Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 29 tháng 9, 2014

Ốm lâu quá!

Có khả năng ông Nguyễn Bá Thanh không về tiếp xúc cử tri được
Đoàn đại biểu Quốc hội TP Đà Nẵng vừa thông báo lịch tiếp xúc cử tri trước kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII, khai mạc ngày 20/10. Có khả năng ông Nguyễn Bá Thanh không về tiếp xúc cử tri đợt này được
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Bá Thanh tiếp xúc cử tri huyện Hòa Vang sáng 3/7. Đây là lần gần nhất ông Nguyễn Bá Thanh về tiếp xúc với cử tri Đà Nẵng trước khi đi chữa bệnh tại Mỹ (Ảnh: HC)

Theo thông báo của Đoàn đại biểu Quốc hội TP Đà Nẵng, sáng 3/10, các đại biểu Nguyễn Bá Thanh, Lê Văn Hoàng, Nguyễn Thị Kim Thúy, Huỳnh Ngọc Sơn, Huỳnh Nghĩa, Thân Đức Nam sẽ tiếp xúc cử tri các quận Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà và Cẩm Lệ tại Nhà hát Trưng Vương.

Điều dư luận rất quan tâm hiện nay là liệu Đại biểu Quốc hội Nguyễn Bá Thanh có thể về dự tiếp xúc cử tri Đà Nẵng đợt này hay không? Trao đổi với PV Infonet sáng 29/9, ông Huỳnh Nghĩa, Phó Chủ tịch HĐND TP, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội TP Đà Nẵng khóa XIII, Ủy viên Ủy ban Tư pháp của Quốc hội cho hay:

“Về nguyên tắc thì vẫn thông báo lịch tiếp xúc cử tri của tất cả các đại biểu thuộc Đoàn đại biểu Quốc hội TP Đà Nẵng, nhưng đến bây giờ thư ký của ông Nguyễn Bá Thanh chưa thông tin nên chưa biết ông có về dự tiếp xúc cử tri đợt này được hay không. Có lẽ khả năng là ông không về được. Đến bây giờ thư ký của anh Thanh vẫn chưa xác nhận, có lẽ trong tuần này sẽ trả lời!”.

Được biết, hiện ông Nguyễn Bá Thanh (Trưởng Ban Nội chính TƯ) đang đi chữa bệnh tại Mỹ. Trước đó ông từng nhiều năm giữ chức Chủ tịch UBND TP, rồi Bí thư Thành ủy và Chủ tịch HĐND TP Đà Nẵng, được đánh giá có công lớn tạo dựng nên một TP Đà Nẵng phát triển như hiện nay. Thời gian gần đây, tình hình sức khỏe của ông được người dân Đà Nẵng hết sức quan tâm. Nhiều người hy vọng sẽ được gặp ông trong đợt tiếp xúc cử tri lần này để chắc chắn là ông vẫn khỏe mạnh.

Tại cuộc tiếp xúc cử tri của Đoàn đại biểu Quốc hội TP Đà Nẵng sáng 3/7, cử tri Nguyễn Chí (85 tuổi, ở thôn Dương Lâm 1, xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang, Đà Nẵng) bày tỏ với ông Nguyễn Bá Thanh quyết tâm cùng con cháu bảo vệ chủ quyền đất nước (Ảnh: HC)

Lần ông Nguyễn Bá Thanh tiếp xúc cử tri Đà Nẵng gần nhất là vào tháng 7/2014 để báo cáo kết quả kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIII. Đó cũng là thời điểm dư luận cả nước đang sôi sục với việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan nước sâu Hải Dương 981 trong vùng biển Việt Nam.

Phát biểu với các cử tri huyện Hòa Vang sáng 3/7, ông Nguyễn Bá Thanh nêu rõ: “Việc Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam hồi năm 1974, nay lại hạ đặt trái phép giàn khoan lấn sâu trong vùng biển Việt Nam là có thật. Việc Trung Quốc âm mưu độc chiếm Biển Đông, dùng mọi cách thức nhằm hợp thức hóa chủ quyền “đường lưỡi bò” 9 đoạn, 10 đoạn thì người dân Việt Nam cũng như dư luận thế giới đều biết cả.

