Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 31 tháng 7, 2015

Phép thử



                                                                           Truyện ngắn HG

                  - “Tôi đi trước, nó đi sau.. Nó luôn cách tôi hơn nửa bước chân, như bóng với hình, như một quy ước, như là cách tự bảo vệ mình.
Chúng tôi đi ra khỏi làng khi sương mùa đông của một buổi sớm chưa tan hẳn. Ngoài đồng đã nghe tiếng đập đất bì bụp.
Quê tôi nghèo lắm, đất đai lại không mầu mỡ gì. Người ta vẫn phải đập đất bằng tay. Cái vồ bằng gỗ gần giống quả đạn B40, dài độ ba chục phân, đục cái lỗ tròn ở chính giữa, đóng cái cán bằng tre dài. Tùy theo sức lực, tầm thước mà làm cán vồ dài hay ngắn, nặng nhẹ theo ý mỗi người.
Xã viên thì sắp một hàng dài, từng chập vồ giơ lên, đập xuống rất  đều, đám đất trước mặt hàng người bụi đất vẩn lên một vùng.
Cho cả đến khi trời đã lên cao, tầm nhìn thật xa mà đám người vẫn không nhìn rõ mặt.
Bụi đất đã lan cả một vùng, từ đầu bờ bên này sang đầu bờ bên kia như một cơn lốc, cuộn tròn chầm chậm di chuyển.
Những cảnh như thế chúng tôi không lạ, nhưng hôm nào chúng tôi cũng nhìn rất lâu mỗi khi đi ngang qua. Trong đầu vang lên câu nói ám ảnh tuổi trẻ ngay dại của mình: “Dù có phải nhịn đói cũng phải đi học để thoát khỏi cảnh chân lấm tay bùn”. Đó là câu cửa miệng của bất cứ bà mẹ, ông bố nào có con bằng lứa tuổi chúng tôi.
Không phải câu nói suông, phần nhiều nó là sự thật, rất thật. Hầu như đến quá nửa những buổi đi học sớm như thế, tôi đều nhịn đói, vì không có gì ăn, vì sợ không kịp học, vì đến trường phải đi bộ khá xa..
 Có hôm ngồi trong lớp, đói hoa cả mắt. Nhìn cô giáo đang cáu bẳn lại thành ra cô đang cười. Chữ viết cứ chập chờn trên trang vở trước mắt như đàn kiến đang bò, đi đẩu đi đâu.
Vào một hôm như thế, khi chúng tôi đi ngang qua cánh đồng của mình, bất chợt phía sau cây gạo có ba cái bạnh rất to ở dưới gốc nhảy ra một bóng người. Gần như hôm nào cũng vậy, nếu không có tôi đi cùng nó sẽ bị một thằng cao lớn hơn nó chặn lại. Nó sẽ bị lục túi sách và tất nhiên trong túi có gì sẽ bị tịch thu, trừ mấy quyển sách nhàu nát. Từ củ khoai nướng vì dậy muộn chưa kịp ăn, hay bắp ngô non chưa chắc hạt mẹ nó bảo mang theo, vừa đi vừa ăn cho đỡ đói kẻo muộn học, đến cây bút chì, cục phấn, không chừa thứ gì!
Khổ cho mẹ nó ngày hôm sau lại phải mang đấu ngô, rành khoai đi bán để mua cho nó thứ khác.
Đứa lấy của nó cũng chẳng để làm gì mấy thứ đó, nó có đi học đâu mà cần?
Thằng đấy tên là Tính con ông Toán.
Một ông thời xưa làm lính bếp trên tàu thủy cho người Pháp, dân làng vẫn gọi là ông
“ Bếp Toán”.
Thằng này tôi chỉ đứng đến cằm nó. Bắp tay nó gần bằng bắp vế của tôi. Một thằng mắt to, hơi bị lồi, tròng mắt ngàu ngàu như trâu đực lúc sắp húc nhau. Đôi môi dày của nó tớn lên dưới cái mũi nhòm mồm như thể luôn luôn phải hưởng ứng lẫn nhau. Trông nó rất buồn cười vì cách đi đứng ăn mặc nhưng đám học trò không đứa nào dám cười vì sợ.
Thằng Tân quắt bạn tôi đây chỉ vì lỡ quay mặt cười vụng nó một lần, nó bắt gặp tuyên bố: “Sẽ bị theo dõi ba tháng..” kể từ hôm ấy, bữa nào nó đi một mình cũng bị lục túi sách, có gì như tôi đã nói, đều bị thằng con ông Bếp Toán lấy đi cả.  Hết ba tháng rồi, nó vẫn không buông tha. Sự kiểm soát  như thành lệ, kéo dài cho đến một ngày xảy ra một chuyện, nếu không có tôi nó đã bị thằng kia cho ăn no đòn..”

Nghe đọc đến đây lão sửng cồ lên:
- Thiếu Đêk gì chuyện mà ông lôi chuyện từ bao giở bao giờ ra? Ông định mượn cớ để bôi bác bạn bè đấy có phải không?  Sao chuyện ông lằng nhằng với cái Lan, cái Hồng hay như thế mà không đưa vào?
- Ông buồn “cưỡi” thật. NHẬT KÝ ĐỜI TÔI, không viết thế thì viết như nào? Kể cả chuyện với cái Lan, cái Hồng cũng sẽ có ở phần sau, ông đã nghe tôi đọc đến đâu mà bảo tôi ngại không dám viết ra.
- Hồi ấy ông nhát như cáy. Thích nó mà có dám đến nhà nó chơi đâu? Ông lấy nhà tôi làm”căn cứ” mà cứ thập thập thò thò, chán bỏ mẹ..Không có thằng này a, còn khuya mới cưa được nó.
Tân quắt nói đúng, nhưng chỉ đúng một phần. Bảo tôi nhát chỉ đúng một nửa.
Cái chính là tôi sợ ông bố của nàng.
Phần tôi mặc cảm bản thân. Tôi là đứa mồ côi cha từ nhỏ, nhà lại nghèo. Hồng mất mẹ từ khi lên năm tuổi, sau này nàng nói “vẫn nhớ như in khuôn mặt của mẹ”. Một bà mẹ hiền từ, có mái tóc dài chấm gót chân, dài hơn mái tóc óng ả, đen mướt của nàng. Tôi tin là nàng nói thật, mặc dù với một đứa bé năm tuổi ký ức đâu có nhiều? Tình cảm con người đôi khi không cần điều kiện, như trong trường hợp này.
Nhưng bố nàng thì lại khác. Suốt chừng ấy năm chúng tôi yêu nhau rất ít khi tôi dám đối diện với ông. Chính tôi cũng không hiểu vì sao có tình trạng ấy? Không phải ông dữ tướng, hay tính nết nóng nảy làm người ta sợ. Chính cái vẻ ngoài trầm lặng, dáng vẻ ông giáo hơn là một ông cán bộ làm người khác cảm thấy ngài ngại, khó gần.
Ông là cán bộ tổ chức của huyện tôi thời bấy giờ. Một công việc mà đầu óc non nớt của chàng trai mới lớn như tôi cảm thấy có cái gì đó bí hiểm và cực kỳ quan trọng. Những gì mơ hồ dễ làm người ta e ngại, tôi cũng không ngoại lệ trong trường hợp này.
Tình yêu thủa học trò của tôi với Nàng kéo dài cho đến khi chúng tôi đi học xa nhà. Nó đường đột kết thúc bởi một cớ lý không đâu.
Tôi tình cờ đọc được lá thư của anh trai nàng gửi từ mặt trận về. Anh ta khuyên em gái “..phải chấm dứt ngay quan hệ với thằng đó. Nó có những biểu hiện lệch lạc về lập trường, lối sống. A tòng với bọn thanh niên xấu, tụ tập ca hát nhạc vàng, điều này đối với gia đình mình tuyệt đối không thể tha thứ được..” Nàng dấu tôi lá thư này, khi tôi tình cờ đọc được nàng đã khóc nức nở. Khóc như thế giới này đã đổ vỡ không thể cứu vãn được nữa.
Nghiêm trọng hơn, thông tin đó lại chính là do ông bố của nàng viết thư bảo con trai khuyên nhủ nàng. Hẳn nào những lần gặp sau đó thái độ của ông khác hẳn. Khi tôi nghỉ hè đến chơi nhà, ông lấy cớ bận việc ở đâu đó không tiếp chuyện như mọi khi. Vẻ lạnh lùng ra mặt.
Đối với nàng, ông vừa là cha lại vừa làm mẹ. Bà mẹ dì luôn luôn gắt gỏng chả mấy khi tỏ ý thông cảm, thiện ý đối với nàng. Bà thường mượn cớ những cái lỗi rất nhỏ của nàng để làm to chuyện. Chỉ có bố mới là người nàng được chia sẻ, được cảm thông. Vậy nên nàng quý và thương bố lắm, ý của ông là ý trời.
Mối tình đầu tiên trong đời của tôi kết thúc một cách vớ vẩn như thế đấy.
Nó cực kỳ vô lý, cực kỳ thản nhiên như nó buộc phải như thế, không còn cách nào khác.
Sau này nàng yêu và lấy một người cùng làng. Còn đối với tôi mối tình đầu chỉ còn là kỷ niệm.
Người ta thường hay thổi phồng tính nghiêm trọng, cho rằng “tình yêu đầu khắc khoải mãi trong tim”. Tôi nghĩ không phải thế. Không biết tôi có phải tuýp người lạnh lùng, hời hợt, mắc chứng vô cảm quá không?
Tình yêu của tôi và nàng chấm dứt, nhưng tình bạn với Tân quắt vẫn còn, mặc dù nó bắt đầu bằng mối liên kết có vẻ lỏng lẻo như tôi vừa kể, chả dính dáng gì đến người tôi yêu lần đầu nữa.
Chỉ có những lúc trong câu chuyện như thế này, kỷ niệm ấy mới được nhắc đến. Và, tôi lặng lẽ đau.
**
Hôm nay tôi hẹn Tân quắt đến không phải để nhắc chuyện xưa, cũng không phải để đọc bản thảo này cho hắn nghe. Bộ dạng khô khộc của hắn chả mấy cảm tình, chỉ duy nhất cặp môi mỏng cười thớ lợ là sinh động. Nhưng mình đang cần đến hắn thì đọc hắn nghe một đoạn cũng chẳng sao. Nhân tiện soát lại xem có chỗ nào không chỉnh thì sửa lại sau?
Thấy hắn tò mò muốn biết tôi viết cái gì trong đấy lại kêu quên, không mang kính, tôi phải đọc cho hắn nghe một đoạn.
Hồi còn học phổ thông tôi cũng tập tành viết lách nhì nhằng. Hắn và vài đứa bạn nữa đã từng được tôi đọc cho nghe như thế. Nên sự tò mò của hắn hôm nay tôi thấy cũng tự nhiên.
Cái lý do chính tôi hẹn Tần quắt đến nhà hôm nay là vì một chuyện khác, có liên quan đến nhạc sĩ Tăng Cường.
Ông là một trong số những người bạn tôi mới thân trong thời gian gần đây.
Nhạc sĩ nhờ tôi một việc , nghĩ mãi tôi chợt nhớ ra Tân là người có thể giúp việc này.
Thời buổi khó khăn, thời gian là bạc là vàng, nếu không có chuyện đó làm gì có thời gian để đọc tiểu thuyết vào lúc này? Nhất là đọc cho một thính giả như Tân quắt nghe? Tôi biết hắn chỉ giả bộ thế thôi chứ thực sự chả quan tâm gì đến việc viết lách. Chữ nghĩa là cái gì dửng dưng, vớ vẩn, chả liên quan gì đến hắn.

