Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 16 tháng 8, 2017

Trận chiến tay ba, hàng ngàn quan to sẽ chịu án ?

Sáng nay mới ở bệnh viện về. Mệt mỏi nhưn không phải vì bệnh mà vì buồn. Vấn nạn lạm thu và chia chác lợi ích khủng khiếp ở các dự án BOT trên cả nước đã diễn ra từ lâu, được một số đồng chí lãnh đạo (trong đó có bác Tư Sang) nói tới nhiều ngay từ những năm 2009-2010, nhưng đặc biệt từ sau khi Đinh La Thăng làm Bộ trưởng Giao thông (2011). Để lấy lòng các quan chức và kiếm phiếu ủng hộ tại các kỳ bỏ phiếu tín nhiệm hay bầu bán tại Đại hội Đảng và các Hội nghị trung ương, Ba X câu kết với Đinh La Thăng, Nguyễn Văn Bình, Trần Bắc Hà... triển khai rầm rộ hàng nghìn dự án BOT trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là giao thông, để chia cho các quan ủng hộ mình. Đây đều là các dự án ăn chia, siêu lợi nhuận, nói đúng là hút máu dân. Hiện dư luận đang tập trung vào hai dự án BOT ở Cai Lậy (của gia đình ông Ngô Văn Dụ) và Pháp Vân - Cầu Giẽ (của gia đình ông Nông Đức Mạnh), nhưng còn vô số BOT khác không được nhắc tới. Không hiểu Trương Quang Nghĩa (đương kim Bộ trưởng Giao thông) dựa vào đâu mà dám mạnh mẽ ủng hộ BOT như vậy. Nếu bác Trọng đưa được hàng nghìn quan to ra xét xử và chịu án thì rất hoan nghênh bácTrong bài dưới đây, có nói "ông Hoàng Trung Hải có thể được nương nhẹ vì một lý do nào đấy, nhưng chắc cũng sẽ phải ra khỏi Bộ chính trị". Tôi không tin điều này. Hải được Trung Quốc bảo trợ, nhiều khả năng tương lai sẽ còn lên cao hơn nữa; biết đâu nhiệm kỳ tới (2021) ông ta sẽ trở thành Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước. 
Trận chiến tay ba
Tại thời điểm này, đã có tới hàng nghìn đối tượng bị đưa ra xét xử và sẽ chịu án. Liên quan và có thể dính tội với các đối tượng này sẽ là hàng nghìn người khác. Tất cả đều thuộc bộ máy dưới quyền ông Nguyễn Tấn Dũng, đặc biệt có những thân tín của ông như Vũ Huy Hoàng, Đinh La Thăng, Nguyễn Văn Bình và Trầm Bê, Hoàng Trung Hải, Trần Đại Quang. Mạng lưới này có thể chằng chịt mọi nơi trên khắp cả nước, từ trung ương xuống địa phương và đều gắn với các trung tâm quyền lực.

Trương Quang Nghĩa (em Trương Quang Được và 
Trương Quang Khánh) đứng sau các bác Trọng, Quang
Sáng 31/07/2017, tại phiên họp 12 ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng, ông Trọng nói: «Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực không còn là lẻ tẻ từng vụ, từng việc mà bây giờ đã thành phong trào, thành một xu thế, không ai có thể đứng ngoài cuộc và cá nhân nào muốn không làm cũng không được, lò đã nóng, thì cả củi khô lẫn củi còn tươi đều cháy».
Đây là một nhận định theo góc nhìn chủ quan và có phần «lạc quan tếu» của riêng ông Trọng. Tuy vậy, nhìn toàn cảnh sân khấu chính trị, có lẽ cũng dễ dàng đồng ý với ông.



Trong số 12 vụ đại án được đặt mục tiêu xét xử trong năm 2017, 2/6 vụ thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi đã được xét xử sơ thẩm, 10/12 vụ còn lại đã được tiến hành hoàn thành kết thúc điều tra, đủ điều kiện đưa ra xét xử.

Các vụ án trọng điểm như vụ Phạm Công Danh, vụ Hà Văn Thắm, vụ Vũ Quốc Hảo đã xử tới giai đoạn II.

Ở các vụ án này, đã có hàng trăm can phạm được đưa ra trước vành móng ngựa.

Đặc biệt, vụ án Tập đoàn dầu khí PVN cùng với vụ PVC sẽ có thể hoàn thành cùng với việc bắt và đưa được Trịnh Xuân Thanh về nước đối chứng và hoàn chỉnh bản cung khai của Vũ Đức Thuận và đồng bọn. Việc hoàn thiện hồ sơ hình sự đối với Đinh La Thăng, Vũ Huy Hoàng và Nguyễn Tấn Dũng có thể được khai thông.

Trầm Bê bị bắt cùng với các hồ sơ thâu tóm Sacombank, hồ sơ BIDV và các vụ mua 5 ngân hàng với giá zero đồng, vụ Mobifone mua cổ phần AGV, sẽ trực tiếp hoàn chỉnh hồ sơ hình sự của Nguyễn Văn Bình và Nguyễn Tấn Dũng.

Riêng hồ sơ Formosa, ngày hôm qua, 15/08/2017, Thủ tướng chính phủ ký quyết định cảnh cáo nguyên Bộ trưởng Bộ tài nguyên môi trường, xoá chức nguyên chủ tịch tỉnh Hà Tĩnh của ông Vũ Kim Cự và xoá nguyên chức của hai thứ trưởng Tài nguyên môi trường. Như vậy, ở hồ sơ này, có thể ông Hoàng Trung Hải và ông Nguyễn Tấn Dũng được để lại cho các chiến dịch tiếp sau. Ông Hải có thể được nương nhẹ vì một lý do nào đấy, nhưng chắc cũng sẽ phải ra khỏi Bộ chính trị.

Tại thời điểm này, đã có tới hàng nghìn đối tượng bị đưa ra xét xử và sẽ chịu án. Liên quan và có thể dính tội với các đối tượng này sẽ là hàng nghìn người khác. Tất cả đều thuộc bộ máy dưới quyền ông Nguyễn Tấn Dũng, đặc biệt có những thân tín của ông như Vũ Huy Hoàng, Đinh La Thăng, Nguyễn Văn Bình và Trầm Bê, Hoàng Trung Hải, Trần Đại Quang. Mạng lưới này có thể chằng chịt mọi nơi trên khắp cả nước, từ trung ương xuống địa phương và đều gắn với các trung tâm quyền lực.

Một đặc điểm nữa là tất cả những tội phạm này đều là những kẻ hiện rất giàu và vẫn còn rất nhiều quyền lực ngầm nhờ những liên hệ gắn kết kiểu xã hội đen từ rất nhiều năm trước.

Như vậy, chiến dịch chống tham nhũng nhiều tham vọng của ông Trọng chứa đựng nhiều nguy cơ xung đột.

Mỗi một nhân vật trong số những người đang bị đe doạ đều có thể trở thành một ngòi nổ, bởi vì mỗi phần tử này đều có đủ cả năng lực tài chính lẫn năng lực tổ chức, và đều đối diện với một lựa chọn giữa sống và «chết».

Trong trường hợp đạt được sự liên kết quy tụ dưới tay ông Dũng, thì một kết cục giống như một vụ đảo chính không phải không thể xảy ra. Nhưng với toàn trộm cắp, có đảo chính, ông Dũng cũng không lập được chính phủ.

Một nguy cơ khác có nhiều xác suất hơn là việc tổ chức ám sát đối thủ. Ông Trọng, ông Tô Lâm, ông Ngô Xuân Lịch và ông Trần Quốc Vượng sẽ là những người đứng đầu danh sách. Và có thể tay trùm đầu độc đeo lon trung tướng công an Trần Quốc Liêm lại tái xuất!?

Đó là cuộc chiến giữa ông Trọng, với có thể toàn bộ chính phủ cũ của ông Dũng. Ông Trọng đang giữ thế thượng phong. Nhưng nếu thiếu thận trọng, ông sẽ «lĩnh đủ», không những cái «bình» chế độ của ông sẽ vỡ, mà ngay cái mạng sống của ông cũng không phải không có khả năng biến mất.

Nếu diệt được ông Dũng, đưa được ông Dũng ra Toà và tịch thu toàn bộ tài sản tham nhũng đang nằm trong tay cô con gái đầu Nguyễn Thanh Phượng, ông Trọng trả được món nợ phải khóc trong hội nghị trung ương 6 tháng 10 năm 2012. Dù sao, dù cho rằng ông Trọng chỉ nhân danh chống tham nhũng để thoả mãn hận thù cá nhân, thì việc bắt được những tên ăn cắp phải đền tội và thu lại được ít nhiều tiền của của dân, vẫn tốt!. 


Nhưng ông Trọng không phải chỉ làm một chuyện là rửa hận.

Người ta nói, ông Trọng còn âm mưu ngồi tiếp trên chiếc ghế Tổng bí thư cho đến hết nhiệm kỳ. Lâu hơn càng tốt.

Hai người được xem là có khả năng nhất thay thế ông Trọng vào ghế Tổng bí thư là ông Quang chủ tịch nước và ông Đinh thường trực Ban bí thư. Nhưng người chiếm ưu thế là ông chủ tịch nước, Đại tướng công an Trần Đại Quang. Ông này nhiều tội, nhưng vốn có công dẹp cuộc đảo chính hụt của ông Bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh, và cái chính là ông ta còn rất nhiều tay chân trong bộ công an.

