Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 30 tháng 5, 2016

Lời cảm ơn!

Cảm ơn sở GTVT Hà Nội,vì nhờ tấm biển báo này tôi mới biết được đây là đường bộ chứ không phải đường sông.Sao mấy ông không viết luôn cái bảng bằng chữ Braille cho người mù được biết với nhỉ.
Ảnh

Nguồn: Intephet
Phần nhận xét hiển thị trên trang

"Tôi đang diễn vai một người dân thất bại, không làm được gì để giúp những nhà lãnh đạo nước mình".

Hồi ức nào sống dậy cùng ngày 22-5-2016?

       Đó là ngày Chủ Nhật thứ tư của tháng Năm năm nay. Ba Chủ Nhật trước ghi nhận sự nóng bức bằng ba cuộc biểu tình vì môi trường. Ngày 22-5 không có biểu tình, vì cuộc biểu tình ngày 15-5 đã bị chính quyền ngăn chặn quyết liệt, và chắc chắn chính quyền còn quyết liệt hơn nữa để bảo vệ sự bình yên dù chỉ là bề ngoài cho ngày 22-5, bởi ngày đó có một sự kiện mà xưa nay tôi vốn không quan tâm.
       
       Nhưng năm nay tôi chẳng còn cơ hội để thờ ơ nữa, dù tôi vẫn không tham gia vào sự kiện quái gở ấy. Buổi sáng, vào lúc 8h45’ anh bạn vong niên đã xuất hiện trước cửa nhà tôi, như vậy là trễ so với hẹn mất 15 phút. “Tại vì anh còn phải đi bầu cử cho xong trước khi chạy qua đây.” Anh phân trần. Nhà anh ở quận Bình Thạnh, còn tôi ở quận 8.
       
       Ngày 22-5 là ngày bầu cử hội đồng nhân dân các cấp, hình như là 5 năm một lần. Tôi nói “hình như”, vì sự thật tôi không biết rõ. Tôi chưa đi bầu cử bao giờ mặc dù có quyền bầu cử từ 22 năm nay. Năm nay là năm thứ tư tôi không còn sinh hoạt trong các trường học hay các cơ quan do nhà nước quản lý. Tối hôm 21-5 bố tôi từ ngoài Bắc gọi điện hỏi tôi đã được đăng ký bầu cử trong này chưa. “Bố đừng bầu hộ con.” Tôi đáp.“Bầu hộ là vi phạm pháp luật đấy.” Tôi không trả lời bố tôi về chuyện tôi có là cử tri ở Sài Gòn hay không. Tôi là người thường xuyên “tạm trú”. Tôi đang tạm trú ở Sài Gòn và không thấy ai đến vận động mình đi bầu cử. Lần bầu cử duy nhất còn lờ mờ trong ký ức của tôi là thời tôi còn sinh viên, khi ấy tôi đang ở quê chứ không ở trường, hình như là nghỉ hè. Khi trở lại trường, tôi nghe nói đã có bầu cử và người ta đã bầu hộ cho tôi…
       
       Mặc dù cờ đỏ treo rợp đường và chiếc xe gắn loa phát thanh thông báo về ngày bầu cử đã chạy qua ngõ nhà tôi từ hôm trước, nhưng bạn tôi đến đón tôi không phải để đi bầu cử, mà là để cùng anh ấy đi thăm điện Ngọc Hoàng. Chúng tôi không thể làm ngơ như không biết chuyện đêm 22-5 tổng thống Mỹ Obama sẽ có mặt ở Việt Nam, sau thời gian làm việc ở Hà Nội, chiều 24-5 ông ấy sẽ đến Sài Gòn, nơi ông ghé thăm đầu tiên ở đây là điện Ngọc Hoàng tức chùa Phước Hải. Anh bạn tôi xưa nay chẳng quan tâm đến chùa chiền, nên dù chùa này rất gần nhà anh (tuy khác quận) mà anh vẫn chưa từng đến. Và anh muốn tôi cùng đến đó trước Obama.

       Tôi cũng không phải nhà nghiên cứu chùa chiền hay nghiên cứu tôn giáo. Tôi quan tâm đến chuyện bầu cử vì anh bạn tôi vừa đi bầu xong. Lần đầu tiên có người để tôi hỏi kỹ hơn về chuyện này. Tôi hỏi anh có biết những người được đề cử trong phiếu mà anh phải bầu không, anh nói tổ trưởng dân phố hôm trước có đem đến cho anh những tờ trích ngang lý lịch của họ, đáng lẽ là 20 tờ, nhưng vì hết nên anh chỉ được đưa cho một nửa, còn lúc đến điểm bầu cử thấy trên tường có dán đủ các tờ, anh đến sớm và đã đọc, song tất nhiên chả thể nào chỉ nhờ đọc một trang giấy mà hiểu biết về một con người, mà đây có tới những 20 người cơ đấy, cho 4 lá phiếu.
       
        -Tại sao lại có tới 4 lá phiếu? - Tôi thắc mắc.
       - Vì bầu cho 4 cấp: cấp phường, cấp quận, cấp thành phố (tỉnh) và quốc hội. Mỗi phiếu có 5 cái tên, gạch 2 để lại 3.
       - Hả? Bầu 4 cấp một lúc, phân tích theo kiểu nào?
       - Sorry, anh không biết – Anh bạn tôi bối rối và chữa thẹn – Anh nghĩ là Einstein cũng không giải được bài toán này.
       - Thế thì anh gạch theo kiểu gì? – Tôi tò mò hỏi cho tới cùng, vì anh bạn tôi là người có tính cẩn thận, dù làm việc nhỏ cũng phải cân nhắc.
       - Theo tiêu chí thế này: Thứ nhất là anh không gạch tên phụ nữ. Thứ hai là những ai có tên “nổ” như Chiến, Đấu, Thắng, Lợi, Vĩ, Đại… thì anh gạch thẳng tay. Thứ ba là người nào mình biết chút ít qua báo chí hay thông tin trên mạng thì anh không gạch, như ông Trương Trọng Nghĩa chẳng hạn, vì những cái mình biết còn lơ mơ nên chẳng rõ họ tốt xấu thế nào, nếu gạch họ thì có thể do mình có định kiến sai lầm. Thứ tư là anh không gạch người dân tộc (ý nói thuộc thành phần dân tộc thiểu số). Bằng ấy tiêu chí rồi mà anh vẫn chưa gạch đủ 8 người nên thêm một tiêu chí nữa: ai có tên “nổi” thì anh gạch.
       
        Tôi ù cả đầu. Những tiêu chí của anh bạn tôi không ăn nhập gì với nhau, nó chỉ nói lên rằng anh có óc hài hước và giàu lòng thương cảm. Nhưng như anh nói, anh không phải là Einstein và anh chỉ có vài phút để suy nghĩ, không thể làm mất thời gian của ông khối trưởng đang chờ để hướng dẫn anh bỏ 4 cái phiếu xanh, đỏ, vàng, trắng vào đúng 4 cái thùng phiếu (màu tùy theo mỗi cấp). Ấy thế mà khi anh đang bỏ phiếu vào thùng thì ông ấy còn hỏi nhỏ: “Sao anh không bầu giùm cho người nhà luôn thể?”
       
       Người cả nghĩ như anh bạn tôi bỏ phiếu rất kém năng suất, vì theo như anh kể thì có người chỉ một phút là xong tất, cả suy nghĩ, cả gạch tên và bỏ phiếu vào thùng. Hỏi làm cách nào thì họ trả lời: “Gạch đại.” Thế cho nên tôi không nghi ngờ gì khi sau đó có những bức ảnh được tung lên mạng xã hội với hình ảnh một chiếc bàn ở điểm bầu cử có biển đề: “Bàn gạch giúp”.
       
