Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 25 tháng 10, 2016

Hồ Dzếnh, Thanh Châu, và Vũ Thư Hiên (hồi ức 1991- 2016)


Mới đây, trong văn đàn Việt mới thấy sự xuất hiện trở lại của Thanh Châu.

Một sự gặp gỡ nhân duyên gần đây giữa con gái nhà văn với Thiên Sơn (tác giả của bộ Đại gia). Mình ngậm bút chì quan sát như lệ thường.

Theo Thiên Sơn thì làng anh là nơi "xuất hiện" của 3 thế hệ nhà văn: Thanh Châu thời trước 1945,Sơn Tùng trong kháng chiến, và bản thân anh sau Đổi Mới.

Một mẩu kí ức của nhà văn Vũ Thư Hiên. Trong đó có sự xuất hiện của Thanh Châu. Nhân vật chính là Hồ Dzếnh.

Lấy nguyên từ Fb VTH.

---


Mẩu hồi ức ngắn về nhà văn Hồ Dzếnh lẽ ra được đưa lên FB sớm hơn, nhân kỷ niệm ngày mất của ông (13.8.1991). Nhưng thời gian này có quá nhiều sự kiện cần được nói tới, cho nên tôi đành gác lại. Những gì tôi muốn nói thêm về ngòi bút tài hoa Hồ Dzếnh (đã có nhiều người viết về ông), nằm trong bài viết này.


Nhà văn Thanh Châu có một giang sơn riêng – một gác xép bằng gỗ ghép giống hệt gác xép của hoạ sĩ Bùi Xuân Phái”, mà chúng tôi gọi đùa là “ông Giê Su ở phố Hàng Thuốc Bắc”..
Một thời nhiều nhà có thứ gác xép như thế. Nó tăng diện tích ở không nhiều, nhưng tạo ra một mảng riêng tư. Gác xép của Thanh Châu được dành riêng cho ông làm việc và tiếp bạn, người nhà không hề lai vãng. Để lên cái gác xép ấy tôi phải leo một cái thang dựng ngược, bám cứng vào hai thành lung lay của nó mà từng bước nhích lên rồi chui mới qua một lỗ vuông hẹp.
Từ khi nhà nước cách mạng về tiếp quản Hà Nội, Thanh Châu biến mất khỏi văn đàn. Đề tài, bút pháp thuộc dòng lãng mạn nay đã không hợp thời, lại còn nguy hiểm. Nó bị coi là nọc độc. Tác giả Tà Áo Lụa, Bóng Người Ngày Xưa… giờ đây ngồi lặng lẽ nơi mảnh đất tự tạo bên cái bàn trà nhỏ đã lên màu cánh gián và bộ ấm chén gan gà tí tẹo.
Người thường xuyên có mặt trên gác xép của Thanh Châu là Kim Lân, cây bút số một về chuyện nhà quê. Người thứ hai là Bùi Xuân Phái. Gày còm, xanh xao, với gương mặt rất giống Chúa Cứu Thế, tự xưng “nhát gan bậc nhất Hà Thành”, hễ gặp quá ba khách đến trước là anh lịch sự bắt tay mỗi người một cái rồi ù té.
Từ cái lỗ vuông ấy, vào một ngày không còn nhớ, nhô lên một mái đầu chải ngược, đường ngôi rõ ràng, một khuôn mặt xạm đen với nụ cười phô những cái răng dài.
- Hồ Dzếnh đấy! - Thanh Châu nói khẽ với tôi.
Tôi không quên được hình ảnh ấy – nó gắn chết vào trí nhớ. 
Con người lộc ngộc, xương to, thịt ít, ngồi xuống bên tôi:
- Vũ Thư Hiên?
Thanh Châu gật.

Chắc hẳn Thanh Châu, hoặc Kim Lân đã nhắc đến tên tôi nhân đụng tới thế sự văn chương. Và còn một lẽ nữa - trong các khách của Thanh Châu tôi ít tuổi nhất.
Chả là hồi ấy dư luận đang ồn lên với bài “Giương cao ngọn cờ tính Đảng, chống chủ nghĩa xét lại hiện đại trong văn nghệ” của Tố Hữu. Nó hứa hẹn một trận đánh, rất có thể sẽ là một vụ "Nhân Văn - Giai Phẩm" thứ hai, Tôi được nêu tên cùng với truyện ngắn Đêm Mất Ngủ. Cùng với tôi còn có Nguyên Ngọc và Ngô Ngọc Bội. Là may. Chứ một mình thì nguy to.

Lời phê phán của nhà thơ lãnh tụ lần này không gây ra đám cháy lớn. Tuy nhiên, sau bài báo đó các ông tổng biên tập, các thư ký toà soạn liền cầm kính lúp soi từng chữ trong mỗi vần thơ, mỗi câu văn. Mấy truyện ngắn hiền lành của tôi gửi đến đều bị trả lại. Hỏi vì sao thì các vị cầm trịch nhe răng cười.
Trong hoạ có phúc. Tôi không được in thì lại được được tiếp chuyện các bậc đàn anh nhiều hơn. 
Kim Lân phát mạnh vào vai tôi: “Mặc mẹ nó! Được Tố Hữu đập, coi như “lúy” công nhận ông có chiếu trong làng văn. Hay chứ không dở”. Nói thế, Kim Lân phải tin tôi lắm. Câu ấy mà đến tai Tố Hữu thì lôi thôi to. Được Kim Lân tin, tôi sướng âm ỉ. Hiền lành một cục, thận trọng cũng một cục, thế mà rồi có lúc anh cũng bị nện cho một trận với truyện ngắn “Con chó xấu xí”. Người ta nói tác giả ví văn nghệ sĩ trung thành với đảng như con chó ghẻ xấu xí nọ, nó gắng sức giữ nhà cho chủ, thế mà vừa trơn lông đỏ da là chủ vật ra làm thịt. Một truyện ngắn hay, giọng văn mộc mạc, khó có thể tìm được một câu được hiểu là móc máy. Kim Lân cười buồn: “Cái bọn phê bình có cần chó gì nghệ thuật. Nghề của bọn ấy là bới. Cứ thằng nào viết văn không nổi là y như rằng nó quay ra làm phê bình”. Nguyễn Tuân trăn trối trước: “Này, đừng có chôn tôi bên cạnh một thằng phê bình đấy nhá!”. Nói cho công bằng, những nhà phê bình đôi khi cũng có ích ra phết. Không có họ độc giả không hiểu hết ý của tác giả, họ vạch ra mới thấy. Không kể những trường hợp các phê bình gia bịa ra những cái tác giả không chủ tâm. Như Văn Ngan Tướng Công của Vũ Tú Nam chẳng hạn.

Hồ Dzếnh nắm chặt tay tôi, bóp bóp vài cái. Ấy là anh khen đấy, Thanh Châu giải thích. Anh ý nhị nhìn tôi, cười tủm tỉm. Sau mới biết Hồ Dzếnh ít khi tỏ thái độ khen chê. Anh là người kín kẽ. Thanh Châu nói về Hồ Dzếnh: “Của hiếm trong văn học. Bút pháp của ông ấy tôi muốn học cũng không được – là văn đấy, mà cũng là thơ đấy”.
Không nổi tiếng như Nguyễn Tuân, nhưng Thanh Châu vẫn cứ là một bô lão trong nghề, được nhiều cây bút trẻ trọng vọng. Họ đến với anh, thành kính như vụng trộm hành hương về một quá khứ đã bị chôn.
Thanh Châu bỏ bút đã đành, nhưng Kim Lân, trẻ hơn Thanh Châu cả chục tuổi, hoạ hoằn mới cho ra một truyện ngắn. Vì “ngứa nghề” (chữ của Kim Lân), chứ không phải vì nhuận bút. Nhuận bút bấy giờ còm cõi lắm. Đã thế lại chỉ có vài tờ báo nhận đăng thơ, hoặc truyện ngắn. Người muốn trở thành nhà thơ, nhà văn lại quá nhiều. Thiên hạ muốn cái tiếng cái danh, chứ nhuận bút họ không màng. Ấy là chưa kể họ còn phải nghiến răng móc túi cho những bữa chiêu đãi các vị chức sắc ở các thứ toà soạn
Trong số khách văn của Thanh Châu, Hồ Dzếnh là một nhân vật đặc biệt. Đặc biệt ở chỗ anh lặng lẽ đến, lặng lẽ leo lên, rồi trầm ngâm nhấm nháp trà quạu, không nói không rằng. Lối viết của anh, chẳng khác gì của Thanh Châu, đã không còn đắc dụng. Viết văn giờ là công tác phục vụ cách mạng, phục vụ công nông binh, là trách nhiệm và sự nghiệp của nhà văn. Viết cái gì, viết thế nào, đã có đảng cầm tay chỉ việc. Mặc dầu không dính dáng gì với đám phản động "Nhân Văn - Giai Phẩm", nhưng anh vẫn bị người ta nhìn bằng cặp mắt nghi ngờ - bọn văn nghệ sĩ cũ không thể tin – lũ ấy kém mười lăm phút đầy phản động. Để yên thân, thỉnh thoảng anh cũng có một bài thơ nhạt nhẽo trên tờ Lao Động. Anh không bao giờ nhắc đến chúng.
Tôi đọc Hồ Dzếnh rất sớm, lúc mới lên mười. Cha tôi thường mang về cho tôi những cuốn Sách Hồng cho trẻ con, mỗi cuốn là một chuyện cổ tích. Chúng được kể với giọng dí dỏm, dễ hiểu, lôi cuốn. Lại có cả một cuốn sách thơ cho trẻ con, không nhớ là của ai, trong đó có hai câu còn đọng lại lâu trong trí nhớ:
Hôm qua trời đổ mưa rào,
Mặt trời sợ ướt lẩn vào đám mây.