Tuy nhiên, ông có một cái «phốt» chết người.

Ngày 17/08/2016, ông Đinh Thế Huynh ký quyết định 13-BBT/TU: «kể từ 18/08/2016, chỉ xét tuổi đảng viên theo hồ sơ gốc cho các công tác quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ đảng». Ông Quang bị gạt ra ngoài ứng viên Tổng bí thư, vì theo hồ sơ gốc, sang năm 2018, ông 68 tuổi, quá 3 tuổi.

Ông Đinh Ban bí thư đã «chơi» ông?

Chín tháng sau khi ký quyết định 13- BBT/TU, thường trực Ban bí thư Đinh Thế Huynh ngấm bệnh, phải đi chữa tại Nhật, rồi về điều dưỡng tại Phú Quốc. Người ta nói ông Đinh bị ung thư. Trước đây, từng có chuyện ông Nguyễn Bá Thanh và ông Phạm Quý Ngọ đều đột nhiên nhiễm phóng xạ, và cả hai ông này đều «đi» rất nhanh. Nghĩ tới ông Quang, người yếu bóng vía đã thấy lạnh sống lưng.

Nhưng chỉ sau 2 ngày khi có tin Trịnh Xuân Thanh bị bắt giải về nước, đột nhiên ông Quang biến mất khỏi sân khấu. Có vẻ như ông biết trước việc Trịnh bị bắt và lên kế hoạch «biến» . Ngày 23/07 Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc tại Đức thì chính trong ngày 24/07, ông đọc diễn văn kỷ niệm ngày thương binh liệt sĩ, sớm trước 3 ngày, ông đi thăm hỏi các gia đình thương binh liệt sĩ và biến mất vào ngày 26/07, không dự bất kỳ một lễ kỷ niệm nào do đảng và nhà nước tổ chức vào đúng ngày 27/07.

Tiếp đến, ông không xuất hiện nữa, và chỉ từ một chỗ kín nào đấy, gửi điện mừng quốc khách các nước. Sau 10 ngày, bắt đầu rộ lên tin đồn ông bị bệnh. Nếu ông biết trước ngày phải «biến mất» thì có nghĩa ông bị bệnh theo «kế hoạch» cùng một lúc với tin đồn ông và ông Đinh La Thăng bị quản thúc tại gia.

Như vậy, phía trước ông Trọng, con đường dẫn đến chiếc ghế Tổng bí thư hết nhiệm kỳ, chỉ còn duy nhất ông Nguyễn Xuân Phúc. Từ khi lên Thủ tướng, người ta chỉ thấy ông Phúc loay hoay với nợ xấu ngân hàng, nợ công chính phủ, tất bật dọn những đống vỏ ốc mà ông Dũng bỏ lại. Ông được cho là không còn thời gian để tham vọng chạy đua vào vị trí thay ông Trọng.

Nhưng bây giờ, không còn ai. Nếu ông Trọng thật là muốn rút về, thì ông Phúc là ứng viên độc nhất.

Nhưng đó là «nếu» và luôn là «nếu». Bởi vì, hình như ngay cả phương án ông Phúc, cũng đã được ông Trọng tính đến. Người ta nhớ lại cái quyết định kiểm tra tài sản của 1000 cán bộ cao cấp mà Bộ chính trị thông báo ngày 28/05/2017, ngay sau khi thi hành kỷ luật ông Đinh La Thăng.

Nếu Nghị quyết số 344/NQ-UBTVQH14 về việc xử lý kỷ luật các chức vụ trong quá khứ có mục tiêu hướng tới Vũ Huy Hoàng, Đinh La Thăng, Nguyễn Tấn Dũng và các đối tượng cao cấp đã không còn đương quyền, thì quyết định kiểm tra tài sản của 1000 cán bộ cao cấp lần này có mục đích hướng tới các cá nhân có siêu tài sản nằm trong chính phủ hiện tại, trong đó không loại trừ ông Phúc, vì dư luận đồn ông Phúc có cả nhà ở bên Mỹ.

Nghị quyết này, được giải thích rằng sẽ không có vùng cấm với cả 18 uỷ viên Bộ chính trị và 200 uỷ viên trung ương.

Theo bà Lê Thị Thủy, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra TƯ, «không cần phải hội đủ cả 3 căn cứ, chỉ cần 1 căn cứ là đã có thể kiểm tra. Ví dụ, khi có kế hoạch, yêu cầu của cơ quan tổ chức có thẩm quyền thì sẽ kiểm tra; hoặc có đơn thư tố cáo thì kiểm tra; hoặc có dấu hiệu vi phạm các quy định của Đảng, Nhà nước về kê khai tài sản… thì sẽ kiểm tra».

Ai cũng biết, có một thực tế là, số cán bộ cao cấp nằm trong chính phủ hiện tại của ông Phúc, 100% có tài sản không có nguồn gốc từ thu nhập chính thống, tức là từ lương. Những tài sản này sẽ bị kiểm tra nếu rơi vào một trong 3 căn cứ nêu trên, có nghĩa là nếu Ban kiểm tra TƯ muốn, mọi tài sản đều có thể bị kiểm tra, bất kể người đó là ai. Và chỉ cần Ban kiểm tra kết luận tài sản không rõ nguồn gốc, đủ để chủ nhân của nó nằm ngoài mọi quy hoạch đề bạt và bổ nhiệm.

Với những vị trí nhạy cảm như chức Tổng bí thư, chỉ cần có thông báo kiểm tra, thì kể cả kết luận «không có gì», ứng viên ấy vẫn bị loại.

Bởi vì, cùng với kết luận «không có gì», thường có đơn tố cáo nặc danh, từ trên trời rơi xuống, trưng ra đủ bằng chứng, nhưng chẳng cơ quan có trách nhiệm nào chịu công khai xác minh.


Đấy là sự hiểm độc của các loại quyết định mà Tổng bí thư ký ban hành.

Như vậy, nhìn bao quát, cuộc chiến thứ nhất là cuộc tổng công kích công khai và quyết liệt giữa lực lượng trong tay ông Tổng bí thư chống lại tập đoàn tham nhũng của chính phủ cũ, đứng đầu là cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Bên cạnh cuộc chiến này, cuộc chiến thứ hai là một cuộc chém giết bí ẩn không rõ người chủ mưu, nhưng đã có hai đối thủ nặng ký cùng ngã ngựa. Một là thường trực Ban bí thư Đinh Thế Huynh đã bị tuột mọi chức vụ và đang dưỡng bệnh. Người thứ hai là đương kim chủ tịch nước Trần Đại Quang, biến mất khỏi sân khấu không rõ nguyên nhân, dù thỉnh thoảng vẫn «gửi điện mừng». Giống như ông Phùng Quang Thanh, bị nhốt trong khuôn viên Bộ tổng Tham mưu suốt 5 tháng không được về nhà, nhưng lại ngồi trên chủ tịch đoàn Đại hội XII.

Cuộc chiến thứ ba được cho là đánh vào chính phủ hiện tại, đứng đầu là thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. Mặt trận này chỉ như một trận mai phục, tiến hay thoái tuỳ tình huống điễn biến tham vọng của ông Phúc. Nếu ông Phúc bộc lộ tham vọng Tổng bí thư, quyết định kiểm tra tài sản sẽ được xúc tiến, ngược lại, nếu ông Phúc ngoan ngoãn chịu dừng ở vị trí thủ tướng, chấp nhận hay ủng hộ phương án toàn nhiệm kỳ của đương kim Tổng bí thư, thì ông Phúc sẽ có được sự «hỗ trợ hết mình» của Bộ Chính trị.

Tuy nhiên, cuộc vận động cho một cuộc cải cách triệt để thể chế phục vụ nền kinh tế thị trường không chấp nhận định hướng chính trị do ông Phúc và các cộng sự rất tích cực trong Chính phủ của ông thực hiện đang một mặt thu được rất nhiều ủng hộ cuả giới Doanh nghiệp cả tư nhân lẫn quốc doanh, cả của giới quản trị lẫn đông đảo dân chúng, một mặt bộc lộ thái độ chống đối ngày càng gay gắt của số đông đối với lối tư duy giáo điều và bảo thủ, đang được khẳng dịnh là nguyên nhân chính của trì trệ và tắc nghẽn phát triển.

Ông Trọng mặc dù đang chiếm được cảm tình trên khía cạnh chống tham nhũng, lại không được chấp nhận trên vai trò đứng đầu đảng và dẫn dắt chế độ.

Cuộc chiến trên mặt trận thứ ba, thực chất là cuộc chiến giữa «định hướng xã hội chủ nghĩa» của phe đảng và «không định hướng chính trị» của những người ủng hộ ông Phúc.

Như vậy, nhìn toàn cảnh chiến trường, có thể giả định mấy kịch bản thế này:

1- Ông Dũng đầu hàng, thì toàn bộ hệ thống chính phủ cũ của ông sẽ ra đoạn đầu đài. Sẽ có hàng ngàn cái án, trong đó có án cho ông Dũng, ông Thăng, ông Bình, ông Hoàng Trung Hải, Vũ Huy Hoàng và ông Nguyễn Minh Quang.

2- Ông Dũng hay phe ông Dũng đảo chính, Quân đội can thiệp, Chính phủ quân sự với Ngô Xuân Lịch làm thủ tướng. Đất nước chìm trong khủng hoảng.