       Chúng tôi đến điện Ngọc Hoàng ở số 73, đường Mai Thị Lựu, phường Đa Kao, quận 1. Cổng ngoài cùng đề chữ “PHƯỚC HẢI TỰ”, nhưng ở tòa nhà chính phía trong đề tên điện Ngọc Hoàng bằng chữ Hán theo lối cổ. Màu hồng của tòa kiến trúc là ấn tượng đầu tiên đập vào mắt tôi. Người dân đến chùa dập dìu tấp nập nhưng không đến nỗi quá đông. Thổ Địa và Môn Quan canh hai bên cửa. Ở ban thờ Phật, trên bàn bên phải có một lọ hoa lan gồm hai màu tím và trắng có biển chú thích là do chủ tịch nước Trần Đại Quang chúc mừng nhân đại lễ Phật Đản. Đi qua ban thờ Phật mới vào đến ban thờ Ngọc Hoàng ở trong cùng, có Bắc Đế bên trái và Phật Chuẩn Đề bên phải, kèm theo những nhóm tượng chầu hai bên cho mỗi vị. Không khí này làm tôi liên tưởng đến những ngôi chùa trong tác phẩm “Tây Du Ký”.
       
       Ngay trước ban thờ Ngọc Hoàng, có một chiếc bàn dài đốt hương và cắm nhiều nến sáng bừng, một người đàn ông mặc thường phục áo vàng đang rót một chai nước nhỏ xuống một chiếc khay mà trên khay đó là một giá cắm nến nhiều chân. Trên bàn còn vài chai nước như vậy đang chờ được rót. Người đàn ông vừa rót nước vừa đọc lên tên tuổi những người vừa đưa chai nước đến bàn và những điều cầu xin của họ. Sức khỏe. Tình duyên. Con cái. Thi cử. Tai qua nạn khỏi…
       
       Anh bạn tôi đi lướt nhanh hơn tôi, vì anh chẳng nhìn ngắm gì nhiều, có lẽ anh chỉ cần cảm nhận không khí và được xác nhận là anh đã đến đó, nơi mà Obama hai ngày sau sẽ đến. Anh sẽ không có trong đám đông chen chúc chờ tận mắt nhìn thấy Obama, vì anh không thích những nơi quá ồn ào. Tuy vậy anh lại bỏ công nhiều hơn tôi trong việc tìm hiểu lịch sử của ngôi chùa. Đó vốn là một điện thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế do một người Hoa lưu vong xây dựng vào đầu thế kỷ 20, tính đến nay đã hơn trăm năm. Cách đây hơn ba chục năm có một vị hòa thượng đến tiếp quản và kể từ đó điện thờ này thuộc về Giáo hội Phật giáo Việt Nam, rồi được đổi tên thành “Phước Hải Tự”, nhưng người dân vẫn gọi là chùa Ngọc Hoàng.
       
       Sau khi chúng tôi rời khỏi chùa và đã yên vị trong một quán cà phê nhỏ thì con trai anh bạn tôi gọi điện tới hỏi bố về thông tin cần thiết khi đi bầu cử. Anh dặn con rành mạch qua điện thoại: “Nhớ là mỗi phiếu gạch 2 bầu 3 nghen!” Không rõ là anh đã nhầm lẫn hay do ông khối trưởng hướng dẫn nhầm cho anh, vì về sau khi tôi xem những ảnh chụp phiếu bầu trên Facebook thấy ghi là được bầu 3 người chứ không phải là bắt buộc bầu 3 người trên một lá phiếu. Đây là lần đầu tiên con trai anh làm cử tri nên anh dặn dò theo thói quen cẩn thận của anh, trong khi anh biết rõ dù cậu ấy “gạch cẩn thận” như anh hay “gạch đại” như nhiều người khác thì kết quả cũng giống nhau ở chỗ chúng tôi không tin là những lá phiếu ấy có giá trị. Chẳng cuộc bầu cử nào có ý nghĩa khi các ứng cử viên và các cử tri không hiểu biết về nhau, không tiếp xúc và không đối thoại với nhau.
       
       Ký ức của anh bạn tôi về những lần bầu cử toàn dân có vẻ như chẳng rõ nét hơn của tôi được bao nhiêu, điều duy nhất anh nhớ rõ là bốn mươi năm trước khi anh còn trai trẻ, vào năm 1976, anh là tổ trưởng tổ bầu cử. Khoảng thời gian từ đó đến nay thì anh hầu như không nhớ gì về bầu cử nữa, anh cũng dùng những từ “hình như” và “có lẽ” như tôi. Có lẽ là xóm nhà anh thường đưa hết phiếu bầu cho một ông anh nào đó, rồi một mình ông ấy đi bầu giùm cho cả xóm.
       
       Hồi ức của chúng tôi trống rỗng.
       
      “Bậy rồi! Bao năm nay mình làm thế là bậy rồi, em ạ!” Anh bạn tôi than thở, anh vẫn đang nghĩ về chuyện bầu cử. Còn tôi thì lục lọi trong trí nhớ xem tôi có từng làm được gì tốt hơn không. Vẫn trống rỗng. Tôi có làm, nhưng làm không được.
       
       Khi tôi viết đến những dòng này thì đã là ngày 29-5, Chủ Nhật thứ năm của tháng. Trên mạng Facebook không khí quanh tôi không còn nóng hổi, người ta chỉ đang nhớ lại “cơn sốt Obama”. Suốt một tuần qua tôi ngồi ở nhà, xem qua mạng những bức hình và những đoạn video tái hiện cảnh người dân Việt Nam tràn ra đường vẫy chào tổng thống Mỹ, nghe những tràng pháo tay dành cho bài phát biểu của ông. Anh bạn tôi trước và sau khi Obama thăm điện Ngọc Hoàng đều viết trên blog những bài bày tỏ niềm yêu mến với vị tổng thống da màu.
       
       Ngày 22-5-2016, tôi đã không đi bầu cử mà ra đường vì Obama. Tổng thống Mỹ “thắng cử” như vậy đó.
       
       Ngày 22-5 nơi điện Ngọc Hoàng tôi đã không cầu xin điều gì. Tôi không phải là người của tôn giáo, nhưng tôi có đức tin. Tôi biết Đấng Tối Cao không có ở trong đền điện chùa miếu, mà Ngài ngự trị khối óc con tim của nhân loại. Bi kịch không xảy ra khi con người chạy theo hình bóng những ngôi sao sáng bên ngoài mà khi họ từ chối Thượng Đế trong tâm.
       
       Obama sáng chói trên sân khấu chính trị, ông ấy đã làm tốt vai diễn của một tổng thống thành công. Còn tôi sẽ hoàn thành vai diễn của mình ra sao? Tôi đang diễn vai một người dân thất bại, không làm được gì để giúp những nhà lãnh đạo nước mình.

       Đấng Tối Cao tuyệt đối công bằng. Tôi sẽ nhận được những gì xứng đáng với tôi. Những người dân nước tôi cũng thế.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chủ Nhật, 29 tháng 5, 2016

Mỹ “xử” Trung Quốc như Liên Xô thời chiến tranh lạnh



Thục Ninh
VietTimes - Trung Quốc cam kết tăng cường hợp tác quân sự với nhiều nước Đông Nam Á sau khi Mỹ thông báo dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí với Việt Nam. Trong khi bộ trưởng quốc phòng Mỹ tuyên bố sẽ đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc như Liên Xô trong chiến tranh lạnh...

Bắc Kinh khoe tăng cường quan hệ đối tác sâu hơn với Malaysia, Myanmar cũng như Thái Lan trong bối cảnh leo thang căng thẳng khu vực liên quan yêu sách chủ quyền ở Biển Đông và trước khi Tòa án Trọng tài Thường trực quốc tế ra phán quyết về vụ kiện “đường lưỡi bò”.

Phó chủ tịch quân ủy trung ương Trung Quốc Hứa Kỳ Lượng cho biết Trung Quốc sẽ tăng cường hợp tác quốc phòng với Malaysia để giữ gìn trật tự khu vực và duy trì quan hệ hữu nghị với các nước ASEAN, Tân Hoa Xã cho biết.