***
Người ta thường hay nhầm lẫn về nhiều thứ. Thỉ dụ nói đến các nhạc sĩ, người ta hay hình dung đó là các ông bà ăn mặc chải chuốt theo thời trang, nói năng điệu bộ, hoặc theo một cách biệt dị khác với người thường.
Người ta hình dung đó là những vị có mái tóc lượn sóng dập rờn, phong cách lãng mạn với những ngón tay thuôn dài, ánh mắt đắm đuối, đằm thắm hoặc đau đáu suy tư.. Kể cả phong độ, đi đứng nói năng cũng khác người.
Nhạc sĩ Tăng Cường lại không thế, anh là tuýp người khác. Cái bề ngoài của anh khiến người ta không nghĩ anh là tác giả của những ca khúc trữ tình, sôi động và nhiều quyến rũ. Dáng người thấp đậm, đầu tóc cắt cua, ánh mắt nghiêm nghị và nhất là đôi bàn tay chai sần cho người ta cái nhìn nhận ban đầu không mấy chính xác. Người ta sẽ lầm khi cho rằng anh là một nông dân thực thụ, gắn với ruộng lúa, đồi cây hơn là tâm huyết với những nốt nhạc du dương, những bản so nat quyến rũ tâm trạng người ta với hương vị của núi rừng, đất đai và cái tâm cái tình của con người.
Đến thăm tệ xá của anh, nhạc sĩ nói:
- Hai ông bà già làm chả được bao nhiêu đâu.. Chỉ trồng được bốn trăm gốc chuối, với lại cấy ba chục cân ngô giống!
Người không am hiểu trồng trọt có lẽ không chú ý đến chi tiết này. Với tôi, tôi hoảng. Đấy là một cố gắng không nhỏ bới công sức bỏ ra để làm được bấy nhiêu sản vật là không ít mồ hôi, sức lực mà ngay người lao động khỏe manh, cố gắng mới làm được. Trên sáu héc ta chứ có phải ít ỏi gì?
Anh có một trang trại dựng hẳn ngôi nhà sàn cách xa nhà ở thị trấn Vĩnh Hóa vài cây số. Như một gia đình thứ hai có đủ tiện nghi sinh hoạt, không khác gì ngoài phố.
Một mô hình chăn nuôi, trồng trọt khép kín. Cái nọ phụ trợ cho cái kia.
Trồng trọt để lấy thức ăn chăn nuôi và chăn nuôi để lấy phân hữu cơ chăm bón cho cây trồng. Doanh số hàng năm không dưới ba bốn trăm triệu, một con số mơ ước của nhiều người trong vùng.
Lắm lúc tôi cứ nghĩ, với khối lượng công việc như vậy anh lấy đâu ra thời gian để sáng tác âm nhạc, một công việc đòi hỏi phải có nhiều thời gian, một thứ thuộc về nghiệp chứ không hẳn là nghề?
- Ban ngày mình chăm cây, chăn gà, cho cá ăn. Buổi tối các việc ấy đâu có làm được? Thế là dành thời gian còn lại cho nhạc nhẽo! Có lúc đang nằm phải vùng thức dậy, vợ cứ tưởng chát chít với cô nào! Mà nghề này cũng lạ. Người khác thế nào không nói, mình khi viết có chủ định trước, bản nhạc sẽ do ai thực hiện mình hay nghĩ đến. Có lúc bí, phải điện cho ca sĩ nào đó để lấy cảm hứng. Ban đầu vợ không hiểu, có lúc ghen..Nhưng bây giờ thì quen rồi! Nhưng hôm nay đến đây nhờ ông chuyện khác không dính gì đến âm nhạc đâu. Hôm vừa rồi việc ấy tôi đã nói với ông, nhạc nhiếc để lúc khác!
- Ông cứ ngồi đấy, lát nữa yêu cầu của ông sẽ được thực hiện. Chỉ sợ ông chưa làm việc này bao giờ, bây giờ bập vào không chắc ổn?
- Yên tâm, mình con nhà nông từ lúc nằm trong bụng mẹ. Lớn lên giữa buổi khó khăn, hết chiến tranh lại thời bao cấp, gian nan ngọt bùi có cả, không có việc gì không phải làm. Trồng cây chỉ là chuyện nhỏ, chỉ cần ông hướng dẫn qua là được..

Tôi nghĩ không biết nhạc sĩ có chủ quan quá không? Chứ ngay đến tôi, làm đi làm lại mấy lần mà vẫn vấp ở các khâu thời vụ và kỹ thuật. Nhưng nói ra sợ nhạc sĩ nản. Chương trình thay vườn chuối đang bị ép trên thị trường mất giá bằng thứ cây khác. Vườn chuối hàng tháng thu hàng chục triệu đồng, bỗng nhiên chuối quả mất giá.
Cũng không riêng nhà anh. Cả vùng đang bồn chồn lo lắng vì chuyện đó. Tin từ cửa khẩu phía bắc đưa về giá chỉ còn phân nửa. Lại thêm phần chọn lựa quá khắt khe, chất lượng quả chuối kỹ hơn mọi khi. Rõ ra là bắt bẻ gây hại cho người trồng cây! Không biết quan hệ hai nước có vấn đề hay cung vượt quá cầu? Hay là cách triệt hạ kinh tế từ bên ngoài?

Con người Tân quắt khô khan hình thức bề ngoài. Chân tay như cẳng gà, nước da khô, hai khóe miệng sâu, cổ ngẳng ra phía sau, đi hơi lao về phía trước. Nhưng hắn đặc biệt có cái cười rất tươi,nheo nheo mắt vẻ tán thưởng làm bất cứ ai mới quen lần đầu rất ấn tượng.
Bắt tay. Lại cười. Giọng cao vỏng lên, tươi roi rói:
- Thế chó nào các nhạc sĩ, nhà văn lại lao cả vào trồng chuối, trồng bưởi? Nhà em “trình” non nên mới phải chấp nhận làm cái anh trưởng thôn, tiếng là cán bộ nhưng vẫn chân lấm tay bùn vì sống ở sơ sở. Các bác đâu cần trồng cây, nuôi gà? Cứ sáng tác cho nó tốt, tên tuổi để đời, gạo không phải lo vì có nhà nước nuôi, há chẳng hơn a? Vừa xong cuộc họp được bác em đây triệu tập, em phải về ngay. Nào cần em có việc gì?
Nghe cách xuồng sã, không hẳn ra thân mật, không hẳn khách sáo, tôi không thích lắm, vội đỡ lời:
- Nhạc sĩ Tăng Cường đây là nhạc sĩ quốc gia, có số có má hẳn hoi. Lại đường đường là thông gia với nhạc sĩ thiếu tướng vừa mới qua đời nữa kia ông không biết đâu.  “Danh tiếng” là cái không cần bàn cãi, chứ tôi đây chỉ là anh viết quèn. Một anh tuyên truyền viên, mượn văn học để đóng góp với phong trào chứ nhà văn nhà vẻ gì cái thân tôi? Bạn bè với nhau từ tấm bé, ông đừng có mà diễu nhau nhá!
- Ông là nhà văn có gì sai mà phải cãi? Làng này, tỉnh này ai bảo không phải nào? Nhưng không nhận thì thôi. Khiêm tốn quá hóa giả dối đấy ông ạ. Tôi chỉ nói vui thế thôi, chả có ý gì đâu, đừng giận nha!
Nói rồi Tân lục túi lôi bao “Du lịch” ra mời khách. Thứ thuốc này Tân hút nghiện từ hồi làm chân long tong, phụ việc cho ủy ban thời mẹ tôi còn làm chủ tịch xã. Kể cả những lúc khan hiếm như thời trước, hắn vẫn có. Chỉ có điều ngày đó hút theo định lượng mỗi ngày không quá ba điếu. Còn bây giờ mỗi ngày phải đủ một bao, dù có khối thứ thuốc ngon như “ngựa trắng”, “Vi na ta ba”, Tân vẫn không rời “Du lịch”. Hắn bảo dùng thứ này dân dã, chỉ bằng tiền thuốc lào mà hút lại đậm. Vợ con cằn nhằn khuyên hắn bỏ thuốc cho khỏe người, tăng cân, hắn không chịu, bảo để đỡ căng thảng đầu óc!  “ Đừng tưởng anh cán bộ thôn không phải dùng đến đầu óc trong công việc nhá! Đầu binh cuối cán, “xét về toàn diện” có khi còn vất hơn cán bộ xã, huyện. Những chỗ ấy còn có tham mưu của ban ngành, cán bộ chuyên trách..Còn ở thôn việc gì cũng đến mỗi mình..”  
Định nói, dù ở thôn cũng có đủ ban bệ, chẳng qua không biết vận dụng, nhưng vợ con không dám cãi.
Tân là người chồng, người cha nghiêm, vợ con một phép. Bí quyết chuyện này hắn lộ bem một tí: “ Đừng bao giờ ngoại tình, cờ bạc, rượu chè bê tha. Việc nào cũng gương mẫu làm trước, cho kẹo vợ con cũng chẳng dám nhờn”.
Ừ thì là lý của hắn. Ngay cạnh nhà tôi cảnh chồng tôi, vợ chúa nhìn thấy hàng ngày. Mặc dù anh chồng tốt không kể sao cho hết, vợ vẫn coi thường. Sáng sớm, chồng dậy từ bốn rưỡi năm giờ,  cơm cháo lợn gà, vợ con còn trên giường. Buổi trưa trời nắng chang chang, con cái xem ti vi, bố vẫn tranh thủ cho trâu đằm, cắt mớ cỏ sợ trâu đói.
Cả đời ông hàng xóm nhà tôi không vào hàng ăn bát phở, mặc cái quân cái áo may đo. Toàn quần áo con cái bỏ, mặc lại, hoặc anh em cho. Rượu chỉ vài giọt mặt đỏ tưng bừng, xua tay, chối đây đẩy.
Ấy vậy mà vợ con vẫn chưa bằng lòng, hễ mở miệng ra là không vợ thì con chặn họng.
Chuyện đời đâu có đơn gian như Tân nói? Chẳng qua là hắn gặp may, dễ ăn nói thế thôi.
Có lần tôi đã tranh luận với hắn về chuyện này, hắn đuối lí, chỉ cười nhạt. Nhưng con người Tân không chịu thua ai bao giờ. Chiến thuật của hắn là “lạt mềm ..” hắn chỉ giả vờ thua thế thôi, nhưng trong bụng tìm cách trả thù không chịu mất mặt.
Có người nói tới tôi: “Tay Tân quắt này trước mặt chú Khách, sau lưng thằng Ngô. Sau lưng bác nó nói chả ra gì”. Tôi hỏi nói chuyện gì? Người này bảo:
- Trông oai oách thế thôi chứ trước ngày ở quê, tai hắn ta thối, chảy mủ rề rề, xa chục bước đã ngửi thấy khắm, không chịu nổi, kinh lắm. Là tay chúa ngịch nồng, chuyên đầu trò cho đám trẻ con trộm táo, bới khoai. Lại hay ghẹo bọn con gái nữa. Sau này đi học ra công tác chả biết vướng mắc gì bị kỷ luật mới lò mò lên đến đây. Chỉ có tôi mới biết lại lịch của hắn, chả qua không muốn vạch áo cho người xem lưng nên mới không nói, có thật thế không?
Nghe, tôi chỉ cười. Trẻ con mấy đứa ở làng không chòng ghẹo nhau? Không trộm ổi, bới khoai?
 Nghịch là một chuyện, hồi ấy đói.
Có hôm nhịn đói đi học, lại đi bộ hàng cây số, ruột gan cồn cào, nhìn thấy miếng ăn chín ai mà quay mặt đi chứ?
Đến cái chuyện này còn mang ra nói, kẻ hay nịnh, cho người thiên hạ đi tàu bay giấy, tính a dua đã để lộ cái tiểu tính ghen ăn ghét ở của mình.
Muốn gì thì gì cái nhỡn tiền trước mắt làm hắn không chịu nổi, có ấm ức nói này nói nọ cũng chẳng sao.
Không chấp.
Nhưng cái điều này, người ta cho biết hắn nói về tôi khiến tôi giật mình. Không còn là gắp lửa bỏ bàn tay mà là chôn rượu lậu, ném ma túy vào nhà, thả mìn vào sau lưng bè bạn: Hắn nói tôi chuyên viết đơn hộ cho dân làng. Những đơn khiếu nại, kiện cáo lâu này toàn từ cái máy in của tôi mà ra!
 Thật khốn nạn. Quả là tôi có hộ mấy ông bà gần nhà làm đơn xin học cho con,vay vốn ngân hàng, hay kê khai thành tích người có công với nước. Còn những chuyện khác tôi đều từ chối. ( Thực ra có hộ các việc này cũng chẳng sao, tôi chỉ là người viết hộ, nội dung người đứng đơn chịu trách nhiệm, có gì sai? ) Nhưng tôi không dại gì dúng tay vào nồi nước sôi.
Kinh nghiệm đầy ra đấy rồi, tôi đâu có ngu mà dính vào? Với lại ”xui người làm phúc chứ ai lại giục người làm tội” bao giờ? Kiện cáo xưa nay mấy người có thiện chí cho kẻ mâu thuẫn với mình? Toàn là kiện gian bàn ngay, chả có mấy thành thực, chung quy yêu nên tốt, ghét nên xấu, mình dây vào làm gì?
Người khác nói có thể thiên hạ không tin, chứ Tân quắt nói người ta sẽ phải chú ý. Dù gì tôi cũng là bạn từ thủa còn để chỏm với hắn cơ mà?
Thật thấm thía khi người ta nói: “Hại mình đau đớn, nặng nề nhất thường là kẻ thân gần với bạn nhất”. Nếu điều này là chân lí,  tôi mong sao nó là một chân lí sai lầm, cần lên án.
Tính tôi khó để bụng được điều gì, nhưng chuyện này thì khác.Tôi lặng lẽ để ý xem có thực hắn nói về tôi vậy không? Hay vì lẽ gì đó người ta đặt điều?
Người đời đôi khi xử lí với nhau bất cẩn như vậy đấy, quên đi rằng lời nói đọi máu. Có khi chỉ vì câu nói của mình mà khổ lụy cho người. Không phải ngẫu nhiên các cụ dạy: “Lời nói nên vợ nên chồng, nên đồng tiền bát gạo, lời nói tan cửa nát nhà..”
Nếu quả như thế thật, đây là một tổn thất không nhỏ đối với tôi!
  Tuy không hẳn là thân thiết, Tân vẫn là bạn từ thủa ấu thơ, tuổi học trò đầy kỷ niệm. Còn được đến bây giờ, còn biết trân quý thì đáng giá biết bao? Sao hắn không nghĩ, nói sai, nói xấu về bạn mình là điều đáng hổ thẹn, là sự mất mát của chính mình, hắn được gì chứ?
Đang thời gian phân vân, thử thách bạn tình thì  nhạc sĩ Tăng Cường tìm đến. Không phải không có chỗ khác mua được cây giống giúp anh. Chỗ khác có đầy. Nhưng vợ Tân quắt vừa đi trị xạ bệnh ung thư, còn đang điều trị lâu dài, cần có tiền. Bận đưa vợ ngược xuôi hàng tháng nay, Tân không bán được số bầu cây giống làm từ đầu năm, nếu không bán được chỉ có nước vất bỏ.
Mình chả mất gì lại giúp được cả hai bên chả tốt hơn ư? Chả phải chuyện giả đạo đức, “giơ nốt bên má còn lại cho người ta tát” như người đời nói. Mà chỉ mong hắn hồi tâm, cũng là dịp xem lại chuyện người ta nói có thực không? Cần nghe cả hai tai, mới ra người hẳn hoi, mới không dễ mắc vào dụng ý xấu của kẻ khác..

