì nền dân chủ cấp tiến ở trong nước. Và mặc dầu Trump đang phá hoại các yếu tố căn bản của nền trật tự hiện tại, ông không hề là mối đe dọa lớn nhất đối với nền ổn định toàn cầu.

Tóm lại, Allison biện luận thay vì đi tìm trở lại một quá khứ tưởng tượng cho rằng Hoa Kỳ đã uốn nắn hình thành thế giới như thế trong sự hình dung của mình, Hoa Thịnh Đốn nên giới hạn các nỗ lực của mình để bảo đảm một trật tự bên ngoài vừa đủ để tập trung vào việc tái xây dựng nền dân chủ cấp tiến sống động hơn tại nước mình.

Allison phân tích các lập luận của mình như sau. Trước hết sự thiết kế của Liên Hiệp Quốc cũng đã có vài vấn đề không bình đẳng hay công bằng. Chẳng hạn như Hội đồng Bảo an LHQ được năm cường quốc (Anh, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga và Pháp) có ghế ngồi thường trực và có quyền phủ quyết, do đó cho họ cái quyền ngoại lệ, khi nào phù hợp với mục đích của mình thì ủng hộ, nói chung là tuỳ tiện. Còn việc hình thành các định chế quốc tế khác và cả NATO chủ yếu là để kiềm chế và ngăn chặn Liên Sô. Allison cũng phê bình các chính sách đơn phương của Hoa Kỳ sử dụng vũ lực để tấn công các quốc gia khác, từ việc ném bom Belgrade, Serbia đến xâm chiếm Iraq và Afghanistan v.v…

Allison nhận định trong các đe dọa mang tính cách sinh tử đối với nền trật tự toàn cầu, Trump là một nhưng không phải là cái hệ trọng nhất. Hành động Trump rút ra khỏi các nỗ lực mà các chính quyền trước tìm cách hạn chế khí thải nhà kính hay cổ võ thương mại gây nhiều lo lắng, và sự hiểu lầm của Trump về sức mạnh cần phải có sự đoàn kết với đồng minh, thì thật quấy rối. Nhưng sự trổi dậy của Trung Quốc, sự hồi phục của Nga, và sự suy thoái quyền lực toàn cầu của Hoa Kỳ, đã là những thử thách lớn hơn Trump nhiều. Allison kể rằng trong chuyến đi sang Trung Quốc gần đây, một trong các viên chức cao cấp trong chính quyền đã đặt câu hỏi thật khó trả lời cho ông. Đó là phần lớn giới ưu tú Hoa Kỳ nhận định tính cách và kinh nghiệm của Trump không thích hợp để làm lãnh đạo của một quốc gia vĩ đại. Vậy thì đổ lỗi cho ai? Trump, cơ hội chủ nghĩa giành lấy thắng lợi, hay hệ thống chính trị đã cho phép ông đạt được điều đó?

Trước thời Trump, giai cấp chính trị đã mang lại các cuộc chiến chưa chấm dứt và không thành công như ở Afghanistan, Iraq và Libya, cộng với sự khủng hoảng tài chánh và đại suy thoái, đã làm mất uy tín của chính mình. Những thảm hoạ này đã làm suy yếu sự tự tin trong nền tự trị cấp tiến hơn những gì Trump có thể gây nên. Thử thách quan trọng nhất đối với những người Mỹ tin vào nền quản trị dân chủ là việc tái xây dựng nền dân chủ hữu hiệu ngay tại nước mình. Allision cho rằng để làm được điều đó, Hoa Kỳ không cần phải cải hóa người Trung Quốc, người Nga hay bất cứ một ai khác sang niềm tin của người Mỹ về giá trị tự do. Và nó cũng không nhất thiết phải thay đổi các chế độ khác trở thành dân chủ. Allison trích phần phát biểu của cố tổng thống John F Kennedy năm 1963 rằng chỉ cần làm sao duy trì nền trật tự thế giới “an toàn cho đa nguyên”, tức bao gồm các quốc gia dân chủ lẫn phi dân chủ, là cũng đủ rồi.

Những người theo chủ nghĩa hiện thực (realism) cũng mạnh mẽ phản biện quan điểm của xu hướng cấp tiến về trật tự này. Giáo sư lịch sử và bang giao quốc tế Stephen Kotkin không nhìn nhận những định chế đa phương và các tiến trình của hệ thống hậu chiến là “trật tự quốc tế cấp tiến”, cái mà ông cho là cái nhìn ảo huyền của một số người, thật ra nó là cơ chế để tổ chức và phát triển vòng ảnh hưởng lớn lao của Hoa Kỳ [9]. Nhưng không giống như các nước Âu châu và Nhật Bản, Hoa Kỳ dành rất ít thời gian để áp đặt nền cai trị thuộc địa trực tiếp đối với các nước khác từ cuối thế kỷ 19 đến thế kỷ 20. Thay vào đó, Hoa Kỳ chọn phát huy quyền lợi của mình với các đồng minh tự nguyện, các định chế đa phương và tự do thương mại. Sự lựa chọn đó đến từ ý thức tư lợi (enlightened self-interest) hơn là lòng vị tha, và được yểm trợ bởi sức mạnh quân sự áp đảo.

Trong cuộc thảo luận bàn tròn với các chuyên gia trong ngành khoa học chính trị tại Hoa Kỳ, giáo sư chính trị học thuộc ngành bang giao quốc tế tại Đại học Harvard Stephen Walt, một blogger nổi tiếng trên tạp chí Foreign Policy, cũng phê bình quan điểm của giáo sư Ikenberry, về tác phẩm Liberal Leviathan của ông [10]. Các luận điểm chính của Walt là như sau. Một, mặc dầu hệ thống trật tự này có quy luật thật, cái mà các nhà cấp tiến gọi là dựa trên quy luật (rules-based), nhưng ông không thấy nó có nghĩa lý gì khi mà các cường quốc áp dụng một cách tuỳ tiện. Thay vào đó, người hiện thực thấy hệ thống này được định nghĩa chủ yếu bởi quyền lực và quyền lợi, mà phần lớn quyền lợi lại được định hình nặng nề bởi quyền lực. Các cường quốc sử dụng quy luật để tiến đạt quyền lợi của mình nhưng lại bỏ nó một bên nếu nó không phục vụ quyền lợi của mình. Hai, những điều nằm trong lý thuyết của cuốn sách của Ikenberry không mang tính tích cực hay giải thích, bởi quá nhiều cách mà các cường quốc (nhất là Hoa Kỳ) đi xa từ các biện luận chính của sách này. Thay vào đó, nó mang tính cách tiêu chuẩn hay quy định hơn, tức các nhà nước nên hành xử như thế nào để gặt hái nhiều lợi ích khác nhau. Tuy thế, Walt cũng cho rằng thật là mỉa mai vì phần lớn ông cũng đồng ý với các quy định cụ thể trong cuốn sách này, và thế giới sẽ trở nên tốt hơn nếu các nhà nước hành xử như Ikenberry đề nghị. Nói chung Walt, hay xu hướng hiện thực, phê bình Ikenberry hay xu hướng cấp tiến là họ quá lạc quan. Walt nhận định rằng trên thực tế giới làm chính sách Hoa Kỳ lắm khi nói cho xướng cái miệng về luật và quy định và quy tắc và đa phương, nhưng khi đụng phải chuyện, cái thường xảy ra, thì họ cứ làm theo cách riêng của họ thôi.

Giữa trường phái cấp tiến và với các nhà nghiên cứu sử học thì cũng có lắm bất đồng. Đó là cuộc tranh luận sôi nổi giữa học giả và người điều hợp chương trình trên kênh CNN Fareed Zakaria với nhà sử học nổi tiếng hiện nay Niall Ferguson trong loạt tranh luận có tên the Munk Debate Series. Ferguson thì cho rằng cái gọi là trật tự quốc tế cấp tiến thật ra không có trật tự, không phải quốc tế, và cũng chẳng cấp tiến chút nào [11]. Trong khi đó, theo Fareed Zakaria thì khoảng một năm sau biến cố Pearl Harbor, tổng thống Hoa Kỳ Frank Roosevelt gặp Thủ tướng Canada Mackenzie King (người nắm giữ chức vụ này lâu đời nhất tại Canada, trên 21 năm) tại văn phòng bầu dục. Lần gặp mặt này, tuy Hoa Kỳ chỉ mới chính thức tham chiến và viễn ảnh chiến tranh chấm dứt vẫn còn khá xa vời, Roosevelt hoàn toàn tin tưởng vào thế tất thắng của phe đồng minh. Nhưng điều Roosevelt quan tâm hơn là viễn ảnh tương lai: làm thế nào để xây dựng một thế giới hợp tác và cạnh tranh chứ không phải đối đầu và chiến tranh nữa. Nên nhớ lịch sử thế giới cho đến thời điểm đó phần lớn mang đậm nét chiến tranh, xung đột, đế quốc thực dân, chủ nghĩa thương mại bảo hộ/quốc gia và chế độ bóc lột.