Hứa Kỳ Lượng đã gặp tư lệnh hải quân Malaysia, đô đốc Dato’ Seri Panglima Ahmad Kamarulzaman bin Haji Ahmad Badaruddin tại Bắc Kinh hôm 25/5.  Không giữ kẽ, Hứa cũng nói rằng Trung Quốc mạnh mẽ phản đối bất cứ mưu toan của nước nào làm leo thang căng thẳng ở Biển Đông.

Cũng trong ngày 25/5, bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn Toàn cam kết tăng cường hợp tác với quân đội các nước Myanmar và Thái Lan. Trong một cuộc gặp không chính thức giữa bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc và các nước khu vực Đông Nam Á tổ chức tại Vientiane, Lào.

Thường hội đàm với người đồng cấp Myanmar là bộ trưởng Sein Win, cam kết thúc đẩy hợp tác sâu sắc quan hệ giữa quân đội hai nước thông qua trao đổi nhân sự, huấn luyện và hợp tác trong công nghiệp quốc phòng. Gặp bộ trưởng quốc phòng Thái Lan Prawit Wongsuwan, Thường Vạn Toàn cũng tuyên bố quân đội hai nước sẽ được hưởng lợi nhờ sự hợp tác rộng rãi, Tân Hoa Xã đưa tin.

Động thái của các lãnh đạo hàng đầu quân đội Trung Quốc diễn ra ngay sau khi tổng thống Mỹ  Barack Obama thông báo quyết định dỡ bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí đối với Việt Nam.

Theo SCMP, căng thẳng đã bùng lên tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương trước thời điểm Tòa án Trọng tài Thường trực quốc tế ra phán quyết trong vụ Philippines kiện yêu sách chủ quyền ngang ngược của Trung Quốc ở Biển Đông. Phán quyết được giới quan sát rộng rãi trông đợi sẽ bất lợi cho Trung Quốc khả năng sẽ được công bố trong tháng 6 tới. Cho đến nay, Bắc Kinh vẫn khăng khăng từ chối tham gia vụ kiện và tuyên bố tòa không có thẩm quyền.

Vẫn theo Trung Quốc, Tổ chức Hợp tác Thượng Hải bao gồm Trung Quốc, Nga Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan và Uzbekistan ngày 25/5 nói, khối này “ủng hộ những nỗ lực của chính phủ Trung Quốc duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông”.

Bình luận về việc Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí với Việt Nam, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh nói đi nói lại rằng Trung Quốc hoan nghênh “sự phát triển mối quan hệ bình thường giữa Mỹ và Việt Nam” và bày tỏ hy vọng rằng điều này sẽ có lợi cho hòa bình và ổn định khu vực.

Ông Zang Mingliang, một giáo sư tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Đại học Jinan ở Quảng Châu, cho biết phản ứng chừng mực đó thể hiện sự tiến bộ về mặt ngoại giao, nhưng triển vọng của quan hệ đối tác mạnh mẽ giữa Mỹ và Việt Nam sẽ còn đáng lo ngại hơn với Bắc Kinh so với liên minh Mỹ - Philippines, Zang suy diễn.

Theo Zang nhận định chủ quan, Việt Nam có kinh nghiệm, mạnh mẽ hơn, có sự tỉnh táo và hiểu đối thủ hơn. Việt Nam quan trọng hơn về mặt chiến lược trong việc đối phó với thái độ hung hăng của Trung Quốc tại khu vực. Mỹ hiện tận dụng lợi thế này.

Trong khi đó, bộ trưởng quốc phòng Mỹ Ash Carter ngày 25/5 cũng tuyên bố quân đội Mỹ sẽ nỗ lực duy trì sự ổn định của khu vực châu Á-Thái Bình Dương trước sự nổi lên của Trung Quốc tương tự như trong 50 năm chiến tranh lạnh với Liên xô trước đây. Mỹ và Trung Quốc đang hành động và phản ứng ở Biển Đông chỉ là một phần của của một mô thức lớn trong một kỷ nguyên mà ông Carter dự đoán sẽ kết thúc khi Trung Quốc tự thay đổi nội bộ.

Ông chủ Lầu Năm Góc nhận định đây sẽ là một chiến dịch lâu dài đòi hỏi sự kiên quyết và khéo léo nhưng mạnh mẽ có thể mất nhiều năm, Defense One dẫn lời ông Carter phát biểu tại Trường Hải chiến Mỹ hôm 25/5.

Những tít báo gần đây về máy bay và chiến hạm Mỹ đi qua Biển Đông - nơi Trung Quốc đang bồi lấp, xây dựng đảo nhân tạo trái phép và các đường băng, cơ sở quân sự ở đó – chỉ là một phần nhìn thấy được của một chiến dịch rộng lớn hơn nhiều của Mỹ, ông Carter cho biết.

Bộ trưởng quốc phòng Mỹ quả quyết trước các thủy thủ tại căn cứ tàu ngầm ở căn cứ New London (Connecticut) rằng chiến lược tái cân bằng lớn hơn nhiều so với các chiến dịch tuần tra thực thi tự do hàng hải. “Đó là một chương trình tổng thể tăng cường các hoạt động trên khắp châu Á-Thái Bình Dương, thông qua cách thức ngoại giao, kinh tế cũng như quân sự”, ông Carter nói. Trước đó, ông cũng tuyên bố việc Mỹ mở rộng và tăng cường quan hệ quân sự với Việt Nam không nhằm vào Trung Quốc.

“Đó là sự thay đổi lực lượng tới khu vực này của thế giới, đó là hiện đại hóa các lực lượng tại khu vực này của thế giới, đó là mô thức khổng lồ về những hoạt động song phương và đa phương chúng ta thực hiện, quan hệ đối tác với quân đội các nước tại khu vực, những người ngày càng mong muốn hợp tác với Mỹ. Đây là toàn bộ hàng loạt công việc với mong muốn duy trì hệ thống hòa bình và ổn định tại châu Á-Thái Bình Dương, phục vụ tốt khu vực một cách lâu dài”, ông Carter nói.

Theo ông Carter, Mỹ điều 3 chiến hạm tiến sát các đảo nhân tạo của Trung Quốc kể từ tháng 10/2015 và cho máy bay tiến qua gần đó để thực thi quyền tự do đi lại, Mỹ làm việc này không chỉ ở Biển Đông mà tiến hành trên toàn cầu và cũng không nhằm vào chỉ một quốc gia nào, kể cả Trung Quốc. Bộ trưởng quốc phòng Mỹ nhấn mạnh, các đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông phải được giải quyết thông qua con đường hòa bình, chứ không phải bằng cách quân sự hóa hay dọa nạt.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trần Đăng Khoa giải mã sức hấp dẫn của Obama



VOV.VN - Hình ảnh Tổng thống Obama được báo chí, truyền thông khai thác đến hết mọi góc độ trong chuyến thăm Việt Nam.

Thưa nhà thơ Trần Đăng Khoa, ấn tượng nhất của ông trong tuần qua là gì?

- Là chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ B. Obama. Có thể nói tràn ngập các kênh truyền thông, từ truyền hình, báo chí chính thống cho đến các trang mạng xã hội, các trang Blog, Facebook của những người dân bình thường là hình ảnh B. Obama. Báo chí, truyền thông cũng đã khai thác đến hết mọi góc độ của chuyến thăm lịch sử ấy. Từ chuyên cơ, trực thăng, lính bắn tỉa bảo vệ, chó nghiệp vụ, người phiên dịch, người viết diễn văn, cô trợ lý gốc Việt, ông đầu bếp, cho đến cả hai cái máy nhắc chữ…

Có lẽ mọi ngóc ngách của chuyến đi, cả những chuyện “hậu cung” của ông B. Obama cũng được lôi ra bàn luận, mổ xẻ. Dường như đến Việt Nam, Ngài Tổng thống chẳng còn gì bí mật nữa. Tất cả đã thành một cơn sốt B. Obama. Không chỉ những người dân ở mạng xã hội, cả chính khách, trí thức, văn nghệ sĩ và các “yếu nhân” của công chúng cũng bàn về ông. Nhiều người còn đưa ra cả những lý giải, vì sao ông B. Obama được người dân Việt Nam yêu mến đến thế…

Vâng! Đúng là rất ấn tượng. Và đối với ông thì ấn tượng nhất trong các ấn tượng ấy là gì?