2- Ông Trọng thắng thế, khoảng giữa năm 2018, Đại hội giữa nhiệm kỳ sẽ bỏ phiếu tín nhiệm ông Nguyễn Phú Trọng tiếp tục giữ chức Tổng bí thư. Sẽ bầu bổ sung 5 uỷ viên Bộ chính trị thay cho các ông Đinh La Thăng, Nguyễn Văn Bình, Hoàng Trung Hải, Đinh Thế Huynh và Trần Đại Quang. Ông Phúc vẫn làm thủ tướng, nhưng ông Nguyễn Thiện Nhân làm chủ tịch nước, ông Nguyễn Thành Phong làm bí thư Sài Gòn. Vũ Đức Đam làm bí thư Hà Nội. Dân chủ tiếp tục bị đàn áp. Kinh tế tiếp tục trì trệ.

3- Phe cải cách của ông Phúc thắng thế. Ông Phúc trúng Tổng bí thư tại Đại hội 13. Bầu Quốc Hội lập hiến, soạn thảo và phê chuẩn hiến pháp mới, bỏ điều 4, chấp nhận cạnh tranh chính trị, ban hành luật Hội, tự do đảng phái. Việt Nam thoát khỏi chế độ độc đảng độc tài.

........

16/08/2017
Bùi Quang Vơm

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Mưa chiều..




cơn mưa đến từ phía đông
tôi nhìn thấy những hạt mưa màu đỏ
hắt ráng chiều
người phụ nữ bán vé số cuối giờ
rao bán những tấm vé cầu may cuối cùng
đi qua cuối con hẻm nhỏ
tôi nghĩ về hai đứa bé
đang chờ mẹ tại Hà Nam
tôi nghĩ về hai đứa bé
đang chờ mẹ tại Nha Trang
về những đứa bé
đếm mưa một mình
bão đang đến từ Biển Đông
tôi nhìn thấy những cơn sóng trong quá khứ
những cơn sóng trong hiện tại
những cơn sóng luôn có màu của máu
thét gào khi cơn mưa dâng lên dâng lên…
NĐB

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Vết nám giáo dục, báo chí tuyên truyền

Nguyễn Đình Bổn




Nhiều năm trước, tôi nhận được 1 cuộc điện thoại của một đứa em, hỏi: "Em thấy anh mới chạy xe ra từ nhà tang lễ Lê Quý Đôn, anh đi đốt nhang cho ông Thu Bồn hả?"

Tôi bực lắm, trả lời: "Ê thằng kia, Thu Bồn là cái quái gì mà tao đi đốt nhang? Tao đi đốt nhang cho bạn tao" (Bạn tôi, họa sĩ Việt Hải cũng mất trong ngày đó, và tôi đến nhà tang lễ viếng tang bạn!).

Thằng em: "Thu Bồn là đồng hương nổi tiếng mà anh? Em nghĩ...".

Đó là một ví dụ cho vết nám giáo dục, báo chí tuyên truyền của chế độ. Tôi biết, không chỉ giới trẻ, mà còn nhiều người đã "yêu", đã "tự hào" với một vài tên tuổi được thổi phồng như "nghệ sĩ lớn của dân tộc", và họ cứ vậy mà yêu quý, dù họ không hề biết rằng, cái loại nghệ sỹ lớn đó, thực ra chỉ là cái loa tuyên truyền, không có một ích lợi gì cho dân, mà chỉ có hại, vì đến hôm nay, khi đòi hỏi bức thiết về một tiến trình dân chủ, chính họ và những tác phẩm của họ được nhồi sọ vào đầu các thế hệ, là một rào cản lớn.

Tôi lấy ví dụ Thu Bồn. Ông ta đã làm được gì cho dân? Về giá trị văn học, ông ta đã làm được gì ngoài các bài thơ ca tụng lãnh tụ và chế độ!? Thơ tình của ông sau này, tuy cũng du dương réo rắt, nhưng nó vẫn cũ như thời "thi ca tiền chiến", đâu có một đóng góp nào cho sự phát triển của văn học nghệ thuật VN?

Vậy nhưng tiếng tăm ông thì vang dội, thậm chí cả cái tiếng... chim gái cũng được đưa vào lòng tự hào để một đứa em, có thể tưởng ra rằng tôi đi viếng tang Thu Bồn?

Vết nám giáo dục và báo chí tuyên truyền cho đến hiện nay vẫn chưa được gột rửa vì học sinh vẫn học y như chương trình cũ.

Nói riêng về nghệ thuật: Điều nguy hiểm là do giáo dục một chiều, học sinh cứ tưởng rằng thi ca cỡ như Chế Lan Viên hay Xuân Diệu, Tố Hữu, Thu Bồn... là đỉnh cao rồi, nên các em có năng khiếu cứ vậy mà gò theo, nên đã nửa thế kỷ, VN rất ít nhà thơ dám cách tân!

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ở phi trường Cam Ranh



 Kết quả hình ảnh cho ảnh phi trường Cam Ranh?


Chào tạm biệt Nha Trang
Tạm biệt miền thùy dương cây xanh bốn mùa lộng gió
Tạm biệt  màu biển xanh quanh năm sóng vỗ
Tạm biệt đồi cát trắng chảy dài mênh mông
Ngút ngàn tầm mắt làm anh không thể nhìn thấy em
Những bước chân trần in trên nền cát ẩm
Hương tóc nồng nàn mùi biển mặn
Cung đường ta đi qua vẽ thành bức tranh thủy mạc
Cong một vành trăng khuyết
Màu biển xanh muôn đời vẫn thế
Như tình anh dành cho em xanh một màu ngọc bích
Kết tinh thành san hô trầm tích muôn màu tươi thắm
Dưới biển sâu ngàn năm thương nhớ
Em có biết không.

Chào tạm biệt Nha Trang
Tạm biệt xứ sở trầm hương núi rừng hoang dã
Tạm biệt Yang Bay, Hòn Tằm. Hòn Mun, Vạn Giã
Tạm biệt Dốc Lết, Suối Ba Hồ, Vân Phong, Cổ Mã
Tình em tôi không thể quên
Mắt nhìn qua khung kính
Trời đã chuyển về đêm
Phi đạo nhấp nháy đèn vàng trên đường băng
Cánh phi cơ chợt  rùng rùng chao động
Nhẹ nhàng lướt lên
Trong bầu trời đêm yên ả
Vệt sáng thành phố bỏ lại sau lưng
Mờ dần trong một ngày cuối tháng sáu
Chợt nhớ đôi mắt của em
Hình như vừa đẩm lệ.              

Phần nhận xét hiển thị trên trang

GỬI Đỗ Minh Tuấn



Một quán cà phê ở huyện Bình Chánh mà thủ tướng cũng lên tiếng. Vậy mà cái trạm móc túi phi lý, phi nhân, phi luật lệ trắng trợn như ở Cai Lậy, ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của hàng vạn bà con, ảnh hưởng gián tiếp đến nền kinh tế của cả một vùng miền, sôi sục cả nước bao nhiêu ngày nay, các quan chức thi nhau ngụy biện, trơ mặt dối trá... thì thủ tướng... im lặng.
Một người bao nhiêu năm chính trường, làm đến thủ tướng, chắc cũng biết thừa đó là bọn ăn cắp, bọn móc túi trơ tráo...
Nhưng ông im lặng. Có lẽ vì thương dân, thương nước quá mà không biết phải làm thế nào?
Dân thì chỉ biết phản ứng đến thế thôi. Chúng giảm giá, đừng vội mừng. Sự móc túi trắng trợn vẫn còn nguyên vẹn, không hề suy suyển tí nào, không có tí "nhân nhượng" nào... Chúng y như một con đỉa, gỡ đầu này đầu kia nó lại bám chặt, hút máu dân không một phút ngưng nghỉ.
Càng nhiều trạm thu phí mọc lên, thì con đường sống của nhân dân càng thu hẹp lại.
Những người dân cùng quê với lũ quan chức kia, có thấy xấu hổ vì quê hương đã sản sinh ra lũ sâu mọt dối trá trắng trợn ấy hay không? Nếu biết xấu hổ thì hãy nhổ một bãi nước bọt, mỗi khi xe chúng chạy về làng.
Bố mẹ lũ ăn cắp kia, dù đã từng làm tới chức này chức nọ... Nay có thấy nhục nhã khi con cái mình đang là những con đỉa hút máu dân, bị dân thí cho những đồng bạc lẻ, mà vẫn cố sống cố chết bám lấy, để muôn đời đọa xuống địa ngục... Nếu biết nhục thì hãy khuyên chúng lập tức dừng lại, đừng tạo nghiệp ăn cắp thêm nữa.
Đỗ Minh Tuấn, tôi biết anh đau đáu hướng về dân, nên viết mấy dòng này gửi anh, muốn xin anh mấy lời chia sẻ.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Sự suy thoái và biến dạng các giá trị nhân văn ở Việt Nam


ĐỖ MINH TUẤN, 4 Tháng 8 2017 - Sự suy thoái các giá trị nhân văn trong kỷ nguyên phát triển công nghệ và kinh tế đang diễn ra ở quy mô toàn cầu, có những xu hướng chung của toàn thế giới. Nhưng trong xã hội cụ thể như Việt Nam các xu hướng lớn này được thể hiện ra trong những dạng thức riêng. Cụ thể:
Image result for suy thoái và biến dạng
· Xu hướng thu hẹp các giá trị nhân văn, sự thay thế các giá trị cộng đồng bằng giá trị cá nhân: Nếu như trước đây, trong quá trình lịch sử hàng ngàn năm, con người Việt Nam coi LÀNG, NƯỚC là những giá trị thiêng liêng nhất, có thể hy sinh tất cả để bảo vệ. Đó là những giá trị nhân văn truyền thống của dân tộc, được bao thế hệ cha ông xây dựng và bảo vệ, thì ngày nay, con người Việt Nam thời đổi mới và hội nhập có xu hướng coi quyền lợi cá nhân và phần nào đó cuộc sống gia đình là giá trị lớn nhất, mục tiêu sống quan trọng nhất.