Nhưng họ có làm được điều đó hay không lại là chuyện khác, đâu có đơn giản thế. Họ vẽ ra theo ý muốn của họ nhưng dễ gì ai cho lấy hết biển đảo đó. Trung Quốc muốn ai đi qua Biển Đông cũng phải xin phép họ. Ý đồ của họ là như thế nhưng đâu có dễ. Không có chuyện đâu. Còn có quốc tế nữa chứ không riêng chi Việt Nam. Tàu Mỹ, tàu Nhật chở hàng hóa đi trên tuyến biển quốc tế như thế làm sao Trung Quốc có thể lục soát, ngăn cản họ được? Xảy ra chiến tranh ngay!

Đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam. Cuộc đấu tranh chủ quyền với Trung Quốc là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, nên phải hết sức bình tĩnh, kiên cường. Không nên để xảy ra tình trạng như vừa rồi ở một số địa phương, kéo nhau đi đốt phá khiến bây giờ đất nước đang khó khăn mà phải bỏ ra cả chục ngàn tỉ đồng để bồi thường. Yêu nước kiểu đó là phá hoại, là vi phạm pháp luật, là làm xấu hình ảnh Việt Nam. Không ai khuyến khích yêu nước kiểu như vậy cả!”.

HẢI CHÂU
(Infonet)


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Giáo sư Hồ Ngọc Đại: "Việt Nam tụt hậu 1-2 thế kỷ"

Nghe nói VN tụt hậu 2-3 thập kỷ đã kinh, giờ thì sốc vì giáo sư Hồ Ngọc Đại khẳng định "Việt Nam tụt hậu 1-2 thế kỷ", tức là tụt hậu 100-200 năm so với thế giới.

(GDVN) - Trong thế kỷ 21 này, ngành nào cũng có biến đổi và biến đổi nhanh chóng, nhưng có một ngành mãi vẫn lạc hậu và không thay đổi gì hết, đó là sư phạm. GS.TSKH Hồ Ngọc Đại - người đã từng từ chối làm Thứ trưởng để dạy tiểu học đã bình luận như vậy khi nói về vai trò của người thầy - yếu tố thiên cốt tạo nên sức sống của nền giáo dục.
GS.TSKH Hồ Ngọc Đại. Ảnh: Ngọc Quang.
"Ai cũng dạy được, thất cơ lỡ vận có chữ là dạy được"
GS Hồ Ngọc Đại nhận định: "Ngay từ những năm 60 của thế kỷ trước, khi chúng ta bắt đầu chuẩn bị cuộc cải cách giáo dục với nhiều ảo tưởng, Thủ tướng Phạm Văn Đồng hỏi về tôi cuộc cải cách giáo dục như thế nào? Tôi trả lời ngay: "Sẽ thất bại, vì chiến lược về nền giáo dục hiện đại dông dài, ly kỳ, khó hiểu. Cho đến bây giờ, Việt Nam chúng ta nếu nhìn về mặt triết học thì ngang bằng lịch sử, nhưng thực chất là đang tụt lùi 1-2 thế kỷ”.

Nếu đặt ra câu hỏi: Trước quá nhiều chuyện xấu xí của nền giáo dục, chúng ta phải chọn vấn đề gì cần phải làm trước để mở đường cho một cuộc cải cách? Hẳn bất cứ ai có hiểu biết về giáo dục đề sẽ trả lời: Cái lõi của sự đổi mới, không gì hơn được, đó chính là người thầy. Nếu người thầy năng lực không tốt, không mẫn cán mà nói vui là không chịu được áp lực "lái tàu cao tốc" thì hệ lụy là sẽ làm hỏng nhiều thế hệ học sinh. Nhưng dường như ngành giáo dục chưa có một kế hoạch đủ mạnh để thay đổi vai trò của người thầy. Do đó, GS Hồ Ngọc Đại đánh giá rằng, trong thế kỷ 21 này, ngành nào cũng có biến đổi và biến đổi nhanh chóng, nhưng có một ngành mãi vẫn lạc hậu và không thay đổi gì hết (kể cả nguyên tắc lý thuyết) đó là sư phạm.

“Đi đến đâu tôi cũng kể lại câu chuyện ông bố Kennedy mở lớp dạy cho trẻ con và nói rằng, dòng họ Kennedy sẽ làm tổng thống nước Mỹ. Nếu không làm Tổng thống nước Mỹ mà làm bất cứ nghề gì, kể cả đó là nghề móc cống thì cũng là người móc cống giỏi nhất nước Mỹ. Điều đó có nghĩa là xã hội đòi hỏi sự chuyên nghiệp hóa, nhưng chúng ta hiện nay không có tính chuyên nghiệp gì cả.