- Là những người dân ta đón ông. Đấy mới là điều đáng bàn. Còn nói B. Obama diễn thuyết hay thì đó là điều dĩ nhiên. Vì ông là một ký giả, một nhà hùng biện. Bản thuyết trình của ông còn trên cả tuyệt vời. Vì nó hoàn thiện đến tuyệt đối. Ông đã lấy văn hoá Việt làm đại lộ đến với người Việt là lựa chọn thông minh nhất để chinh phục tuyệt đối những người tiếp xúc với mình. Cả ba Tổng thống Mỹ tới Việt Nam đều chọn con đường này nhưng đến B. Obama mới hoàn thiện nhất, chính xác nhất và cũng hay nhất.

Những danh nhân văn hoá tiêu biểu nhất của Việt Nam trong tất cả các lĩnh vực Chính trị, Quân sự, Tôn giáo, Ngoại giao, Khoa học, văn hoá Nghệ thuật  đều được ông “huy động” trong bản thuyết trình. Như Lý Thường Kiệt, Phan Chu Trinh, Hồ Chí Minh, Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Giáo sư Ngô Bảo Châu. Nhạc sĩ Văn Cao, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn Những trích dẫn rất đích đáng.

Tôi muốn nói thêm về Văn Cao. Năm 1975, khi thống nhất đất nước, nhiều người, trong đó có những nhà thơ rất lớn gọi đó là năm vĩ đại, ngày vĩ đại, nhưng Văn Cao chỉ coi đó là ngày bình thường: “ngày bình thường, ngày vui nay đã về…”. Đúng thật. Chiến tranh là bất thường. Chúng ta đã trải qua gần nửa thế kỷ sống trong sự bất thường, đến nỗi cái bất thường đã trở thành bình thường, khi có được những ngày bình thường đích thực mà chúng ta giành được bằng bao xương máu, thì ta lại choáng ngợp, rồi phải rất vất vả mới làm quen được với nó, cho đến nay, cũng đã hơn một phần tư thế kỷ rồi, mà chúng ta vẫn chưa nhuần với đời sống dân sự. “Từ nay người biết thương người. Từ nay người biết yêu người”.

Văn Cao quả là một nghệ sĩ có tầm nhìn vượt trước thời đại. Ông viết không nhiều nhưng lại có rất nhiều tác phẩm đặc sắc. Và tác phẩm đặc sắc nhất của đời ông, theo tôi, có lẽ lại chính là “Mùa xuân đầu tiên”, một ca khúc vừa hay vừa lớn, vừa đẹp về giai điệu lại rất sâu sắc trong ca từ, mà ông B. Obama đã chọn để trích dẫn.

Và cuối cùng trên đại lộ văn hoá mà Tổng thống Mỹ chọn để đến với chúng ta là Đại thi hào Nguyễn Du. B. Obama đã dẫn Nguyễn Du để bàn về mối bang giao giữa hai nước: “Rằng trăm năm cũng từ đây – Của tin còn một chút này làm ghi”. Phải nói là rất tuyệt vời. Đúng vậy. Vấn đề là niềm tin. Không có niềm tin thì không có gì hết. Chơi với nhau thì phải tin nhau. Nhiều người bạn lớn cũng đến với chúng ta, thậm chí họ còn có cả những tấm áo rất đẹp, rất lộng lẫy được đính thêm những hạt kim cương bằng lòng tốt nhưng vẫn không tạo được niềm tin để chúng ta có thể yên tâm, sống chết với họ, khi họ cứ nói một đằng, làm một nẻo.

Lại còn đe chúng ta: “Chơi với Mỹ cần phải cẩn thận”. Vâng! Đúng là chơi với ai cũng phải cẩn thận. Nhất là những người không tạo cho chúng ta có được niềm tin, dù chúng ta luôn tin và rất muốn tin. Ông B. Obama được dân ta quý chính vì ông rất hiểu chúng ta và tạo cho chúng ta có được niềm tin này. Đặc biệt ông dẫn Lý Thường Kiệt để bàn về chủ quyền của chúng ta: “Sông núi nước Nam, Vua Nam ở”.

Ông còn nói: “Việt Nam là một nước có chủ quyền độc lập và không có quốc gia nào khác có thể áp đặt lên ý chí của người dân Việt Nam. Độc lập, chủ quyền ấy do người dân Việt Nam quyết định. Mỹ rất quan tâm đến sự thành công của đất nước Việt Nam”.

Về Biển Đông, đây là vấn đề nhạy cảm nhất, ông cho rằng “Ở Biển Đông, chúng tôi không phải là một bên tranh chấp, nhưng chúng tôi khẳng định và đề cao quyền tự do hàng hải và hàng không; tự do thương mại không bị ngăn trở; giải quyết các tranh chấp phải thông qua pháp lý và luật pháp quốc tế. Nước Mỹ sẽ đưa tàu và máy bay di chuyển ở bất kỳ nơi nào mà luật pháp quốc tế cho phép, và ủng hộ quyền của các nước khác cũng hành động như vậy”.

Ông còn nói “Không thể cứ cậy nước lớn mà bắt nạt nước nhỏ”. Rồi ông tuyên bố xoá bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Đây cũng là vấn đề mấu chốt khiến nhiều kẻ tức tối…

Vậy thì ấn tượng quá chứ…

- Vâng! Rất  ấn tượng. Nhưng ấn tượng nhất, như tôi nói, lại chính từ phía ta, phía những người dân đối với B. Obama. Họ đứng đặc hai bên đường để chào ông đến và  tiễn ông về. Như thế, B. Obama không chỉ là vị khách trọng thể của nhà nước mà còn là khách quý của nhân dân. Không phải Tổng thống nước nào cũng có được hạnh phúc này. Và điều ấy làm cho chính B. Obama và đoàn tuỳ tùng của ông thấy choáng ngợp. Nhân dân bao giờ cũng rất sâu sắc. Họ mới đúng là những nhà ngoại giao siêu đẳng nhất: Ngoại giao Nhân Dân. Họ đã đưa ra một thông điệp: Người Việt Nam không thù dai.

Người Việt Nam rất trọng hoà bình. Anh đến với tôi bằng tấm lòng thì chúng tôi cũng mở hết lòng ra để đón anh. Và Thông điệp thứ hai: Việt Nam là Đất nước Hoà bình. Anh mang đến cho Dân điều tốt lành thì Dân sẽ đùm bọc anh, che chở anh. Và người Dân quây quanh B. Obama. Và B. Obama cũng hoà đồng với họ, ăn bún chả với họ, tránh mưa bên mái hiên với họ, chụp ảnh “tự sướng” cùng họ.

Và thế là trực thăng hộ tống, chó nghiệp vụ, lính bắn tỉa bảo vệ Tổng thống trở thành ế ẩm, không còn việc để làm. Đấy là những “hành trang” không cần thiết. Bởi bảo vệ đùm bọc B. Obama chính là những người dân Việt Nam.

Nhiều học giả của ta và cả thế giới cũng bàn về tấm lòng của Dân này. Đại tá, nhà thơ nổi tiếng Vương Trọng lại thấy ở B. Obama có cái gì đó rất gần với Đại Tướng Võ Nguyên Giáp. “Đấy là hai nhân vật nổi tiếng, năm sinh cách nhau trên nửa thế kỷ, lại cách nhau nửa vòng trái đất, cứ tưởng như chả có gì liên quan với nhau, chả có điểm gì chung. Thế mà có đấy! Đó là lòng mến mộ của người dân Việt Nam.