· Xu hướng phá vỡ ranh giới nhân bản của con người: Những giá trị nhân văn hằng bắt rễ trong mảnh đất nhân bản, khiến cho người Việt Nam bao đời nay coi trọng các giá trị tinh thần và các hành vi trực tiếp của con người hơn tiền bạc và những hành vi tổ chức hay công nghệ. Một bà mẹ trực tiếp bón cơm cho con ăn, tự tay bế con và hát ru con ngủ được người Việt đánh giá cao hơn các bà mẹ bật nhạc ru con và dùng tiền thuê Osin bón cơm, chăm sóc con. Nhưng ngày nay, việc phó mặc con cho nhà trẻ hay Osin chăm sóc là chuyện phổ biến của các bà mẹ thời @. Ngay cả khi đón con về, các bà mẹ cũng nhiều khi vừa cho bú vừa dúi mắt vào điện thoại để nhắn tin hay xem FB. Ngôn ngữ giao tiếp trong thư từ cũng mang nhiều tính mệnh lệnh công nghệ, đơn giản, khô khan. Các giá trị tổ chức và giá trị công nghệ đã làm mai một và hời hợt dần tình cảm mẹ con, gia đình, bè bạn vốn là những tình cảm phong phú sâu nặng nhất của con người Việt Nam bao đời nay. Tình cảm gia đình và xã hội sẽ phai nhạt khi con người hình thành thói quen ủy thác cho tổ chức hay cho công nghệ làm những việc liên quan đến tình người, trách nhiệm, sứ mệnh và các hành vi gắn với bản chất người. Suy kiệt tình người, vô cảm trước những nỗi đau, nỗi sợ và lo lắng của người thân, bạn bè và đồng bào là dấu hiệu suy thoái của nền tảng văn hóa Việt.

· Sự lên ngôi của giá trị ngắn hạn, vô cảm, nhất thời: Các giá trị nhân văn luôn là giá trị bền vững, mang tính vĩnh cửu. Các tôn giáo, các tác phẩm nghệ thuật giàu tính nhân văn đều xây dựng trên một nhịp độ chậm rãi của sự sống, cái chậm rãi có sức mạnh cải biến sâu sắc cấu trúc tâm lý, làm con người có khả năng thấu cảm với thiên nhiên và với người. Nhà Thiền học Suzzuki (Nhật Bản) đã viết: “Những bông hoa dại ngoài đồng nhỏ bé và bình dị biết bao. Nhưng nếu ta chăm chú nhìn vào chúng, ta se thấy chúng lộng lẫy hơn cả Vua Salomon lúc Ngài còn sống”. Nhưng cùng với sự phát triển của kinh tế, con người Việt nam cũng như con người ở các nước Châu Á khác bị mất đi nhu cầu nhìn kỹ nhìn lâu nhìn sâu vào con người và sự vật để khám phá những điều kỳ diệu của thế giới quanh mình và trong mình, mà ngày càng ảnh hưởng lối sống thực dụng, gắn với những nhịp sống nhanh và các giá trị ngắn hạn, “nóng ruột kiếm tiền và cắm đầu hưởng thụ” (Nguyễn Thái Hợp, 2000). Không chỉ làm việc nhanh, làm ăn nhanh mang tính vụ việc chộp giật, mà còn xử lý các vấn đề của con người với con người trong công việc và cuộc sống bằng các phương tiện và giải pháp nhanh gọn (bằng tiền, bằng pháp lý, bằng sự thay đổi tình yêu, nghề nghiệp và doanh nghiệp như chong chóng…). Những động cơ ích kỷ thực dụng hướng tới những mục tiêu trước mắt, ngắn hạn sẽ tạo ra tệ nạn tham nhũng, các nhóm lợi ích và các chuyển động hỗn loạn của các nhóm này trong đời sống dân tộc.

· Cảm hứng vì lợi nhuận thay thế cảm hứng về giá trị nhân văn: Cảm hứng sống nhân văn vì con người, vì dân tộc, vì đại nghĩa là cảm hứng xuyên suốt mấy ngàn năm lịch sử của dân tộc Việt Nam đến nay đã bị phai nhạt, thay thế bằng cảm hứng vì lợi nhuận có nguồn gốc phương Tây, gắn liền với quá trình thế tục hoá diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Sử thay đổi cảm hứng sống đó đã gây ra sự suy thoái các giá trị nhân văn, gây ra những vấn nạn và bức xúc về văn hoá. Đó là bắt văn hoá phải lệ thuộc vào những tiêu chuẩn của thị trường, vào những bất trắc của cung và cầu, vào những cạm bẫy của tính thực dụng và tính khẩn trương có nghĩa là cắt đứt nguồn dưỡng khí của văn hoá, thay thế tính sáng tạo bằng những stress của thị trường, như Eduardo Portela, nhà triết học Brazin, đã chỉ ra. Khi không còn tính sáng tạo bắt nguồn trong vô thức nhân văn của cộng đồng, văn hoá dân tộc bị tiêu diệt, trở thành bản sao của các nền văn hoá mạnh.

Hậu quả là cảm hứng vì lợi nhuận đã tạo ra một nền tảng ngày càng rộng lớn và vững chắc cho sự lớn lên của văn hoá suy đồi, lối sống hưởng thụ, thái độ hư vô, sẵn sàng tách rời danh nghĩa và thực chất để đạt đến các mục tiêu mang tính thực dụng về văn hoá, chính trị và kinh tế.

· Nguy cơ mất ký ức lịch sử, văn hoá và con người Việt Nam truyền thống

Khi đã sống nhanh sống vội, hướng tới những giá trị vật chất nhất thời và thế giới quảng cáo chớp nhoáng thì con người bị teo dần đi cảm hứng lịch sử, cảm hứng cội nguồn. Mất cảm hứng nhân văn lịch sử, con người Việt Nam hôm nay dạy và học lịch sử một cách miễn cưỡng và hời hợt chưa từng thấy. Trong khi đó, sự tiếp xúc thiếu ý thức tự trọng văn hoá và đề kháng văn hoá với phim ảnh lịch sử của Trung Quốc chiếu tràn lan mỗi ngày vài chục bộ phim trên hệ thống hơn 60 Đài TH trong cả nước đã dẫn đến việc trẻ em Việt Nam thuộc sử Tàu hơn sử Việt Nam.

Thiếu cảm hứng về nguồn, thiếu tri thức lịch sử tổ tiên, lớp trẻ hôm nay có nguy cơ bị nhiễm dần mặc cảm tư ty dân tộc trước Trung Quốc và phương Tây. Hiện nay ngành giáo dục nói chung và ngành văn hoá nói riêng chưa ý thức được vai trò khoa học cơ bản của môn lịch sử giúp cho các em hình thành và phát triển cảm hứng cội nguồn có bản chất nhân vănđể nhìn nhận và thấu hiểu tiến trình hình thành phát triển của giống nòi, thấy trong tiến trình đó một động lực sống, động lực tồn tại và phát triển của con người Việt Nam. Cho nên cảm hứng lịch sử, cảm hứng phát triển và cảm hứng về tương lai trong lớp trẻ vẫn là vay mượn từ các nền văn hoá khác.

Khi nói đến sự thiếu hụt cảm hứng lịch sử như một chiều kích nhân văn trong con người Việt Nam hôm nay ta không chỉ dừng lại ở sự tự tôn dân tộc để nghĩ đơn giản rằng lớp trẻ cũng đã biết tự hào về lịch sử dân tộc, về truyền thống cha ông. Cần phải hướng đến một mục tiêu nhân văn hơn là giáo dục trong con người Việt Nam nói chung và thế hệ trẻ Việt Nam nói riêng SỰ THẤU CẢM LỊCH SỬ để mỗi con người hôm nay biết trân trọng, chia sẻ và thậm chí thương cảm với tất cả những nỗ lực, gian khổ, hy sinh của cha ông để giữ cho dân tộc được trường tồn và phát triển đến hôm nay.

Trong khi ta chưa ý thức được tầm quan trọng của mục tiêu xây dựng cảm quan về những giá trị nhân văn trong con người Việt nam hôm nay, thì phim ảnh ngoại nhập đã chiếm mất chỗ của những cảm xúc lịch sử, những niềm tin vào các giá trị nhân văn và những day dứt về thân phận con người Việt trong lịch sử. Các giá trị của những nền văn hoá khác đã ám thị lớp trẻ từ khi đi nhà trẻ đến khi cắp sách đến trường, lớn lên lại say mê phim Tàu, phim chưởng, phim bạo lực.