Khi nghiên cứu về tâm lý học, tôi thấy rất tự ái về nghề, vì rằng ai cũng làm giáo viên được cả, kể cả thất cơ lỡ vận có chữ là dạy được. Do đó, tôi muốn biến cái nghiệp vụ sư phạm thành công việc chỉ có thầy giáo mới làm được, ngoài ra không ai làm được”, GS Đại chia sẻ.

Đào tạo giáo viên dư thừa quá lớn
Song song với yêu cầu nâng cao chất lượng đời sống cho người thầy thì công tác tuyển sinh ngành sư phạm cũng phải siết thật chặt, không nên để điểm đầu vào quá thấp như mấy năm qua. Nói cách khác, những ai không xứng đáng thì cũng đừng đứng vào hàng ngũ người thầy.

PGS.TS Nguyễn Thám – Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Huế cho hay: “Tôi thống kê hiện nay có 43 trường sư phạm, hoặc các trường không sư phạm nhưng lại có khoa sư phạm đào tạo giáo viên, thậm chí có những trường không có khoa sư phạm cũng đào tạo giáo viên. Năm trước, chỉ tiêu đào tạo giáo viên của Bộ Giáo dục là 16 nghìn có ngân sách nhưng các trường ở địa phương thì tăng lên 25.500 chỉ tiêu. Dù chủ trương của Bộ Giáo dục là giảm chỉ tiêu đào tạo giáo viên, nhưng năm nay vẫn có tới 25.250 chỉ tiêu đào tạo ở tất cả các trường trên cả nước. Như vậy là quá dư thừa".

PGS.TS Nguyễn Thám - Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Huế đề nghị ngăn chặn sự phát triển ồ ạt đào tạo giáo viên. Ảnh: Ngọc Quang.

Trước thực trạng trên, PGS Nguyễn Thám đề nghị Chính phủ và Bộ Giáo dục cần phải ngăn chặn được sự phát triển ồ ạt vượt quá hệ thống các trường đào tạo giáo viên.

"Nếu không kiên quyết điều chỉnh lại hệ thống các trường đào tạo giáo viên, không kiên quyết giảm chỉ tiêu của các trường đào tạo giáo viên thì đừng nói đến chuyện. Tôi biết rằng chuyện này khó, nhưng phải kiên quyết làm cho được, đây là câu chuyện mang tầm quốc gia và nếu chỉ có riêng Bộ Giáo dục thì không thể làm được", PGS Thám nói.

Chia sẻ về những lo lắng này với PV Báo Giáo dục Việt Nam, GS Nguyễn Minh Thuyết - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng nhận định rằng "đào tạo vẫn rất nhiều và tuyển dễ dãi dẫn tới vàng thau lẫn lộn".

GS Thuyết đánh giá, chương trình - SGK hay trang thiết bị dạy học rất quan trọng, nhưng vai trò của nhà giáo luôn luôn là số một. Chính vì vậy, trong lần đổi mới này, chúng ta cần đổi mới công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, nếu không đổi mới được trước thì ít nhất cũng phải song song với đổi mới chương trình - SGK.

"Trước hết, cần đổi mới ở khâu tuyển sinh. Lâu nay, biện pháp miễn học phí cho sinh viên, học viên sư phạm đã tỏ ra hết hiệu lực, không hấp dẫn được học sinh giỏi như trước nữa; bởi vì được miễn vài triệu đồng học phí, lúc ra trường phải chạy hàng trăm triệu đồng mới có một chỗ dạy học thì thầy cô lương ba cọc ba đồng lấy tiền đâu để bù vào khoản “tiêu cực phí” ấy? Chi bằng họ chọn nghề khác, tuy lúc ra trường vẫn phải “chạy việc” nhưng khả năng kiếm thêm, bù lại vẫn nhiều hơn. Để hấp dẫn người giỏi vào ngành sư phạm, theo tôi, Nhà nước cần xác định được tương đối chính xác nhu cầu giáo viên để không đào tạo tràn lan và đảm bảo công ăn việc làm cho giáo sinh lúc ra trường. Xác định điều này hoàn toàn không khó khi đã có số liệu về trường, lớp, môn học, số trẻ sinh ra mỗi năm…

Sau khâu tuyển sinh là phương thức đào tạo. Công tác đào tạo ở các trường sư phạm phải gắn với đơn vị sử dụng lao động. Giáo sinh chỉ nên dành tối đa 60% thời gian học ở trường sư phạm, còn 40% thời gian học ở trường phổ thông. Có như vậy thì đào tạo mới gắn liền với thực tế, giáo viên mới giỏi được", GS Thuyết chia sẻ.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chủ Nhật, 28 tháng 9, 2014

VN tăng trưởng đứng thứ hai thế giới?