Có lẽ sau Bác Hồ, thật hiếm có một vị lãnh tụ nào khi qua đời lại được dân tiếc thương như tướng Giáp, và ngoài nghi thức Quốc tang là Dân tang. Cũng hiếm có một vị khách nước ngoài nào được người Việt Nam quan tâm, yêu mến và chào đón như Tổng thống B. Obama. Có người phân vân rằng, tại sao rừng người đón Tổng thống Mỹ này lại không cầm cờ Mỹ hay cờ Việt, mà chỉ có hai bàn tay không. Xin thưa, chính điều ấy nói lên rằng, họ không đi đón vì một sự tổ chức hay sự vận động nào cả, mà đi theo tiếng gọi của trái tim mình.

Với người dân Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tổng thống Obama gặp nhau điều đó. Thiết tưởng hiện tượng này có ý nghĩa không nhỏ đối với những ai quan tâm đến tình cảm, mong muốn của số đông người dân”.

Cũng bàn về Tổng thống B. Obama, Đại tá, nhà thơ Vương cũng có một bình luận xác đáng: “Không ai đánh giá cao giá trị của phản biện bằng Tổng thống Ôbama. Trong chuyến thăm Việt Nam vừa qua, ông nói đại ý rằng: Hàng ngày tôi nhận được không ít những lời chỉ trích. Và chính những lời chỉ trích đó đã làm cho nước Mỹ tốt đẹp hơn. Đó là nhận định của vị Tổng thống quyền lực nhất thế giới! Có hai thông tin từ nhận định này. Thứ nhất, nhà cầm quyền phải biết lắng nghe ý kiến ngược chiều, trái với mình để tìm ra chân lý hoạch định chính sách đúng đắn. Thứ hai, những người phản biện cũng cần xác định mục đích của sự phản biện, không phải là phá rối mà là làm cho đất nước tốt đẹp hơn…”.

Trong bài thơ Kể cho bé nghe, trước đây anh viết "Chăm ngoan học giỏi/ Là bạn thiếu nhi/ Ngu xuẩn nhất nhì/ Là tổng thống Mỹ". Giờ anh muốn nói gì về câu thơ ấy?

- Vừa rồi, nhân sự kiện ông B. Obama sang, mấy người cũng trích câu thơ này để diễu vui tôi. Xin thưa rằng, câu thơ này tôi viết cách đây nửa thế kỷ. Không phải viết về ông B. Obama hay ông Bin Clinton. Cần phải đặt nó vào hoàn cảnh cụ thể. Nói về Tổng thống Mỹ lúc ấy như thế, đến bây giờ tôi vẫn nghĩ không sai. Tổng thống Mỹ có thể thông minh ở đâu đấy, vì không thông minh, tài giỏi thì chắc chắn nhân dân Mỹ đã chẳng bầu ông ta, nhưng việc đánh Việt Nam, giết hại hàng ngàn phụ nữ và trẻ con vô tội trong những năm chiến tranh thì không thể gọi là một việc làm thông minh được. Cứ bảo Mỹ chỉ ném bom khu vực quân sự, nhưng B52 rải thảm khu phố Thượng Lý Hải Phòng, hay Bệnh viện Bạch Mai, khu phố Khâm Thiên Hà Nội thì đâu phải khu quân sự. Ai đặt pháo hay tên lửa trong lòng thành phố? Cả bệnh viện Bạch Mai bị san phẳng. Trong đó có bao nhiêu người già, phụ nữ, trẻ con đang ốm đau. Nếu ông Nixon sáng suốt thật sự thì ông ấy đã chẳng "ngã ngựa" giữa đường. Ngã ngay giữa nước Mỹ. Hay như ông Tổng thống Mỹ gì đó đã hạ lệnh ném hai quả bom nguyên tử xuống Nhật Bản, khi cuộc chiến đã tàn thì làm sao có thể gọi được đó là những người thông minh? Còn Tổng thống Mỹ như Bin Clin ton hay B. Obama thì thật tuyệt vời…

Có lẽ vì thế, ông đã sửa câu thơ đó? Mà sửa cách đây cũng gần hai chục năm rồi. Nhưng sửa đi lại mất tính lịch sử…

-  Đấy không phải lịch sử mà chỉ là một bài thơ mang hơi đồng dao. Câu ấy sau này tôi có sửa. Tôi sửa để bài thơ giữ được sự tự nhiên, trong sáng, nó hợp với không khí đồng dao của toàn bài chứ không phải vì Tổng thống Mỹ.  Để nó, cả bài thơ sẽ mất đi sự hồn nhiên. Đây là cuộc chơi chỉ có chó, mèo, cào cào, châu chấu mà Tổng thống Mĩ không thể "can dự" vào được. Sự có mặt của ông ta chỉ làm hỏng cuộc chơi..

- Nếu cần nói một câu về Tổng thống B. Obama thì ông sẽ nói sao?

- Tôi thấy có rất nhiều học giả nói rồi, và họ nói rất hay. Ví như Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết. Ông Thuyết nhiều năm ở Uỷ ban Văn hoá của Quốc hội. Ông cũng từng là một Đại biểu Quốc hội rất có uy tín. Ông Thuyết cho rằng : “B. Obama rất hiểu nền văn hóa, tập quán của Việt Nam. Ba lần các nhà lãnh đạo cao nhất Hoa Kỳ "lẩy" Kiều, câu nào cũng hay, cũng trúng và giàu cảm xúc, ý nghĩa.

Nhưng người Việt tâm đắc và đánh giá cao nhất là câu Kiều mà Tổng thống B. Obama đã chọn, nhất là việc lấy câu Kiều để kết bài phát biểu quá hợp cảnh, hợp tình, khó có câu nào trong truyện Kiều hợp hơn. Trước tấm chân tình đối với Việt Nam, sự lịch duyệt và thân thiện cũng như tầm vóc mà Tổng thống B. Obama đã thể hiện, tôi cũng xin gửi tặng Ngài một câu Kiều nói lên ấn tượng sâu sắc của tôi cũng như rất nhiều người dân Việt Nam về Ngài: "Thiên tư, tài mạo tót vời - Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa".

- Vâng, chúng ta cũng có thể lấy câu Kiều của G.S Nguyễn Minh Thuyết dựng chân dung Ngài Tổng thống B. Obama để kết thúc cuộc trò chuyện này. Xin cám ơn ông!./.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ngọn lửa cách mạng của thần đồng thi ca Trần Đăng Khoa


Nhân có cuộc đối thoại giữa ông già Trần Đăng Khoa và cậu bé Trần Đăng Khoa (ở đây), thử đọc lại một đoạn.

Trích từ hồi kí của Nguyễn Đăng Mạnh (bản PDF, 2008). Chương về Trần Đăng Khoa được đặt ở cuối cùng cuốn hồi kí đó.