Cuốn sách đầu tiên, đích thực sách, mà tôi được đọc, là Chân Trời Cũ. 
Một ngày, mẹ tôi mua Chân Trời Cũ về. Bà đọc chăm chú, có lúc thừ người ra, lấy tay dụi mắt – bà khóc thầm.

Chờ cho mẹ đọc xong, quên nó rồi, đi vắng rồi, tôi mới dám lấy nó ra từ trong giỏ kim chỉ của bà. Lệ trong nhà là thế, trẻ con không được đọc sách người lớn.
Tôi không biết nói về cảm giác của tôi là thế nào khi đọc Chân Trời Cũ. Một nỗi xúc động bất ngờ trong tâm hồn trẻ thơ chăng? Có thể không phải thế, hoặc không rõ ràng là thế. Những câu chuyện bình dị về những kiếp người, được viết bằng thứ tiếng Việt chân chất, không uốn éo, không màu mè, gợi nhớ những gì tôi đã biết, đã thấy trong cuộc sống bé bỏng của mình. Chúng để lại trong tôi ấn tượng mạnh chưa từng có.
- Anh là người thày đầu tiên dạy tôi yêu văn – tôi nói với Hồ Dzếnh - Còn hơn thế, anh làm cho tôi hiểu tiếng Việt của ta đẹp đến là nhường nào.
Nghe tôi, Hồ Dzếnh cười bẽn lẽn. Tôi dùng đúng chữ phải dùng – anh bẽn lẽn thật sự. Mặt anh đỏ lên, mắt anh chớp chớp, anh lúng túng trước lời khen. Những con người lớn thật sự bao giờ cũng mang trong mình một đứa trẻ. 
- Anh hiểu tôi rồi đấy – anh khẽ nói với tôi, như nói một mình – Tình yêu đối với văn chương không bắt đầu bằng cái gì khác ngoài tình yêu ngôn ngữ. Chuyện để kể thì ai mà chẳng có. Nhưng để viết nó ra, cho nó có hình hài, cho nó sống dậy, cho nó đi lại, trò chuyện được với mọi người thì ngôn ngữ là cái quan trọng hàng đầu. Và duy nhất. Nó quyến rũ mình, nó hút hồn mình, nó rủ rê mình, và sau hết, xúi giục mình cầm lấy cây bút.

Tôi được nghe lời tâm sự này vào một đêm khuya ở ngôi nhà nhỏ của anh, số 80 Hòa Mã, khi Hà Nội đã ngủ yên.
- Tiếng Việt là âm nhạc, anh ạ. Thoạt kỳ thuỷ, những câu văn xuất hiện như một dòng nhạc. Nó ngân nga mãi trong đầu trước khi mình cả gan đặt bút lên trang giấy trắng những chữ đầu tiên. Nó là một cái gì đó mơ hồ, ta chưa thể hình dung, một cái gì rất mơ hồ, như mây như gió, ta không nắm bắt được nó, không làm chủ được nó, không sai khiến được nó, cái ấy cứ cục cựa không thôi ở trong đầu, đòi được thoát ra. Ta như bị bức bách phải cho nó đi xuống trang giấy, thành một vần thơ, hoặc một câu văn. Sau đó thì vần thơ ấy, câu văn ấy, sẽ tự kéo theo nó những chữ khác, những câu khác. Và cứ thế, một bài thơ, hay một truyện ngắn ra đời.
Tôi trích ở đây một đoạn trong Chân Trời Cũ tả người khách tha hương ngồi bên bến đò vắng tanh vắng ngắt trong chiều tà. Giở nắm cơm ra nhai trệu trạo, đoạn đứng lên bắc loa miệng gọi đò: “Tồ ui!” Trời đã ngả màu tím. Khách không tin còn đò. Nhưng rồi con đò ở bờ bên kia cũng rời bến sang với khách. Đêm ấy khách được ngủ đỗ trong nhà cô lái đò tốt bụng.
“Mấy tiếng tù và khuya rúc lên, bay vào gian nhà vắng. Lắng biết mọi người đã ngủ yên cả, vị thần tử của giang sơn Trung Hoa vắt chân chữ ngũ, khe khẽ ngâm một bài thơ cổ, qua nỗi xúc động đột nhiên tụ lại trong người:
Uỵt loọc, vú thày sướng mủn thín,
Coóng phống, dì phố, tui sàu mìn,
Cú chấu sèng ngồi Hồn Sán sì.
Dề pun, chống séng tâu hác sin.

(Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên
Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên,
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán, chung thanh đáo khách thuyền)

Ngay lúc ấy, từ gian buồng bên, nổi lên mấy tiếng gì như chuột rúc. Lữ khách, thấy đứt mạch cảm hứng, càu nhàu trong bóng tối:
- Ấy dà! Cẩm tố xỉ a! (Chà! Lắm chuột thế!)
Nhưng đó không phải tiếng chuột rúc. Đó là tiếng người con gái chở đò ban tối cười qua hai làn môi khép kín.

Cuốn Chân Trời Cũ văn gồm nhiều truyện ngắn, theo ghi chú của tác giả thì nó được viết vào tháng Giêng năm 1940, xuất bản lần đầu năm 1942. Nó được tái bản nhiều lần về sau này. Tôi rất nhớ hai câu kết của truyện ngắn Ngày Gặp Gỡ:
“Người khách sang sông chiều muộn ấy về sau này là cha tôi. Và cô lái đò, là mẹ tôi“.
Không hiểu sao mà câu sau cùng này lại biến mất trong lần tái bản sau cùng. Mà tôi cho rằng đó là câu khép chuyện hay nhất. Nó mới giản dị làm sao! Mới đẹp làm sao!
Tôi có lần viết ở đâu đó: “Tôi có hai người thầy: Hồ Dzếnh chỉ cho tôi thấy cái đẹp trong ngôn ngữ giản dị; Nguyễn Tuân, ngược lại, dạy tôi cách sử dụng những từ cầu kỳ đúng chỗ để tăng sức mạnh của câu văn. Cả hai cho tôi hiểu tiếng Việt là âm nhạc, đích thực là âm nhạc, với những tiết tấu riêng, với sự xen kẽ của những toàn hài và cung chướng để đưa người đọc đi xa hơn, cùng với liên tưởng bất giác để bay xa, vượt lên trên những con chữ”.
Hồi ấy, còn nhỏ, tôi chưa gặp thơ Hồ Dzếnh. Lớn lên, đọc anh tôi mới hiểu ra tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ theo nghĩa đen, đã ảnh hưởng tới anh mạnh đến thế nào.
Trời đẹp như trời mới tráng gương 
Chim ca ánh sáng rộn ven tường 
Có ai bên cửa ngồi hong tóc 
Cho chảy lan thành một suối hương.

Một khúc khác:
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Ðể lòng buồn tôi dạo khắp trong sân, 
Ngó trên tay thuốc lá cháy lụi dần... 
Tôi nói khẽ, gớm, làm sao nhớ thế! 
...

Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé! 
Tôi sẽ trách - cố nhiên! - nhưng rất nhẹ; 
Nếu trót đi, em hãy gắng quay về, 
Tình mất vui khi đã vẹn câu thề, 
Ðời chỉ đẹp những khi còn dang dỏ. 
Thư viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ, 
Cho nghìn sau ... lơ lửng ... với nghìn xưa....

Trời không nắng cũng không mưa, 
Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung.
Chiều buồn như mối sầu chung 
Lòng im nghe thoảng tơ trùng chốn xa
Ðâu hình tầu chậm quên ga 
Bâng khuâng gió nhớ về qua lá dày

Hay bài thơ Chiều đã được Dương Thiệu Tước phổ nhạc mà nhiều người thuộc nhưng không biết, hay quên, là những vần thơ của Hồ Dzếnh:
Trên đường về nhớ đầy 
Chiều chậm đưa chân ngày 
Tiếng buồn vang trong mây 
Chim rừng quên cất cánh 
Gió say tình ngây ngây 
Có phải sầu vạn cổ 
Chất trong hồn chiều nay? 
Tôi là người lữ khách 
Màu chiều khó làm khuây 
Ngỡ lòng mình là rừng 
Ngỡ hồn mình là mây 
Nhớ nhà châm điếu thuốc 
Khói huyền bay lên cây ...

Tôi không rành lý luận văn học. Tôi cũng không có ý định nghiên cứu về văn Hồ Dzếnh. Cái đó không phải việc của tôi – tôi không có cả tài năng lẫn hứng thú. Tôi có đọc một số bài nghiên cứu về Hồ Dzếnh. Trong những bài này có khá đủ dữ kiện để người đọc biết về Hồ Dzếnh với tư cách một văn tài. Nhưng tôi còn muốn nhiều hơn – một chân dung Hồ Dzếnh, con người và cuộc đời.
Sau khi được làm quen với Hồ Dzếnh, tôi tìm đọc lại vài tác phẩm của anh. Ngôn ngữ trong những tác phẩm ấy tất nhiên khác với ngôn ngữ hiện đại. Nhưng nó không lỗi thời. Cái đẹp vẫn còn đó nhờ sức mạnh của ngôn từ giản dị.