Zakaria biện luận rằng Roosevelt không thể tiếp tục ủng hộ một thế giới trật tự như thế nữa. Viễn kiến của Roosevelt là: một, phải làm cho Trục Quyền (Axis powers, gồm Đức Ý Nhật) đầu hàng hoàn toàn vô điều kiện; hai, phải yêu cầu Anh quốc và Pháp quốc không tái xây dựng đế quốc của họ khắp nơi như trước đây. Theo Roosevelt thì cần phải xây dựng một thế giới mà tự do và quyền tự quyết có tác dụng bao quát hơn; ba, Roosevelt mong muốn một thế giới có tự do mậu dịch, thương mại, nhưng cũng cần dựa trên luật lệ rõ ràng và cơ cấu hẳn hoi để qua đó các bất đồng hay tranh chấp chính trị có thể được giải quyết một cách ôn hòa (như Liên Hiệp Quốc). Roosevelt không sống để nhìn thấy viễn kiến của ông được thực hiện ra sao sau Thế Chiến II, nhưng trong suốt thời gian tại vì, ông nỗ lực không ngừng để thực hiện viễn kiến đó. Cho đến nay, nhìn lại thì trật từ này tất nhiên không hoàn hảo, không bắt đầu suông sẻ, nhưng không thể phủ nhận vai trò và kết quả nó đã đóng góp để duy trì hòa bình, ổn định và thịnh vượng chung của nhân loại sau Thế Chiến II cho đến nay.

Bài mới nhất của giáo sư chính trị học Michael J. Mazarr thuộc RAND Corporation trên tạp chí Foreign Affairs phản biện lại bài viết của Allison, trình bày ở trên [12]. Mazarr nhận định rằng 70 năm qua phần lớn giới bình luận Mỹ ủng hộ ý tưởng một trật tự quốc tế dựa trên quy luật do Hoa Kỳ lãnh đạo. Vậy mà gần đây có nhiều học giả, chuyên gia, kể cả Graham Allison, đã bác bỏ nó và cho nó là một “huyền thoại”. Mazarr ghi nhận bài viết của Allison có nhiều điểm quan trọng nhưng đã đi sai theo ba hướng quan hệ với nhau: nó đọc sai lịch sử của trật tự hậu chiến, thổi phồng các mục tiêu của trật tự, và lầm lẫn các hoạt động toàn cầu quá hạn của Hoa Kỳ với các hoạt động của chính trật tự này.

Thứ nhất, về lịch sử, Allison biện luận trật tự này là hệ quả không lường của Chiến tranh Lạnh, nghĩa là một tai nạn lịch sử. Nó diễn ra vì sự lo sợ và chủ trương cân bằng quyền lực, chứ không phải ý đồ định hình nền chính trị thế giới. Vì thế, Allison ngụ ý, nó luôn là quyền lực chính trị thực tiễn được đội lốt để có thể phổ biến các giá trị cấp tiến. Theo Mazarra thì cái nhìn đó, tốt nhất, chỉ là một chiều của một lịch sử phức tạp. Mỗi viên chức nhìn vấn đề khác nhau về trật tự này khi họ bắt tay thực hiện nó, nhưng nói một cách tổng quát, vào đầu thập niên 1940 Hoa Kỳ đã đầu tư vào Liên Hiệp Quốc, chế độ thương mại quốc tế, và các định chế toàn cầu để ổn định kinh tế để qua đó cấu tạo một thế giới giới có trật tự hơn mà khó trở thành nạn nhân của các thảm nạn của thập niên 1930. Các khái niệm này đã có trước khi các nhà ngoại giao Hoa Kỳ nhận ra rằng quan hệ giữa Hoa Kỳ và Liên Sô chắc chắn sẽ trở nên tồi tệ. Tổng thống Franklin Roosevelt đã có những cuộc đàm thoại sâu sắc với thủ tướng Anh Winston Churchill và những người khác (như thủ tướng Canada Mackenzie King, mà Zakaria đã trình bày ở trên) về các vấn đề này đầu thập niên 1940. Tóm lại, theo nhận định của Mazarr thì Hoa Kỳ không hề có ý định chơi trò quyền lực chính trị hay ngăn chặn Sô Viết sau Thế Chiến II khi lập nền trật tự này, mà chủ yếu là xây dựng nền tảng cho nền chính trị thế giới hợp tác nhau hơn dựa trên các quy luật chung. Các định chế và các quy luật chung này nhắm đến sự ổn định kinh tế và địa chính trị chứ không phải để truyền bá các giá trị của Hoa Kỳ.

Thứ hai, về thổi phồng các mục tiêu của trật tự, như “nó là nguyên nhân của yếu tố nền hòa bình lâu dài giữa các cường quốc trong bảy thập niên qua”, thì Mazarr cho rằng ông không biết có quan điểm cực đoan về tầm quan trọng của trật tự vậy không. Tâm thức của giới lãnh đạo Hoa Kỳ khi giải thích và thuyết phục công chúng về sự cần thiết hình thành Liên Hiệp Quốc là rằng “một tổ chức quốc tế mới là một sự cần thiết nghiêm trọng, ngay cả khi nó không thể giải quyết được hết các vấn đề của thế giới”. Các định chế nói trên, cùng với các quy luật và quy ước ràng buộc, đã trở thành một hệ thống mà các viên chức Hoa Kỳ đã ý thức rõ ràng khi tiến hành thực hiện nó kể từ giữa thập niên 1940. Đây là một trật tự mà đã miêu tả một cách nổi bật trong tất cả các Chiến lược An ninh Quốc gia Hoa Kỳ kể từ thập niên 1950. Nó cũng là một trật tự mà hàng tá quốc gia khác đã đặt trọng tâm trong khái niệm của họ về an ninh và thịnh vượng, như Úc, Anh, Pháp, Đức, Ấn Độ, Nhật, Tân Tây Lan, Nam Hàn và bao quốc gia khác. Mazarr cùng cơ quan RAND Corporation đã bỏ ra hai năm tìm hiểu và đánh giá trật tự này. Họ kết luận các quốc gia này đều nhìn nhận rằng trật tự này là có thật và lo ngại một cách sâu sắc nếu nó qua đời [13].

70 năm nhìn lại để nhận thức, một số hy vọng của các kiến trúc sư của trật tự này đã rõ ràng đạt được phần nào. Các tiến trình đa phương mà các kiến trúc sư này tạo ra đã giúp ổn định nền kinh tế toàn cầu và ngăn chặn sự hung hăn. Bằng cách sắp xếp ba phần tư nền kinh tế thế giới chung quanh bộ quy định rộng (broad set of norms), nó đã tạo ra một lực hút mạnh về trọng tâm ổn định của nền chính trị thế giới. Các quốc gia đều biết muốn duy trì khả năng cạnh tranh, họ không thể chống lại một trật tự đang thắng thế như thế.

Thứ ba, về lầm lẫn các hoạt động toàn cầu quá hạn của Hoa Kỳ với các hoạt động của chính trật tự này, thì Allison biện luận các hành động quân sự đơn phương của Hoa Kỳ kể từ năm 2001 mang tính phá hoại trật tự này đã tự dẫn chứng (speak for itself). Mazarr phản biện rằng hiếm khi các hành xử quốc tế có thể tự dẫn chứng. Các hành xử thường được các quốc gia khác diễn dịch trong bối cảnh hiểu biết rộng hơn về quyền lực và mục đích. Hoa Kỳ đã tự đặt quyền lực của mình trong dự án đa phương này, đã giúp chính nghĩa hóa vai trò của mình trên thế giới, và chiếm được sự nhẫn nại (của các quốc gia khác) vào những khi Hoa Kỳ thất bại với sự cam kết các lý tưởng của mình. Do đó giải pháp là phục hồi, không phải từ bỏ, chủ nghĩa đa phương mà đã từng thuyết phục được sự đối kháng đối với quyền lực của Hoa Kỳ.