· Quyền lực đồng tiền và sự bùng phát của bạo lực gia đình và xã hội

Hàng ngàn năm đô hộ phương Bắc không đồng hóa nổi Việt Nam, nền văn hóa nhân văn nhân ái hòa đồng “nhìn nhau mà sống”, “chị ngã em nâng”, “lá lành đùm lá rách”, “giấy rách giữ lấy lề”...vẫn tiếp tục phát huy sức mạnh trong lịch sử trong bao hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn và gian khổ để làm nên bao kỳ tích, và tiếp tục gắn kết dân tộc Việt Nam trong một gia đình trong đó cháu con các đời luôn kính thờ Tổ tiên, cha mẹ. Vậy mà mấy chục năm nay, xã hội này đã để cho đồng tiền lên lỏi vào khắp hang cùng ngõ hẻm, khắp ngõ ngách tâm hồn và suy nghĩ, thao túng con người, đày đọa người nghèo, đưa người kém năng lực và thiếu đạo đức giữ các trọng trách, dân tộc Việt Nam đã đứng trước một tình thế sống còn, với nguy cơ đánh đổi cả nền văn hiến mấy ngàn năm và tương lai dân tộc chỉ để lấy hạ tầng, tham nhũng, nợ xấu, sự suy thoái phẩm giá con người và sự lên ngôi của lòng tham và thói hung bạo.

Chưa bao giờ con người Việt Nam hung bạo như hôm nay. Mỗi ngày mở báo ra đều thấy tin tức về tội phạm xã hội, giết người hàng loạt để cướp của, thậm chí giết ông, bà, cha mẹ và những người thân trong gia đình để chiếm đoạt tài sản.Đau đớn hơn, có những vụ cha mẹ giết hết con cái rồi tự tử chỉ vì bế tắc, vỡ nợ trong làm ăn, buôn bán. Hầu như tất cả những vụ trọng án giết người hàng loạt đều chỉ vì tiền. Trong quá khứ, con người Việt Nam nghèo khổ hơn nhiều sao không xảy ra những vụ án mạng thương tâm như thế? Vì các giá trị nhân văn trong con người Việt Nam trước đây chưa bị mai một đã hướng đạo cho con người biết ứng xử với nhau một cách ân tình, nghĩa cả, khoan dung. Ngày nay, văn hoá Việt trong chiều hướng suy kiệt, bản năng lấn áp lý trí, sự tính toán lấn áp tình cảm, vật chất lấn áp tình người, sự chênh lệch giàu nghèo trong xã hội lại quá lớn, bất công xã hội ngày càng nhiều và hầu như không được giải quyết thoả đáng. Bên cạnh đó, sự hỗn tạp thiếu kiểm soát của truyền thông vừa tác động xấu vào xã hội theo hướng kích thích thói suy tôn vật chất, chạy theo viễn cảnh giàu có xa hoa, vừa ám thị con người bằng phim bạo lực ngoại nhập, đào luyện nhân cách, tạo nên những hành xử hung bạo, độc ác.Đó là những căn nguyên trực tiếp từ xã hội đang làm mai một dần các giá trị nhân văn./.

http://www.vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song27/khach-moi-cua-tap-chi45/su-suy-thoai-va-bien-dang-cac-gia-tri-nhan-van-o-viet-nam


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nguyễn Hữu Đang: một bi kịch lớn


Nhà báo Lê Thọ Bình
"...Tại sao trường hợp ông Nguyễn Hữu Đang lại được quan tâm nhiều như vậy? Bởi vì ông có một số phận đặc biệt. Còn rất trẻ, ông đã là Thứ trưởng trong chính quyền, ông là nhà truyền giáo cách mạng hùng hồn bậc nhất mặc dù không để lại nhiều trước tác. Sau nữa, ông là người được Hồ Chí Minh giao trách nhiệm dựng lễ đài đọc Tuyên ngôn độc lập 2.9.1945. Nhưng cái làm cho nhiều người “mê” ông chính vì ông là một nhà cách mạng nhiệt thành và hơi… cuồng tín.

Cho đến chết ông vẫn coi cách mạng là một thứ gì đó vô cùng đẹp đẽ, kỳ vĩ. Dao sắc không gọt được chuôi, vị đại diện thông minh, tài giỏi, hào hùng và trung thành của cách mạng đã không tự cứu được mình khi dám cả gan đòi cho giới văn nghệ một không gian sống và không gian nghệ thuật dễ thở hơn, tự do hơn. Kết quả là đứa con cưng của cách mạng đã bị cách mạng xóa sổ: kết án 15 năm tù. Ra tù phải ăn cả cóc nhái rắn rết để tồn tại và cùng quẫn đến mức phải lo tìm một chỗ bờ bụi nằm chết một mình cho yên thân...."

Đang nắm giữ những chức vụ và đảm nhiệm những công việc rất quan trọng của chính quyền: Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền, Thứ trưởng Bộ Thanh niên, được giao nhiệm vụ tổ chức ngày Lễ Độc lập (2-9), ông như con đại bàng đang bay cao. Nhưng rồi cái tư tưởng phóng khoáng, tự do của một chú đại bàng “hoang dã” muốn đưa đồng loại của mình tới khoảng trời bay nhảy tự do đã khiến ông rơi từ “trời cao” xuống vực thẳm, để lại cho nhân gian những câu chuyện thật đau lòng bằng một vụ án văn chương mà người ta gọi là “Nhân văn Giai phẩm”.

Vâng, ông là Nguyễn Hữu Đang, người được coi là “Lãnh tụ tinh thần” của “Nhân văn Giai phẩm”.

Hành trình bài bút ký

Lần đầu tiên tôi gặp Nguyễn Hữu Đang là mùa hè năm 1993, khi ông vừa lên Hà Nội cư trú sau gần 20 năm bị quản thúc tại Thái Bình, quê ông.

Hôm ấy tôi đang làm việc ở Văn phòng cơ quan thì một cụ già vận chiếc quần bộ đội bạc phếch, áo sơ mi cộc tay trắng đã ố vàng bỏ ngoài quần, đi dép cao su 3 quai, đầu đội chiếc mũ lá tuềnh toàng. Tôi đã nghĩ “Lại cụ nông dân đi kiện về đất đai” và chào ông. Ông cởi chiếc mũ lá. Đầu trọc lốc. Ông không chào, cũng chẳng đáp lời tôi, hỏi cộc lốc: “Các ông có biết tôi là ai không?”. Tôi lắc đầu. Ông nhăn mặt: “Tôi là Nguyễn Hữu Đang vừa ở tù 15 năm và quản thúc 20 năm đây!”. Tôi hết sức ngạc nhiên. Không, phải nói là sửng sốt thì đúng hơn. Nguyễn Hữu Đang, Lãnh tụ tinh thần của “Nhân văn Giai phẩm” đây sao!

Thú thực, ban đầu tôi không thực sự ấn tượng vì cách nói chuyện theo kiểu không đầu không cuối của ông. Đầu hơi cúi gằm. Thỉnh thoảng lại lấm lét ngước mắt lên nhìn người nghe. Tuy nhiên, ông lại có chất giọng hào sảng, âm thanh rất vang. Cuối buổi trò chuyện ông rút trong chiếc bị cói ra tập bản thảo bút ký 15 trang giấy viết tay kể về “Tổ chức Ngày Lễ Độc lập năm 1945”. Nét chữ của ông nắn nót, tròn, đều tăm tắp. Tôi cảm ơn ông và hứa sẽ tìm cách đăng cho ông.

Tôi đã kỳ công biên tập ngắn gọn lại thành một bài viết 1.500 chữ và gửi cho báo Tuổi trẻ Chủ nhật (nay là Tuổi trẻ cuối tuần) để đăng nhân dịp Quốc khánh, 2-9. Tuổi trẻ trả lời không đăng được. Tôi đã gửi đi tới cả chục báo, tạp chí như Đại đoàn kết, Lao động, Phụ nữ TP.HCM, tạp chí Thế giới mới, Kiến thức ngày nay… nhưng tiếc rằng không báo nào “dám đăng”.

Đó là điều mà tôi đã tiên liệu trước: Ai dám đăng bài viết mà tác giả của nó là “Lãnh tụ tinh thần” của Nhóm “Nhân văn Giai phẩm”. Tuy nghĩ là vậy, nhưng tôi vẫn hy vọng vào lòng quả cảm của một Tổng biên tập nào đó, vì thực ra ngay từ năm 1989 ông đã được "phục hồi", năm 1990 đã được trả lương hưu và năm 1993 đã được về sống tại Thủ đô.

Tôi như người “mắc nợ” với ông, mặc dù khi đưa tập bản thảo cho tôi ông đã bảo: “May ra có Tuổi trẻ dám đăng”. Sau đấy năm nào cũng vậy, cứ đến dịp Quốc khánh tôi lại gửi đến một vài báo khác nhau. Và vẫn câu trả lời: “Không đăng được”. Tôi luôn nặng trĩu trong lòng và vì “món nợ” ấy mà đã nhiều năm liền không dám tìm gặp ông.

6 năm sau, năm 1999, tôi về làm việc tại Báo Nông thôn ngày nay. Vì là người được chị Mai Nhung, Tổng biên tập giao nhiệm vụ Tòa soạn, biên tập, duyệt đăng bài, nên tôi đã bê nguyên xi bản thảo ông Đang viết đăng 4 kỳ ở chân trang. Sau khi báo phát hành nhận được rất nhiều lời khen ngợi. Thậm chí ông Vũ Duy Thông, lúc ấy là Vụ trưởng báo chí Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương) biểu dương. Thì ra lâu nay toàn sợ bóng sợ gió cả.