Năm 1986 Hồ Dzếnh vào Sài Gòn. Lần gặp gỡ này tôi được gần anh nhiều hơn những buổi tối ngắn ngủi ở ngôi nhà phố Hòa Mã. Ngắn ngủi là vì muốn nghe chuyện anh lắm tôi cũng không thể ngồi quá khuya, khi chị bắt đầu đi ra đi vào, có ý nhắc đã đến giờ anh đi ngủ.

Ở Sài Gòn hôm nào anh cũng đến rủ tôi đi ăn sáng. Bắt đầu bằng một bát phở ở một quán theo anh là rất tuyệt ở chân cầu chữ Y, đoạn đi tiếp, uống cà phê ở một quán khác, gần nhà hàng Bát Đạt trên đường Trần Hưng Đạo, nó cũng tuyệt không kém. Một người bạn sành ăn sành uống đã cho anh lời khuyên, nó được anh nắn nót ghi vào mảnh giấy nhét trong túi ngực.
Tôi chở anh đi bằng xe Honda 67. Chúng tôi phóng vèo vèo trên phố xá. Ngồi sau, anh ôm cứng tôi, luôn cục cựa, hết quay phải lại quay trái. Không biết trong những chuyến cưỡi ngựa xem hoa ngày ấy có làm anh nhớ đến Cô Gái Bình Xuyên năm 1945 hay không. Nó là tác phẩm lần đầu và cũng là lần duy nhất Hồ Dzếnh rời miền ký ức thân quen để bay lên những tầng trời tưởng tượng. Một thư sinh Bắc Kỳ lạc bước vào Hòn Ngọc Viễn Đông gặp một nữ tướng cướp. Chàng yêu nàng. Nàng yêu chàng. Một hôm nàng đi cướp, bị bắn. Xót nàng, băng bó cho nàng xong chàng mới ôm nàng trong lòng, mới thủ thỉ bảo nàng hãy ở nhà, chàng sẽ đi làm công việc nguy hiểm ấy thay nàng. Nữ tướng cướp nghe chàng, cười rũ. Nàng ép đầu chàng vào ngực mà bảo: công việc ấy không phải của anh mà, anh hãy cầm số tiền này rồi về Bắc đi. Nơi này, việc này không phải dành cho anh.
- Tôi không giàu tưởng tượng – nhắc đến Cô Gái Bình Xuyên, anh cười mình – Cái gì dính với tôi, với những kỷ niệm trong đầu thì tôi viết được, hễ bịa là y như rằng hỏng, anh ạ. 
- Ờ, Cô Gái Bình Xuyên không quá tồi, nhưng với anh, tôi nghĩ nó là một thất bại. 
Tôi nói toạc, không sợ anh giận. Chúng tôi quen nói với nhau thật thà, không kiêng nể. 
- Nghề của ta thế đấy. Cái mình viết đã thả ra là không cách nào đuổi theo để bắt nó về. Vì vậy mà viết xong tôi thường để đấy rất lâu rồi mới cho in. 
- Nghĩa là anh còn nhiều bản thảo đắp chiếu?
Hồ Dzếnh cười, tránh câu trả lời.

Hồ Dzếnh viết thận trọng. Nhưng chỉ chừng ấy tác phẩm đã được anh thả ra cũng đủ làm phong phú thêm nền văn học mà ta quen gọi là tiền chiến. Những gì anh viết còn cho ta thấy được một hiện tượng khác - ấy là một người nước ngoài hoàn toàn có thể sáng tác bằng tiếng Việt không khác gì người Việt.
Nghe nói người Hoa khuyến khích con trai Hoa lấy vợ Việt nhưng ngăn cấm con gái Hoa lấy chồng Việt. Chuyện này có thật - người ta làm thế là để bảo vệ nòi giống, và cả mở rộng nòi giống nữa. Chẳng thế mà những người Tàu tha hương giữ gìn tiếng Hoa lắm lắm, cho dù có lưu lạc đến tận đẩu tận đâu trên địa cầu. Hơn bất cứ cộng đồng di dân nào, người Hoa coi mất ngôn ngữ là mất gốc. Tiếng bản địa đối với họ vĩnh viễn là ngôn ngữ thứ hai, chỉ đủ dùng trong giao tiếp là được, không cần hơn. Thời tôi, nhiều người Hoa thuộc thế hệ thứ ba thứ tư vẫn không nói sõi tiếng nơi mình sinh sống. Trường hợp Hồ Dzếnh là hãn hữu. Mặc dầu theo phong tục của người Hoa, anh ắt phải học và rành tiếng Hoa hơn tiếng Việt. Anh sáng tác được bằng tiếng Việt ắt hẳn do anh có mẹ người Việt, và tiếng mẹ đẻ của anh đã chiếm lĩnh toàn bộ tâm hồn anh.
Cuộc gặp gỡ nhiều ngày với Hồ Dzếnh ở Sài Gòn cho tôi hiểu anh thêm. Chúng tôi có đủ thời gian cho những chuyện tâm tình.
Cũng trong cuộc gặp gỡ này tôi mới biết trong sâu thẳm tâm hồn, Hồ Dzếnh có một vết thương khó lành và không đáng có. Dù anh đã có một chỗ đứng trong văn đàn Việt Nam, anh vẫn luôn cảm thấy có sự phân biệt: anh là nhà văn, nhưng là nhà văn người Tàu, hoặc tử tế hơn: nhà văn gốc Hoa.
Mặc dầu người Hoa đến Việt Nam đã ăn đời ở kiếp trên đất này, đã chôn nhiều thế hệ cha ông ở đây, đã được người bản địa hiền hoà mở rộng vòng tay đón nhận, coi như người trong gia đình lớn các tộc người cùng sống chung với nhau trên một mảnh đất, nhưng đã xảy ra không ít cảnh đau lòng.

Sử sách còn ghi trận quân Tây Sơn tàn sát một vạn sinh linh người Hoa ở cù lao Phố vào thế kỷ 18. Trong cơn thịnh nộ: “Đánh cho để dài tóc/ Đánh cho để đen răng/ Đánh cho nó ngựa xe tan tác/ Đánh cho nó mảnh giáp không còn/ Đánh cho nó biết nước Nam anh hùng có chủ”, đến đàn bà trẻ con người Hoa cũng không thoát khỏi ngọn giáo lưỡi gươm thù hận.
Theo thống kê không mấy chính xác, năm 1978 và đầu năm 1979 đã có hai vạn rưởi người Hoa vượt biên giới phía bắc để trở về Trung Quốc. Nhà nước Trung Hoa đỏ đặt tên cho nó là “nạn kiều”. Tất cả bắt đầu bằng một tờ truyền đơn giả mạo tựa hồ của chính quyền Trung Quốc kêu gọi người Hoa mau mau trở về tổ quốc để tránh một cuộc “tắm máu” sắp xảy tới. Tờ truyền đơn do một tên vô danh tiểu tốt ở Quảng Ninh học tiếng Trung ở Nam Ninh (Trung Quốc) thảo ra, dưới sự khuyến khích của tên quan thầy nắm công tác tổ chức ở trung ương. Tác giả tờ truyền đơn về sau leo lên một trong những chức vị cao nhất trong hệ thống nhà nước. Công lao được ghi nhận của y là đã xua đuổi được hàng vạn người Hoa ra khỏi Việt Nam mà không tốn một viên đạn. Tôi không viết tên chúng ra đây – chúng không đáng được nhắc đến.
Thế là những con người, chứ không phải những con vật, đã ăn đời ở kiếp trên đất nước ta bồng bế nhau, dắt díu nhau, bỏ ruộng, bỏ vườn, bỏ nhà cửa, bỏ mồ mả cha ông chạy về cái đất nước mà tổ tiên họ đã bỏ đi để tới đất này. Ở mảnh đất bỏ đi ấy, những địa danh chỉ được mơ hồ biết đến, được nhớ tới, trong những truyền thuyết và những chuyện kể về đêm của những ông già bà cả. Giờ đây họ mếu máo chạy về một chân trời xám xịt đầy một màu máu của đủ thứ cách mạng long trời lở đất, hết cái này đến cái khác, mà họ được nghe từ những đồng bào sống sót trốn qua biên giới.
Tổng số người Hoa rời khỏi Việt Nam từ Bắc chí Nam trong thời kỳ này lên tới gần một triệu trong số gần hai triệu người Hoa sinh sống ở Việt Nam, theo một con số thống kê.
Kim Lân, theo tôi quan sát, là bạn thân nhất của Hồ Dzếnh. Nhưng hình như có những tâm sự chua xót Hồ Dzếnh chưa hề nói với bạn. Không phải anh có điều gì phải giấu giếm. Chỉ là anh không muốn nói, không muốn kể, những chuyện đau lòng.
Tôi may mắn hơn. Tôi được nghe anh kể những gì đã xảy ra với anh trong năm 1978:
“Tờ truyền đơn ấy có tác động kinh khủng. Người ta tin nó là thật. Họ chép lại, trao tay nhau, rồi lời đồn loang xa. Thế là người Hoa ùn ùn kéo đi. Có gì trong nhà mang ra bán cho bằng hết, bán rẻ như cho, lùng sục mua vàng. Nhẫn một chỉ, nửa chỉ, vài đồng cân, mua hết, không cân kẹo, không phân biệt thật giả, dắt tất tật vào lưng quần. Lưng đeo ba lô, vai khoác tay nải, họ dắt díu nhau lên đường. Nước mắt lưng tròng, họ hối hả đi, thất thểu đi. Thảm lắm, Tội nghiệp nhất là những gia đình Hoa Việt - chồng đi, vợ ở lại, vợ đi, chồng ở lại. Những đứa con mếu máo chia tay nhau, đứa đi đứa ở, xảy đàn tan nghé. Tôi có anh bạn bác sĩ đông y người Hoa, vợ Việt, hai đứa con, một trai một gái. Anh chồng mang theo con trai, vợ ở lại với con gái. Bao nhiêu là nước mắt. Chia tay họ, tôi khóc ròng”.
- Còn anh thì sao? – tôi hỏi.
- Tôi không đi.
- Tất nhiên, anh còn đang ngồi đây với tôi mà.
Hồ Dzếnh thở dài:
- Tôi không thể đi. Nơi này là quê hương tôi, là đất nước tôi, là tình yêu của tôi. Tôi không thể bỏ. 
- Những người ra đi không lôi kéo anh?
- Có chứ. Người ta đến nhà rủ tôi đi cùng. Hằng ngày. Người ta thương tôi, lo sợ cho tôi.
- Còn chính quyền?
- Chính quyền? 
- Người ta có làm khó anh nhiều không?
- Có đấy. Họ đến nhà, giục gia đình tôi đi. Không phải một lần. Tôi lánh mặt. Họ hỏi vợ tôi: “Bao giờ ông bà mới chịu đi?”