Thời chúng tôi sống văn minh vô cùng, hay vô cùng, đẹp đẽ nữa, nhưng mà chuyện xấu cũng không ít, điều gì cũng có thể xảy ra. Làm thêm một phép thử cũng không thừa?
Vậy là Tân quắt có mặt  buổi sáng nay chờ vợ chồng nhạc sĩ Tăng Cường từ Vĩnh Hóa xuống.
Cuộc rượu thật vui. Nhạc sĩ rượu không uống được nhiều nhưng phu nhân cựu sĩ uống khá. Tân quắt càng uống mặt càng tái, chả để lộ ra manh mối nào như người ta nói. Phép thử của tôi chưa thấy kết quả như mong muốn. Cũng đành chứ biết sao bây giờ? Nhưng tôi tin cái kim trong bọc thể nào cũng có ngày lòi ra, lúc ấy sẽ liệu!
Tôi phục hắn người xách nhẹ mà giọng cứ sang sảng.
Lại nghĩ thương hắn bao năm theo đuổi công tác chỉ lanh quanh cấp phó. Mỗi một lần duy nhất được quyền chủ tịch hội nông dân xã được mấy ngày. Sau đấy người ta bầu lại, không trúng. Thành ra đến khi về chả có hưu hiếc gì. Vẫn vô tư cười, tôi phục hắn bền bỉ, thản nhiên như không!
Nhạc sĩ Tăng Cường vừa qua vụ ông thầy dạy nhạc, kiêm thông gia vừa mất nên có vẻ ít nói.
Tôi cũng không gặng thêm. Vài ba câu chuyện về thời tiết khí hậu là tan cuộc nhậu, chả có thời giờ đâu để bàn đến nhân tình thế thái vì ai cũng vội.
Nhạc sĩ phải mang cây về trồng. Tân quắt chiều lại có cuộc hòa giải trong thôn về một va chạm nhỏ mới xảy ra về đất cát..
Tôi bận không đi cùng được nên chỉ có hai vợ chồng nhạc sĩ theo xuống nhà Tân. Khi về qua chỗ tôi thấy hai vợ chồng vui vẻ, tôi cũng mừng.

***
Mấy ngày sau đó ông Tăng Cường gọi điện mời tôi và Tân quắt lên chơi. Thực ra tôi rất muốn đi, nhưng lại bận vài việc. Tân quắt hăng hái lắm, nghe nói nhạc sĩ mời, hắn mấy lượt giục tôi đi.
Nửa tháng sau, ông Tăng Cường giọng buồn buồn báo cho tôi biết: “ Hoan hô các cụ trồng cây, mười cây chết chín một cây vật vờ..” Ông khôi hài nói thế và bảo: Cây chết mất non nửa!
 Tôi điện ngay cho Tân quắt. hắn lặng đi một lúc mới nói:
- Chắc lão í về trồng ngay, không chịu ươm như lời tôi dặn. Có khi còn không tưới nước hàng ngày. Nắng nôi như thế này, cây không chết mới lạ!
Tôi hỏi gặng lúc giao cây ông có dặn như thế thực không? Hắn cáu:
- Sao không? Các bố trồng cây nửa mùa mới nên nông nỗi. Làm theo tôi chỉ dẫn chết thế chó nào được?
Tôi buồn tê cả người, ý tốt muốn giúp bạn lại hóa ra làm thiệt hại cho người ta. Hôm nào gặp lại mình biết nói sao với vợ chồng ông Tăng Cường đây?
Tối hôm ấy, khuya lắm rồi có cuộc điện thoại. Thường người ta chỉ gọi khi có chuyện khẩn cấp, chứ không ai gọi vào giờ khuya như thế này. Xem, thì ra Tân gọi:
- Ông gọi điện cho ông bạn của ông xuống tôi bù cho số cây khác mang về trồng. Nếu ông ấy bận tôi và cả ông bố trí lên chơi mang lên cho lão ấy. Ai tôi có thể sai, chứ với ông nhạc sĩ này tôi áy náy lắm. Bà nhà tôi rất mê nhạc của lão ấy mà.. Bà í bảo nhạc thế mới là nhạc, trữ tình chết đi được!
Điều này tôi tin là Tân quắt thật tâm. Dù hắn có chót nói mình thế nào cũng có thể cho qua được.
Con người ta vốn: “Vừa là thế này, vừa là thế kia “ mà. Có ai toàn mỹ, toàn thiện như ngọc không có vết, được cả đâu?


=====================

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đừng phổng mũi vì người ta khen..

Nhật Bản nên học hỏi Việt Nam trong việc ứng phó với Trung Quốc

Tờ Toyo Keizai nhận định, Nhật Bản có thể vượt trội hơn Việt Nam về nhiều mặt, nhưng trong quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, người Nhật phải học hỏi người Việt Nam.

Trong bài xã luận “Tại sao Trung Quốc nhất định sẽ thua Việt Nam?" đăng trên tuần báo Toyo Keizai của Nhật Bản, tác giả bài viết cho rằng người Nhật nên học hỏi cách ứng xử của người Việt Nam trong tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.
Bài xã luận có đoạn, mặc dù căng thẳng giữa Nhật Bản và Trung Quốc đã "hạ nhiệt" trong thời gian gần đây, thể hiện qua chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe vào tháng 9 tới. Tuy nhiên, giữa hai bên vẫn còn nhiều trở ngại để có thể tiếp tục cải thiện mối quan hệ song phương. Cũng theo bài viết này, cách ứng xử của Việt Nam là một "hình mẫu" để Nhật Bản tham khảo, trong việc duy trì quan hệ tốt với Trung Quốc trong khi vẫn khẳng định được chủ quyền và lợi ích quốc gia.