Phần vì bận nhiều công việc, phần không tìm được ra nhà ông Nguyễn Hữu Đang, nên tôi đã không chuyển nhuận bút bài báo cho ông được. Mãi tới năm 2004 tôi mới tìm ra được căn hộ ông ở tít mãi tận Nghĩa Đô (quận Cầu Giấy, Hà Nội) lúc ấy còn rất hoang vắng. Như vậy là sau 6 năm, kể từ khi ông đưa cho tôi, bài Bút ký mới được đăng và sau 5 năm nữa món nhuận bút mới được chuyển đến tay ông.

Ở căn hộ khu tập thể Nghĩa Đô

Sau nhiều lần tìm kiếm rồi cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra nơi ông ở. Tôi và nhà báo Lương Thị Bích Ngọc chui qua cầu thang ẩm ướt, tối mò, lên tầng 2 dãy nhà Tập thể Bột mì (Nghĩa Đô) gõ cửa nhà ông. Chừng 5 phút sau ông Đang ra mở cửa. Căn phòng nhỏ, bộn bề, đặc mùi ẩm mốc. Ông đã bước sang tuổi 90, cơm nước phải nhờ đến một người cháu tới giúp, song những hoạt động trí tuệ thì ai có thể thay thế được cho con người vốn có tinh thần độc lập từ xưa – kể từ khi ông bị thực dân Pháp bắt tra tấn và suýt đưa ra tòa lúc còn là vị thành niên?

Ngồi ở chiếc bàn nhỏ vừa để ăn vừa để đọc sách của ông, nhìn quanh trên tường và trên bàn có nhiều tấm ảnh chân dung chắc chắn là rất thân thiết với ông; và đập ngay vào mắt chúng tôi là tấm ảnh lịch sử: Lễ đài Ba Đình 2-9-1945 được cho vào khung ảnh cẩn thận kê ngay ngắn trên một chiếc vỏ hộp bánh quy. Chiếc bàn kê sát giá sách để chiếc điện thoại bàn lấm bụi, chiếc kính lúp, cái đèn pin, mấy cục pin con thỏ để lăn lóc.

Cuộc đời có thể tước đoạt của ông nhiều thứ song không thể tước đi quyền tự hào là người đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho trọng trách tổ chức ngày lễ Độc lập ở Ba Đình, và tới năm 1947, ông vẫn còn được coi là nhân vật quan trọng nhất nhì bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mái đầu húi cua bạc cháy tựa nương cằn miền núi sau trận cháy rừng giờ không còn ngẩng cao kiêu hãnh mà hơi cúi gằm bởi năm tháng, nhưng cái vóc dáng cồng kềnh và chắc chắn của ông vẫn cho thấy một nghị lực sống được nén lại, và đôi lúc ánh mắt ông vô tình vẫn lóe lên những luồng ánh sáng trí tuệ.

Nhìn ông, ai có thể tin rằng: Sau mười lăm năm tù đày, ở tuổi 63, ông đã từng phải sống nhờ vào côn trùng và cóc - nhái - chuột - rắn trong suốt hơn mười lăm năm vất vưởng bên lề xã hội ở một làng quê Thái Bình… Trải qua quá nhiều nỗi đớn đau thử thách, và ở giai đoạn cuối cuộc đời vẫn phải lo tránh cạm bẫy, ông phải tự giữ gìn và giữ cho cả người đang đối thoại với mình mà bằng trực giác ông biết là lòng lành, song dường như ông vẫn không bị mất đi sự sắc sảo pha chút hóm hỉnh.

Thấy mấy cuốn sách, vài ba tờ báo vứt lỏng chỏng trên bàn, trên giường, tôi hỏi ông: “Lâu nay bác vẫn nhận được sách báo đều chứ ạ?”. Ông không nói gì, chậm chạp, run rẩy đứng dậy khỏi giường, chậm rãi bước tới cái giá sách nhỏ ở góc nhà lục tìm cái gì đó. Nhìn dáng ông đi liêu xiêu, mảng lưng hở qua chiếc áo bở tã đến thê thảm. Ông lúi húi bên giá sách cạnh tấm ảnh đen trắng Dostoievski chợt nhòe đi. Bên dưới tấm ảnh văn hào Nga được nhiều thế hệ độc giả Việt yêu quý là chiếc tủ lạnh cũ. Bất giác tôi đứng lên, bước tới chiếc tủ lạnh, tự động mở ra: cả hai ngăn trên và dưới đều trống rỗng! Ông Đang không hề để ý tới việc khách mở tủ lạnh và quan sát đồ dùng sinh hoạt trong phòng ông. Ông rời giá sách trên tay cầm theo cuốn sách dày cộp. Ông giở bìa cuốn từ điển Bách khoa Petit Larousse in năm 2.000 ra, chỉ tay vào trang đầu tiên có chữ nắn nót của ông: “Mất từ tr. 865 đến tr. 968″. Rồi ông vội vã mở cuốn sách ra để chứng minh điều mình đã thông báo. Tôi hỏi ông: “100 trang sách đã bị xé. Ai đã xé những trang này hở bác?”. Ông thở dài: “Còn ai vào đây nữa!”. Ông nói nhỏ dường như chỉ để cho mình ông nghe: “Những người có trách nhiệm kiểm soát trước khi chuyển nó đến cho tôi. Còn những mục gì ư? Chỉ là những thứ mà theo người ta, sẽ đầu độc một lão già vô hại là tôi!”.

Câu cuối ông nói ra vừa có gì giễu cợt lại vừa đượm nước mắt. Một công trình văn hóa hoàn hảo, một trong những biểu tượng của trí tuệ nhân loại bị phá hoại bởi những người quen thói bao cấp tư tưởng, quen hăng hái săn sóc tâm hồn và tri thức cho người khác – kể cả với những người đương nhiên là bậc thầy về văn hóa của họ! Thực là một tấn bi hài kịch không đáng có, vậy mà đã nó diễn ra thường xuyên như thứ một tập quán ghê sợ!

Nguyễn Hữu Đang: ông là ai?

Nguyễn Hữu Đang sinh ngày 15/8/1913 tại làng Trà Vy, huyện Vũ Tiên, tỉnh Thái Bình. Theo bản "Tóm tắt quá trình hoạt động xã hội của Nguyễn Hữu Đang" do chính tay ông viết thì năm mười sáu tuổi, ông tham gia Học sinh hội (tổ chức thuộc Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, rồi Đông dương Cộng sản đảng), làm tổ trưởng Hội này. Ngay từ năm 1929 Nguyễn Hữu Đang đã là đối tượng được kết nạp vào đảng. Cuối năm 1930, ông bị bắt, bị tra tấn và bị giam 2 tháng rưỡi tại nhà lao thị xã Thái Bình. Mùa hè năm 1931, bị đưa ra toà, nhưng vì tuổi vị thành niên (trên giấy tờ, ông rút tuổi, khai sinh năm 1916), cho nên chỉ bị quản thúc tại quê nhà. Từ 1932 đến 1936, Nguyễn Hữu Đang theo học Trường Sư phạm Hà Nội.

Năm 1937-1939 ông tham gia Mặt trận dân chủ Đông Dương. Biên tập các báo của Mặt trận như Thời báo (cùng Trần Huy Liệu, Nguyễn Đức Kính), Ngày mới (cùng Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Đức Kính) và các báo của Đảng Cộng sản như Tin tức (cùng Trần Huy Liệu, Phan Bôi), Đời nay (cùng Đặng Xuân Khu tức Trường Chinh, Trần Huy Liệu).

Từ 1938 đến 1945, Nguyễn Hữu Đang hoạt động trong Hội Truyền bá Quốc ngữ, ở các vị trí: Uỷ viên Ban trị sự Trung ương, Huấn luyện viên Trung ương, Trưởng ban Dạy học, Trưởng Ban Cổ động, Phó trưởng Ban Liên lạc các chi nhánh tỉnh.

Năm 1943 Nguyễn Hữu Đang gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, bắt đầu liên lạc mật thiết với Tổng bí thư Trường Chinh và Thành ủy Hà Nội, nhưng vẫn chưa được chính thức kết nạp vào Đảng.

Năm 1943-46 ông tham gia sáng lập và lãnh đạo Hội Văn hoá Cứu quốc, tiếp tục hoạt động chống nạn mù chữ. Mùa thu năm 1944 bị Pháp bắt ở Hà Nội và bị giam một tháng tại Nam Định. Được ra, lại tiếp tục hoạt động cách mạng.

Tháng 8-1945 ông tham dự Đại hội Tân Trào, được bầu vào Ủy ban Giải phóng dân tộc. Tham gia Chính phủ lâm thời mở rộng, được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Truyên truyền. Đồng thời cũng trong năm đó ông được Hồ Chí Minh cử làm Trưởng ban Tổ chức Ngày lễ tuyên bố độc lập 2-9-1945.

Từ tháng 10-1945 đến tháng 12-1946 ông giữ các chức vụ Thứ trưởng Bộ Thanh niên, Chủ tịch Ủy ban vận động Mặt trận văn hoá. Tổ chức Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ nhất tại Hà Nội.

Từ tháng 12-1946 đến tháng 3-1948 ông làm Trưởng Ban Tuyên truyền xung phong trung ương.
Năm 1947, ông chính thức được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.

Từ tháng 4-1948, đến tháng 4-49, ông phụ trách báo Toàn dân kháng chiến, cơ quan trung ương của Mặt Trận Liên Việt.

Từ tháng 7-1949 đến tháng 10-1954 Nguyễn Hữu Đang làm Trưởng ban Thanh tra Nha Bình dân học vụ. Từ tháng 11-1954 đến tháng 4-1958 ông tổ chức và biên tập báo Văn Nghệ. Cuối năm 1956 đầu năm 1957 Nguyễn Hữu Đang tổ chức, lãnh đạo và biên tập báo Nhân văn, giúp đỡ tập san Giai phẩm.