- Chị trả lời thế nào?
- Nhà tôi bảo: “Tôi không biết. Thuyền theo lái, gái theo chồng, câu ấy chẳng lẽ các ông không biết. Trong nhà ông nhà tôi là người quyết định, không phải tôi. Các ông đi mà hỏi ông ấy!”
- Ông ấy không chịu giáp mặt chúng tôi. Chúng tôi biết – ông ấy đang ở trong nhà.
- Ông ấy đi từ sớm, lúc tôi còn ngủ. Thức dậy đã không thấy ông ấy đâu. Chắc ông ấy không ngủ được, dậy xong là đi. Các ông thử tìm ở mấy quán cà phê xem có ông ấy có đấy không?

“ Rồi họ cũng tóm được tôi – anh tiếp – Bảo tôi đi theo. Đi thì đi. Ngồi lên command-car, hai người của chính quyền ngồi hai bên. Như sợ tôi chạy. Công an, tôi nghĩ. Họ đưa mình đi đâu đây? Xe rẽ vào Hỏa Lò, anh ạ. Cái Maison Centrale này người Hà Nội có ai không biết. Tôi tự hỏi: “Mình làm gì mà họ bắt cơ chứ”? Xe đỗ lại trong một cái sân rộng.
Tôi hình dung cái sân Hỏa Lò sạch bong với mấy dàn nho queo quắt. Tôi đã đứng đây khi đi thăm cha tôi bị giam vào thời thuộc Pháp. Tôi cũng đã đứng đây chờ được đưa vào xà lim, thời cách mạng.
“Theo chân họ, tôi bước vào một căn phòng trống huếch trống hoác, ở tường hậu có một cái bàn giấy. Lấy thêm ghế, phân ngôi chủ khách. Chủ ngồi trong. Tôi ngồi ngoài. Mời uống trà. Thuốc lá sang, Thăng Long bao bạc hẳn hoi. Chuyện trên trời dưới đất. Sau hết, mới vào đề:
- Anh nhất định không chịu ? 
- Tại sao tôi lại phải đi? 
- Người Hoa đi cả, anh ở lại làm gì?
- Nhà tôi ở đây, vợ con tôi ở đây, đi đâu? Việc gì tôi phải đi? tôi nói.

Họ nhìn nhau, cười. Cứ như họ nghe một câu trả lời ngớ ngẩn của người điên. Tôi bặm môi lại, không nói thêm câu nào nữa. Nói làm gì? Có nói họ cũng chẳng hiểu. Với họ, tâm hồn con người là thứ vớ vẩn, họ không thể hiểu, không thèm hiểu. Rồi họ đứng lên, ra hiệu cho tôi đi theo”.
Anh im lặng, nhớ lại. 
- Họ đưa anh đi đâu?
“Qua một cửa lớn làm bằng nhiều song sắt. Rồi một cửa nhỏ, cũng bằng song sắt. Nó dẫn vào một hành lang mờ mờ tối, hai bên là những cánh cửa sơn xám có then cài với những cái khóa bằng đồng”.
Tôi thảng thốt:
- Đó là khu xà lim 1. Tôi từng ở đấy. Họ giam anh?
Hồ Dzếnh trầm ngâm. Rồi cười buồn:
“Lúc ấy tôi cũng nghĩ thế - mình sẽ bị giam ở đây. Nhưng không, họ không giam tôi.

Một anh có vẻ là cấp trên trong hai người mở nắp cái ô nhỏ bên trên cánh cửa, kiễng chân nhòm vào, rồi ra hiệu cho tôi nhòm theo. Cái lỗ quan sát ấy tôi biết qua sách. Người Pháp gọi nó là le judas. Tôi không phải kiễng chân, tôi cao hơn anh ta, Nhòm vào, tôi giật bắn mình - bên trong là một cái xác trần truồng, gày đét. Nghe động, cái xác hé mắt. Hoá ra là một người sống. Tất nhiên, anh ta không nhìn thấy tôi, cái lỗ ấy chỉ cho anh ta thấy hai con mắt. May, không phải một người quen. Tiếp theo, họ mở thêm vài cái ô như thế nữa, vẫy tôi lại, nhưng tôi lắc”
– Rồi sao?
“Họ đưa tôi về nhà, cũng trên chiếc command-car ấy. Trên xe, chúng tôi không ai nói với ai câu nào. Chỉ khi mở cửa xe cho tôi xuống, người công an cấp trên mới đặt tay lên vai tôi: “Anh thấy rồi đấy – anh muốn về Tàu hay muốn ở lại trong cái chỗ anh vừa thấy?”

Câu chuyện Hồ Dzếnh kể làm tôi bàng hoàng. 
Lại thêm một cái không thể ngờ có thể xảy ra trong cuộc cách mạng mà tôi đi theo từ thuở thiếu thời. Những người mà tôi từng gọi là đồng chí bên trong cái vỏ bọc cách mạng đã hành xử tàn nhẫn đến thế đấy, với một nhà văn không hề chống lại họ.

Đoạn hồi ức này không có tham vọng nào hơn là thêm vài chuyện vặt vào những gì nhiều người đã viết về Hồ Dzếnh.
Lần gặp anh ở Sài Gòn là lần cuối. Sau đó chúng tôi cũng không có thư từ, điện thoại cho nhau. Tin nhắn cuối cùng anh gửi cho tôi là bài viết thay cáo phó trên tờ Văn Nghệ,
* *
*

Tháng 8 năm 1991, tôi ở Warszawa.
Một buổi chiều, sau khi uống cà phê ở quán U Szwejka trên quảng trường Konstytucji, tôi thả bộ tới đường Marszałkowska thì một chiếc taxi trờ tới. Ắt hẳn anh lái nghĩ tôi là một du khách đang lớ ngớ tìm đường.
Ngạc nhiên làm sao, vừa ngồi vào xe, lên tôi thấy bên mình một tờ báo tiếng Việt. 
Một hàng tít lớn đập vào mắt :”Nhà văn Hồ Dzếnh không còn nữa”.
Xem ngày tháng thì thấy tờ báo mới ra hôm qua. Chắc hẳn người khách trước tôi là người Việt vừa đi từ phi trường Okiecie vào thành phố đã bỏ lại.

Tôi bàng hoàng. Tôi ít khi nghĩ tới cái chết, cho chính mình, cũng như cho những người tôi biết. Sự sống vốn chẳng là vô hạn với bất cứ ai – biết là thế, nhưng bất ngờ vẫn cứ là bất ngờ. Thậm chí trong hành trang của tôi vẫn còn đấy cái đồng hồ quả quít cổ mặt sứ tôi mua ở chợ đen Donbass để gửi cho Hồ Dzếnh. Có lần nào đó anh nói với tôi anh thích đồng hồ quả quít hơn đồng hồ đeo tay. Nó gợi nhớ cái đồng hồ của cha anh - vật còn lại lâu hơn mọi thứ khác sau khi cha anh qua đời và mẹ anh phải bán đi tất cả.
Tôi nhoài lên ghế trên, hấp tấp nói lại địa chỉ. Thay vì về nhà, tôi bảo anh tài xế đưa tôi đến chỗ khác. Ở thương vụ Việt Nam tôi có thể nhờ gửi tin nhắn bằng telex nhanh nhất về cho con rể.
Các con tôi đã có mặt trong tang lễ, thay tôi tiễn đưa nhà văn mà tôi yêu mến đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Thêm một lần, tôi tin ở tâm linh. Nó có thật hay không có thật tôi không biết. Bằng sự tình cờ hi hữu, Hồ Dzếnh gửi cho tôi lời nhắn cuối cùng:
“Tôi đi đây. Chào nhé!”.