Tác giả bài viết nhận định, quan hệ Nhật Bản - Trung Quốc tuy phức tạp song không thể so sánh được với quan hệ Việt - Trung. Suốt hàng ngàn năm lịch sử, Trung Quốc liên tục tiến hành xâm lược, thậm chí đô hộ Việt Nam nhiều lần. Nắm rõ tham vọng của người láng giềng phương Bắc, người Việt một mặt chiến đấu ngoan cường để bảo vệ chủ quyền, mặc khác vẫn chấp nhận "ngoại giao hòa hiếu" khi cần thiết để bảo vệ hòa bình.

Ngay trong vấn đề Biển Đông thời gian qua, Việt Nam cũng sử dụng một chiến lược ngoại giao vừa mềm mỏng, vừa kiên quyết khôn khéo; một mặt tranh thủ sự ủng hộ của dư luận trong khu vực và cộng đồng quốc tế, một mặt vẫn tỏ rõ thiện chí để tránh đổ vỡ quan hệ với Bắc Kinh.

Những động thái mới nhất của các quốc gia liên quan cho thấy chiến lược này thực sự hiệu quả: Bắc Kinh đã phải nhượng bộ trước quan điểm và lập trường của Hà Nội, đồng thời Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ của ASEAN và rất nhiều nước lớn trên thế giới. Biểu hiện rõ nhất chính là sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 xuống Biển Đông. Thất bại trong cuộc chiến ngoại giao và pháp lý, đến ngày 15/7, Trung Quốc đã phải rút giàn khoan này khỏi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.

Đối mặt với người láng giềng hùng mạnh, Việt Nam không hề bị lép vế. Theo bài viết trên Toyo Keizai, Việt Nam tuy nhỏ bé nhưng rất lão luyện trong chiến lược ngoại giao và tình báo. Trong quan hệ với các cường quốc, người Việt "không bao giờ cúi đầu quá thấp", thay vào đó Việt Nam thường làm cho những nước lớn phải cúi đầu.

Người Việt cũng tận dụng các chiến thuật tình báo để có thể lấy được thông tin của đối phương, ứng biến linh hoạt để phục vụ cho lợi ích quốc gia. Đây là điều Nhật Bản cần học hỏi, vì trong quan hệ quốc tế, "tinh thần võ sĩ đạo" rất đáng quý nhưng không nên cứng nhắc, giáo điều.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng khéo léo đa dạng hóa quan hệ ngoại giao và thương mại, kề vai sát cánh cùng các thành viên khác của ASEAN, không để rơi vào tình trạng "đơn thương độc mã", cũng không sợ bị "đàn anh" bỏ rơi như một số nước khác.

Chốt lại, tác giả bài viết nhận định rằng dù tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông còn kéo dài và căng thẳng, song chắc chắn "Trung Quốc nhất định sẽ thua Việt Nam".

Theo SKCD
Hiển thị bớt
28
3

Phần nhận xét hiển thị trên trang

"TANG THƯƠNG NGẪU LỤC"

BÁO CHÍ VĂN NGHỆ THỜI "TANG THƯƠNG NGẪU LỤC"

Văn Công Hùng

Có năm nào đó tôi chọc anh Nguyễn Trí Huân, khi đó là tổng biên tập báo Văn Nghệ, rằng anh Huân là người chống lạm phát giỏi nhất Việt Nam. Trong hoàn cảnh cái gì cũng tăng thì anh vẫn kiên định giữ nguyên mức nhuận bút. Nhà Văn Khuất Quang Thụy khi về làm Tổng biên tập thay anh Huân đã làm một việc rất đình đám khi ấy, là quyết nhuận bút một bài thơ từ 70 ngàn “lên hẳn” 100. Nhà thơ Phạm Đương có hai câu thơ vui: Báo Văn Nghệ đứng ngoài cơn bão giá, mấy năm rồi thơ vẫn chỉ một trăm. Tôi chuyển cho nhà văn Khuất Quang Thụy đọc 2 câu này, ông Thụy ứng khẩu ngay: Báo Văn Nghệ sẽ chui vào bão giá, cuối năm này nhuận bút (thơ) sẽ hai trăm. Tôi bảo, thôi bác cố gắng lên trăm hai là tốt rồi, cho nó hòa nhập với cái gì cũng tăng hiện nay, khỏi phải có cái ngoặc đơn trừ nhuận bút báo Văn Nghệ.
---------------------




          “Tang thương ngẫu lục” là nói vui, mượn tên một tác phẩm của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án, chứ báo chí văn nghệ thời này quả là có tang thương nhưng cũng chưa đến nỗi tình cờ cũng chưa đến mức bể dâu, có chăng nó... thê thảm hơn những gì người đọc thấy và nghĩ về nó.



          Năm một lần, bộ Thông tin Truyền thông lại phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội Đồng lý luận Văn học Nghệ thuật Trung ương tổ chức một hội nghị riêng về báo chí văn nghệ với sự tham dự của tất cả các tờ báo chuyên về văn nghệ như báo Văn Nghệ, tạp chí Văn Nghệ quân đội, các tờ báo, tạp chí Văn Nghệ các tỉnh thành, các tờ báo chính trị xã hội, báo ngành có trang văn nghệ, các Đài truyền hình trong toàn quốc, một số báo tỉnh đảng bộ...



          Năm nay cuộc hội nghị ấy tổ chức tại Vũng Tàu đã thu hút khá đông các báo và các nhà báo, chứng tỏ sự quan tâm đến báo chí Văn Nghệ của giới truyền thông, và cũng không chỉ của giới truyền thông...


          Theo thống kê của bộ Thông tin Truyền thông thì hiện nay cả nước có hơn tám mươi cơ quan báo chí văn nghệ thuộc liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, các Hội Văn học Nghệ thuật các tỉnh thành và báo chí của một số hội chuyên ngành như Hội Điện ảnh, Mỹ thuật, Âm nhạc, Sân khấu vân vân. Về số lượng phát hành của hệ thống báo chí Văn nghệ, nhiều người cho rằng nó thuộc diện... bí mật quốc gia, rất ít người biết con số thật, hoàn toàn không phải là do... cạnh tranh thông tin, mà bởi đấy là những con số... đau lòng.

          Về mặt nào đấy, báo chí Văn nghệ vẫn là một thứ sang trọng trong mắt một số người viết và bạn đọc. Bên cạnh nhà tôi có 2 ông hàng xóm, bỏ tiền túi đặt báo Văn Nghệ, Văn nghệ Quân đội và tạp chí Văn Nghệ Gia Lai. Ngày báo về, các ông trịnh trọng tắm, rồi pha một bình trà, châm một điếu thuốc, rồi mới nghiêm trang giở tờ báo đọc. Có hôm cao hứng, ông lôi bia ra mời tôi sang uống. Còn người viết, nhất là người mới viết, thì vẫn coi những tờ báo Văn nghệ ấy là thánh đường. Chả cần nói đâu cao sang, chỉ là cái tòa soạn tạp chí Văn Nghệ mà tôi đang làm ở đấy, khối người kể trước khi vào phải hít hơi mấy lần, đi qua đi lại mấy lần rồi mới... hùng dũng tiến vào. Là sau này khi quen rồi thì họ hồn nhiên kể thế thì biết thế chứ tôi cũng... chả tin lắm. Lại có một ông khi nào vào cơ quan tôi thì cũng, hoặc là có bó hoa, hoặc là chai rượu, bảo như thế nó mới... văn nghệ. Còn 2 cái địa chỉ ở Hà Nội là 17 Trần Quốc  Toản và 04 Lý Nam Đế thì nó đúng là thánh đường của giới cầm bút. Tôi đã từng bao lần tần ngần lại qua trước khi lấy hết can đảm bước vào...

          Giờ, cũng giống như các loại báo chí khác, báo chí Văn Nghệ đang đứng trước những thử thách ghê gớm, của thời đại, của công nghệ, của văn hóa đọc... của rất nhiều yếu tố chống lại báo in, chống lại sự đọc dài, đọc phải suy nghĩ, phải đau đáu tư duy, phải ngẫm ngợi... Báo chí các loại thê thảm một thì báo chí văn nghệ thê thảm gấp nhiều lần. Thống kê của bộ Thông tin Truyền thông thì tất cả các tờ báo Văn Nghệ trên toàn quốc đều tụt số lượng phát hành. Còn tụt bao nhiêu thì như phía trên đã nói, là lĩnh vực... bí mật. Cũng may là tiara tụt nhưng nhuận bút thì... giữ nguyên. Có năm nào đó tôi chọc anh Nguyễn Trí Huân, khi đó là tổng biên tập báo Văn Nghệ, rằng anh Huân là người chống lạm phát giỏi nhất Việt Nam. Trong hoàn cảnh cái gì cũng tăng thì anh vẫn kiên định giữ nguyên mức nhuận bút. Nhà Văn Khuất Quang Thụy khi về làm Tổng biên tập thay anh Huân đã làm một việc rất đình đám khi ấy, là quyết nhuận bút một bài thơ từ 70 ngàn “lên hẳn” 100. Nhà thơ Phạm Đương có hai câu thơ vui: Báo Văn Nghệ đứng ngoài cơn bão giá, mấy năm rồi thơ vẫn chỉ một trăm. Tôi chuyển cho nhà văn Khuất Quang Thụy đọc 2 câu này, ông Thụy ứng khẩu ngay: Báo Văn Nghệ sẽ chui vào bão giá, cuối năm này nhuận bút (thơ) sẽ hai trăm. Tôi bảo, thôi bác cố gắng lên trăm hai là tốt rồi, cho nó hòa nhập với cái gì cũng tăng hiện nay, khỏi phải có cái ngoặc đơn trừ nhuận bút báo Văn Nghệ. Lại nhớ mới năm kia, một tờ tạp chí Văn Nghệ của một tỉnh miền Trung in hai bài thơ của tôi, nhân một cuộc đi họp, Tổng biên tập chuyển cho tôi nhuận bút bỏ trong phong bì, ngoài ghi: Nhuận bút 2 bài thơ, 30.000X 2 = 60.000. Tôi lấy bút khuyên thêm một số không rồi giơ cho một số nhà thơ xem, ai cũng lè lưỡi, sao nhuận bút thơ mà cao thế?..