Ngọn lửa cách mạng:


Toàn văn của Nguyễn Đăng Mạnh:





Phần nhận xét hiển thị trên trang

LÃO TỒN


Truyện ngắn của HG

Khi ban liên lạc hội đồng hương chúng tôi tới nhà, lão Tốn đã một mình, leo lên đồi cây ở phía sau. Hỏi, vợ lão bảo:
- Ông ấy chả chịu ngồi yên lấy một ngày. Người hãy còn yếu lắm, mới đi viện về mà nhất quyết đòi lên thăm đồi cây, nói thế nào cũng không nghe, lại vác dao đi rồi. Các bác các anh đã có lòng đến thăm, mời vào nhà uống nước đã. Để tôi bảo cháu nó gọi ông ấy về.
Ông hội trưởng nói:
- Thôi bà cứ để cho tự nhiên. Nghe tin ông nhà đi viện, lại xa quá, không sẵn phương tiện, nên hội chưa bố trí đi thăm được. Nay ông ấy về, chúng tôi đại diện cho ban chấp hành đến thăm, có chút quà gọi là, mừng ông ấy khỏi bệnh, ra viện.
Cả bọn lục tục kéo nhau vào nhà.
Đây là ngôi nhà ngói năm gian vừa mới “cải cách”, nâng cấp lại. Nó vốn nằm chính diện mặt đường, theo hướng tây bắc. Nay chuyển lui về phía sau, theo hướng đông nam. Cột nhà được chuốt lại, đánh vẹc ni, mái lợp ngói Hạ Long.  
Thượng đổi mới, hạ bảo thủ là cách một số nhà trung trung vùng này ưa làm. Ông hội trưởng ghé tai một ông trong đoàn nói nhỏ: “ Đất mặt đường có giá, lui về thế này là có ý cả”. Ông kia chưa hiểu ý đó là ý gì, nhưng vẫn gật gù: “ Công nhận ông tinh thật đấy. Ở mãi bên sông mà lại biết chuyện. Tôi nhà ngay sát đây mà cũng chả hiểu. Người ta phần đông đua nhau ra mặt đường, ông ấy lại lùi về phía sau, nói để cho đỡ bụi. Bây giờ đường nhựa rồi, bụi sợ gì chứ?”
Tôi cũng biết sơ sơ chuyện này, nhưng nghĩ là chuyện nội bộ gia đình người ta, không nên ghé mũi vào. Đáng ghét là những anh hay dỏng cổ lên nghe chuyện người khác rồi thì xì xầm bàn tán, thêm bớt. Cuộc sống hàng ngày vẫn còn thiếu chuyện hay sao mà lại thóc mách thêm chuyện riêng tư của nhà người ta?
Đi thăm người ốm cứ biết đi thăm, tò mò để làm gì?
 - Ông nhà tôi cả đời rất ít khi nhức đầu, sổ mũi, không mấy khi đụng đến viên thuốc hay mũi kim tiêm. Đùng một cái lâm bệnh, cả nhà được một phen phát hoảng. Mới hay chả gì bằng sức khỏe. Lâu lắm ông ấy mới lại phải nằm viện đấy!
Ông hội trưởng rủ cả bọn lên đồi, vừa gặp người, vừa thăm cây nhà lão Tồn luôn thể.
Đồi dốc thoai thoải, cây trồng theo hàng, vòng ôm nửa quả đồi. Cây nào cây ấy xanh ngăn ngắt, gốc cây không một cọng cỏ, sạch sẽ tinh tươm. Chứng tỏ chủ nhân của nó tỷ mỉ, cẩn trọng, chăm chú trong việc làm.
Một con người hình như không màng đến xung quanh. Bao nhiêu tâm sức dồn cả vào đây. Nhiều hôm trời nắng chang chang hay mưa tối mặt, đi ngang qua tôi vẫn thấy lão nón lá cũ xùm xụp trên đầu, đi đi lại lại trong vườn cây của lão. Có khi chỉ lúc ăn cơm, hay buổi tối về ngủ, lão mới có mặt ở nhà. Làm vườn ai chả xăm soi, chả chăm chút..Nhưng cố gắng đến mức như lão, ở đất này quả thực không ai làm được. Không bình thuốc trên lưng thì cũng con dao, cái cuốc trong tay. Quanh quẩn suốt ngày trên đồi vừa như tình cảm, vừa như định mệnh, số kiếp của lão!
Tính khí lão này lâu nay vẫn làm người ta ngại. Lão bề ngoài xem như người trầm cảm, rất ít khi trò chuyện với ai. Làng nước có công việc gì, họp hành hay cỗ bàn lão đều để vợ con đi thay. Có người nói lão khoảnh, có tính hay “ghét người”, không thích ai, khó gần.
Người như thế, gặp gỡ rất chi là ngại, biết trò chuyện thế nào?
Nhưng đã đến đây rồi, lão là nhân vật chính, không gặp lão không được. Ông hội trưởng bảo ngày trước lão không có thế đâu, tính cởi mở và chan hòa với mọi người..
Lâu lắm rồi xảy ra một chuyện, lão mới như bây giờ..