2016




Những tác phẩm đã xuất bản của Hồ Dzếnh:
- Quê Ngoại (thơ, gồm những bài góp nhặt từ năm 1935 đến 1942, xuất bản năm 1943);
- Hoa Xuân Đất Việt (thơ);
- Chân Trời Cũ (tập truyện ngắn, xuất bản năm 1942 (nhà xuất bản Hoa Tiên);
- Một Truyện Tình 15 Năm Về Trước (tiểu thuyết, ký bút hiệu Lưu thị Hạnh (nhà xuất bản Hoa Tiên)
- Hai Mối Tình hay Tiếng Kêu Trong Máu (truyện dài, ký bút hiệu Lưu thị Hạnh (nhà xuất bản Hợp Lực, 1968);
- Dĩ Vãng (tiểu thuyết)
- Những Vành Khăn Trắng (tiểu thuyết, ký bút hiệu Lưu thị Hạnh);
- Đường Kẽ Mãnh (truyện ngắn, Trung Bắc chủ nhật ,số 187, 12-12-1943);
- Nhà Nhiều Con (truyện ngắn, Trung Bắc chủ nhật, số 206, 11-6-1944).
- và nhiều truyện ngắn khác đăng rải rác trong các giai phẩm xuất bản thời tiền-chiến.


https://www.facebook.com/vuthuhien.paris/posts/1780407622199232

Giao blog

Phần nhận xét hiển thị trên trang

sân khấu giống như một đài tưởng niệm những xác chết, và tôi sợ..

Có những người thích quyền lực và sự nổi tiếng, nên họ cứ tưởng ai cũng thích lên sân khấu như họ. Tôi lại thấy sân khấu giống như một đài tưởng niệm những xác chết, và tôi sợ.
Tôi thường nằm chiêm bao thấy một đêm — hình như một đêm tháng 8, năm 1968.

+++

Sân khấu thoạt đầu đầy bóng tối. Sau đó ánh sáng rực lên, và trong hơi nóng tôi ngửi thấy mùi máu. Không có ai ngồi cạnh tôi, họ ngồi phía đối diện.
Một người trong bọn họ vẽ ra con dao trên giấy rồi dùng nó đâm thẳng vào ngực tôi. Tôi rướn người lên, đau nhói. Người đó cũng ngước lên: “Lẽ ra ta đã giết mi, nếu ta có thêm thời gian.”
Một tiếng nổ vang lên trong tai tôi. Tôi trôi dạt vào một đường hầm sâu hun hút. Tôi níu lấy người đã vẽ ra con dao để đâm tôi, mong anh ta nghĩ lại tình đồng bào và cứu tôi. Anh ta cười toe toét khi bỏ chạy khỏi đường hầm: “Bác sĩ sẽ giúp mi.” Nghe vậy tôi nắm chặt lấy ông bác sĩ: “Tôi không muốn chết.” Bác sĩ mặc y phục màu trắng tiêm morphine cho tôi và nói: “Con sẽ không chết.”
Bác sĩ nói rằng tôi sẽ không chết.

+++

Bảy năm sau, người vẽ ra con dao để đâm tôi ngày xưa quay lại thêm lần nữa, sau khi bác sĩ nói tôi sẽ không chết. Anh ta đưa ra một bịch máu và nói: “Nghe nói ngày đó đã có một sự thoả thuận.” Rồi anh ta đưa bịch máu cho tôi. Anh ta nói là anh ta cứu tôi sau nhát đâm trí mạng, nhưng các tổn thương của cơ tim là vĩnh viễn. Anh ta biết thừa rằng trái tim tôi không còn đập được nữa.
Tôi nhìn quanh, không còn thấy ông bác sĩ ở đâu. Tôi đi chữa bệnh trong trại cải tạo một mình.

+++

Bốn mươi năm sau vợ tôi thuyết phục tôi lên sân khấu một lần nữa vì lần này có truyền hình trực tiếp. Tôi gặp lại anh chàng ngày xưa từng đưa bịch máu cho tôi. Tôi hỏi anh ta về ông bác sĩ, anh ta nói: “Sau này bọn ta không dùng dao mà dùng súng cối. Ông bác sĩ của mi bị trúng đạn khi cứu những người bị thương. Ông ấy chết ngay lập tức.”
Chúng tôi ngồi trong im lặng.
Mười bốn hay mười lăm người đàn ông có hình dạng và giọng nói như đàn bà đang đi qua đi lại trên sân khấu. Không phải vai hề, họ vào vai Ông Vua và Ông Tướng. Lần đầu tiên sau bốn mươi năm, tôi thấy họ không cần mặc đồng phục mà vẫn đều răm rắp.
Vợ tôi đã rời khỏi sân khấu. Đèn tắt trong một phút để mọi người hồi tưởng lại quá khứ. Con dao vẽ ra trên giấy ngày xưa vẫn đang mắc kẹt trong ngực tôi. Nhức nhối. Bịch máu hoá ra không phải để cứu tôi, mà là vật chứng nhằm vu oan tôi là kẻ giết gười.

+++

Tôi ném xuống sàn sân khấu những hoa, giấy khen, huy chương, bịch máu... mà người ta tặng cho tôi từ lần lên sân khấu trước đó. Đó là lý do vì sao tôi thấy sân khấu giống như đài tưởng niệm xác chết. Nhưng hoá ra anh chàng ngày xưa từng đưa bịch máu cho tôi đã nói láo với tôi. Ông bác sĩ không bị giết. Bây giờ anh ta lại xô tôi ra, tranh phần đứng gần ông bác sĩ. Anh ta muốn mọi người nhìn thấy anh ta với ông bác sĩ cùng phe. Tôi kịp thì thầm: “Cảm ơn, bác sĩ.” Và tôi nhổ bãi nước bọt xuống đất, cúi chào mọi người, chào cả những diễn viên đã thành những kẻ bệnh hoạn trong vai diễn nhập thần của họ. Họ đã giết ông bác sĩ và thế vai bác sĩ bằng những bịch máu. Bây giờ họ lại muốn ông bác sĩ thay vai cho những bịch máu cho họ. Vở diễn của họ cứ quay cuồng như thế, chưa biết khi nào là hồi kết. Nhìn họ thấm đẫm vẻ tự hào vì đã thành bậc thầy diễn xuất, tôi càng sợ. Ông bác sĩ nhìn tôi mỉm cười, sau khi đã nôn ói ra một mớ tiền lẻ.
Cuối cùng, vợ tôi lên sân khấu, ôm lấy tôi khi tôi đang khóc.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

dưới gót chân của vĩnh cửu

Mùa gặt [1]
 
Miệng tôi đầy tiếng cười
môi tôi đầy những bài hát
trái tim tôi đầy những đám cháy
của mặt trời trong mùa gặt
của gió, của mưa, của bão, của vườn nho,
và của cánh đồng lúa miến
 
mắt tôi đầy ánh sáng tinh tú
bay xuyên qua cánh rừng đêm
như những sứ giả của tin mừng
 
tấm lưng tôi đầy những vết thương
mồ hôi lao tác sông, núi
và những ruộng muối mặn của quê hương
 
ai gieo trong nước mắt
sẽ hát ca trong thu liễm
 
25/07/2016
___________
Cảm hứng từ bài Thánh Thi 125:1-6
 
 
Mùa gặt [2]
 
Bài hát của đá nằm trong bài hát của lò rèn
phát ra ống thổi lửa
được hát lên bởi chiếc rìu và lưỡi cuốc
đôi cánh của lửa nằm trong
đôi cánh của những vì sao
bay lên bằng những chiếc rễ ngọc bích
của thân cây trong khu vườn
canh giữ bởi thổ thần
 
chiếc áo choàng của ánh sáng
được cất giữ trong chiếc rương cũ của lịch sử
trở nên những bước đi
của đám cháy sau mùa gặt
 
8/08/2016
 
 
Mùa gặt [3]
 
Sợi chỉ bạc xuyên qua lỗ kim ý tưởng
đẻ ra con lạc đà gù lưng
vì phải thồ thiên đàng cho các thánh
trong cánh rừng của tàn tro
mọc lên những thân cây đói và khát
 
trên đỉnh tháp của thinh lặng
mặt trời nhảy múa như con rối
trong trò chơi rồng rắn
dưới gót chân của vĩnh cửu
thời gian nở những đoá hoa thiên tai
 