Mazarr kết luận rằng những nhà sáng tạo nên trật tự thời hậu chiến đã đặt ra mục tiêu vừa giới hạn vừa cách mạng. Họ thực hiện nó trong các ràng buộc của quyền lợi quốc gia và cân bằng quyền lực quốc tế để xây dựng định chế và quy trình mà có thể định hình đặc tính của nền chính trị thế giới. Hệ thống này đã đạt một số thành quả đáng kể, trong đó có hòa bình và thịnh vượng. Khi mà thế giới đang bước vào một thời kỳ cạnh tranh gây gắt hơn, các nhà làm chính sách Hoa Kỳ cẩn trọng không nên coi thường tầm quan trọng của trật tự thời hậu chiến này. Trật tự này không hề là một huyền thoại; nó là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất của Hoa Kỳ hiện nay.

Dù thiết kế với cái nhìn hiện thực, hay cấp tiến, hay cả hai, của giới lãnh đạo chính trị Hoa Kỳ đầu thập niên 1940, kết quả, như chúng ta cũng biết, là sự ra đời của các định chế quốc tế và toàn cầu, ngay cả trước khi Thế Chiến II chấm dứt, bao gồm: Liên Hiệp Quốc năm 1945 (United Nations); Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại năm 1947 (General Agreement on Tariffs and Trade/GATT), tiền thân của Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organisation/WTO); Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund/IMF) và Ngân hàng Tái Xây dựng và Phát triển Quốc tế (the International Bank for Reconstruction and Development/IBRD, sau này là Ngân hàng Thế giới/World Bank) thành lập năm 1944, hoạt động năm 1946. Điều không thể phủ nhận là thế giới đã thay đổi lớn lao và toàn diện nhờ sự hợp tác và tương thuộc qua các định chế quốc tế này.

Vài kết luận

Sự trổi dậy không mang tính hòa bình như reo rao mà ngược lại đầy tính gây hấn, trên Biển Đông cũng như trong các chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với các quốc gia láng giềng và khắp nơi, đã làm bao người quan ngại đối với nền trật tự hiện nay và nền hòa bình tương lai. Trung Quốc có tham vọng bá quyền và có khả năng qua mặt Hoa Kỳ về kinh tế trong một thập niên rưỡi, tuy về mặt quân sự và khoa học kỹ thuật thì còn xa mới bắt kịp, ít nhất là ba thập niên nữa.

Vấn đề nằm ở hai mặt trận chính: chiến lược đường dài, và lãnh đạo.

Theo nhà bình luận chính trị người Mỹ và cũng là một blogger Kevin Drum, thì nếu không có cuộc cách mạng công nghệ, đầu tiên là động cơ hơi nước, lý thuyết vi trùng, điện và xe lửa, thì lịch sử thế giới đã hoàn toàn khác; sẽ không có cuộc cách mạng dân chủ như đã diễn ra trong thế kỷ 18, 19, 20 như đã thấy [14]. Cuộc cách mạng công nghệ tới đây sẽ quyết định vận mệnh trật tự thế giới. Drum nhận định rằng vấn đề là liệu Trung Quốc, trong vòng 20 năm tới, đạt được kỹ nghệ trí tuệ nhân tạo (artificial intelligence/AI) tốt nhất không? Nếu được, họ có thể trở thành bá quyền, nếu họ muốn; nếu không thể thì chẳng gì phải quan tâm cả.

Tuy Hoa Kỳ là nước dẫn đầu về trí tuệ nhân tạo AI hiện nay, lãnh đạo hàng đầu Trung Quốc không hề dấu tham vọng muốn qua mặt Hoa Kỳ trong mặt trận này vào năm 2030 [15]. Trong khi ngân sách cho Nền tảng Khoa học Quốc gia của Hoa Kỳ bị cắt giảm 10 phần trăm xuống còn 175 triệu đô la thì ngân sách dự chi của Trung Quốc vào năm 2030 cho AI là 100 tỷ đô la. Sự chênh lệch về ngân sách đầu tư cho nền khoa học kỹ thuật quốc gia như thế hiển nhiên sẽ dẫn đến kết quả khác nhau vào năm 2030.

Ngoài khoa học kỹ thuật, Trung Quốc đã chuẩn bị nhiều mặt trận khác. Nhà chuyên gia hàng đầu về Trung Quốc Michael Pillsbury đã nghiên cứu kỹ lưỡng các chiến lược, chiến thuật của giới diều hâu Trung Quốc hơn bốn thập niên qua, và đã đề nghị các biện pháp cần thiết để vận dụng chính các khái niệm từng được họ sử dụng trong thời Chiến Quốc và bốn thập niên qua để đánh bại chính họ [16]. Pillsbury trình bày chi tiết đề nghị này trong 12 bước. Tựu chung là cần nhận diện được những trí trá của Trung Cộng, lưu trữ tất cả các hồ sơ tài liệu này một cách hệ thống, hoạch định các chiến lược cạnh tranh, tìm đồng thuận chung để phối hợp hành động cho hiệu quả, hỗ trợ cho các nhà đối kháng và xu hướng cải cách tại Trung Quốc, đánh vào các điểm yếu của chế độ, có biện pháp cứng rắn với sự gian lận ăn cắp tài sản trí tuệ của Hoa Kỳ v.v…

Trên đây là các đề nghị của Pillsbury, nhưng chính quyền Hoa Kỳ hiện nay và tương lai có tán thành và sẽ thực hiện bao nhiêu điều trong này thì chưa rõ. Các chiến lược đường dài của Hoa Kỳ vẫn chưa rõ ràng và thống nhất. Hiện tại Trump đã công khai tuyên chuyến với Trung Quốc trên mặt trận thương mại, nhắm đến hàng hóa nhập cảng trị giá 505 tỷ Mỹ kim. Nhiều người chưa gì đã vội tung hô Trump và tin chắc Trung Quốc sẽ thua cuộc. Thuế nhập cảng có thể là phần quan trọng trong cuộc chiến thương mại này, nhưng không đủ để quyết định và tác động để buộc Trung Quốc phải đổi chiều. Như Abigale Grace nhận định trên tạp chí Foreign Policy, các nhà hoạch định sách lược tại Hoa Kỳ cần chuẩn bị cuộc cạnh tranh trên nhiều mặt trận bắt nguồn từ tư thế chính trị, mặt trận tuyên truyền trong nước, và các chính sách kinh tế cưỡng ép các công ty Mỹ đang hoạt động tại Trung Quốc [17]. Grace cho rằng Trung Quốc biết đây là ưu tiên hàng đầu của Trump nên đã chuẩn bị người dân của họ cho cuộc chiến dài và xấu này, và họ có khá nhiều dụng cụ/vũ khí để trả đũa. Lãnh đạo Trung Quốc muốn đạt mục tiêu chiến lược lớn hơn cuộc chiến thương mại với Hoa Kỳ hiện nay, đó là họ không muốn chơi theo các luật lệ thế giới. Nói cách khác mục đích cao nhất của họ là muốn thay đổi nền trật tự hiện nay, như Pillsbury đã nghiên cứu tỉ mỉ trong sách ông.

Về mặt quân sự thì quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua ngân sách quốc phòng khổng lồ cho năm tài chánh 2019, 716 tỷ đô la Mỹ, vào ngày 22 tháng 7 năm 2018 [18]. Phải chăng Hoa Kỳ muốn đầu tư mạnh mẽ vào quốc phòng để Trung Quốc không thể nào bắt kịp, sức mạnh quân sự Hoa Kỳ sẽ áp đảo, như thế Trung Quốc phải biết sợ, dù là một chút thôi, để không dám thách thức Hoa Kỳ trong tương lai!

Ngoài ngân sách quốc phòng và chiến tranh mậu dịch nói trên, chính phủ Trump vẫn chưa trình bày rõ ràng các chiến lược lâu dài khác của Hoa Kỳ là gì trong việc đối đầu với Trung Quốc, và chiến lược ngoại giao của mình. Trump tỏ vẻ muốn kéo Nga về phía Hoa Kỳ, nếu không là đồng minh thì cũng không là đối thủ gây thêm khó khăn cho Hoa Kỳ để Trump có thể dồn nỗ lực kiềm chế Trung Quốc trong thời gian tới. Trump có đạt được mục tiêu kéo Nga về phía mình hay không thì nó hoàn toàn không đơn giản chút nào.

Về mặt lãnh đạo thì nền dân chủ như Hoa Kỳ và nền độc tài như Trung Quốc có những ưu và khuyết khác nhau.

Nền tảng sức mạnh của các chế độ dân chủ, tự bản chất, là từ mỗi người dân. Từ mỗi cá nhân, các doanh nghiệp tư nhân, các tổ chức do người dân thành lập trong xã hội đó. Nếu so sánh năng xuất (productivity) giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc thì khoảng cách vẫn còn là một trời một vực. Nhưng Trung Quốc đông dân gấp bốn lần Hoa Kỳ. Ngoài ra, sức mạnh của một quốc gia không chỉ là tập hợp năng xuất mỗi cá nhân trong quốc gia đó là còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, trong đó lãnh đạo chính trị của quốc gia đó đóng vai trò chiến lược then chốt. Nó mang tính đường dài và đòn bẫy cho mọi chính sách phát triển của quốc gia đó.