**

Có những trận ốm làm con người ta thay đổi hoàn toàn. Sức khỏe giảm sút đã đành, tâm tính lại đổi thay đến kỳ lạ. Gần như biến đổi hoàn toàn, mình không còn như mình nữa. Mặc dù sau đó sức khỏe hồi phục dần, lão Tốn lại đi cày, đi bừa, lên nương như hồi đang sức.
Không hiểu tại sao, sau trận ấy lão hay nghĩ vơ nghĩ vẩn, nhìn cảnh vật, con người xung quanh lão thấy nó không còn như trước nữa. Tỷ dụ như trước đây chả bao giờ lão thắc mắc là tại sao cái xóm lão ở lại có tên là “Hòn ruồi”?  Mặc dù ruồi muỗi ở cái xóm gần sông này thời nào cũng ít hơn ở các nơi khác. Có thời hầu như không có con ruồi nào, không phải ban ngày ban mặt mắc màn ăn cơm vì quá nhiều ruồi như ở một vài nơi không xa làng lão lắm. Sao những nơi đó người ta không lấy cái “danh ruồi” để đặt tên, mà lại là nơi lão ở?
Lão nhớ không chính xác lắm ngày nào, tháng nào, nhưng năm thì lão chắc chắn mình không nhớ nhầm. Đợt đó lão đi dân công hỏa tuyến, làm con đường chiến lược trên Pắc Mê. Làng lão đi rất đông chứ không phải lão chỉ có một mình. Mỗi đợt ba tháng thì đổi đợt khác, ăn nghỉ làm việc tại lán trong rừng. Có người suốt đợt không về thăm nhà, thư từ cũng không, vì xa nơi có trạm bưu điện.
Người ta phân công cho lão làm đội trưởng, kiêm bí thư chi bộ đơn vị. Người khác hết đợt thì về. Riêng lão không có cán bộ lên thay thì tiếp tục ở lại. Ngày công của người lên phục vụ hỏa tuyến cao hơn công lao động loại A của hợp tác xã, nên hết đợt ở lại thêm lão không lấy đó làm buồn, thậm chí còn thấy vui. Hàng ngày công việc chỉ là gián tiếp nên không đến nỗi vất vả. Cũng đến gần cả năm lão không về thăm nhà. Có lúc cũng nóng ruột, muốn về qua một lần.
 Đột nhiên lão gặp người làng. Anh này là lái xe chuyên chở thực phẩm cho các đơn vị dân công. Gọi là chuyên chở thực phẩm nhưng thực ra chỉ chở dụng cụ làm đường, một ít bí xanh bí đỏ. Lâu lâu mới có thùng mỡ hóa học trắng hêu hếu hay chút cá mắm, chút mì chính phân phối ít ỏi. Lương thực chủ yếu vẫn là bột mì đen, hoặc hạt bo bo. Lắm lúc lão cũng lấy làm ngạc nhiên, ăn ở như thế không biết sức lực ở đâu mà mọi người vẫn bám đường, không vắng mặt trên công trường buổi nào. Buổi tối ở các lán vẫn rôm rả tiếng nói, tiếng cười. Có anh chị nào đó cao hứng còn véo von “Lan và Điệp”. Cuộc sống gian khổ nhiều năm, chiến tranh như những làn sóng hết lần này đến lần khác, gian khổ như một thứ mặc nhiên, hay còn lý do khác?
Anh chàng lái xe bảo chuyến này về sẽ chạy đường tắt qua làng lão. Đường hơi khó đi nhưng gần được mấy chục cây. Lão có muốn về khi xe ngang qua thì xuống. Sáng hôm sau lại đúng chỗ ấy đón để lên.
Được như vậy còn gì bằng? Chỉ có điều lúc xuống xe đã nửa đêm, có khi làng xóm và cả vợ con lão ngủ cả rồi.
Xe không thể chạy sớm hơn vì phải đảm bảo nguyên tắc bí mật. Ừ thì muộn còn hơn không, lão nghĩ bụng rồi tạm dặn dò bàn giao cho người ở lại. Dù thời gian ngắn vẫn phải bàn giao, nguyên tắc thời chiến là vậy.
Từ chỗ xuất phát xe chỉ bật đèn gầm. Chỗ này không xa điểm chốt là mấy. Nếu thám báo của địch phát hiện ra, vẫn trong tầm đạn pháo. Xe âm thầm đi gần trăm cây số. Gần đến làng lão đèn pha mới bật sáng. Lão nhìn phong cảnh núi non lạ lẫm như chưa từng thấy bao giờ. Có cảm giác như trong đêm tối cảnh vật như gần gũi hơn, lại như xa lạ hơn..Xe đã qua ba con đèo, lội qua cả chục con suối. Lão đã nhìn thấy đỉnh núi Gù lưng ở ngay trước mặt. Từ đấy về Hòn Ruồi chừng nửa cây số. Lão bảo xe dừng lại, đưa nốt bao thuốc lá Trường Sơn bao đỏ hàng phân phối cho tay lái xe, hẹn anh ta sớm mai đợi đúng chỗ này.
Lúc ấy tầm mười một giờ đêm. Do không có hành lý gì cồng kềnh mang theo nên lão đi rất nhanh, gần như chạy. Chả mấy chốc lão đã hồi hộp đứng trước cổng ngõ nhà mình.
Không biết trong nhà có việc gì, đến lúc này đèn vẫn sáng? Con chó vàng sủa lên tràng dài. Có lẽ lão đi lâu ngày nên nó chưa nhận ra chủ. Ánh đèn pin loang loáng từ trong nhà rọi ra sau vườn. Đột nhiên đèn trong nhà vụt tắt.
Đang xảy ra chuyện gì? Lão còn đang phân vân chưa rõ ra sao thì có người từ trong nhà chạy ra chút nữa đâm xầm vào lão. Lão vội bật đèn pin nhưng hết điện tự bao giờ, chỉ thấy một quầng sáng mờ mờ đo đỏ, không rõ mặt người.
Ai vừa chạy ra từ trong nhà mình? Lão tự hỏi. Các con lão còn nhỏ chưa có bạn trai, bạn gái cao nhớn như người vừa rồi. Chẳng nhẽ bạn của vợ lão?  Nhưng lão ngờ ngợ cái dáng người hơi cúi về phía trước, mái tóc để dài không rõ mặt của người đó có nét gì đó quen quen, ngay lúc đó lão chưa kịp nhớ ra..
Khi lão vào nhà, đèn lại được thắp lên. Vợ lão áo xống xộc xệch, vẻ ngái ngủ như vừa chui trong chăn ra. Lão hỏi vợ:”Ai vừa ở đây ra, thấy tôi lại bỏ chạy?”. Vợ lão cười nhênh nhếch: “Làm gì có? Chắc thầy em đi đường xa bị mệt nên hoa mắt đó mà”. Lão ậm ự không nói gì. Vợ lão chần cho lão bát mì sợi, món thức ăn lão thích thời bấy giờ ăn với canh rau ngót có đập thêm quả trứng. Lão bảo miệng đắng không muốn ăn.
Lão ngồi hàng giờ không nói không rằng bên bàn uống nước, hút thuốc liên tục. Vợ lão giục ngả lưng một chút cho đỡ mệt. Lão miễn cưỡng quay vào giường, lẳng lặng quay mặt vào vách. “Anh làm sao thế?” Vợ hỏi. “Chả làm sao. Khuya rồi để yên cho các con nó ngủ”.
Sáng sớm hôm sau, lão ra chỗ hẹn thật sớm để đón xe. Vợ gói cho gói xôi to tướng với nửa con gà, lão làm như quên, bỏ lại không mang theo..
Ở công trường người ta rất lấy làm lạ. Mọi khi chỉ thỉnh thoảng mới thấy ông C trưởng ra làm với anh em. Công việc gián tiếp không yêu cầu ông phải có mặt hàng ngày ở chỗ làm. Ông còn bận giấy tờ, sổ sách. Cứ vài ngày lại có cấp trên về kiểm tra, bận tiếp khách hoặc làm công tác dân vận với địa phương. Tuy đơn vị biệt lập, nhưng công tác đoàn thể vẫn phải duy trì. Hôm thì họp với thanh niên, hôm với chi hội phụ nữ..Tóm lại là công việc của người đứng đầu, không cứ ông, ai làm C trưởng cũng vậy.
Thấy ông hăm hở đào đất, đẩy xe, vác cây quá mức nhiệt tình nên người ta để ý cũng phải. Người thì bảo do tình hình đang rất khẩn trương, âm mưu của địch chống phá không biết đâu mà lường, công việc càng nhanh càng tốt nên ông mới gương mẫu làm như vậy. Nhưng cũng có anh xì xào, không dám nói to.
Đặc biệt là từ sau hôm về thăm nhà ông dường như thành con người khác, lầm lầm lì lì lại hay cáu gắt. Ai có việc gặp ông cũng ngại, vớ vẩn là bị ông xạc cho một phen dù sai sót chưa có gì quá đáng. Một cái trục xe bị gãy, cái cuốc chim hay cái xẻng bị mất hay bị hỏng đều là cái cớ để ông nổi nóng. Thấy vậy, không ai bảo ai, đều có ý tránh ông.
Hai tháng sau ông C trưởng đổ bệnh. Đang làm ở mặt đường ông ngã gục vào bụi cây, chân tay co giật, mặt mày tái mét. Người ta nói ông gắng quá sức mà đêm lại ít ngủ, hút nhiều thuốc, nên thường ho sòng sọc cả đêm.
Người ta đưa ông về tuyến sau bởi trận sốt rét ác tính. Đơn vị cử người khác thay ông.
Ông nằm viện nửa tháng trời rồi về làng..