          Nó có rất nhiều lý do. Trong đó có một lý do không thể chối cãi, là do chính những người làm báo. Ngay trong đại hội nhà văn vừa rồi, nhà thơ Bùi Hoàng Tám lên diễn đàn nói về báo Văn Nghệ rằng là biên chế quá đông mà người thật sự biết làm báo  lại quá ít. Các tạp chí, báo văn nghệ của tỉnh lại còn bi hài hơn. Để làm các báo, chí loại này đòi hỏi những người làm phải vừa là nhà văn vừa là nhà báo, ít nhất cũng biết đọc tác phẩm, phân biệt hay dở. Nhưng trong thực tế, rất nhiều người tay ngang được cử sang làm những công việc này. Nó cũng y như các hội Văn học Nghệ thuật địa phương hiện nay, rất nhiều người được cử sang làm lãnh đạo hội từ các cơ quan như tuyên giáo,  báo, mặt trận, cán bộ huyện, giáo dục vân vân... Báo chí văn nghệ thời hiện tại quả là một thực thể vô cùng khó khăn đối với người làm báo, và cả người đọc. Như đã nói, các tạp chí văn nghệ, tiếng là báo văn nghệ chuyên nghiệp, nhưng cũng không phải tờ nào cũng là báo, cũng là chí. Nó phụ thuộc rất lớn vào người làm. Không phải ai đang làm các báo, tạp chí văn nghệ cũng là những nhà văn biết làm báo. Ngay các tờ báo Văn Nghệ lớn cũng không thoát được nghịch lý này. Sự nhanh nhạy với đời sống xã hội, với nhu cầu bạn đọc, với chính sự phát triển nội tại của báo chí rất ít, dẫn đến các tờ báo để... ngắm nhiều hơn để đọc. Sự thụ động, cả bảo thủ trong cái vỏ sang trọng, văn chương thuần túy đã khiến báo chí văn nghệ trở thành những lâu đài nhưng... bỏ hoang. Và các tờ báo có trang văn nghệ nữa, trừ các tờ báo lớn có các ban văn nghệ riêng, các tờ báo Đảng địa phương và một số báo khác, in văn nghệ (tác phẩm và các vấn đề văn nghệ) rất... lơ tơ mơ. In cho đầy trang, cho có. Vì họ không có biên tập viên chuyên nghiệp, không có sự am hiểu thấu đáo... Ngay tôi, thi thoảng lại nhận được cú điện thoại: có bài thơ nào ngăn ngắn cho một bài. Tôi hiểu ngay khi dàn trang, tờ báo ấy thừa một miếng bằng bao diêm, và bài thơ ngăn ngắn kia là để đắp vào chỗ “bao diêm” ấy.

          Ở đây không nói về các chương trình văn nghệ trên sóng các đài truyền hình, cả quốc gia và tỉnh. Nói về nó, phải có cả một “chuỗi” bài...

          Cũng không nói về các trang báo mạng, coi văn nghệ tức là luôn theo dõi nhất cử nhất động của các “sao”, từ ngồi nằm thế nào, mặc gì, ăn gì, ngủ như thế nào, vòng một vòng hai vòng ba các loại, cho đến nói gì, ở đâu, hồi nhỏ cởi truồng hay mặc quần thủng đít...

            Khi nghe tôi chia sẻ về sự “nguy nan” của báo chí văn Nghệ hiện nay, nhà văn Đỗ Tiến Thụy, trưởng ban văn xuôi tạp chí Văn Nghệ quân đội nhắn tin cho tôi: “Văn nghệ quân đội không nguy nan nhé, chỉ... sắp nguy nan thôi”. Còn nhà văn Khuất Quang Thụy, Tổng biên tập báo Văn Nghệ thì ví von: “Báo chí văn nghệ giờ nó như cái cúc áo ấy, không có cúc người ta vẫn... mặc áo, nhưng mặc như thế nó không ra người tử tế”. 

          Cái ví von của anh Thụy rất là hay và thấm. Nhưng hiện tại hình như đang có thời trang không cài cúc, thậm chí rất nhiều người cởi trần đi ngoài đường. Và, hình như họ vẫn là người tử tế. Hình như có năm nào đó, bộ Công an từng có dự định ra quy định không được cởi trần ra ngoài đường, chính xác là ai cởi trần ra đường sẽ bị phạt 200 ngàn đồng. Dự định này đã chìm vào quên lãng, còn người cởi trần vẫn rất đông...

          Cái thời báo Văn Nghệ, Văn nghệ quân đội là thứ gối đầu giường, xé ra chia nhau đọc, cái thời được in một bài thơ, một truyện ngắn trên báo văn nghệ tỉnh sướng âm ỉ cả tuần... cỏ vẻ như đang trở thành cổ tích. Hôm nay, những người làm báo chí Văn nghệ gặp nhau toàn kể chuyện tiếu lâm về nghề mình xen giữa những tiếng thở dài cố ép lại...

          Nhưng vẫn có những người tự tin bảo: giao cho tôi làm, không dưới 5 vạn bản/kỳ tôi không phải là tôi. Và tờ Văn Nghệ công an của nhà thơ Phạm Khải và nhà văn Nguyễn Thế Hùng nghe nói tira vẫn 3 vạn...
  
Một số tờ báo, tạp chí Văn nghệ trên bàn của tớ ngay lúc này
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ngoại giao Con đường Tơ lụa và sự xuyên tạc lịch sử


maritimesilkroad
Tác giả: Tansen Sen | Biên dịch: Phạm Thị Huyền Trang
Gần đây, các báo đài bắt đầu đưa tin về khái niệm đầy lãng mạn “Con đường Tơ lụa” lịch sử mà các đoàn lữ hành trên lưng lạc đà đã đi qua giữa những ngọn núi và sa mạc Trung Á, cũng như tọa đàm về việc tái lập các mạng lưới hàng hải trên Ấn Độ Dương mà Đô đốc hải quân Trung Quốc Trịnh Hòa đã bảy lần dẫn hạm đội của mình băng qua. Nhằm nhấn mạnh vai trò lịch sử của Trung Quốc như là biểu tượng của hòa bình và thịnh vượng, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang ra sức thúc đẩy các tuyến đường thương mại cổ xưa, gần đây nhất là trong các chuyến thăm của Chủ tịch Tập Cận Bình tới các nước Trung và Nam Á.
Tuy nhiên, có một vấn đề trong chiến dịch dựa trên lịch sử này của Trung Quốc: lịch sử đang bị bóp méo.
Tháng Chín năm 2013, chưa đầy một năm sau khi đảm nhận vị trí Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình đưa ra sáng kiến chính sách đối ngoại mới được gọi là “Vành đai Kinh tế Con đường Tơ lụa.” Trong một bài diễn văn tại Đại học Nazarbayev ở Kazakhstan, nhằm kêu gọi hợp tác và phát triển khu vực Á-Âu thông qua sáng kiến Con đường Tơ lụa mới này, Tập Cận Bình đã nêu ra năm mục tiêu cụ thể: tăng cường hợp tác kinh tế, cải thiện kết nối đường bộ, xúc tiến thương mại và đầu tư, tạo thuận lợi cho chuyển đổi tiền tệ, và thúc đẩy sự giao lưu giữa người dân với nhau.
Một tháng sau, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-Trung Quốc lần thứ 16 được tổ chức ở Brunei, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đã đề xuất việc xây dựng một “Con đường Tơ lụa trên biển” thế kỷ 21 để cùng nhau thúc đẩy hợp tác hàng hải, kết nối, nghiên cứu khoa học và môi trường, và các hoạt động khai thác hải sản. Vài ngày sau đó, trong bài phát biểu trước Quốc hội Indonesia, Tập Cận Bình đã lên tiếng ủng hộ ý tưởng này và tuyên bố Trung Quốc sẽ đóng góp kinh phí để “phát triển mạnh mẽ quan hệ đối tác hàng hải trong một nỗ lực chung nhằm xây dựng Con đường Tơ lụa trên biển của thế kỷ 21,” kéo dài từ bờ biển Trung Quốc đến Địa Trung Hải.
Trong cả hai bài phát biểu trên, Tập Cận Bình đều nhấn mạnh mối liên kết hữu nghị trong lịch sử giữa Trung Quốc với các nước trong khu vực và ám chỉ rằng những đề xuất của ông đều hướng đến việc thiết lập lại các mối quan hệ hữu nghị cổ xưa trong một thế giới toàn cầu hóa và hiện đại. Tại Kazakhstan, ông cho rằng sứ thần Tây Hán Trương Khiên đã “gánh vác sứ mệnh hòa bình và hữu nghị,” đồng thời mở ra cánh cửa liên lạc Đông-Tây và thiết lập nên “Con đường Tơ lụa.” Tại Indonesia, ông đã tán dương Đô đốc Trịnh Hòa nhà Minh vì đã để lại “những câu chuyện đẹp về mối giao lưu hữu nghị giữa dân tộc Trung Quốc và Indonesia.”
Thế nhưng, Tập Cận Bình đã không hề đề cập đến những bi kịch xung đột và nỗ lực nhằm truyền bá một trật tự thế giới dĩ Hoa vi trung (lấy Trung Quốc làm trung tâm – NBT). Đồng thời, nhằm khắc họa quá khứ như là một giai đoạn lịch sử không tưởng, mục đích chuyến đi của sứ thần Trương Khiên tới các nước được gọi là Tây Vực cũng bị bóp méo.
Nhà Hán đã phái Trương Khiên đi tìm đồng minh nhằm chống lại Liên minh Hung Nô hùng mạnh, địch thủ hàng đầu của Đế chế Tây Hán. Với các chính sách bành trướng, nhà Hán đã góp phần biến những người Hung Nô du mục thành một thực thể bán nhà nước[1] vốn đã luôn đối đầu với các lực lượng người Hán. Năm 138 TCN, nhà Hán phái Trương Khiên tới Trung Á để tìm người Nguyệt Chi[2] theo hành trình của người Hung Nô trước đó. Tuy nhiên, sứ mệnh của ông đã thất bại, ông bị người Hung Nô cầm tù và bị ép hôn với một nữ nhân trong tộc. Trốn thoát sau 10 năm bị giam cầm, ông nhận ra rằng người Nguyệt Chi không hề quan tâm đến việc thành lập liên minh quân sự (với nhà Hán để chống người Hung Nô). Đóng góp duy nhất của Trương Khiên cho triều đình nhà Hán là biểu tấu về các thể chế và tộc người trong khu vực Trung Á.
Tương tự, hình ảnh của Đô đốc Trịnh Hòa như là một sứ thần của hòa bình và hữu nghị cũng có vấn đề. Trên thực tế, Đô đốc Trịnh Hòa đã sử dụng vũ lực trong bảy chuyến thám hiểm từ năm 1405 đến năm 1433 tại các vùng lãnh thổ mà nay là Indonesia, Malaysia, Sri Lanka, và Ấn Độ, nhằm phong chư hầu và kiểm soát hành lang chiến lược trên Ấn Độ Dương. Trịnh Hòa đã can thiệp vào việc triều chính của Sri Lanka và Indonesia, sau đó đưa tù nhân về Nam Kinh, kinh đô nhà Minh. Thực tế ban đầu Hoàng đế Vĩnh Lạc phái Trịnh Hòa ra biển Tây là để nhằm truy lùng đứa cháu trai đã bị chính Vĩnh Lạc soán ngôi, đồng thời truyền bá nền văn minh Trung Hoa. Trong quá trình thám hiểm, Trịnh Hòa đã thu phục rất nhiều vị vua chúa về làm chư hầu dưới trướng của Vĩnh Lạc cùng với các vật phẩm triều cống. Các chuyến đi này sau đó đã bị dừng lại bởi chúng hóa ra là quá tốn kém và, dưới góc nhìn của các triều thần, đã trao quyền quá mức cho một hoạn quan như Trịnh Hòa.
Đế chế Hán đã sử dụng chiến thuật tương tự tại Trung Á, đặc biệt là tại các vị trí chiến lược trên những tuyến đường thương mại. Do đó, chẳng có tuyến đường bộ hay hàng hải nào, gọi chung là Tuyến đường Tơ lụa, cho thấy sự giao lưu hòa bình hoặc thúc đẩy tình hữu nghị thông qua sự hiện diện của Trung Quốc như các bài phát biểu đã nêu.
Cũng có một vấn đề với thuật ngữ “Con đường Tơ lụa” hay “Tuyến đường Tơ lụa.” Nhà địa lý người Đức Ferdinand von Richthofen đặt ra thuật ngữ này vào năm 1877 để chỉ các tuyến đường bộ thương mại cổ xưa xuyên qua Trung Á. Kể từ đó, nhiều tuyến đường kết nối Trung Quốc với thế giới bên ngoài đều được gọi là “Con đường Tơ lụa” hay “Tuyến đường Tơ lụa,” cho dù tơ lụa không phải là sản phẩm đầu tiên, cũng không phải là sản phẩm được giao dịch nhiều nhất trên bất kỳ tuyến đường nào. Ngoài ra, được các học giả Trung Quốc ra sức sử dụng, thuật ngữ này đã đề cao vai trò của Trung Quốc trong các tương tác liên khu vực cận đại một cách vô căn cứ. Điều này là kết quả của việc phớt lờ các ảnh hưởng ngoại lai tới xã hội và kinh tế Trung Quốc trong suốt 2000 năm qua.
Có lẽ, như nhiều người Trung Quốc khác, quan điểm của Tập Cận Bình về Con đường Tơ lụa được định hình bởi hệ thống giáo dục của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không chấp nhận việc phân tích phê phán và diễn giải xác đáng các nguồn sử liệu. Có thể Tập Cận Bình chịu ảnh hưởng bởi nguồn gốc gia đình xuất thân gần kinh đô Tây An của Trung Quốc cổ đại, hay còn được biết đến trong lịch sử là Trường An, địa danh được sử sách công nhận là điểm khởi đầu của con đường tơ lụa trên bộ. Hoặc Tập Cận Bình không nhận thức được những phản ứng tiêu cực mà việc sử dụng chủ nghĩa tượng trưng văn hóa Trung Quốc trong lĩnh vực chính sách đối ngoại đã gây ra ở ngoại quốc. Hoặc cũng có thể ông kiên quyết tiến hành sáng kiến này đến cùng, với sức mạnh kinh tế Trung Quốc đã đạt được trong nhiều thập kỷ qua.
Thế nhưng, một số quốc gia vẫn sẵn sàng chấp nhận những câu chuyện lịch sử bị bóp méo vì những lý do kinh tế.
Ví dụ, năm ngoái Chính phủ Sri Lanka đã tiếp nhận một bức tượng Trịnh Hòa mạ vàng như một món quà từ Hiệp hội Quản lý Du lịch Quốc tế của Trung Quốc. Hai bên tuyên bố rằng Trịnh Hòa và các cuộc thám hiểm của ông đại diện cho những mối quan hệ thương mại và hòa bình cổ xưa giữa Trung Quốc và Sri Lanka. Các chi tiết lịch sử quan trọng đã bị bỏ qua như việc Trịnh Hòa đã thay đổi chế độ vốn có trong khu vực; bắt cóc quốc vương Alaskawera; áp giải ông này về Nam Kinh như một tù nhân. Trịnh Hòa cũng chiếm đoạt Xá lợi răng Phật nổi tiếng tại Kandy, một biểu tượng xa xưa về chủ quyền của Sri Lanka.
Xung đột quân sự cũng đã xảy ra ở Indonesia, nhưng một số tờ báo của quốc gia này lại hoan nghênh đề xuất của Tập Cận Bình và ghi nhận rằng các đề xuất này có thể mang lại “những cơ hội to lớn cho sự phát triển của khu vực.” Một thực tế đã không được nhắc tới là vào năm 1407, Trịnh Hòa đã thay đổi chế độ trên đảo Sumatra bằng cách bắt cóc Trần Tổ Nghĩa, thủ lĩnh địa phương người Trung Quốc bị triều đình nhà Minh coi là cướp biển. Sau khi bị hành hình công khai ở Nam Kinh, Trần Tổ Nghĩa bị thay thế bởi một người đại diện cho lợi ích của triều đình nhà Minh trong khu vực. Cũng năm đó, Trịnh Hòa còn can thiệp vào công việc nội bộ của Vương quốc Majapahit trên đảo Java, dường như để làm suy yếu cường quốc khu vực này của Đông Nam Á.
Cũng giống như những xung đột diễn ra trong các khu vực khác với cùng một mục đích là mở ra một trật tự thế giới hài hòa dưới trướng Trung Hoa Thiên tử, những can thiệp quân sự này mới là mục tiêu của các cuộc thám hiểm do Trịnh Hòa dẫn đầu.
Với dòng tiền và đầu tư dồi dào, sáng kiến Con đường Tơ lụa của chính phủ Trung Quốc có thể thúc đẩy nền kinh tế của nhiều quốc gia châu Á và châu Âu, miễn là các nước này tự nguyện tuyên bố có mối liên kết với đế chế Trung Quốc cổ đại. Còn đối với Trung Quốc, sự thành công của sáng kiến này sẽ mở ra con đường mới cho việc đầu tư nguồn dự trữ tiền tệ khổng lồ của mình, đánh dấu một bước tiến lớn trong công cuộc tái lập trật tự thế giới Trung Quốc cổ đại được biết đến dưới tên gọi thiên hạ, đó là, mọi nơi được biết đến trên thế giới này đều thuộc về một thiên mệnh hoàng đế của Trung Hoa. Trật tự thế giới mới này sẽ không chỉ đơn giản là luận điệu suông, mà còn mang những ý nghĩa quan trọng về địa chính trị.
Tansen Sen (Thẩm Đan Sâm) là phó giáo sư tại trường Đại học Baruch, Đại học Tổng hợp Thành phố New York. Chuyên ngành của ông là lịch sử và các tôn giáo châu Á, ông đặc biệt quan tâm về lĩnh vực quan hệ Ấn Độ-Trung Quốc, thương mại Ấn Độ Dương, Phật giáo, và khảo cổ học về Con đường Tơ lụa. Ông là tác giảcuốn “Buddhism, Diplomacy, and Trade: The Realignment of Sino-Indian Relations, 600-1400” (University of Hawai’i Press, 2003) và đồng tác giả (với Victor H. Mair) của cuốn “Traditional China in Asian and World History” (Association for Asian Studies, 2012).
Tác giả: Tansen Sen | Biên dịch: Phạm Thị Huyền Trang
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hóa ra LX cũng chỉ là một món hàng có thể bán mua. Không như người ta tưởng là "Thành trì của HB thế giới" như người ta tưởng. Chả hiểu thằng cha tác giả này viết có thật hay không nữa?