11/08/2016

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Hai, 24 tháng 10, 2016

Đặc vụ tình báo Mỹ huấn luyện du kích cho Việt Minh


Ngày 7/8/1945, hơn 100 du kích Việt Nam đã được “Nhóm Con Nai”-đơn vị tình báo chiến lược Mỹ OSS huấn luyện cấp tốc sử dụng các loại vũ khí.
http://www.cand.com.vn/Uploaded_CANDONLINE/anhtu1/anhtu1/anhtu1/4_phicong1755-400a.jpg
Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp cùng một số thành viên nhóm tình báo “Con Nai” năm 1945
Hà Nội đang sống trong những ngày thu đẹp, đầy cảm xúc. Mùa Thu Cách mạng ở Hà Nội bao giờ cũng là mùa của hoài niệm và gợi nhớ về những con người gắn với những sự kiện đầy dấu ấn không phai mờ đối với Thủ đô và đất nước.
Cách đây 21 năm, đúng dịp kỷ niệm 50 năm Ngày Quốc khánh nước ta, vào một buổi sáng cuối tháng Tám năm 1995, tôi đã có may mắn được gặp những người bạn Mỹ trong đơn vị tình báo chiến lược OSS (The Office of Strategist Services) và “Nhóm Con Nai” (Deer Team).
Hôm đó, trời Hà Nội trong vắt, nắng vàng rực xuyên qua các vòm lá, trong ngôi biệt thự trên đường Quán Thánh, các cựu binh OSS và các cựu binh Việt Minh từng sát cánh bên nhau trong những khu rừng già Việt Bắc đã có một cuộc tái ngộ lịch sử sau đúng nửa thế kỷ. Các cựu binh Việt Nam và Mỹ thuở ấy hầu hết tuổi chỉ ngoài đôi mươi, sau nửa thế kỷ xa cách, lúc này nhiều người tóc đã bạc trắng, xúc động ôm lấy nhau. Mỗi người nhắc lại kỷ niệm xưa theo một cách. Những câu chuyện của họ ghép nối lại thành một bức tranh sống động về những ngày đầu hợp tác Mỹ – Việt rất đẹp đẽ.
Đêm hôm trước, những hình ảnh của cuộc tái ngộ đó lại hiện về trong tâm trí; tôi liền gọi điện thoại cho anh Dương Trung Quốc. Nhà sử học nổi tiếng không ngạc nhiên khi tôi gọi điện vào giờ rất muộn, mà dường như ngay lập tức, câu chuyện của chúng tôi về “Nhóm Con Nai” và đại đội Việt – Mỹ tìm lại đúng mạch nguồn của nó. Anh Dương Trung Quốc cũng là một trong những người được chứng kiến cuộc tái ngộ đó 21 năm trước. Chúng tôi cùng điểm danh lại những người bạn Mỹ đã đến Việt Bắc giúp Việt Nam từ trước ngày Cách mạng Tháng Tám thành công. Đó là các cựu binh OSS như Mac Shin, Frank Tan, Charles Fenn, Henri Prunier, AllisonThomas…
Khi tôi hỏi về sức khỏe và cuộc sống của họ thì anh Dương Trung Quốc, giọng đượm buồn cho biết:- Các cụ “đi”… cả rồi.- Cả cụ Mac Shin mà anh em mình gặp lại ở Seattle năm 2005 cũng mất rồi sao anh? – Cụ Mac Shin mất cách đây 6 năm rồi…
Chuyen chua ke ve dac vu tinh bao My huan luyen du kich Viet Minh
Bức ảnh tư liệu chụp quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 của nhiếp ảnh gia người Pháp – Philippe Devillers.
Như một cuốn phim quay chậm, hình ảnh trong chuyến tháp tùng Thủ tướng Phan Văn Khải thăm chính thức Hoa Kỳ tháng 6-2005 hiện rõ trong tôi… Phòng khánh tiết của khách sạn Fairmont Olimpic đêm 19-6-2005 được trang hoàng lộng lẫy. Hôm đó, thành phố Seattle và bang Washington mở tiệc lớn chiêu đãi Thủ tướng Phan Văn Khải. Ngồi cùng bàn tiệc, anh Dương Trung Quốc ghé vào tai tôi nói nhỏ: “Cụ Mac Shin đến rồi đấy”.
Được tin cụ Mac Shin đến, nhiều người Việt Nam biết tiếng cụ liền bước đến vây quanh. Thứ trưởng Ngoại giao Lê Văn Bàng, nguyên là Đại sứ Việt Nam đầu tiên ở Mỹ, hướng dẫn cụ đi qua các bàn tiệc tới trân trọng giới thiệu với Thủ tướng Phan Văn Khải. Thủ tướng đứng dậy nồng nhiệt đón chào và thắm thiết ôm hôn người bạn Mỹ gần gũi với Bác Hồ 60 năm trước.
Khuôn mặt cụ Mac Shin rạng rỡ hạnh phúc và mãn nguyện. Nắm chặt tay cụ Mac Shin, người đứng đầu Chính phủ Việt Nam ân cần hỏi thăm sức khỏe và đánh giá cao những đóng góp quý báu của cụ đối với Việt Nam. Có lẽ cụ Mac Shin cũng không dám nghĩ lại có một ngày như ngày hôm đó: Thủ tướng Việt Nam lần đầu tiên đến thăm chính thức nước Mỹ mà cụ, với tư cách là một trong những người bạn Mỹ đầu tiên của nước Việt Nam mới, lại có may mắn được đón chào. Đã 60 năm trôi qua rồi còn gì. Vật đổi sao dời. Biết bao biến cố dữ dội. Lịch sử quặn đau. Bao người đã ra đi… Chỉ mới vài tháng trước đó, cụ Charles Fenn cũng đã giã biệt cõi đời.
Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng nước ta, hôm đó ngồi cùng bàn tiệc, đối diện với cụ Mac Shin. Câu chuyện ngày càng thân mật gợi nhớ lại mối liên hệ về quân sự giữa hai nước từ 60 năm trước và triển vọng tốt đẹp của mối bang giao Việt – Mỹ đang được mở ra sau chuyến thăm của Thủ tướng Việt Nam Phan Văn Khải.
Mac Shin có vóc dáng nhỏ nhắn như một cụ già Việt Nam. Cụ kể rằng, cụ là người Mỹ gốc Hoa, sinh năm 1923. Năm 1945, lúc đó đang là nhân viên của OSS, làm việc tại đại bản doanh quân đồng minh ở miền Nam Trung Quốc, Mac Shin được chọn tham gia nhóm báo vụ viên của đồng minh cùng các trang bị kỹ thuật sang Việt Nam giúp quân đội của Hồ Chí Minh. Việc này diễn ra sau khi viên Trung úy phi công Mỹ tên là William Shaw bị phòng không của Nhật bắn rơi và may mắn được Việt Minh cứu sống.
Chuyen chua ke ve dac vu tinh bao My huan luyen du kich Viet Minh-Hinh-2
“Nhóm Con Nai” huấn luyện du kích Việt Minh. Ảnh tư liệu
Với nhạy cảm của một nhà chiến lược thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy đây là một cơ hội hiếm có để Việt Nam bắt nối quan hệ với Mỹ như một đồng minh. Đích thân Bác Hồ đã đưa viên phi công đó sang Côn Minh sau hành trình hàng trăm cây số trèo đèo, lội suối, giao cho tướng Claire Chennault, Chỉ huy tập đoàn không quân 14 của Mỹ. Nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết, khi tướng Claire Chennault cảm ơn Việt Minh, và hỏi Việt Minh có cần sự trợ giúp gì không thì Bác Hồ của chúng ta nêu ra hai đề nghị cần kíp nhất: Một, phía Mỹ xác nhận Việt Minh là lực lượng có khả năng tham gia đồng minh chống phát xít. Hai, Việt Minh được cung cấp các phương tiện thông tin liên lạc. Và Bác Hồ đã chọn hai báo vụ viên người Mỹ gốc Hoa là Mac Shin và Frank Tan đưa về nước. Hai người này được bố trí làm việc gần lán của Bác tại Tân Trào.
Nhờ nhóm điện đài đó mà mối liên hệ giữa Việt Minh và OSS duy trì khá tốt, dẫn đến việc thành lập đại đội Việt – Mỹ, làm sân bay dã chiến ở Kim Long ngay sau cuộc nhảy dù của “Nhóm Con Nai” xuống Tân Trào. Nhóm này gồm 7 thành viên do Thiếu tá lục quân Allison Thomas chỉ huy. Ngày 7-8-1945, hơn 100 du kích đã được “Nhóm Con Nai” huấn luyện cấp tốc sử dụng các loại vũ khí như súng carbine M-1, súng liên thanh hạng nhẹ, súng bazooka và tiểu liên Thomson… Thiếu tá Allison Thomas kể lại, đi bất cứ đâu các thành viên “Nhóm Con Nai” đều được người dân địa phương hào phóng tiếp đãi đủ món, từ chè mật ong cho đến thịt bò, vịt, lợn… dù đời sống của họ rất kham khổ, thiếu thốn. Nhà sử học Marilyn Young, người từng gặp gỡ các thành viên “Nhóm Con Nai” cho biết: “Khi vừa đặt chân tới đây, nhóm quân nhân Mỹ cảm thấy rất ấn tượng, thậm chí ngạc nhiên về Việt Minh. Họ không hiểu vì sao một lực lượng nhỏ bé với những vũ khí thô sơ lại có thể đương đầu với quân đội Nhật và Pháp”.
Có thể nói, vào thời điểm đó, đây là kênh liên lạc nhanh nhất của nước ta với thế giới bên ngoài. Theo anh Dương Trung Quốc, sau này, các nhà nghiên cứu lịch sử nhận ra rằng cuộc Tổng khởi nghĩa và Ngày tuyên bố độc lập chỉ chậm một vài ngày là khó thành công. Khi quân Nhật đầu hàng đồng minh, các quân nhân OSS kết thúc nhiệm vụ, được về Hà Nội tham dự Ngày lễ độc lập của nhân dân Việt Nam. Sau đó, thật bất ngờ, họ được lệnh phải nhanh chóng rời khỏi Việt Nam.
Những người đồng minh ngắn ngủi từ nước Mỹ này đã mang theo mình bức thư của Hồ Chí Minh: “Bạn hãy tin rằng chúng tôi đã chiến đấu và sẽ chiến đấu cho đến khi chúng tôi đạt được cái mà chúng tôi mong muốn: Độc lập dân tộc. Tôi lấy làm tiếc vì những người bạn Mỹ đã rời chúng tôi quá nhanh và do đó mối quan hệ giữa chúng ta sẽ trở nên khó khăn… Ngày mai tươi sáng chúng ta sẽ gặp nhau, chúng ta trông chờ ngày đó. Hãy tin ở tôi. Tôi sẽ mãi mãi như xưa”.
(Thanh Niên)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Khảo cứu

Kết quả hình ảnh cho Hình ảnh kỳ dị?