Phong trào “Nhân văn Giai phẩm”

Nguyễn Hữu Đang chính thức tham gia hoạt động phong trào Nhân văn Giai phẩm từ tháng 9-1956, với sự ra đời của báo Nhân văn số 1 (20-9-1956). Báo Nhân văn ra được 5 số và đến số thứ 6 chưa kịp phát hành đã bị đình bản (tháng 12-1956).

Trong thời gian tổ chức và tham gia phong trào “Nhân văn Giai phẩm”, Nguyễn Hữu Đang tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày (từ ngày 8-8 đến 26-8-1956) và trong ngày cuối cùng, ông đã đọc một bài tham luận "nảy lửa" chỉ trích những sai lầm trong công tác lãnh đạo văn nghệ. Trương Tửu đánh giá bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang là "sự việc thực là cụ thể, lời lẽ thực là tha thiết". Hoàng Cầm cho rằng tinh thần nêu những thắc mắc, có từ kháng chiến, tích tụ lại và bùng nổ lên trong lớp học này.

Nhà văn Lê Đạt sau này kể lại: "Trong cuộc học tập này, anh em phê phán văn nghệ rất nhiều, trong đó nổi bật lên vai trò của anh Nguyễn Hữu Ðang. Lúc đó Ðang có nói một câu với Nguyễn Ðình Thi (Nguyễn Ðình Thi lúc ấy là một trong những người chịu trách nhiệm tờ Văn nghệ – VN) rằng: "Thế nào tao cũng ra một tờ báo, tờ báo chưa biết tên là gì, tao thì không làm được nhưng để cho bọn Giai phẩm Mùa xuân nó làm".

Còn Nguyễn Huy Tưởng ghi lại không khí lớp học 18 ngày, trong nhật ký của mình như sau: "Nguyễn Hữu Đang nổi lên. Tiếc rằng kéo anh ta về văn nghệ để làm rầy rà mình. Chính người chửi mình nhất là Nguyễn Hữu Đang". Những bực mình và dằn vặt của Nguyễn Huy Tưởng, càng làm rõ tấm lòng và nhân cách của ông: Mặc dù không đồng ý với Nguyễn Hữu Đang, bị Đang chỉ trích nặng nề, nhưng sau này, ông là người duy nhất trong Ban lãnh đạo văn nghệ đã đứng ra bênh vực Nhân văn, như Lê Đạt từng thuật lại và ông cũng ghi trong nhật ký: “đã phản ảnh lên Trường Chinh về vụ Nhân văn, nhưng vô hiệu”.

Về phía buộc tội, Nguyễn Hữu Đang được coi là lãnh tụ, "đầu sỏ". Mạnh Phú Tư viết: “Người ta không thấy tên tuổi Nguyễn Hữu Đang trên những số đầu báo Nhân văn, nhưng chính hắn là linh hồn của tờ báo. Thông qua tờ báo Nhân văn, hắn đã trở thành một thứ lãnh tụ của một bọn người cơ hội, có âm mưu chính trị... ".

Thực vậy, là người làm chính trị, Nguyễn Hữu Đang, với tài tổ chức và hùng biện trong lớp học 18 ngày, ông đã chiếm được lòng tin của giới trí thức và văn nghệ sĩ cấp tiến. Ông nắm lấy cơ hội, đứng ra tổ chức “Nhân văn Giai phẩm” với những người bạn cùng chí hướng từ trong kháng chiến như Trương Tửu, Trần Thiếu Bảo, Lê Đạt, Hoàng Cầm… chủ trương tạp chí “Giai phẩm mùa xuân”.

Tuy không có nhiều bài ký tên thật, nhưng dấu ấn của Nguyễn Hữu Đang trên báo Nhân văn là hết sức đậm nét bằng hàng loạt bài phỏng vấn các tên tuổi lớn như Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Đặng Văn Ngữ về vấn đề dân chủ.

Sau này Nguyễn Hữu Đang nói: “Thực chất phong trào “Nhân văn Giai phẩm”, nếu đứng về mặt chính trị, thì đó là một cuộc đấu tranh của một số người trí thức, văn nghệ sĩ và một số đảng viên về chính trị nữa, là chống, không phải chống đảng cộng sản, mà là chống chủ nghĩa Staline và chủ nghĩa Mao. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Statline và chủ nghĩa Mao đưa đến nhiều hiện tượng cực quyền toàn trị. Nó gay gắt ghê lắm! Chúng ta đã phạm sai lầm trong Cải cách ruộng đất, rồi thì Chỉnh huấn, Chấn chỉnh tổ chức, Ðăng ký hộ khẩu, v.v. Tất cả những chính sách quá tả đó là đều từ phương Bắc xâm nhập vào Việt Nam”.

Tháng 4-1958 Nguyễn Hữu Đang bị bắt. Ngày 19-1-1960, ông bị đưa ra toà cùng với Thụy An, Trần Thiếu Bảo, Phan Tại, và Lê Nguyên Chí.

Sau này Nguyễn Hữu Đang nhớ lại: “Ở trước tòa án thì tôi nhận mấy điểm như thế này: (1). Tôi có phạm kỷ luật của Ðảng và của nhà nước về phương diện tuyên truyền. (2). Trong việc làm của tôi, cũng có những vụ sai sót. Anh em cũng như tôi thôi, thế nhưng tôi gánh trách nhiệm nặng hơn. (3). Ðộng cơ thì nhất định là tốt: Chúng tôi chỉ vì dân, vì nước mà tin rằng việc mình làm có ích nước lợi dân cho nên làm thôi”.

Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội đã tuyên: Nguyễn Hữu Đang và Thụy An: 15 năm phạt giam và 5 năm mất quyền công dân sau khi ra tù; Minh Đức: 10 năm phạt giam và 5 năm mất quyền công dân; Phan Tại: 6 năm phạt giam và 3 năm mất quyền công dân; Lê Nguyên Chí: 5 năm phạt giam và 3 năm mất quyền công dân.

Sau này có lần Nguyễn Hữu Đang nói: “Ra tòa tôi nhận hết, chứ tôi không bào chữa, không cãi cọ gì nhiều cả. Thậm chí là sau khi bị kết án 15 năm tù tôi cũng không có ký chống án gì cả. Từ bấy giờ đến nay tôi cũng không viết một cái đơn nào để thanh minh, phân trần, xin xỏ, khoan hồng hay là nọ kia. Không! Cái việc đó không!”.

Có thật là Nguyễn Hữu Đang tìm cách trốn vào Nam?

Thông tin thời bấy giờ và cả sau này nữa đều cho rằng Nguyễn Hữu Đang bị bắt khi ông đang trên đường trốn vào Nam. Tuy nhiên sự thật có phải như vậy không? Chúng ta hãy nghe chính Nguyễn Hữu Đang sau này kể lại: “Tôi muốn ra nước ngoài, chứ không phải vào Nam, nhưng tôi đã đặt điều kiện: Nếu các anh giúp tôi đi ra một nước khác, tôi chấp nhận, nhưng vào Nam thì tôi từ chối, vì như thế hàm chứa cái ý phản bội, chạy sang phe địch, phe thù. Đó là một sự nhục nhã. Vào Nam? – Để làm gì chứ? Vào Nam làm gì với Ngô Đình Diệm? Nhưng tôi thực sự muốn ra nước ngoài – tôi đã nói thẳng với Trường Chinh trong một cuộc gặp giữa ông ấy và tôi. Câu hỏi thứ nhất mà Trường Chinh vừa cười vừa đặt ra cho tôi là: “Hả, sao kia, anh đã tuyên bố với các đồng chí rằng anh muốn ra nước ngoài, vì không khí trong nước nghẹt thở quá. Vậy là anh muốn ra nước ngoài, nhưng đến một nước trong phe xã hội chủ nghĩa hay phe đế quốc, anh nói tôi nghe”. Ông ta cười. Lúc đó tôi vừa cười vừa trả lời: “Tôi rất muốn ra nước ngoài, một nước trong phe xã hội chủ nghĩa nếu điều kiện cho phép. Nhưng nếu vì những khó khăn buộc tôi phải đến một nước theo chế độ tư bản, tôi có thể chấp nhận. Bằng chứng là Hồ Chí Minh đã cư trú ở Pháp, và ông đã giữ được lòng yêu nước và tinh thần cách mạng, và tôi có thể làm như ông ấy. Tôi nghĩ rằng tôi có thể làm như Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc là một nhà cách mạng, tôi cũng là nhà cách mạng. Nguyễn Ái Quốc là một người cộng sản, tôi cũng là cộng sản. Nguyễn Ái Quốc có lòng dũng cảm, tôi cũng có lòng dũng cảm. Tôi không sợ cư trú dài hay ngắn hơn trong một nước tư bản”. Thế là người ta đã sửa soạn… Người bạn đã khuyên tôi nên ra nước ngoài đã nhận lời giúp tôi đến được một nước khác. Anh ấy đã hứa, nhưng chuyến đi đã không được thực hiện. Vậy là tôi lỡ một dịp đi đến một nước khác. Nhưng để tô vẽ bản cáo trạng, người ta đã đưa vào câu tôi muốn vào Nam. Khi đó tôi trả lời toà án: “Không, tôi không muốn vào Nam; tôi muốn đi ra nước ngoài”. Và người ta hỏi tôi: “Nhưng ở nước ngoài anh sẽ làm gì?” – “Đấu tranh cho thống nhất, thống nhất hai miền; ở nước ngoài tôi sẽ tiếp tục đấu tranh thực hiện thống nhất đất nước, thống nhất hai miền Bắc Nam”. Nghe lời tuyên bố ấy, cử toạ… – phiên tòa bao gồm những người ủng hộ Chính phủ, quần chúng của Đảng, đảng viên, những cán bộ của nhiều tổ chức và hoạt động khác nhau đều phản nhân văn – họ phá lên cười nhạo cái ý định đấu tranh cho thống nhất đất nước của tôi. Trong chuyến đi rời đất nước ra nước ngoài, tôi muốn thăm Ấn Độ và Nam Tư của Tito, tôi tin ở Nehru và Tito. Tôi rất muốn gặp họ và xin họ lời khuyên để đấu tranh cho nước Việt Nam bị chia cắt, để Việt Nam được thống nhất và độc lập. Tôi muốn gặp Tito và Nehru…”.