Hoa Kỳ, mỗi hai năm thay thế một phần lập pháp, và mỗi bốn năm thay thế lãnh đạo hành pháp. Cho dù giới lãnh đạo hành pháp tài giỏi xuất chúng bao nhiêu, họ cũng phải khôn khéo thương lượng và thuyết phục quốc hội để thông qua các ngân sách, nhân sự, dự luật mới cũng như các tu chính với bộ luật cũ vv… Hành pháp cũng bị ràng buộc bởi các diễn nghĩa của tư pháp, nhất là Tối cao Pháp viện, đặc biệt khi đưa ra các Lệnh Hành pháp (Executive Order). Nhiệm kỳ là bốn năm, tối đa là hai nhiệm kỳ, trong đó có sự thay đổi nhân sự thường xuyên trong vai trò điều hành và lãnh đạo ở các cấp bậc cao nhất. Ngoài ra còn bao nhiêu sự ràng buộc của hiến pháp và pháp luật, cũng như sự đấu tranh liên tục giữa các ngành tư pháp, hành pháp, lập pháp, truyền thông cũng như sự vận động không ngừng nghỉ của giới doanh nhân và các tổ chức xã hội dân sự.

Do đó dù có tầm nhìn chiến lược lâu dài và tối ưu đi chăng nữa, giới lãnh đạo chính trị tại Hoa Kỳ nói riêng và các nền dân chủ cấp tiến nói chung khó thể nào thi hành các chiến lược quốc gia của mình nếu không giỏi thương thuyết và thỏa hiệp. Nó cũng rất khó khăn thuyết phục quốc hội/dân đầu tư ngân sách đầy đủ và ủng hộ các chính sách dài hạn, ngoài tầm của một nhiệm kỳ bốn năm. Tuy vậy, trong nền dân chủ, sự chuyển tiếp lãnh đạo từ người này sang người khác hoặc chính quyền này sang chính quyền khác luôn ổn định, qua các thủ tục rõ ràng, và với hàng trăm năm kinh nghiệm, luôn diễn ra hiệu quả và tốt đẹp. Tất nhiên mọi lần chuyển tiếp lãnh đạo đều mất thời gian để được quốc hội thông qua, và để người kế nhiệm nắm rõ các vấn đề chuyên môn và các thủ tục cần thiết để điều hành hiệu quả.

Trong khi đó, Trung Quốc là độc đảng, khống chế mọi ngành khác, một cách toàn diện và tuyệt đối, nên các chính sách về kinh tế, chính trị, văn hóa v.v… đều dễ dàng được thông qua và thi hành. Bảy người trong Ủy ban Thường vụ Trung ương Đảng cũng như 25 người trong Bộ Chính trị hầu như nắm mọi quyền lực trong tay. Mục tiêu lâu dài của giới lãnh đạo Trung Quốc là tiếp tục tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội, gia tăng tiềm năng quốc phòng, tìm kiếm tài nguyên thiên nhiên và nhất là đầu tư tối đa vào cuộc cách mạng công nghệ tới, đặc biệt về trí tuệ nhân tạo, để phát huy ưu thế chiến lược, nhất là so với Hoa Kỳ. Tuy cũng đấu đá khủng khiếp với nhau để tranh giành quyền lực, nó hiếm khi công khai minh bạch mà thường mà kín đáo và xảo quyệt. Sau Mao Trạch Đông, các vụ đấu đá thanh trừng trong đảng cũng long trời lở đất. Đặng Tiểu Bình hiểu được điều này hơn ai hết cho nên muốn đặt giới hạn hai nhiệm kỳ để hy vọng có sự chuyển tiếp suông sẻ. Tuy nhiên, mục tiêu này đã được thay thế bởi mục tiêu chiến lược quan trọng hơn: cuộc chạy đua bá quyền với Hoa Kỳ. Đó là lý do vì sao Tập Cận Bình (Xi Jinping), được mệnh danh là Chủ Tịch của Mọi Thứ (Đảng, Nhà Nước và Quân Đội), không còn bị giới hạn hai nhiệm kỳ trong vai trò chủ tịch nước nữa vào ngày 17 tháng Ba năm 2018. Giới diều hâu Trung Quốc ủng hộ Tập để bảo đảm sự liên tục trong việc lèo lái và thực hiện giấc mộng bá quyền của họ.

Mặc dầu đây là sức mạnh của Trung Quốc, đó cũng chính là điểm yếu của họ. Chế độ độc tài nào cũng có vô số giới hạn và rủi ro của nó. Bởi để tập trung quyền lực như thế vào tay mình, Tập và nhóm diều hâu đã loại trừ bao nhiêu thành phần trong đảng không đứng về phía mình, do đó họ cũng có lắm kẻ thù. Đó là chưa kể chính sách vô cùng thô bạo và cung cách tàn bạo mà họ đã đối xử với người dân, đặc biệt là các nhà đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền. Ngoài ra người Hoa đã kinh nghiệm bao nhiêu tai họa trong thời Mao, với chủ nghĩa tôn sùng cá nhân, nên dù giới trẻ có thể không nắm rõ vì sử liệu giáo dục bị bóp méo trầm trọng, những người từng sống thời đó chắc hẳn còn nhớ rõ và hiểu sâu. Người Hoa Đài Loan và Hồng Kông hiển nhiên rất quan ngại về cánh tay nối dài của Bắc Kinh, nhất là khi Tập đã lập lại nhiều lần cảnh cáo đối với mọi nỗ lực độc lập tách rời khỏi Trung Quốc. Vào ngày 14 tháng 8 vừa qua, Andy Chan, 27 tuổi, lãnh đạo của Đảng Quốc gia Hồng Kông, với chủ trương độc lập từ Trung Quốc, đã hùng hồn phát biểu tại Câu Lạc bộ Phóng viên Ngoại quốc rằng “Trung Quốc là mối đe dọa đối với mọi người tự do trên toàn thế giới” [19]. Mọi chế độ chính trị đều quan ngại sức mạnh của truyền thông, nhưng chế độ độc tài thì không chỉ quan ngại mà là thật sự lo sợ, vì truyền thông có khả năng phơi bày sự thật về mình. Nhưng cái mà chế độ độc tài lo sợ nhất là người dân có tư duy độc lập và suy nghĩ phê phán. Như thế, mọi tuyên truyền của họ đều vô hiệu quả, và họ không thể kiểm soát tư tưởng và ngày càng mất dần ảnh hưởng đối với người dân.

Kinh tế Trung Quốc hiện đang chậm lại, và còn gặp khó khăn trong cuộc chiến thương mại hiện nay nên thành phần bất mãn hoặc đối trọng với Tập có thể khai dụng cơ hội đặt vấn đề về hiệu quả của việc tập trung quá nhiều quyền lực vào một cá nhân [20]. Bốn năm tới, và xa hơn nữa, các thử thách đối với Trung Quốc không hề nhỏ mà ngày càng gia tăng. Nền kinh tế sẽ không tiếp tục tăng trưởng như trước. Khi người dân càng có nhiều thì càng mong đợi nhiều, và khi mong đợi không được đáp ứng thì, cho dù bộ máy tuyên truyền đồ sộ và tốn kém khủng khiếp bao nhiêu, nó cũng sẽ không thoả mãn được nhu cầu mong đợi khổng lồ từ một tỷ bốn trăm triệu người dân của họ hiện nay.

Cuối cùng thì tương lai của trật tự thế giới chủ yếu tuỳ thuộc vào tài năng lãnh đạo chính trị của Hoa Kỳ và Trung Quốc, và hiệu năng của cơ chế vận hành quốc gia, tức guồng máy đẩy quốc gia đó về phía trước. Dù chưa thể tiên đoán được kết quả tương lai ra sao, chúng ta có thể lạc quan rằng những gì được xây dựng dựa trên chân thiện mỹ thì vẫn vững ổn hơn giả ác xấu.

(Úc Châu, 28/08/2018)

Phạm Phú Khải

Tài liệu tham khảo:

1. “Public consultations” by Department of Foreign Affairs and Trade (DFAT), accessed on 11/08/2018.