Những chiếc hòm rỗng không
Xếp chồng lên nhau, 
ở trong hẻm núi
Chúng im lìm nằm trong bóng tối
Như chưa tồn tại bao giờ..

Có lẽ những kẻ giang hồ để quên lại đó
Hoặc bậc vĩ nhân
 trí nhớ thất thường
Cũng có thể không bởi từ ai cả..

Đơn giản :
Chúng là những chiếc hòm rỗng không
Liệu có ích gì cho hiện tại ?

Là sao ?
Nhà khảo cổ ăn mừng ?
Trước những chiếc hòm rỗng không ?

Chẳng có gì trong đó
Hay là phép lạ :
những chiếc hòm chứa điều lạ lùng ?
Tinh thần,
tư tưởng,
nghệ thuật,
quyền năng ?

H.G

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Truyện ngắn tũn:

 Kết quả hình ảnh cho Hình ảnh kỳ dị?

Dị nhân

Cả đêm không ngủ. Mấy ngày nay Th bứt dứt trong người. Sáng dậy sớm, ra đầu làng, đứng đái vào bụi dứa. Thấy tưng tức, bừng bực. Người làng thấy Y ai cũng lạ. Không biết y là ai ?
Trời nóng nôi, không gió, không bụi, nhưng y đội mũ có màn che, thứ mũ người ta dùng khi lấy mật ong, khỏi ong đốt. Nom cứ như đàn bà Hồi giáo, đeo mạng che mặt.
Th. nhìn thấy mọi người, nhưng không ai nhìn rõ y, người ta chỉ đoán non, đoán già.
Hẳn thằng cha này lại có âm mưu gì ?
Y có tính xấu, hay đứng đái ở chỗ đông người, cứ nhè nhà nào có đàn bà con gái, nhất là gái lẳng lơ, lỡ thì mà vạch quần ra. Y không cần giấu diếm, còn nói xưng xưng ra mồm. Rất tự hào về "Cái của nợ" vĩ đại và to tát của mình !
Chả không à ? Của giống, của má là thứ quan trọng nhất trên đời. Nó cần thiết ở chỗ sinh sôi nảy nở và bảo toàn truyền thống, nòi giống của dòng dõi họ không sẩn, chỉ Bùi.. Cô nào, bà nào mắn đẻ, TH. chỉ cần đi qua sát sạt là y như rằng trứng rụng cái boóc ! Nở luôn !
Người ta chặt gỗ, khiêng cây không ai nhờ, y cũng ghé vai vào. Không vác nhiều, chỉ một tay, chọn cây to nhất, tung lên vai, hai tay đút túi quần, đi vòng vòng một đoạn một lúc lại trở về điểm xuất phát, vất huỵch cây gỗ xuống chỗ cũ. Không phải y hộ người ta, khái niệm" Giúp đỡ" không được lập trình trong bộ nhớ của y.
Chỉ là đùa thế thôi, cho các người biết mặt, ai hơi đâu mà làm không công ?
Sức khoẻ thật quý vô cùng, nhưng nhiều khi không biết dùng vào việc gì lại không hay. Đức Phật dạy " Khoẻ quá, sinh lòng dục". Chí lí, chí lí.
Nhờ có sức khoẻ lại tai quái, thêm vợ đảm, nhà y thứ gì cũng có và có thứ gì cũng hay khoe. Khoe đi khoe lại, người ta không thích nghe nữa mới thôi. Có hôm đang đi gặp đám đông, không mua bán gì, Th. rút ra một cục bạc to, đếm đi đếm lại. Xong. Nhếch mép cười một mình, chả nhìn bố con thằng nào. Nhìn làm gì, nó tưởng mình cầu thân, gạ ghê vay mướn chả rắc rối ư ?
"Càng văn hoá lùn, giông gió đời người càng khó quật đổ" Đó là lời bố hắn để lại, phút lâm chung. Một ông lão, nửa tốt nửa xấu, đẹp ở cái mã mà xấu ở tính người: Lão mà nhằm nhà nào, cau cao đến đâu lão cũng lấy xuống ngon xơi. Chó nhà nào dữ đến mấy lão cũng chỉ coi như gai mồng tơi. Chó dữ thường hay xơi phàm, miếng da lợn tẩm hạt mã tiền, con nào dữ đến đâu cũng lành, thành đất!
Chỉ đến phút cuối, sau hơn năm trời hành, muốn chết cũng không được chết. Lão mới ân hận mà ứa nước mắt, giọt nước mắt hiếm khi thấy trên khuôn mặt mất nhẵn vẻ hào hoa của lão.
Cách đây mấy hôm, lão nằn mãi quỷ thần giữ cửa ngục mới tạm tha ít ngày để lão về nhân ngày mất của lão. Th. cũng làm mấy mâm gọi là lễ kỷ niệm. Người ta chết là hết làng xóm mọi chuyện đều cho qua. Nếu mời người ta cũng đến. TH. không mời ai.
Ăn cỗ xong, vong của lão không đi ngay, nấn ná đến đêm ở lại báo mộng cho con.
Lão rỉ tai con trai " Tao đi lao động tự giác, quản ngục không theo, ghé vào dọn dẹp buồng làm việc của Nam Tào. Thấy lão ấy viết nháp : Sẽ lấy mày xuống cho đầu thai kiếp con lừa, có mõm chuột". Y toát mồ hôi : Sao lại như vậy ?
" Tại mày hay hóng hớt, rình chuyện người khác, đâm bị thóc chọc bị gạo, đục nước béo cò.." Hắn cãi. Bố hắn bảo " Tôi đẻ ra anh lòng bọng anh thế nào tôi đâu có lạ ? Anh cãi người ta, chứ cãi tôi làm gì ?
Lão phẩy tay áo, xếch quần định đi. Th vội giữ bố lại. Vậy phải làm sao ạ ?
Tôi định bày, anh không nghe, không nói nữa.
Năn nỉ một hồi, bố lão mới bảo :
Nếu không nghe tôi chắc anh sẽ thành dị nhân, nửa người nửa quỷ, không được tươi tốt mãi như thế này đâu. Không chừng Nam Tào lấy đi thật đấy. Có dự án rồi, ông ấy đang thiếu người "
" Con phải làm sao ?"
- Thứ nhất, chuyện ai bỏ đấy, không dòm ngó soi mói.
- Thứ hai không được mò đàn bà con gái nữa, vợ mình như tơ như lụa, sức nó yếu, chịu không thấu, cố mà chịu . Chỗ nhạy cảm, đừng có móc cái của lôi thôi ra mà khoe nữa.
- Thứ ba giúp được ai cố mà giúp người ta, đừng so đo hơn thiệt
Và quan trọng nhất là ngay từ ngày mai, nên hạn chế ra đường. Nếu có việc bần cùng phải đi nên che mặt lại. Quan binh ở âm phủ có lên tìm sẽ khó nhận ra. Qua được bốn chín ngày mới thoát tội.
Chết thật, bố dạy mình nhớ như in. Thế quái nào lại quên mất một việc ? Ban nãy đứng trước cửa nhà Lý Cường lại vạch quần ra. Đứa con gái nhà nó lẳng thế...lẳng nữa cũng mặc mẹ nó chứ, khoe làm gì ?
Cơ bản việc cải trang mình đã làm được rồi. Học người Hồi giáo là cực kỳ thông minh, không phải mình chưa chắc đã nghĩ ra được. Sẵn cái mạng che ong chả mất đồng nào hoá ra cực tốt. Cực hay. Không biết cái sai nhỏ kia có bị làm sao không ?
Một kẻ nhơn nhơn, ngạo mạn không biết sợ là gì, thế mà lúc này mồ hôi rịn ướt sống lưng.
Có làm sao không  nhỉ ???