Sau này, khi ra tù, Nguyễn Hữu Đang cho biết: “ Khi Hiệp nghị Paris trả lại tự do cho tôi, tôi đã viết thư cho gia đình – người ta cho phép tôi viết thư cho gia đình để báo tin tôi được trả tự do. Lúc ấy cả gia đình tôi kinh ngạc, cả gia đình tôi hoàn toàn sửng sốt: “Ôi, kìa, anh Đang còn sống, thế mà chúng ta cứ tưởng anh đã chết lâu rồi”.

Mối tình bi thương

Sẽ là không vẹn toàn nếu nói về cuộc đời đầy bi kịch của Nguyễn Hữu Đang mà không nhắc tới mối tình đầy lãng mạn, nhưng cũng không kém phần bi thương của ông.

Ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Hữu Đang 32 tuổi. Ở cái tuổi “tam thập nhi lập”, lẽ thường đã phải yên bề gia thất, nhưng ông vẫn độc thân sau những năm tháng mải mê với những công việc xã hội.

Trong đống bản thảo mà Nguyễn Hữu Đang để lại có một bản mà giấy đã ngả màu vàng, gần như đã bắt đầu mục nát, không hiểu ông viết vào thời gian nào, ông đã kể lại mối tình đầu với một thiếu nữ Hà Nội tên là Huyền Nhiên: “Năm ấy mới 19 tuổi là con một gia đình thương nghiệp trung lưu sống theo nền nếp cổ truyền, chưa học hết bậc thành chung, phong cách thùy mị... không thích đua đòi”.
Ông viết: “Đối với tôi lúc ấy, sắc đẹp là tất cả, biết bấy nhiêu về Nhiên đã là thừa. Không cần biết gì về Nhiên mới đúng. Có ai lại ngớ ngẩn chỉ chú ý đến tài năng, đạo đức, học vấn, gia sản, lý lịch Hằng Nga, Tiên nữ bao giờ?... Theo lòng mình, tôi kính trọng Huyền Nhiên tới mức yêu nhau nửa năm trời tôi chưa từng dám chạm vào thân thể Huyền Nhiên, dù chỉ cầm tay cũng đã coi là xúc phạm, còn nói chi đến ôm hôn”... Hồi ức còn viết rất nhiều, bằng những lời lẽ mà chỉ đọc vẫn nhận ra tình cảm rất nồng nàn của người viết sau nửa thế kỷ đầy những truân chuyên.

Cuối cùng, vị Thứ trưởng Bộ Thanh niên cũng quyết định phải thổ lộ với người mình yêu bằng việc tặng cho Huyền Nhiên tiên nữ một chiếc vòng tay bằng bạc như một giao ước kết hôn. Nàng đã đặt chiếc vòng cầu hôn vào hộp, nói những lời cam kết là sẽ yêu chàng suốt đời, sẽ đến lúc thành hôn, sẽ chung sống với nhau trọn đời... Người đẹp chỉ có một yêu cầu: “Em chỉ ước ao được đến gặp cụ Hồ, được đứng gần cụ. Mà anh thì đến chỗ cụ luôn, anh cho em đến chỗ cụ Hồ một lần, chỉ một lần thôi”.

Tuy công việc khiến vị Thứ trưởng Thanh niên có cơ hội gặp Cụ Hồ, nhưng ông cũng e ngại vì không muốn lẫn lộn việc công tư. Nhưng tình yêu đã giúp ông thực hiện được một cách mỹ mãn ý nguyện của người mình yêu.

Có một nhà tư sản yêu nước ở tỉnh Bắc Giang tên là Ngô Tiến Cảnh mà ông từng quen biết trong thời kỳ tham gia chống thất học, lúc bấy giờ đang làm Chủ tịch cuộc vận động “Mùa đông binh sĩ”. Cuộc vận động này từng được cụ Hồ phát động nhằm cung cấp trang phục cho lực lượng vũ trang cách mạng mới thành lập còn nhiều thiếu thốn. Cuộc vận động đã làm được một vạn chiếc áo trấn thủ. Ông Cảnh muốn được gặp cụ Hồ để báo cáo tình hình và trao tặng tượng trưng tấm áo cho Người.

Nhà tư sản nhờ ông Nguyễn Hữu Đang đề đạt và cụ Hồ tỏ lòng sẵn sàng tiếp một đoàn đại biểu “Mùa đông binh sĩ”. Ông Đang bàn với ông Cảnh những nghi thức của buổi tiếp, để thêm phần trang trọng khi tặng áo cho Hồ Chủ tịch sẽ có một thiếu nữ bưng một cái khay trên đó đặt tấm áo được trao. Ông Đang hứa sẽ tìm người giúp ông Cảnh làm công việc này và đương nhiên người đó chính là cô thiếu nữ Hà thành đang mong ước được gặp cụ Hồ. Nhất cử lưỡng tiện.

Cuộc gặp được Nguyễn Hữu Đang kể lại trong bản thảo hồi ký của mình như sau: “Tới ngày giờ hẹn, tôi dùng xe hơi đưa Nhiên đến trụ sở “Mùa đông binh sĩ” rồi đến Bắc Bộ phủ. Cụ Hồ ra phòng khách lớn tiếp đoàn đại biểu trong đó có cả Huyền Nhiên đứng cạnh ông Cảnh, tay bưng sẵn chiếc khay trên đó có một chiếc áo trấn thủ. Ông Cảnh nói đến câu “Xin kính biếu Chủ tịch tấm áo trấn thủ đầu tiên may được” thì Nhiên bước nhanh đến sát cụ Hồ, khay nâng ngang mặt cung kính. Cụ cầm áo xem xét kỹ, khen “Tốt lắm!”, rồi đưa cho Vũ Đình Huỳnh giữ. Cụ nói chuyện với đoàn đại biểu có vẻ tự nhiên, cởi mở. Rồi như thường lệ, cụ không quên cử chỉ quan tâm đến người con gái vừa dâng áo, hãy còn cầm khay đứng đó. Cụ đặt bàn tay lên đầu Nhiên vỗ vỗ nhẹ mái tóc, nói dịu dàng: “Cháu mang đến cho Bác áo chống rét, quà quý của Ủy ban Mùa đông binh sĩ, Bác cảm ơn cháu. Cháu sẽ rủ các bạn của cháu cùng với cháu giúp các chiến sĩ bộ đội nhiều hơn giúp Bác, đem lại cho họ những món quà tỏ tình thương yêu của đồng bào. Cháu làm được không?”. Tất cả mọi người có mặt đều đổ dồn sự chú ý vào Nhiên và chờ cô đáp lại. Phần vì cảm động quá, phần vì chẳng biết trả lời thế nào, Nhiên e lệ cúi mặt nói yếu ớt tiếng run run như sắp khóc “Vâng”. Cụ cười độ lượng, khuyên nhủ ngọt ngào: “Phụ nữ thời cách mạng phải mạnh bạo. Có mạnh bạo mới đấu tranh được”...

Ít lâu sau, chiến tranh bùng nổ. Người thiếu nữ đã đính hôn của Nguyễn Hữu Đang phải theo gia đình tản cư khỏi Hà Nội. Năm 1948, quân Pháp đánh rộng ra các tỉnh xung quanh, càn quét liên miên hai bên các trục đường giao thông lớn. Gia đình Nhiên không chịu nổi gian khổ phải trở về Hà Nội. Không thể một mình ở lại vùng tự do, Nhiên đành theo gia đình. Từ đấy tôi không còn dịp nào gặp lại Nhiên”...

Chiến tranh, rồi cuộc kháng chiến 9 năm, khiến cuộc hôn nhân không thành và hai người sống cách xa nhau, nhưng lời hẹn ước thì không ai đơn sai. Ngày kháng chiến thành công trở về với thủ đô giải phóng, cuộc sống bề bộn cùng những bi kịch của đời ông, nên tiếc rằng mối tình duy nhất của ông đã trở thành dang dở.

Sau này Nguyễn Hữu Đang không kể thêm về cuộc đời tiếp theo của người bạn gái nhưng cho đến cuối đời, mối tình ấy vẫn là một ký ức đẹp nhất của cuộc đời ông.

Năm 2007 ông qua đời ở tuổi 93, mang xuống tuyền đài tất cả những vinh quang, cay đắng, hạnh phúc và khổ đau.

Trường Sa/Tháng 4 năm 2014


Phần nhận xét hiển thị trên trang