2. Phạm Phú Khải, “Nước Úc trước tương lai bất định”, Nghiên Cứu, Quốc Tế, 02/04/2017.

3. “2017 Foreign Policy White Paper” by Australian Government, accessed on 11/08/2018. Có thể tìm hiểu thêm bài viết của giáo sư Martin Parkinson, Thư ký của Bộ Thủ Tướng và Nội các Chính phủ Úc, “2017 Foreign Policy White Paper: advancing Australia’s interests”. Xem trang v, 6 và 21.

4. Joseph S. Nye Jr, “Will the Liberal Order Survive?”, Foreign Affairs, Volume 96, Number 1, January/February 2017; trang 10-16.

5. G. John Ikenberry, “The Plot Against American Foreign Policy”, Foreign Affairs, Volume 96, Number 3, May/June 2017; trang 2-3.

6. Daniel Dauney and G. John Ikenbery, “Liberal World”, Foreign Affairs, Volume 97, Number 4, July/August 2018; trang 16-24.

7. Allison là người nghiên cứu về cái bẫy chết người mà nhà sử học Hy Lạp Thucydides đã nhận diện và lý giải. Đó là sử trổi dậy của Athen và mối lo sợ lên Sparta đã làm cho chiến tranh hai bên không thể tránh được. Xin đọc Graham Allison, “The Thucydides Trap”, Foreign Policy, 9 June 2017. Allison nghiên cứu lịch sử 500 năm qua và kết luận rằng trong 16 trường hợp tương tự như thế thì có đến 12 trường hợp dẫn đến chiến tranh. Liệu chiến tranh có xảy ra giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ không? Nếu thích thì tìm hiểu thêm tác phẩm của ông “Destined for war”, Houghtin Mifflin Harcourt, 2017.

8. Graham Allison, “The Myth of the Liberal Order”, Foreign Affairs, Volume 97, Number 4, July/August 2018; trang 124-133.

9. Stephen Kotkin, “Realist World”, Foreign Affairs, Volume 97, Number 4, July/August 2018; trang 10-15.

10. Stephen M Walt, “What I told my APSA panel”, Foreign Policy, 3 September 2011.

11. Cuộc tranh luận giữa Fareed Zakaria Niall Ferguson, “Trật tự cấp tiến quốc tế đã qua rồi?”, (The Munk Debate Series: Is the Liberal International Order Over?), trên Youtube, 28 April 2017. Muốn nghiên cứu thêm về thủ tướng Mackenzie King có thể vào Thư viện Quốc gia của Canada nơi lưu trữ tất cả những nhật ký của ông “Diaries of William Lyon Mackenzie King”, từ năm 1893 đến 1950, gồm khoảng 50 ngàn trang viết, và nếu chất chồng lên nhau thì cao hơn 7 mét.

12. Michael J. Mazarr, “The Real History of the Liberal Order”, Foreign Affairs, 7 August 2018.

13. Michael J. Mazarr, “Building a Sustainable International Order”, RAND Corporation, accessed on 16 August 2018.

14. Kevin Drum, “Tech World”, Foreign Affairs, Volume 97, Number 4, July/August 2018; trang 43-48.

15. Elsa B. Kania, “Artificial Intelligence and Chinese Power”, Foreign Affairs, 5 December 2017.

16. Michael Pillsbury, “The Hundred Year Marathon”, Henry Holt and Company, February 2015.

17. Abigail Grace, “China Doesn’t Want to Play by the World’s Rules”, Foreign Policy, 8 August 2018.

18. US Senate Committe on Armed Services, “John S. McCain National Defense Authorization Act for Fiscal Year 2019”, 22 July 2018.

19. Stuart Lau, “China takes on Hong Kong’s press club”, The Interpreter, Lowy Institute, 16 July 2018.

20. Richard McGregor, “Has China's leader Xi Jinping now passed his peak?”, The Interpreter, Lowy Institute, 27 July 2018.




Phần nhận xét hiển thị trên trang

chả có gì là lạ


Van Van
Một vị tổng thống quyền lực điều hành đất nước quá 10 năm cũng có thể coi là độc tài. Một quốc gia mà có nền giáo dục tốt sẽ không thiếu người tài quản trị đất nước, cho nên nước Mỹ họ có quy định rất có lý, một tổng thống không được làm quá 2 nhiệm kỳ, tức không quá 8 năm tại vị, dù anh có làm tốt đến mấy vẫn phải nghỉ.
Sự cân bằng quyền lực và tính độc lập giữa hành pháp, lập pháp và tư pháp là rất quan trọng. Ở hiến pháp Nga có một điểm chết người đó là: Tổng thống có quyền giải tán Duma Quốc gia, điều này dẫn đến sự mất cân bằng quyền lực và tính độc lập giữa lập pháp và hành pháp. Chuyện anh Putin tham nhũng với tài sản khủng chả có gì là lạ

VOV.VN
VOV.VN - Dưới đây là những tiết lộ bất ngờ về khối tài sản khổng lồ của Tổng thống Nga Putin qua nhiều tài liệu và các bài báo được công bố.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Tư, 29 tháng 8, 2018

Tôi bỏ ra đi, họ ngồi ở lại



LƯU QUANG VŨ “GÃ LÀM THƠ DA VÀNG”

Phạm Xuân Nguyên

Tôi chán cả bạn bè
Mấy năm nay họ không nói được một câu gì mới
Tôi bỏ ra đi, họ ngồi ở lại

(Có những lúc, 1972)

Lưu Quang Vũ đã viết những dòng này trong một lúc khủng hoảng nhất của lòng mình, khi tâm hồn rách nát, khi tưởng như mọi ngả đường đều bị bịt kín. Một bài thơ rất thực lòng, phơi bày trần trụi cơn tuyệt vọng nội tâm của một con người, một chàng trai mới ngoài hai mươi tuổi, một nhà thơ trẻ. Do đó, mấy câu thơ dẫn ra ở trên có sự bực bội, phẫn uất của Vũ với chính mình, nhưng cũng có một thái độ dứt khoát, kiên quyết của Vũ muốn đoạn tuyệt với một cái mình cũ, cắt đứt với cả những người bạn không giúp mình thoát được mình. Tôi coi đó là một tuyên ngôn sống và tuyên ngôn thơ của Lưu Quang Vũ. 


Để hiểu được tuyên ngôn này người đọc phải lần theo một hành trình chân lý của Vũ được ghi dấu qua các bài thơ anh để lại cho đời. Một hành trình đau đớn đầy hoài nghi, dằn vặt đã diễn ra ở Vũ khi tuổi đời anh còn rất trẻ. Nhưng về thời gian thực tế hành trình này chỉ diễn ra trong mấy năm cuối thập niên 1960 đầu thập niên 1970. Tôi gọi đó là hành trình chân lý trải qua các chặng từ “chung đàn” đến “tách đàn” và cuối cùng là “bỏ đàn” để Vũ một mình bước đi theo hướng tư tưởng, cảm xúc của riêng mình.

Những bài thơ đầu tiên Vũ viết về cuộc chiến tranh chống Mỹ là hòa chung trong âm hưởng của dàn đồng ca thế hệ và thời đại. Mô típ chung là “đường ra trận mùa này đẹp lắm”, giọng điệu chung là lạc quan, ca ngợi, cấu tứ chung là so sánh đối lập cái hôm qua và hôm nay, chiến tranh ác liệt và tương lai tươi đẹp. Lấy thí dụ bài “Qua sông Thương” Vũ viết tháng 6/1966. Cấu tứ là sự đối lập con sông Thương xưa và nay. Xưa “nỗi đau cũ thật không cùng / sông cũng thành nước mắt”. Sông Thương nước mắt là con sông buồn: “Người xưa bảo đây đôi dòng lệ nhỏ / Những suối buồn gửi tới mênh mang”. Vũ chỉ dành 10 câu thơ đầu bài nói về cái xưa ấy. Còn lại 36 câu là nói về cái nay với cảm hứng ““Đời đẹp vô cùng dòng lệ hóa dòng vui”. Trong khung cảnh cảm xúc ấy người lính xuất hiện: “Mùa đánh Mỹ qua sông xưa nước mắt / Mà vạt áo người nay chẳng ướt / Chỉ nghe lồng lộng tiếng ca vang”. Một bài thơ được viết đúng cảm hứng ca ngợi, theo mạch viết của thời nó được viết ra. Cũng nói đến nước mắt, ở một bài khác Vũ viết: “Tôi chẳng có thời giờ cho nước mắt / Viên đạn nằm trong súng đợi bay lên” (Mùa xoài chín) cũng là khuôn mẫu. Hay như bài “Phố huyện” viết sau bài “Qua sông Thương” hai tháng cũng là sự so sánh phố huyện đánh Pháp ngày xưa và phố huyện đánh Mỹ bây giờ. “Người vượt pháo quân ta rầm rập bước / Vẫn ánh trăng soi áo người vệ quốc / Phố huyện ơi, ta lại hành quân”. Cả hình ảnh đăng đối này cũng là khuôn mẫu thơ một thời: “Ô cửa phòng ta mở thành ụ súng / Đường phố của ta dàn thành thế trận” (Chưa bao giờ, 4/1967).