LŨ GIÒI BỌ ĐÃ BÁN LIÊN XÔ NHƯ THẾ NÀO!

Liên Xô sụp đổ dễ dàng bởi nắm quyền lực là những kẻ cũng như Mỹ - Chúng dường như là đối thủ chính chống lại chính Liên Xô. Vấn đề là ở chỗ, khi những gã con buôn nắm quyền, thì đất nước chỉ còn đơn giản là bị mua và thâu tóm bằng 1 số tiền qui định. Liên Xô đã bị mua bởi chóp bu Do Thái Mỹ ở chóp bu Liên đoàn Do Thái.

Chúng đã bán Liên Xô như thế nào?

Một trong những đầu trò vụ bán chác này là gã Gorbachev – không ngạc nhiên khi hắn được bầu là “danh tiếng thứ 30” của thế kỷ XX, được gắn mề đay Nobel, được ném cho rất nhiều tiền.

Có sự kỳ lạ ở Ủy ban khẩn cấp tháng 8 (Государственныйкомитет по чрезвычайному положению - gọi tắt là UBKC). Ngày nàychúng ta là nhân chứng với những gì đang xảy ra ở Kievkhi quyền lực bị chuyển vào tay đám chiến binh Maidanthì rõ ràngkhông chỉ những quan chức Ukr tham nhũng trơ tráomà trước tiênlà sự yếu đuối của quyền lực, đã kích thích các chiến binh đến chỗ vô luật lệCác sự kiện ở Kiev năm 2014, một lần nữa làm người ta nhớ sự kiện Moskva tháng 8 1991. Thái độ chần chừ và thiếu dứt khoát của giới quan chức an ninh đứng đầu là lãnh đạo KGB Vladimir Kryuchkov làm UBKCthất bạiThậm chí là khi đó họ có thể dựa vào hầu hết quần chúngcần phải nhắc làtháng 3 1991, 70% dân chúng vẫn ủng hộ nhà nước liên bang.

Ảnh: Chỉ huy dù Pavel Grachyov và soái không quân Evgeny Shaposhnikov
đóng vai trò không phải là cuối cùng trong việc UBKC thất bại và các sự kiện sau đó.

Bắt Yeltsin – nhưng đợi "chỉ đạo"

Như người ta biết, đặc nhiệm "Nhóm A" của KGB do anh hùng Xô Viết V. F. Karpukhin chỉ huy vào tối 18 rạng sáng 19 tháng 8 1991 đang ở Arkhangelsk. Nhưng mệnh lệnh cô lập Yeltsin, bất chấp có nhiều cuộc điện đàm của "Nhóm A" về Sở chỉ huy, đã không được thi hành. Về điều này có thể dẫn lời người trực tiếp tham gia vào sự kiện, là chủ tịch Hội cựu chiến binh quốc tế của sư đoàn chống khủng bố "Alpha", đại biểu Hội đồng nhân dân Moskva, ông Sergey Goncharov:

"Karpukhin báo cáo về Sở chỉ huy rằng chúng tôi đang ở vào vị trí và sẵn sàng thực hiện mệnh lệnh. Mệnh lệnh cuối cùng mà tôi nghe rõ ràng: "Đợi chỉ đạo!". Trời bắt đầu sáng. Tôi nói với Karpukhin: "Fyodorych! đ/c hãy báo cáo về Sở chỉ huy – sắp bình minh rồi". Một lần nữa có lệnh: "Đợi! Sẽ liên lạc sau". Chỉ huy của chúng tôi phản ứng: "Thế đợi cái gì!", và chúng tôi tái bố trí đến 1 ngôi làng gần Arkhangelsk. Những người hái nấm đến… Họ thấy binh lính trong trang phục bất thường – ngụy trang và súng trong tay, đã sợ hãi và đứng sững lại khi chúng tôi né sang bên, họ đi về nhà.

Như tôi hiểu, thông tin đã đến với Korzhakov. Tôi nói: "Fyodorych, hãy gọi lại đi! Tất cả hiểu, chúng tôi đã được ra ám hiệu!" Karpukhin tìm chỉ dẫn. Người ta đưa ra cho ông mệnh lệnh mới: "Chuyển sang vị trí của phương án No. 2". Đó là lúc tiến công đánh chiếm. Chúng tôi đưa quân ra, lên xe và tiến lên trước độ 2 km, chúng tôi bắt đầu đeo trùm đầu. Nhưng có thể làm điều đó như thế nào với 1 lượng quân như thế này? Dân nông thôn nhìn chúng tôi rất dè dặt, họ không dám cả đi ra ngoài lấy nước…

Ảnh: Anh hùng Xô Viết Victor Fyodorovich Karpukhin (1947-2003).
Chính ông là chỉ huy “Nhóm A” của KGB khi đợi lệnh bắt Boris Yeltsin. 
Nhưng đã không nhận được cái lệnh ấy.