-"Ngay cả các tổ chức cũng nặng về đánh giá những thành tựu mà VN đạt được. Nếu VN cứ tự hào là đạt mức tăng trưởng đứng thứ hai thế giới thì còn cần gì phải thay đổi nữa", chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nói.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan. Ảnh Lê Anh Dũng
LTS: Đầu tháng 9 vừa qua, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Chủ tịch Hội đồng quốc gia về Phát triển bền vững và Nâng cao năng lực cạnh tranh cùng Phó Chủ tịch Ngân hàng Thế giới (WB) Axel van Trotsenburg đã chủ trì cuộc họp lần thứ nhất về Báo cáo Việt Nam 2035. Tuần Việt Nam đã có cuộc trao đổi với bà Phạm Chi Lan, chuyên gia kinh tế độc lập, một trong những người được mời tham gia báo cáo này.
Tầm nhìn Việt Nam tới 2035
Bà Phạm Chi Lan chia sẻ:
Cách đây 3 năm, với sự hợp tác của các chuyên gia Trung Quốc, WB đã tham gia vào Báo cáo "Trung Quốc 2030".
Khi WB có cung cấp cho VN bản báo cáo, ta thấy cách làm đó cũng hay. Bởi báo cáo đó tuy không được lãnh đạo Trung Quốc sử dụng nhiều, nhưng xã hội lại coi đó là bản tham khảo và đối chiếu quan trọng để từ đó có những quyết định riêng cho mình để phát triển.
Chủ tịch WB Jim Yong Kim tới Việt Nam cách đây 2 tháng. Trong chuyến đi này, ông có gặp lãnh đạo của Việt Nam, Thủ tướng có đặt vấn đề nếu WB có thể giúp VN làm một báo cáo tương tự như vậy thì rất tốt, để có thể nhìn thấy xa hơn tương lai của VN và những giải pháp cụ thể.
Điểm khác là lần này dự kiến đặt tầm nhìn đến 20 năm, và đặt thẳng những mục tiêu cụ thể trong từng giai đoạn, chứ không hẳn chỉ đưa ra tầm nhìn chung chung. 
Báo cáo sẽ tập trung các chỉ tiêu kinh tế là chính?
Vẫn có sự liên hệ với các chỉ tiêu xã hội. Bởi vì trong các trục tăng trưởng sẽ có: phát triển dài hạn, tăng trưởng bao trùm, và câu chuyện thể chế.
Tăng trưởng bao trùm nói lên rất nhiều về xã hội, đúng theo xu hướng chung của thể giới hiện nay, thậm chí tăng trưởng bao trùm được đưa vào trong các đàm phán thương mại.
Với trục thứ ba là thể chế, những người chủ trì cho rằng cải cách thể chế cực kỳ quan trọng, do đó phải xây dựng hệ thống thể chế như thế nào để thực hiện những mục tiêu đặt ra. Sức mạnh của xã hội và hệ thống DN chỉ có thể phát triển được khi có một hệ thống thể chế tương ứng.
Quan điểm của Thủ tướng trong các phát biểu gần đây coi "nhà nước kiến tạo phát triển" đã nói rõ tư tưởng này.
Những người tham gia sẽ chuẩn bị các khâu quan trọng nào?
Trước hết phải nhìn nhận hiện nay VN đang ở đâu, thành tựu đạt được và những vấn đề  trở ngại.
VN lâu nay đưa ra các báo cáo nặng phần thành tích,  những mặt chưa đạt được thì đề cập ở qui mô nhỏ hơn nhiều.
Trong khi, cũng tham gia vào cuộc họp vừa rồi, người đại diện cho Malaysia chia sẻ kinh nghiệm, họ đã đưa ra những nguyên nhân tại sao nước họ chậm phát triển... Để rồi từ đó thiết kế một mô hình kinh tế mới.
Tăng trưởng 9% trong 2 thập kỷ tới?
Bà nghĩ sao về việc WB đánh giá suốt 20 năm qua VN đạt mức tăng trưởng 5,7%, và đứng thứ hai thế giới (sau TQ)?
Đó vẫn là chuyện nặng thành tích. Nếu VN cứ tự hào là đạt mức tăng trưởng đứng thứ hai thế giới thì còn cần gì phải thay đổi nữa?
Tôi đã góp ý là nên có một cách nhìn thẳng thắn và phê phán hơn về VN, chủ yếu bắt được đúng bệnh thì mới nghĩ ra phương thuốc chữa bệnh.
Và câu nói của người chủ trì cuộc họp là VN trong 20 năm tới phải tăng trưởng 9% mới hy vọng thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình chính là câu trả lời cho cách nhìn nhận nặng về thành tích?