Tinh thần thể thao

Thị trấn chúng tôi không kém gì các thị trấn khác. Họ có ban bệ như thế nào chúng tôi cũng có như thế. Thậm chí các hội đoàn thị trấn tôi còn có phần lớn mạnh hơn. Họ có hội Chim cảnh, Chó cảnh, hội trọi trâu, đấu bò.. Chúng tôi đều có cả. Lại còn hơn hội cầu lông, không phải địa phương nào cũng có.
Khối nơi muốn mà không được !
Nói gì thì nói, đây là hội sang trọng, phải có trình độ, có kiến thức mới theo được.
Có người không hiểu, coi thường bảo rằng : Đấy là hội của mấy lão già về hưu, mở ra để các lão có chỗ chơi, đỡ buồn khỏi sinh bệnh mà chết ! Tệ hơn còn bảo chẳng qua mở ra cái hội cầu lông này để các lão ấy có công có việc mà chơi với nhau, sợ các cụ ngồi không, nhàn cư vi bất thiện, xì xào nói xấu cán bộ.
 Lâu lâu ủng hộ các lão ấy tý tiền, các lão sướng, bảo nhau phụ hoạ cho cấp trên dễ bề lãnh đạo quần chúng vv..
 Không có cái hội ấy cũng chẳng chết ai, chẳng qua là cái cớ cho một vài anh đầu trò dễ chi và dễ kiếm tiền !
Đã là kẻ xấu thì còn thiếu chuyện gì để nói ? Chỉ thiếu chúng chưa nói lập hội vô tích sự này để các cụ không ngã xuống ao, xuống hồ như người ta vẫn lo trông nom cho các cháu.  Hoặc để các cụ hạn chế rượu chè, không thôi bét nhè, chửi con chửi cháu, mất trật tự, an ninh xã hội !
Tệ thế là cùng.
Người ngoài cuộc biết sao được mà nói ?
Thử hình dung một ngày nào đó không còn hội của chúng tôi xem tình hình ở thị trấn này sẽ như thế nào ?
Loạn là cái chắc !
Thường là các ông về hưu đều cỡ có đầu óc trong thị trấn này. Các vị ấy mà bực mình, mà buồn, tình hình thị trấn sẽ không đơn giản. Không còn người để tham khảo ý kiến, đề xuất sáng kiến nọ kia cho các vị chức sắc. Chưa kể đến bầu không khí tẻ nhạt, buồn phiền tất yếu ắt phải sinh ra.
Đời sống con người yếu tố tinh thần cực kỳ quan trọng, vật chất có là cái gì khi người ta đã chua rèn qua bao năm tháng cuộc đời ?
Thực ra hội cầu lông thành phần không hoàn toàn là các ông, bà lão già nua. Chúng tôi cũng như mọi thứ hội, có già có trẻ. Tất nhiên số hội viên già đông hơn là có đặc thù riêng. Đây là hội đòi hỏi không chỉ lòng  nhiệt tình, còn cần phải có tài năng, kiến thức, kỹ thuật và một vài yêu cầu,  mà thường đến lứa tuổi nhất định nào đấy mới hội đủ được, không như các hội khác.
Chỉ riêng sinh hoạt hội đều đặn hàng quý, hàng năm đã hơn hẳn các hội khác rồi. Hai mùa mưa nắng, chúng tôi vẫn họp hành liên tục, không có khi nào bê trễ, hay cách quãng.
Tôi không có ý chê các vị bên hội trọi trâu, chọi gà, cũng vì đặc thù riêng của hội người ta. hàng năm hội mở có kỳ, thường là vào dịp tết nhất, lễ lạt. Họ làm thế là phải. Chỉ những khi ấy, mới có khán giả, mới mở được. Không lẽ trọi trâu, trọi gà để xem riêng với nhau ? Hội cầu lông chúng tôi thì không cần, chẳng ai xem chúng tôi vẫn cứ chơi với nhau !
Có lẽ cũng nên phác thảo qua đôi nét : Hội cầu lông có trên dưới sáu bảy chục hội viên, đủ cả nam nữ. Chủ tịch hội là cái ông tên nghe không được hoành tá tràng mấy : Rên Văn Lường. Phó chủ tịch là bà Khúc Thị Bành Nguyệt . Bà này mắt xếch, lưng gù, nói choang choác, khác hẳn với ông chủ tịch về tính cách. Ông chủ tịch bề ngoài có vẻ phong lưu nho nhã  ( Xuất ra từ cán bộ tuyên truyền).
Cũng phải thôi, trưởng phó đối nghịch tính cách như âm với dương là rất hợp với quy luật tự nhiên.
Năm nào hội cũng có vài cuộc thi tranh giải. Nói đến việc này rất chi là dài dòng...
Hôm nay chỉ nói một chuyện thôi.
Đang tự nhiên tự lành, ông chủ tịch bóp bụng nghĩ ra một trò mới. Một kiểu chơi đặc biệt, chơi cầu lông bằng chân, không chơi bằng tay như từ xưa đến giờ.
Hội viên cứ ngã liểng xiểng. Vợt không cầm ở tay, lại buộc vào cổ chân, đón trái cầu thế quái nào văng theo cả người. Hỏng đến hơn chục bộ răng giả của cầu thủ. Còn như trật khớp, bong gân thì hầu hết dính phải..
 Đúng là cái mới nào cũng khó nhai. Nhưng chủ trương đề ra rồi, báo cáo lên trên rồi, nhất định phải có kết quả . Không có kết quả đừng mong kinh phí rót về. Mọi người đều lo lắng..
Có một số phàn nàn, sao không duy trì như trước ? Bày đặt ra làm gì để giờ khó ăn khó nói ?
Ông chủ tịch không giữ được bình tĩnh như mọi khi : Vị nào không thích cứ làm đơn xin ra. Có ai bắt buộc các vị đâu ?
Bà phó đỡ lời :
Đành là thế, nhưng bác trưởng nói vậy hơi quá, hội là hội chung, chứ có phải hội riêng của nhà bác đâu ? Không có hội viên bác làm chủ tịch với ai đây ?
Chủ tịch vội xoa dịu :
- Nói thế có thể là chưa phải, nhưng tôi xuất phát từ cái tâm của mình. Còn một vài sáng kiến nữa tôi chưa thử.. Dưng mà đường dài mới biết ngựa hay. Chúng ta đã tự nguyện rồi, vào rồi, phải cố gắng xây dựng hội chứ ?
- Chỉ cầm vợt tay phải cấm chơi tay trái chứ gì ?
- Là gì xin được bảo mật, chưa thể tiết lộ. Tôi chỉ xin nhắc các vị trong điều lệ của hội có ghi là :
"Hội ta là cuộc chạy Ma ra ton, tinh thần thể thao là luôn hướng lên phía trước, luôn cố gắng và sáng tạo.." Việc đề xuất những việc trên có gì sai nào ?
Sai thì không sai..
Nhưng ai cũng tần ngần nhìn đôi chân khẳng khiu của mình, nhìn cái bụng mỗi ngày mỗi xệ ra. Hình như mắt cũng kém dần đi thì phải ??
Tự nghĩ :
 - Đứng vững được trong hội cầu lông này, đâu phải chuyện đùa.
Không ai bảo ai, cúi xuống, buộc vào chân cây vợt.
Quá nửa ngã nhào về phía trước , còn vợt gần như gãy cán bằng hết !!
Tinh thần thể thao thật là vĩ đại.
 Muôn năm cầu lông !!


 H.G







Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bác Đát giàu tình thương quá. Xử lí như vậy mùi mẽo gì?




THƯƠNG ÔNG VŨ HUY HOÀNG QUÁ !
Thế là cuối cùng Đảng cũng đề nghị kỷ luật nguyên Bộ trưởng Bộ Công thương, nguyên ủy viên trung ương Đảng khóa 11 Vũ Huy Hoàng. Điều đó chứng tỏ Đảng rất nghiêm khắc dù ông Vũ Huy Hoàng đã nghỉ.
Ủy ban kiểm tra TW nêu ra nhiều sai phạm của ông Hoàng khi đang đương chức. Toàn là những sai phạm nghiêm trọng mà nếu nêu ra đây hết thì quá dài. Sai phạm trong tất cả các lĩnh vực thuộc quyền ông quản lý như việc dung túng cho Trịnh Xuân Thanh, bổ nhiệm nhiều cán bộ thân tín nắm các đơn vị doanh nghiệp màu mỡ thuộc quyền, ưu ái con trai còn trẻ vào những chức vụ cao trong bộ…
Kết luận cuối cùng UBKTTW: Đề nghị ông Vũ Huy Hoàng kỷ luật ở mức “Cảnh cáo”. Bà Hồ Thị Kim Thoa, nguyên thứ trưởng mức “Khiển trách”, ông Đào Văn Hải nguyên Vụ trưởng Vụ Tố chức cán bộ bị “Cảnh cáo”.
Kỷ luật ông Vũ Huy Hoàng như vậy là quá nặng. Ông đã “nhận trách nhiệm chính trị”, đã “Kiểm điểm rút kinh nghiệm sâu sắc” rồi mà vẫn kỷ luật ông ở mức “Cảnh cáo”. Chắc là ông sẽ không được nhận “Huân chương Độc lập”như ông Phạm Vũ Luận, ông Nguyễn Thế Thảo. Thật là thiệt thòi cho ông.
Dù UBKTTW chỉ mới đề nghị. Theo tôi nên kỷ luật ông ở mức “Phê bình, rút kinh nghiệm” là đủ, dù rằng ông không còn cơ hội để rút kinh nghiệm nữa. Ông đã nghỉ. Thương ông lắm.
Đảng ta kỷ luật cán bộ thật là nghiêm minh!
----

Phần nhận xét hiển thị trên trang