Được thôi. Đã nghiên cứu chiến dịch, làm thế nào để chặn đoàn xe, Karpukhin báo cáo đã sẵn sàng. Lúc 6 h, trời sáng, tất cả đã nhìn rõ, đoàn tàu hỏa đang đi về Moskva. Từ Sở chỉ huy lại 1 lần nữa: "Đợi chỉ đạo, sẽ có lệnh!"

7 h, có 1 đoàn xe công tác cùng bảo vệ bắt đầu kéo nhau đến Arkhangelsk. Chúng tôi thấy có một số nhân vật cỡ bự. Dĩ nhiên, đã cử người đi điều tra. Có vẻ là Khasbulatov, Poltoranin và 1 số kẻ khác đến. Chúng tôi báo cáo. Lại có lệnh: "Chờ chỉ đạo!" Tất cả! Chúng tôi không hiểu họ có muốn và tiến hành chiến dịch như thế nào!

Đến khoảng 8 h sáng, trinh sát cho biết: "Đoàn xe – 2 chiếc ZIL bọc thép, 2 Volga với bảo vệ của Yeltsin và những kẻ đã đến đang đi trên đường. Chuẩn bị hành động!" Karpukhin gọi về Sở chỉ huy 1 lần nữa và nghe: "Đợi mệnh lệnh!" – "Đợi cái gì, đoàn xe sẽ đi qua trong vòng 5 phút!" – "Đợi mệnh lệnh!" Khi chúng tôi nhìn thấy bọn chúng, Fyodorych 1 lần nữa nhấc ống nghe: "Đợi mệnh lệnh!"

Mệnh lệnh đã không đến. Tại sao? Các nhân vật ở UBKC, gồm cả Kryuchkov, đã không có câu trả lời rõ ràng cho câu hỏi này cũng như đã không ra lệnh. Rõ ràng, không ai trong các nhà tổ chức của ông ta muốn rủi ro chịu trách nhiệm. Cũng chẳng có ai trong nội các (đảo chính) của Valentin Ivanovich Varennikov, nhưng điều như thế đã có ở Kiev mà không thể ảnh hưởng đến sự tiến triển của sự kiện.

Hoặc là, có lẽ, đã xảy ra một số phức tạp kép và trò chơi tay ba. Tôi không rõ, rất khó cho tôi để phán xét… Chủ tịch Hội đồng tối cao cuối cùng của Liên Xô, Anatoly Lukyanov trong cuộc phỏng vấn với báo Nga nói rằng, UBKC được thành lập tại cuộc họp vớiGorbachev ngày 28 tháng 3 1991. Còn Gennady Yanayev thì nói, tài liệu của UBKC được soạn theo yêu cầu cũng tất cả từ Gorbachev.

Sau đó, đoàn xe hộ tống của Yeltsin đã phóng rất nhanh vượt qua chúng tôi, Karpukhin nhấc điện thoại: "Làm gì bây giờ?" – "Chờ, chúng tôi sẽ gọi lại!" Đúng 5 phút sau: "Giữ bộ phận các sĩ quan của anh bảo vệ Arkhangelsk". – "Để làm gì?!" – "Thực hiện điều đã ra lệnh cho anh! Những chuyện khác – thuộc đơn vị khác!".

Vào lúc mà UBKC có thể thắng, thì đã bỏ lỡ nó 1 cách vụng về. Yeltsin đã có được thì giờ quí báu để huy động lực lượng phe cánh mình và bắt tay vào các hành động chủ động. Vào 10 hay 11 h, chúng tôi trở lại hẻm N-sky, nơi đóng quân tạm thời. Còn trên kênh TV chính, thay vì phát đi Bản tuyên bố đảo chính thì đã chiếu vở "Hồ Thiên Nga". Tấn bi kịch quốc gia biến thành trò hề".


… Tiếp theo, tất cả tình hình sụp xuống như ngôi nhà bằng giấy. Yeltsin đã trèo lên xe tăng trước Nhà Trắng (tòa nhà CP) và tuyên bố các hành động của UBKC là vi hiến. Vào buổi chiều, trên TV phát đi các bản tin đặt dấu chấm hết cho UBKC. Đóng vai trò cũng là bởi cuộc họp báo thất bại của nhóm UBKC. Nói đúng hơn, không chỉ riêng UBKC, mà là tất cả lũ tâm thần. Thực tế diễn ra là lặp lại tình hình ở Vilnius tháng 1 1991. Trong khi biết rằng, KGB luôn luôn chuẩn bị cho hoạt động của mình 1 cách kỹ lưỡng. Những pha đầu trong việc đưa quân đội vào Czech và Afghan luôn luôn là trách nhiệm của họ. Tất cả được tính toán kỹ đến từng phút.
Tuy nhiên, sau đó đã có nhiều thứ trở nên rõ ràng hơn, khi nó rõ hơn thì “2 kẻ thù không đội trời chung” – Gorbachev và Yeltsin đã thực sự làm việc cùng nhau trong 1 “đường dây”. Cựu bộ trưởng Thông tin và báo chí Nga, Mikhail Poltoranin đã công khai điều này trên tờ "Komsomolskaya Pravda" (số ra ngày 18 tháng 8 2011). Chắc chắn, lãnh đạo KGB đã biết hay đoán ra đường dây này, khi xác định tính 2 mặt lạ lùng của nó. Còn V. Kryuchkov, xét theo cuộc nói chuyện của ông ta với lãnh đạo PGU (điều tra) của KGB là Leonid Vladimirovich Shebarshin, vào tháng 6 1990 đã quyết định đứng cùngYeltsin. Vì thế, Vladimir Aleksandrovich cũng không thể tránh khỏi cảm giác có trách nhiệm cá nhân trước Gorbachev. Kết quả, cách sử xự của ông là 1 ví dụ rõ rệt của việc theo đuổi nguyên tắc "tôi và anh". Nhưng trong chính trị, quan điểm nước đôi như thế, theo qui luật, là bị trừng phạt. Điều này đã xảy ra.

Chứng thực của Shcherbatov

Boris Yeltsin, kẻ đóng vai dưới trong “đường dây”, hiểu rằng đảo chính cho ông ta cơ hội hiếm có để kết liễu Gorbachev. Thật không may, tìm cách lật đổ Gorbachev là 1 ván bài chính trị lớn của Yeltsin, đồng thời vì nó, ông ta chẳng tiếc gì từ bỏ Liên Xô. Đồng thời, cũng cần phải nhớ hành vi phản bội của Gorbachev trước tình cảnh bộ 3 lãnh đạo Nga-Belarus-Ukraina, Yeltsin-Shushkevich-Kravchuk họp riêng với nhau ở Viskulyakh và tuyên bố Liên Xô chấm dứt hoạt động như một chủ thể quốc tế. Hành động này là vi hiến và hoàn toàn là tuyên bố đơn phương của bộ 3. Khi đó, bộ 3 mưu gian này hiểu rõ đó là phạm tội và đã gặp nhau trong cánh rừng Bialowieza, để nếu có biến còn chạy bộ sang Ba Lan lánh nạn.

Sau Viskulyakh, Yeltsin không dám quay về điện Kremlin vì sợ Gorbachev. Ông ta chắc rằng sẽ có lệnh bắt giữ mình, thế nhưng Gorbachev đã chọn cách bỏ mặc việc này. Ông ta chấp nhận tình trạng Liên Xô sụp đổ, như thể trong tình hình này, khả năng để ông ta bị đem ra công lý vì những tội lỗi đã biến mất.

Ảnh: 2 “tử thù” Mikhail Gorbachev và Boris Yeltsin chung vai diễn kết liễu Liên Xô.

Trước đây, tôi cũng đã viết rằng trong thời kỳ này, suy nghĩ của Gorbachev không phải là làm thế nào để giữ gìn Liên Xô mà là làm sao để bảo đảm tương lai cho mình không thiếu thốn: hàng hóa, rượu và nhà. Không phải là tình cờ mà sĩ quan an ninh lâu năm của ông ta là tướng KGB Vladimir Timofeyevich Medvedev nhấn mạnh 1 cách chuẩn xác: tư tưởng chính của Gorbachev là giữ cho mình sống còn.

Thật tệ hại, nhiều quan chức Liên Xô và giới tướng lĩnh cao cấp chỉ cố để lo tương lai vật chất cho mình. Cần phải nói rằng, cho đến 1991, người Mỹ đã mua sạch tận gốc giới bề trên Liên Xô, giúp Yeltsin tiến đến quyền lực. Tôi cung cấp chứng thực của hoàng tử Alexey Pavlovich Shcherbatov (1910-2003) từ dòng họ Ryurik, chủ tịch Hội quí tộc Nga bắc và nam Mỹ.

Trong ngày "đảo chính”, Shcherbatov đến Moskva từ Mỹ để tham dự Hội nghị đồng hương. Ông bày tỏ ấn tượng của mình về chuyến đi trong hồi ký “Lịch sử hoàn toàn không xa. Chuyến đi về Nga đầu tiên". Như thể số phận Shcherbatov xuất hiện trong các dày đặc sự kiện tháng 8 1991. Ông, như 1 công dân Mỹ có ảnh hưởng, đã gặp gỡ trực tiếp đại sứ Mỹ tại Liên Xô Robert Strauss, 1 người rất thông thạo. Bởi vẫn mang tinh thần Nga yêu nước, Shcherbatov đã phải chịu đựng sự sắc nhọn của các sự kiện tháng 8 1991. Bởi vậy ông đã quan tâm đến mọi thứ liên quan.

Trong tư liệu xuất bản trên tờ báo Chính thống giáo "Vera" – "Esk" (No. 520), Shcherbatov viết: "… Tôi cố để tìm hiểu nhiều chi tiết của sự chuẩn bị lật đổ. Và trong 1 vài ngày đã tự mình biết rõ: Người Mỹ, CIA đã đem tiền đến qua đại sứ ở Nga, Robert Strauss, đã sử dụng quan hệ của ông ta để mua chuộc giới quân đội: Sư đoàn dù Tamansky và Dzerzhinsk cần phải đứng về phía Yeltsin. Một lượng tiền lớn đã được đưa đến cho con của soái Shaposhnikov và bộ trưởng QP Grachyov. Shaposhnikov giờ có trang viên ở miền nam Pháp, nhà ở Thụy Sĩ.

Tôi nghe từ George Bailey, bạn cũ của tôi, nhiều năm làm việc cho CIA rằng, để làm tan rã Liên Xô, một lượng tiền lớn hơn 1 tỷ USD đã được đem vào. Ít người biết năm 1991, những chiếc máy bay đặc biệt dưới chiêu bài ngoại giao đã chở tiền đến sân bay Sheremetyevo, các kiện hàng của chúng là các tập đô la mệnh giá 10, 20, 50 được phân phát cho các đầu não chính phủ và quân đội. Những kẻ này về sau tiếp tục tham gia vào quá trình tư nhân hóa. Ngày nay tất cả điều này đều đã biết rõ.