Những bài thơ như thế có sự thành thật. Thậm chí là chân thật. Sự thành thật của một thời tin là thế, yêu là thế, và cảm xúc là thế. Lãng mạn và hào hùng là mạch thơ chung của một thời xuất phát từ một lòng tin trong sáng và hồn nhiên. Thơ Vũ viết về Hà Nội tháng 4/1967 “mắt ai soi vào cũng sâu thẳm niềm tin”, viết về “Phủ Lý tháng Hai” (1970) tưởng nhớ một bạn thơ hy sinh, nhưng “tin tương lai như chùm quả ngọt ngào”.

Nhưng rồi Vũ đã “đánh mất lòng tin”. Bốn chữ này Vũ viết trong bài “Không đề III” vào tháng 11/1972: “Anh đi lủi thủi trên đường / đánh mất lòng tin”. Từ đó “Tâm hồn anh cô quạnh dưới lòng sâu”. Vũ nhiều lần nói đến sự mất mát cay đắng và đau đớn này:

-“Điều em tin là nhảm nhí mà thôi” (Gửi một người bạn gái)
-“Em đã tin trời xanh ngoài cửa sổ
Trời đen sầm cửa sập nát vai em” (Gửi một người bạn gái)
-“Mất lòng tin vào chiếc thuyền buồm trắng” (Anh đã mất chi anh đã được gì)
-“Điều anh tin không có ở trên đời” (Quán cà phê ngoại ô, 1972)
-“Điều tôi tin cõi đời này chẳng có” (Khúc hát, 1972)
-“Người ta không thể sống bằng niềm tin đẹp” (Viết lại một bài thơ Hà Nội)

Từ đâu có sự thay đổi “tách đàn” như vậy của Vũ? Từ cái nhìn của Vũ vào hiện thực chiến tranh. “Giữa chiến tranh hiểu đời thực hơn nhiều / Rách tan cả những làn sương đẹp phủ” (Gửi một người bạn gái).
Bài thơ “Gửi một người bạn gái” tưởng như thơ tình nhưng thực chất đây là bài thơ bộc lộ toàn bộ tâm trạng của Vũ trước hiện thực cuộc sống mà anh đang trải qua những ngày tháng chiến tranh. Toàn bài là cả một chuỗi đối lập chát chúa:

-“Nghe tiếng chim không thấy mùa nắng nữa”
-“Mưa không mơ hồ mà tàn nhẫn từng cơn”
-“Trang sách tình yêu có ngôi sao lên
Không giống với cuộc đời thô bạo”
-“Tin bình minh nhưng chỉ gặp sương chiều”


Tâm trạng này Vũ sẽ còn nhiều lần bộc lộ trong các bài thơ tình nói với những người con gái anh yêu. Giọng thơ luôn da diết đến day dứt, nồng nàn đến cay đắng, yêu thương đến đau đớn. “Có ai nói cho lòng ta hiểu nổi / Về cuộc đời ghê gớm ta yêu” (Viết cho em từ cửa biển, 10/1970). Và Vũ thấy mình đối diện “Những câu hỏi ban đầu đơn giản nhất / Ngỡ giải đáp rồi nay vẫn xé lòng em”. Từ đó Vũ bắt mình đi tìm lời giải khác. Anh làm một cuộc hành trình chân lý của mình. Trên hành trình đó anh độc hành.

Một câu hỏi lớn, rất lớn, đã được Vũ đặt ra ngay trong bài thơ này: “Vì ta LẦM ĐƯỜNG hay vì trời nổi bão?” Chiến tranh giờ đây trong mắt Vũ là sự đổ vỡ cả trên mặt đất và trong lòng người. Cái chết do chiến tranh mang lại không chỉ là xác người mà còn là tính người.

Thành phố đang thời hỗn loạn
Nghèo túng lọc lừa bội phản
Giết người trộm cắp khắp nơi
Con người nói với con người
Những lời hằn thù sỉ nhục

(Vẫn thơ tình về một người đàn bà không có tên II)

Vũ nhìn thẳng vào hiện thực và thấy ra sự thật. “Em gái mười lăm đã không còn thiếu nữ” (Những tuổi thơ, 1971). Các câu hỏi anh đặt ra là để phá đi sự yên ổn giả tạo trong cuộc sống và trong lòng mình. Và như thế anh phải đương đầu với một trật tự đã được lồng khung và xếp đặt:

"thật ra chẳng nên đặt quá nhiều câu hỏi
chúng ta đang sống trong tổ quốc của mình
mọi người đều anh dũng đều thông minh
mọi ý định đều có ghi trong sách
nếu bữa cơm hôm nay còn cực
đã sẵn cho anh ngôi nhà đẹp ngày mai"

(Một bài thơ, 2/1974)

Đó là cái “phải tồn tại” và thời ấy mọi người sống theo cái đó. Nhưng Vũ lại muốn sống cái bây giờ, ở đây, “cái đang tồn tại”, dù có vì thế mà bị coi là lạc lõng và tiêu cực, thậm chí là nguy hiểm, phản động.

chúng ta những kẻ thiển cận và yếu đuối
không biết chờ đến ngày mai
chúng ta muốn hôm nay ngay ở nơi này
cuộc đời chân thực

Đơn giản vậy thôi: “cuộc đời chân thực” ở thì hiện tại. “Ít ra, đó cũng là điều anh tin tưởng” Vũ đã viết thế, “trong khi cuộc đời cay nghiệt / cho ta uống toàn một thứ NƯỚC SUÔNG / trong khi anh chẳng phải thánh thần / có thể khổ suốt đời mà vẫn chưa tới đích”.

Vũ một mình bước tới. Trong nhiều bài thơ Vũ đã nói lên sự cô đơn của mình khi dấn thân vào hành trình chân lý, tự nguyện “tách đàn”. “Anh chẳng mang cho đời những tiệc vui ảo ảnh / Nỗi buồn chân thành đời chẳng nhận hay sao?” (Anh đã mất chi anh đã được gì). Tên bài thơ như một sự tính sổ nhận thức để lên đường. Vũ cũng đã từng cố ép mình theo thói đời vứt bỏ “bao kỳ diệu chân thực thuộc về anh”, suy nghĩ cảm xúc theo khuôn phép. Nhưng rồi anh không thể. Sau tất cả, “anh vẫn còn nguyên cái tinh chất của đời”. Đó là cái được lớn nhất của Vũ. Từ đó “dẫu anh mất nhà ga êm đẹp đó / vẫn còn con tàu chuyển bánh đi xa”. Nhà ga êm đẹp là ảo ảnh dối lừa, con tàu đi xa là hành trình chân lý.

Vũ đi xa về phía nhân dân. Điều đó có nghĩa Vũ “bỏ đàn”, ra khỏi dàn đồng ca hợp xướng, hát lên bằng giọng điệu riêng mình. Anh có hai bài thơ mang tính tuyên ngôn, thông cáo cho sự lựa chọn dứt khoát, quyết liệt này. Bài thứ nhất “Nói với mình và các bạn” (1970). Anh thanh niên 22 tuổi Lưu Quang Vũ mở đầu bài thơ đã vạch trần căn bệnh của những người làm thơ thế hệ mình:

“Chúng ta tụm năm tụm ba
Họp hành, giễu nhau, uống trà, đọc thơ, đi thực tế
Ta viết những suy tư ngây ngô vờ là trí tuệ
Những câu nhạt phèo chiếu lệ
Những lời nhàm tai ai cũng quen rồi
Mọi người quanh ta mang nỗi khổ oằn vai
Ngực đất nước tai ương xé rách
Ta viết mãi những điều vô ích
Vô duyên sao ta cứ nhoẻn miệng cười
Như phường bát âm thánh thót
Mong cuộc đời xuôi tai”


Một thế hệ tự lừa mình, “cần cù ngồi viết nhảm”, để rồi lừa dối nhân dân mà không biết rằng “nhân dân có cần thơ của ta đâu”. Vũ lên án không thương tiếc thái độ hèn nhát này của mình và các bạn. Và anh dõng dạc tuyên bố: “Tôi không muốn viết những lời như thế / Tôi không thể viết những lời như thế”. Từ đó anh đòi hỏi mình và các bạn phải quyết liệt thay đổi:

“Giữa tàn bạo hư vô giữa đấu tranh khốc liệt
Thơ phải dạy ta nhìn bằng con mắt thật
Đập vào mặt ta không cho ta cúi mặt
Không cho ta lảng tránh
Đập cửa mọi nhà
Đứng ở ngã ba
Không hát ta say mà lay ta thức”.