Sau trận ốm ấy lão Tồn như thành con người khác. Vợ lão bảo do trận sốt rét ác tính đã biến đổi tâm tính. Lão thường tránh những chỗ đông người, không thích chuyện lâu với ai. Suốt ngày, người ta thấy lão hay thui thủi một mình làm việc gì đó. Ít khi lão làm cùng với vợ con.
Trong nhà lão lúc nào cũng im ắng như không khí nơi bệnh viện, không thấy tiếng nói to bao giờ.
Sau này khi xóm làng có điện, nhà nào nhà nấy điện đài oang oang, rộn ràng ầm ĩ các loại loa đài, nhà lão vẫn lặng thinh.
Nhà lão cũng có ti vi như mọi nhà, nhưng chỉ để xem tin tức, tuyệt đối không nghe ca nhạc. Vợ con có muốn xem phim hay nghe ca nhạc phải sang hàng xóm chơi, nghe nhờ vì sự khó tính khó nết của lão.
Mẹ tôi thường lấy sự cần cù chịu khó làm gương cho anh em tôi. Bà bảo: “Nhờ có đức tính chịu khó ấy mà anh Tồn lấy được vợ đẹp nhất làng, dù anh ấy đen đúa, cục mịch. Sinh thời ông bố vợ quý anh ấy lắm. Nhiều người giàu có sang trọng đến cầu hôn, ông cụ đều từ chối. Lại gả con gái yêu cho một anh con nuôi chả biết cha mẹ đẻ là ai, chuyên đời đi ở. Ông cụ ấy quý anh còn hơn con đẻ vì cụ không có con trai..”
Người già thì hay khái quát thiết thực như vậy. Quả thực lão Tồn thời ấy rất được tín nhiệm. Chữ nghĩa thì chỉ khơi khơi bình dân học vụ, chưa sạch chính tả, nhưng lão luôn được phân công trách nhiệm, cán bộ địa phương. Sau trận ốm trên công trường phục vụ hỏa tuyến lão mới thôi, nghỉ công tác, ở hẳn nhà. Ít khi thấy lão đi đâu..
***
Rõ ràng chúng tôi thoáng nhìn thấy lão Tồn trong vườn mà khi lên đến nơi lại không thấy lão đâu? Đám cỏ lão phát lá vẫn còn tươi, chưa kịp héo. Gọi mấy câu cũng không có tiếng ai trả lời. Không lẽ lão có phép tàng hình? Hay hội chúng tôi có điều gì không phải, lão nằm viện không tới thăm, bây giờ mới đến? Tôi nghĩ vậy nhưng không dám hỏi ông hội trưởng.
Chả cứ lão, ai trong hội cũng vậy. Trừ trường hợp nằm ở bệnh xá của xã mới tiện đến thăm, còn phần nhiều khi hội viên ra viện về nhà rồi, mới kéo nhau đến. Cũng không phải kiêng kị hay ngại ngần gì, đơn giản là quỹ của hội có hạn, không có tiền để thuê xe đi cả tốp như thế này đến bệnh viện ở xa. Hẳn là lão Tồn cũng biết điều này và không nỡ trách.
Vậy vì lẽ gì mà lão tránh không muốn gặp? Tôi phân vân, chưa kịp hiểu vì chuyện gì?
Ông hội trưởng nói:
- Hội đã có lòng bố trí đến thăm ông ấy, rất tiếc là không được gặp. Thôi thì cậu Bảo (là tôi ) Ở lại chuyển cho ông ấy chút quà của hội. Chúng tôi phải về vì chiều nay có cuộc họp hiệp thương chuẩn bị bầu cử. Tôi không thể vắng mặt.
Mọi người chào bà chủ nhà, ra về. Tôi ở lại với cái phong bì ông hội trưởng đưa, chờ lão Tồn.
Tôi không phải chờ lâu. Bà vợ Lão chưa kịp giập bã trầu thì lão Tồn lò dò về. Bà cằn nhàn:
- Hội đồng hương người ta có lòng đến tham, ông đi đâu mà người ta lên tận nương mà không gặp?
Lão Tồn mặt tỉnh queo:
- Ơ bà này hay! Gặp ai là quyền của tôi, không bận gì đến bà. Ai cũng như chú Bảo đây việc gì tôi không gặp. Còn muốn chuyện trò lâu lâu nữa ấy chứ! Còn cái thứ người sống giả mạo, nói một đằng làm một nẻo, hay làm chuyện mờ ám tôi gặp làm gì?
- Sao ông nói thế? Tình nghĩa đồng hương có ai như vậy đâu? Đến tai người ta không hay đâu ông ạ!
Lão Tồn nhếch mép cười, cái cười tôi chưa thấy khi nào ở lão. Rồi lão hỏi tôi chuyện ông hội trưởng vừa được hưởng trợ cấp “nạn nhân chất độc màu da cam” có phải không? Tôi bảo tôi không biết vụ này. Lão Tồn nghiêng nghiêng đôi mắt, tinh quái cười:
- Chú không biết thật hay giả vờ không biết? Tay này trước đã có lần làm giả mạo giấy tờ xin trợ cấp thương binh, bị phát hiện, giờ lại đến việc này, quả là to gan thật. Tôi ở nhà không đi tới đâu mà còn biết, huống chi là chú? Tay ấy cuối năm bảy hai mới nhập ngũ, lúc đấy đã ký hiệp đinh Pa ri rồi, làm gì còn máy bay Mỹ rải chất độc nữa? Ngay cái vụ thương binh giả nghe nói tay ấy cũng chỉ bị kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo, vẫn giữ nguyên vị trí lãnh đạo xã, chả bị làm sao. Xã này hết người rồi à?
Không nói bảo là không nói. Hôm nay ta không gặp, ta có lý do cả đấy. Chưa kể việc cách đây mấy mươi năm, ngày ta từ Pắc Mê về qua nhà đã lâu.. Hắn tưởng ta không biết hay sao mà vẫn nhơn nhơn vác mặt đến đây?
Thì ra là vậy. Lão Tồn biết chúng tôi đến thăm và cố ý tránh mặt vì những chuyện buồn sâu kín, chôn chặt đáy lòng đã bao nhiêu năm.


Nơi ấy, vết thương chưa lành, thỉnh thoảng lại tấy lên, nhức nhối!
===============

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Báo Nhật lo ngại Việt Nam bị kẹt giữa 3 siêu cường Mỹ - Trung - Nga


Cả Washington và Moscow đều bày tỏ mối quan tâm đặc biệt về khả năng sử dụng vịnh Cam Ranh của Việt Nam. Nikkei Asian Review ngày 29/5 bình luận, Việt Nam đang bị kẹt giữa bạn bè cũ và đối tác mới sau khi Tổng thống Barack Obama thừa nhận bi kịch của Chiến tranh Việt Nam và công bố dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí sát thương với Việt Nam. Do đó theo Nikkei Asian Review, vấn đề hiện nay đặt ra cho Việt Nam chính là làm sao cân bằng được ảnh hưởng đối với 3 siêu cường này để tránh bị mắc kẹt.

Tổng thống Barack Obama và Chủ tịch nước Trần Đại Quang. Ảnh: Reuters.
"Sự cạnh tranh Chiến tranh Lạnh và lo ngại chủ nghĩa cộng sản đã kéo chúng ta vào cuộc xung đột", Nikkei Asian Review dẫn lời ông Obama phát biểu tại Việt Nam. Tờ báo này nhận định: Rất có thể Obama là vị Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ trực tiếp đề cập đến cuộc chiến ngay khi đang có mặt trên đất Việt Nam.

"Chiến tranh dù với bất cứ lý do gì cũng đều chỉ mang lại đau khổ và bi kịch", ông Obama nói. Tổng thống Mỹ đã nhắc đến chất độc da cam, thể hiện coi trọng tình cảm của người Việt Nam và mong muốn đưa quan hệ hai nước Việt - Mỹ sang một trang mới.

Mỹ quyết định dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam, nhưng ông Obama cũng lưu ý rằng, quyết định này không liên quan gì đến Trung Quốc, mà là mong muốn hoàn thành nốt chặng cuối cùng của hành trình dài bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.

Nikkei Asian Review cho rằng, việc Mỹ tuyên bố dỡ bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí sát thương với Việt Nam có thể tác động lên mối quan hệ Việt - Nga. Lâu nay Việt Nam chủ yếu mua vũ khí của Nga. Vũ khí Nga có thể lên tới 95% vũ khí trang bị hiện tại của Việt Nam.

"Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để duy trì quan hệ quân sự với Việt Nam", Nikkei Asian Review dẫn một nguồn tin từ chính phủ Nga cho biết.

Trong khi đó cả Washington và Moscow đều bày tỏ mối quan tâm đặc biệt về khả năng sử dụng vịnh Cam Ranh của Việt Nam. Mỹ tìm cách tiếp cận nhiều hơn với căn cứ quan trọng này, đồng thời phản đối máy bay ném bom chiến lược Nga tiếp dầu ở Cam Ranh năm ngoái.

Theo Nikkei Asian Review, bằng việc dỡ bỏ cấm vận vũ khí sát thương với Việt Nam, Mỹ hy vọng sẽ kiềm chế ảnh hưởng của cả Bắc Kinh lẫn Moscow. Trong khi Trung Quốc đang nỗ lực xây dựng quan hệ với một số nước Đông Nam Á khác để ngăn chặn ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực.

Còn Nga đang coi Việt Nam là bước đệm để củng cố sự hiện diện của mình ở châu Á - Thái Bình Dương. Do đó theo Nikkei Asian Review, vấn đề hiện nay đặt ra cho Việt Nam chính là làm sao cân bằng được ảnh hưởng đối với 3 siêu cường này để tránh bị mắc kẹt.

Hồng Thủy
(Giáo Dục)

Phần nhận xét hiển thị trên trang