Tham gia vào đảo chính là các cựu đại biểu dự hội nghị ở Shatagua: tướng Chervov giữ vai trò phân phát tiền trong giới quân đội, một trong số các giám đốc "Banks Trust of Company" là John Kristall như tôi biết, đã chuyển tiền giúp CIA qua ngân hàng. Tỏ ra là, khi tạo cho các quan chức Liên Xô 1 cơ hội tốt để nhận đút lót, thì làm tan rã Liên Xô không phải là việc khó…”

Cần phải thêm rằng, cuộc nói chuyện của phóng viên với hoàng tử Shcherbatov, người gọi mình là “con người-huyền thoại của lịch sử Nga", được thực hiện ở nhà ông, Manhattan - New York mùa hè 2003.

Shevardnadze phản bội

Phản quốc đã trú ngụ trong điện Kremlin từ lâu. Vào ngày 14 tháng 2 năm 2014, kênh TV Russia 1 cho phát sóng bộ phim có tên "Afghan" của phóng viên Andrey Kondrashov. Trong phim, 1 trong những thân tín của thủ lĩnh Mujahideens Ahmad Shah Masoud nói rằng phần lớn các hoạt động quân sự của Liên Xô chống Mujahideens đều không mang lại kết quả bởi ông ta, Masoud đã nhận được kịp thời thông tin về các hoạt động này từ Moskva.

Ở NATO người ta luôn luôn hiểu, Eduard Shevardnadze là đồng minh 
thân cận nhất của Gorbachev, do đó họ chấp nhận ông ta như 
khách quí và không thể bỏ qua.

Trong phim còn đưa ra 1 thực tế khác về sự phản bội rõ ràng của giới chức hàng đầu Liên Xô. Người ta biết rằng trước khi Liên Xô rút quân ra khỏi Afghan và đã đạt được thỏa thuận ngừng bắn với Ahmad Shah Masoud. Tuy nhiên, theo yêu cầu của bộ trưởng ngoại giao Shevardnadze và chỉ đạo của chỉ huy tối cao Gorbachev, quân đội Liên Xô trong các ngày 23-26 tháng 1 1989 đã ồ ạt tấn công tên lửa và không kích vào vùng nằm dưới sự kiểm soát của Ahmad Shah Masoud. Đó không chỉ là quyết định phản bội của Kremlin, mà còn là tội phạm chiến tranh.

Afghanistan hoàn toàn có cơ sở để buộc tội Gorbachev và Shevardnadze cũng như đòi hỏi xét xử ở tòa án quốc tế.

Sự phản bội của Shevardnadze không chỉ ở Afghan. Biết rằng tháng 4 1989, ông ta giúp BCT ngay lập tức thiết lập lại trật tự với các cuộc biểu tình ở Tbilisi và xét xử thủ lĩnh đối lập Gruzia Zviad Gamsakhurdia. Tuy nhiên, khi xảy ra sự kiện bi kịch ngày 9 tháng 4 1990, Shevardnadze bắt đầu đổi giọng về hành động quân sự không tương xứng khi giải tán biểu tình, nhấn mạnh căng thẳng là do lính dù sử dụng xẻng công binh tấn công người biểu tình. Nhưng phim do KGB quay, lại chỉ thấy họ bị tấn công bằng gạch đá và chai.

Tôi nhớ cuộc họp BCT tháng 3 1990 về vấn đề Litvia ly khai, Shevardnadze là duy nhất trong đó đòi áp dụng biện pháp mạnh chống ly khai và duy trì trật tự hiến pháp. Nhưng ông ta và A. Yakovlev lại thường xuyên cung cấp tin tức cho lãnh đạo Litvia Landsbergis.

Ngày 1 tháng 6 1990, Shevardnadze đã hành động phản bội tổ quốc ghê gớm khi đi thăm Washington với chức vụ bộ trưởng ngoại giao Liên Xô. Cùng ngoại trưởng Mỹ J. Baker, ông ta ký thỏa thuận mà theo đó Mỹ tự nhiên được hơn 47 nghìn km2 mặt nướcbiển Bering giàu có nguồn cá và hydrocarbons.

Không nghi ngờ gì, chính Gorbachev đã được báo về sự thông đồng này. Ngược lại, ở Moskva, Shevardnadze chẳng được ai chúc mừng. Nói cách khác, Gorbachev đã ngăn chặn mọi hành động thừa nhận sự "chuyển giao" này là bất hợp pháp. Người Mỹ biết lãnh đạo Liên Xô sẽ có phản ứng như vậy, họ nhanh chóng chiếm lấy vùng nước này và kiểm soát nó. Dường như vì sự “giúp đỡ” này mà Shevardnadze và Gorbachev đã được thưởng công rất nhiều tiền.

Rõ ràng, lãnh đạo KGB Kryuchkov biết về thỏa thuận đáng ngờ này, nhưng ông ta chẳng thèm bận tâm công khai tuyên bố Gorbachev và Shevardnadze phản bội Liên Xô. Đành rằng 2 kẻ này kiếm được nhiều tiền vì “bán nước”, nhưng tại sao Kryuchkov im lặng? Ngoài ra, Nga ngày nay cũng có sự "thông đồng im lặng" về biến cố này.


Những năm gần đây, thực tế tham nhũng của giới cai trị nước Mỹ “tự do độc lập” đã rất hiệu quả và ghê gớm. Iraq, Afghanistan, Tunisia, Libya, Ai Cập … và ví dụ gần đây nhất là Ukraina. Các nhà khoa học chính trị Nga cho rằng, vị thế không chắc chắn của Yanukovych trước cơn thịnh nộ Maidan gây ra bởi cái mà nhiều kẻ cho là tham vọng muốn cất giấu 1 tỷ tờ “bạc xanh” ở Mỹ. Những niềm hy vọng vô ích. Ở Mỹ chẳng có tiền nào của cựu vương Iran M. Reza Pekhlevi, của cựu TT Philippines F. Marcos, cựu TT Iraq Saddam Hussein, hay cựu TT Ai Cập H. Mubarak và các cựu “bạn bè” khác của Mỹ.

Hoàn cảnh và khả năng làm ăn không tồi xung quanh các đời TT Ukraina. Phần lớn giới bề trên đã giã từ quê hương mình ở Kiev đến các "bãi đáp dự phòng" tương tự như “nhà yêu nước Ura Nga”, cựu thị trưởng Moskva Yury Luzhkov đã tạo cho mình ở Áo và London. Không có gì phải nghi ngờ là phần lớn giới bề trên Nga, trong trường hợp tình hình xấu đi cũng sẽ theo gương các “đồng nghiệp” Ukraina. Tiện lợi là các "bãi đáp dự phòng" của họ cũng đã thực sự có từ lâu.

Giải bạc thứ 30 của Gorbachev

M. Gorbachev cũng đã kiếm được những món tiền lớn nhờ phản bội tổ quốc. Điều này là như thế nào đã rõ từ 2007 qua lời kể của ông Paule Creg Roberts – nhà kinh tế và nghiên cứu người Mỹ, cựu trợ lý tài chính cho CQ Reagan trên tờ Izvestiya. Ông Roberts nhớ lại thời kỳ khi 1 lãnh đạo nghiên cứu của ông được bổ nhiệm làm trợ lý thư ký QP Mỹ về các vấn đề quốc tế (lúc đó Melvin Laird là BT). Chớp cơ hội, ông Roberts đã hỏi, làm thế nào để Mỹ buộc 1 quốc gia phải nhảy múa theo điệu nhạc của họ? Câu trả lời đơn giản: “Chúng ta cho lãnh đạo của họ tiền. Chúng ta mua lãnh đạo của họ!".

Có thể lấy cựu Ttg Anh Tony Blair làm ví dụ cho ông Roberts. Ngay khi ông ta từ chức, Tony Blair được bổ nhiệm làm cố vấn 1 tập đoàn tài chính với lương 5 triệu bảng. Ngoài ra, Mỹ giúp ông ta tổ chức 1 loạt các buổi đọc diễn văn, mỗi buổi ông ta kiếm 100-250 nghìn đô. Biết rằng, bộ ngoại giao Mỹ cũng thu xếp các chương trình tương tự như vậy cho cựu Gorbachev.

Tuy nhiên, Gorbachev giải thích ông ta tham gia vào các hoạt động quảng cáo là do thiếu tiền cho quĩ Gorbachev. Có thể, có thể là… Tuy nhiên người ta biết Gorbachev đã nhận được khoản bồi thường không hề nhỏ từ Yeltsin vì đã "không gây sự" với điện Kremlin. Tháng 9 2008 Gorbachev nhận huân chương Tự do vì "kết thúc chiến tranh lạnh" từ Mỹ kèm 100 nghìn đô la. Thêm vào cái huân chương Nobel hòa bình năm 1990 vì đã "xin xỏ" R. Reagan. Tuy nhiên không phải nghi ngờ, đó chỉ là phần biết đến của sự giàu có vật chất mà Mỹ đã chu cấp cho cựu TT duy nhất của Liên Xô.

Khả năng tài chính của ông cựu Gorbachev được chứng tỏ trong đám cưới tân thời của cô cháu Ksenia năm 2003, tại nhà hàng sang trọng ở Moskva "Gostiny dvor", vây quanh là hàng rào cảnh sát, và đăng tải trên media là "không kiểu cách". Trên bàn tiệc lạnh là hình trái tim được xếp bằng gan ngỗng sống và quả vả, trứng cá đen trên khay đá với bánh kếp nóng, gà nấu nấm bọc bột xốp mỏng. Gà gô nướng và lưỡi nai. Bánh cưới 3 tầng cao 1 mét rưỡi.

Năm 2007, thiên hạ thật ấn tượng khi thấy Gorbachev sống trong lâu đài ở Bavaria. Lâu đài Hubertus trước đây là 1 trong 2 công trình lớn làm trại trẻ mồ côi Bavaria, trên giấy tờ nó thuộc về cô con gái ông ta, Irina Virganskaya. Ngoài ra, ông ta còn sở hữu 2 ngôi nhà khác, 1 ở San Francisco và 1 ở Tây Ban Nha (gần nhà ca sĩ V. Leontyev). Ông ta vẫn còn bất động sản ở Nga - nhà nghỉ Dacha ngoại ô Moskva "Moskva River 5" rộng 68 ha.

Cần nói thêm, năm 2011 ông ta tổ chức sinh nhật lần thứ 80 xa hoa của mình với 1 dàn siêu sao tên tuổi thế giới, chỉ mỗi tội là ở London. Đã lâu ông ta không dám về nước vì sợ nhiều thứ.


Chẳng nghi ngờ gì ông ta còn có thể tổ chức đám cưới xa hoa cho 1 số cô cháu nữa. Nhưng ông ta bị trừng phạt cả cuộc đời còn lại, như ông ta phải chịu đựng. Ngoài tòa án lương tâm, còn có các tòa án khác sớm hay muộn muốn xét xử người hùng bạc thứ 30 của thế kỷ XX nhưng thực chất là tội đồ phản bội kinh tởm nhất của Liên Xô và các nước cựu XHCN. Lúc đó, Mỹ cũng chẳng giúp được quí ông Gorbachev.


Как Горбачев продал СССР


TG – Vladislav Shved


Phần nhận xét hiển thị trên trang