Anh kêu gọi các bạn hãy dũng cảm tỉnh thức và hành động. Hãy phá bỏ những cái giả dối, màu mè. Thơ không còn là những lời ru ngủ, vỗ về, mà là “bó đuốc đốt thiêu bàn tay thắp lửa”, là “sinh sự với cuộc đời không cho ai dừng bước cả”. Vũ quyết liệt đến tận cùng khi anh thiết tha gọi kêu các bạn đi cùng đường với mình, nhưng cũng sẵn sàng đoạn tuyệt: “Ta đã hẹn cùng nhau đi tới đích / Nay rất buồn nếu phải chia xa”. Từ đây đến “tôi bỏ ra đi họ ngồi ở lại” chỉ càng cho thấy sự quyết tâm và quyết liệt của Vũ muốn đổi khác mình triệt để. Từ buồn đến chán, từ xót thương đến bỏ đi, Vũ đã đoạn tuyệt với bạn bè thế hệ về mặt tư tưởng, nhận thức và cảm xúc. Anh đã nói rất thật: “Các bạn tôi hiền lành trong sạch / Là bạn nhau thôi chắc là bạn tốt / Nhưng bạn ơi ta là những nhà thơ / Lòng tốt ở đây chẳng đáng một xu / Càng có tài lộc lọc lừa càng nặng”. Bài thơ mang tính tuyên ngôn này vẫn mãi còn tính thời sự. Nó cho thấy tầm vóc tư tưởng của kẻ dám bỏ đàn Lưu Quang Vũ.

Khi đã quyết định chọn một con đường thơ khác, Vũ đã có một tuyên ngôn mỹ học khác. Một mỹ học ngôn từ mới đã được Vũ nêu lên trong bài thơ “Những chữ” (1972). Cái nhìn mới về hiện thực, cảm xúc mới về cuộc sống, tư tưởng mới về nhân sinh đòi hỏi phải có những từ ngữ mới, những cách biểu đạt mới. Vũ kiên quyết đuổi đi những chữ đẹp xưa từng dùng đến “nhẵn mòn sờn rách”. Anh không tiếc chúng vì chúng không giúp anh tả được hiện thực và nói được sự thật. Cái thật trong đời và trong thơ là điều Vũ khát khao và hướng đến: “Không giấu che sự thật của lòng mình” (Người con giai đến phòng em chiều thu) mặc cho “Có ai nghe lời nói thật của ta đâu” (Mặt trời trong nước lạnh, 6/1972). Anh cần nói thật nên giờ đây anh cần “những chữ lấm lem đứng dậy từ đời thật”. Anh gọi đó là “những chữ TRẦN TRUỒNG”. Không đắp điếm, che đậy. Không tô vẽ, giả trang.

"Những chữ như đinh nhìn tôi sắc nhọn
Chữ gầy guộc, chữ bùn lầy, cống rãnh
Từ ho lao, giận dữ, than tro
Tên những bông hoa thường mọc trên mồ
Tên những con chó hoang, những quả bom, những đứa giết người, những thằng lừa dối
Tên những dãy phố nghèo u tối
Những bàn tay đang mọc dậy âm thầm."


Những chữ như thế mới đáp ứng được một quan niệm thơ khác, một tư thế làm thơ khác mà hành trình chân lý đã đưa Vũ đến. Đó là những chữ mới đang ầm ầm đập cửa đòi được vào thơ để chắp cho thơ đôi cánh lớn vươn đến tầm cao phản ánh và suy tư về cuộc sống và con người trong một thời loạn lạc, binh đao, đổ nát và đổ vỡ. Như trong một bài thơ khác Vũ viết về những người bốc vác ở cảng biển đã dạy anh cách nhìn cách nghĩ không thể nào dối trá và anh muốn nghĩ ra một bài hát khác “thật và đẹp hơn mọi điều trong sách” vì trong những cuốn sách cũ “có những điều ngày ấy say mê / nay trên cảng bỗng thành nhợt nhạt”.

Vũ nói, Vũ kêu gọi và tuyên ngôn, và Vũ đã chứng quả bằng thơ mình. Những bài thơ càng về cuối cuộc chiến của Lưu Quang Vũ càng sắc nhọn, đau đớn hiện thực và càng day dứt, trăn trở những nghĩ suy số kiếp nhân dân, thân phận đất nước. Cảm hứng bi thương về đất nước, nhân dân đã cho Vũ có được những bài thơ hay lay động sâu sắc để lại giá trị lâu dài (Đất nước đàn bầu, Việt Nam ơi, Người cùng tôi, Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, Sông Hồng, Năm 1954, Khâm Thiên, Hồ sơ mùa hạ 1972…). Mảng thơ này của Vũ biệt ra một cõi, không ai sánh được. Đó là một đỉnh cao của thơ Việt Nam thời chiến và đỉnh đó mang tên Lưu Quang Vũ lẻ loi và chất ngất.

“Da vàng nhược tiểu” là cụm từ hay được nói đến ở miền Nam thời chiến tranh. Nó cám cảnh cho hoàn cảnh đất nước, số phận dân tộc trong một cuộc chiến có sự dính líu của các siêu cường với những mục đích và tham vọng khác nhau. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có hẳn một album mang tên “Ca khúc da vàng” được thể hiện bằng giọng hát Khánh Ly gây ám ảnh không nguôi cho người nghe về phận số dân tộc, đồng bào khổ nạn đau thương. Ở miền Bắc cụm từ này ít nghe thấy, hầu như là không được nói. Chế Lan Viên có bài thơ “Trận tuyến này cao hơn cả các màu da” thì là nói chuyện chính trị. Lưu Quang Vũ có lẽ là nhà thơ duy nhất thời chiến ở miền Bắc đã dùng hai chữ “da vàng” theo nghĩa cảm thương giống nòi, chủng tộc. Trong bài thơ có cái tên dài như kiểu thơ tự thuật thời xưa “Đêm đông chí uống rượu với bác Lâm và bác Khánh nói về những cuộc chia tay thời loạn” – bài thơ này thực sự là một tuyệt tác – Vũ viết:

“Tối đen thành phố đêm lưu lạc
Máy bay giặc rít ở trên đầu
Ba đứa da vàng ngồi uống rượu
Mặt buồn như sỏi dưới hang sâu”


Hai câu thơ cuối có thể tạc khắc thành hình nói lên được tâm thế một thời của một thế hệ, một đất nước. Hai tiếng “da vàng” ở đây tưởng không thể hợp hơn, đúng hơn, và đau hơn. Một lần khác nhìn cánh hoa vàng Vũ liên tưởng: “Sắc hoa vàng như da mặt chúng ta / Một chủng tộc đói nghèo bên biển cả” (Những đêm hoa vàng). Giữa những ngôn từ trịnh trọng, lớn lao, nhiều khi rủng rẻng, nói về đất nước hồi ấy, câu thơ của Vũ sắc như một mũi kim châm.

Và Vũ đã tự nhận về mình phận sự:

“Có một gã làm thơ da vàng
Không đêm nào ngủ được”

(Liên tưởng tháng Hai, 1973-1974)

Gã đó thao thức, trăn trở để viết “Những câu thơ âm thầm / Muốn nói hết sự thực / Về đất nước của mình”. Những câu thơ đó với ba từ LẦM ĐƯỜNG – NƯỚC SUÔNG – TRẦN TRUỒNG đã in lại dấu chỉ cho đất nước và nhân dân nhìn thấy và nhìn rõ hành trình chân lý của “gã làm thơ da vàng” Lưu Quang Vũ để biết ơn và ghi công.

Hà Nội VIII.2018.

(Bài viết tham gia hội thảo về Lưu Quang Vũ do Viện Văn Học và Đại học Duy Tân tổ chức tại Đà Nẵng ngày 29/8/2018, đúng ngày mất của LQV - XQ 30 năm trước.)


Phần nhận xét hiển thị trên trang

NẾU NGÀY MAI TIẾNG VIỆT THÀNH... TIẾQ VIỆT


Wơ lủng kủng kủa Quyễn Dứk Lợi


Nếu ngày mai tiếng Việt thành… tiếq Việt
thì 90 triệu dân phải học lại từ đầu
vì công cụ sinh nhai (chữ viết) thốt nhiên trở thành vô dụng

riêng tôi sẽ mất 12 năm đến trường khi tuổi sắp ngũ tuần
vợ tôi ngoài 12 năm phổ thông, sẽ phải mất 4 năm học để làm cô giáo văn như hiện tại
con cái tôi cũng vậy
chúng sẽ quăng vào tôi thứ qôn qữ (ngôn ngữ) hại não của 150 năm sau!


Nếu ngày mai tiếng Việt thành… tiếq Việt
thì gia tài quốc ngữ suốt 150 năm qua bỗng chốc bị… hóa vàng
bao nhiêu công trình văn học tự nhiên trở thành di sản của thế giới bên kia, chật chỗ!

Người ta tính
nếu ngày mai tiếng Việt thành… tiếq Việt
một nhà máy in sẽ tiết kiệm được 8/100 tấn giấy/năm
nhưng người ta lại quên
nếu phải in lại toàn bộ văn kiện, văn bản, tài liệu, sách, giáo trình… cần thiết cho một thể chế thì sẽ mất cả rừng nhiệt đới Amazon gỗ để làm giấy!

Nếu ngày mai tiếng Việt thành… tiếq Việt
những bài thơ trữ tình sẽ thành thơ… tình zụk
những ẩn dụ, tu từ… sẽ chẳng khiến ai ngơ ngẩn nữa
thủ pháp văn chương na ná điếu nhà tang!

Và khi đó,
tôi sẽ trở thành dịch giả
tôi dịch văn tôi
dịch thơ tôi
để lấy tiền của chính tôi!

Và nếu,
ngày mai tiếng Việt lại cải tiếng thành… toán học
1 = ăn
2 = mặc
3 = cởi truồng
39.000 (ba vạn chín nghìn) = zâm zụk
thì liệu có gọn hơn, và kinh tế hơn không?

Sơn Viên, 26.11.2017

P/S: Quan điểm là không xúc phạm nhưng có quyền… tự vệ!

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đọc bài này tự dưng lại nhớ đến "Chiến tranh giữa các vì sao'" ngày còn LX?

Tập Cận Bình trấn an về « Một vành đai, một con đường »

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình duyệt binh tại căn cứ quân đội Trung Quốc ở Hồng Kông ngày 30/06/2017.


Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình hôm qua 27/08/2018 trong hội nghị sơ kết 5 năm « Một vành đai, một con đường » tại Bắc Kinh đã khẳng định sáng kiến này không nhằm tạo ra một « Câu lạc bộ Trung Quốc », đồng thời kêu gọi cân bằng về thương mại với các quốc gia đối tác. Tuyên bố của ông Tập được đưa ra trong bối cảnh thủ tướng Malaysia vừa hủy bỏ dự án nhiều tỉ đô la với Trung Quốc vào tuần trước.

Ông Tập Cận Bình cho rằng : « Một vành đai, một con đường là sáng kiến hợp tác kinh tế, chứ không phải là một liên minh địa chính trị hay quân sự. Đó là một tiến trình mở rộng, chứ không phải nhằm lập ra một quỹ đạo riêng hay một Câu lạc bộ Trung Quốc ».

Trong 5 năm qua, Trung Quốc đã đầu tư trên 60 tỉ đô la vào các nước dọc theo « Con đường tơ lụa mới » này. Ông Tập nhấn mạnh trao đổi thương mại với các nước liên quan đã đạt 734 tỉ đô la, tạo ra hơn 200.000 việc làm. Chủ tịch Trung Quốc cho rằng khái niệm tổng thể đã hoàn tất, nay cần đi vào cụ thể và tập trung cho các dự án chất lượng cao. Ông cũng kêu gọi nỗ lực tạo cân bằng về thương mại với các nước tham gia, và tăng cường dự báo rủi ro.

Cách đây đúng một tuần, thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad trong chuyến công du Bắc Kinh đã hủy bỏ ba dự án cơ sở hạ tầng trị giá 22 tỉ đô la do Trung Quốc đầu tư, gồm một tuyến đường sắt, hai đường ống dẫn khí đốt, với lý do sẽ không trả nổi nợ. Ông Mahathir cũng tố cáo « chủ nghĩa thực dân mới », tuy không gọi thẳng tên Trung Quốc.

Chuyên gia Bàng Trung Anh (Pang Zhongying), trường đại học Hải Dương Trung Quốc cho rằng : « Bắc Kinh đang phải đối phó với những thách thức to lớn, trước các phản ứng của cộng đồng quốc tế ». Theo ông, chiến tranh thương mại Mỹ-Trung leo thang và sự do dự của các nước quan trọng như Malaysia và Pakistan về sáng kiến này, khiến Trung Quốc phải chỉnh đốn lại kế hoạch.

Giáo sư Moon Heung Ho, giáo sư trường đại học Hanyang ở Seoul nhận định : « Bắc Kinh đã thất bại trong chính sách ngoại giao với lân bang, do các nước láng giềng đang lo ngại về sự can thiệp của Trung Quốc ». Theo ông, Trung Quốc cần cố gắng xây dựng lại lòng tin trong khu vực.

Cuộc hội thảo do phó thủ tướng Hàn Chính (Han Zheng) chủ trì, với sự tham dự của các nhân vật quan trọng khác như ngoại trưởng Vương Nghị, các ủy viên Bộ Chính trị Lưu Hạc (Liu He), Hồ Xuân Hoa (Hu Chunhua), Dương Khiết Trì (Yang Jiechi), bộ trưởng Tài Chính Tiêu Tiệp (Xiao Jie).


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Họ quăng ra cái tin ấy cho dân tình bu vào bàn tán nhằm lái sự quan tâm khỏi những vấn đề quan trọng khác mà thôi.


Viec lam cua GSTS Bui Hien qua nhieu nghi van ve dong co nghien cuu.
Chánh Lê
3 ngày hôm nay mạng lại xôn xao về lão Bùi, tưởng đâu thời gian qua lão đã đủ gạch đá xây biệt thự nên im lặng. Vậy mà sáng hôm qua , lão lại lù lù xuất hiện trên tivi bỏm bẻm nhai lại "công trình nghiên cứu thổ tả" của lão trong 20 năm qua.
Tôi không cổ súy thiên hạ chửi một ông già trên tám mươi như lão Bùi dù lão đáng bị chửi khi công bố một “công trình khoa học” đe dọa và gây tổn thương cho cả cộng đồng.
Cải cách chữ viết sáng kiến của lão Bùi làm nghèo nàn, dị dạng, lai căng, đồng hóa tiếng Việt và hủy hoại vẻ đẹp văn hóa Việt chứ không phải tiết kiệm, tiện lợi như lão nói. Đó là sự thiếu hiểu biết gây hậu quả nghiêm trọng.
Nói thật, xứ này có nhiều thứ cần phải thay đổi cho phù hợp với xu thế phát triển chứ ko phải là thay đổi chữ viết, như đề xuất của lão Bùi. Hỏi thật, thay đổi chữ viết để làm cái con khỉ gì trong thời buổi này? Thay đổi chữ viết có làm nền giáo dục tốt hơn ko? có làm cuộc sống tươi đẹp hơn ko? có bớt được tình trạng tham nhũng ko.? hỏi đã là giả nhời. Tôi tin rằng, lãnh đạo đất nước, tuy có ngu nhưng cũng kg ngu đến mức biến cái đề xuất điên rồ đó thành sự thật, họ quăng ra cái tin ấy cho dân tình bu vào bàn tán nhằm lái sự quan tâm khỏi những vấn đề quan trọng khác mà thôi.
Tóm lại, thiên hạ chửi lão Bùi Hiền là sự phẫn nộ chính đáng. Ở đâu không có dân chủ với tinh thần đối thoại cởi mở, ở đó có sự nguyền rủa và chửi bới tục tĩu như ở xứ ta.
Tiếng Việt là tài sản của toàn dân hay là của riêng lão Bùi và mấy ông mang học hàm học vị ngồi trên tivi bốc phét với nhau?
Chúng ta nên biết, đó là những bước căn bản để dần xóa bỏ nền văn hóa của dân tộc Việt , để dễ dàng học tiếng thiên triều và đưa dân tộc VN sẵn sàng làm kiếp nô lệ thằng tàu cộng , một thực tế vì thằng chủ nô lệ không bao giờ học ngôn ngữ của kẻ bị cai trị, cầu mong toàn thể dân tộc VN cùng hợp lực để phản kháng , chống lại âm mưu của những kẻ đang và sẽ bán nước cho tàu cộng, để tiếng VN muôn đời còn là ngôn ngữ cao đẹp của người VN .
Cố đấm ăn xôi thì ráng mà nghe chửi nha lão Bùi! 

Phần nhận xét hiển thị trên trang