Phó Thủ tướng có nói rằng VN muốn đi theo đường của những con rồng như Hàn Quốc, hay Đài Loan, tôi nhắc lại là "đi theo đường" chứ không phải "bắt kịp" như nhiều báo có đưa tin, thì phải tăng trưởng trung bình 9% một năm trong 20 năm tới. "Đi theo đường" tức là vượt lên chứ không rơi vào bẫy thu nhập trung bình, chứ còn làm sao bắt kịp được.
Hơn nữa, tăng trưởng 5,7% của VN vẫn trên cơ sở là một nước nghèo, tăng như vậy chỉ bằng tương đương với 2-3% tăng trưởng của các nước xung quanh ta thôi.
Phạm Chi Lan, tăng trưởng, WB, chuyên gia kinh tế
VN hy vọng các tập đoàn kinh tế sẽ là những quả đấm thép làm đối trọng với các công ty đa quốc gia mà VN đang thu hút vào nhằm thu hút công nghệ và tăng hàm lượng giá trị gia tăng
Tăng trưởng chỉ lóe sáng khi mới vào WTO
Bà đánh giá thế nào về khả năng nói trên, khi mà trong những điều kiện thuận lợi nhất VN cũng chỉ đạt mức tăng trưởng 7,5 đến 8%?
Trong 5 năm thuận lợi nhất trước thềm tham gia WTO (2002-2006), khi có Hiệp định Thương mại song phương với Mỹ và Luật Doanh nghiệp với sự ra đời của hàng loạt doanh nghiệp trong nước, có sự thay đổi về thể chế để chuẩn bị tham gia Tố chức Thương mại Thế giới (WTO), và có cả triển vọng tham gia WTO để thu hút đầu tư nước ngoài, cũng như sự phục hồi của khu vực Đông Nam Á sau cuộc khủng hoảng cuối thập kỷ '90, VN chỉ tăng trưởng được trung bình 7,5%.
VN chỉ có lóe sáng lên trong năm 2007, năm đầu tiên khi gia nhập WTO, khi mức tăng trưởng đạt 8,46%, nhưng chỉ là phút lóe sáng lên rồi phụt tắt khi thế giới bước vào khủng hoảng.
Đây là xuất phát điểm để bà có cách nhìn nhận lại giai đoạn vừa rồi của VN?
Đúng vậy.  Sau một số năm, thế giới đi vào ổn định dần thì VN vẫn không tận dụng được sự ổn định đó, và kinh tế VN lại chìm sâu hơn vào khủng hoảng với tăng trưởng GDP giảm dần.
Những tác động tích cực của hệ thống thể chế đã xây dựng được trong thời gian chuẩn bị gia nhập WTO, trong thực tế, không còn đủ để thúc đẩy kinh tế phát triển lên nữa. Thay vì thực hiện tốt những thể chế và những luật mà WTO quy định, VN lại quay trở lại những chủ trương chính sách chưa hợp lý.
Như, việc khẳng định trở lại vai trò của DNNN, nhất là việc hình thành các tập đoàn kinh tế lớn, đã ảnh hưởng tới việc phân bổ nguồn lực, làm cho nguồn lực của đất nước bị dồn vào một thiểu số.
VN hy vọng các tập đoàn kinh tế sẽ là những quả đấm thép làm đối trọng với các công ty đa quốc gia mà VN đang thu hút vào nhằm thu hút công nghệ và tăng hàm lượng giá trị gia tăng. Nhưng lẽ ra VN phải cải thiện mình ở hệ thống thế chế cũng như tăng cường sự phát triển của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) để hình thành chuỗi cung ứng, gắn kết với các công ty đa quốc gia và cùng với họ đi lên, thì VN lại tập trung phát triển tập đoàn kinh tế, với mọi nguồn lực và ưu đãi chính sách tập trung vào đó.
Nguồn lực tài chính cũng tập trung vào tập đoàn, các quỹ đầu tư gián tiếp nước ngoài tập trung vào phát triển hai lĩnh vực đầu cơ chính là chứng khoán và bất động sản, tạo nên hai bong bóng lớn, thay vì đầu tư vào lĩnh vực sản xuất.
Chứng khoán là lĩnh vực để thu hút vốn cho các DN trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ thì lại trở thành một thứ đầu cơ. Kể cả các công ty sản xuất công nghiệp khi thu hút được vốn từ chứng khoán lại đem đầu cơ vào BĐS.
Do nguồn lực dồn vào BĐS,  nên khi bong bóng nổ thì làm tê liệt cả nền kinh tế,  vấn đề nợ xấu cũng như đóng băng BĐS vẫn chưa gỡ ra được, ảnh hưởng đến NH và DN.  Điều đó lý giải chuyện trong 4-5 nay, mỗi năm có hàng vạn DN đóng cửa.
Một điểm cần nhấn mạnh nữa là chủ nghĩa thân hữu đang ngự trị ở VN, làm méo mó đi chiến lược qui hoạch chính sách của nhà nước.
(Còn nữa)
Huỳnh Phan(Thực hiện)
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tư liệu Lại Nguyên Ân:

ĐI TÌM NHỮNG TÁC PHẨM ĐẦU TAY
CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG

Đầu năm 2000 tôi có dịp thông tin với đồng nghiệp trong giới viết văn, nghiên cứu, phê bình và bạn đọc đông đảo về trên hai chục tác phẩm đăng báo của nhà văn Vũ Trọng Phụng được tiến sĩ sử học Peter Zinoman lần đầu tiên tìm lại.(1) Những tác phẩm ấy, ngay sau đó tôi đã tập hợp thành một tập bản thảo với nhan đề chung: Vẽ nhọ bôi hề, dự kiến đem in sớm để bù đắp những thiếu hụt trong bộ Toàn tập Vũ Trọng Phụng 5 tập (2) vừa ra mắt rải rác từ cuối 1999 đến giữa năm 2000. Khi bản thảo Vẽ nhọ bôi hề đã xuống nhà in nhưng chưa ra thành sách, tháng 10/2000 tôi có chuyến đi thăm và tìm tài liệu ở vài thư viện đại học Mỹ. Mục tiêu sưu tầm của tôi lần này không nhằm chủ yếu vào tác giả Vũ Trọng Phụng. Tuy vậy, trong khi đọc lại các sưu tầm báo tiếng Việt trước 1945, tôi lại tìm thấy thêm được một số tác phẩm nữa của chính tác giả này, tôi cũng bắt gặp một số tư liệu có thể gợi mở thêm cho việc đi tìm những tác phẩm chưa tìm thấy của nhà văn họ Vũ.

Vũ Trọng Phụng làm thơ?
Tôi thật sự bị bất ngờ khi bắt gặp ở mục Văn uyển của tuần báo Phụ nữ tân văn, xuất bản tại Sài Gòn, số 62 ra ngày 24/7/1930 một chùm liền hai bài ca, một bài theo điệu Vọng cổ hoài lang nhan đề Người đi, một bài theo điệu Tây Thi nhan đề Kẻ ở ký tên tác giả Vũ Trọng Phụng. Trừ một dấu hỏi có lẽ thợ nhà in xếp nhầm (ở người Việt chỉ có họ Vũ, không có họ Vủ), ta không có gì để ngờ vực về họ tên tác giả. Ta chỉ có quyền giả định phải chăng đây là một Vũ Trọng Phụng khác, không phải Vũ Trọng Phụng tác giả Giông tố, Số đỏ...? Tuy nhiên nghi vấn này là điều gần như vô ích, vì cùng thời với tác giả này hầu như không xuất hiện một cây bút cùng họ cùng tên nào khác.

Với những gì đã biết từ ngòi bút Vũ Trọng Phụng, nếu ta có thể hình dung được rằng ông đúng là soạn giả hai bài ca này? Tôi cho là có thể. Chúng ta biết, qua ngòi bút Nguyễn Tuân, rằng Vũ Trọng Phụng là một tay đàn nguyệt loại . . . được. (3) Còn qua các tác phẩm của chính họ Vũ, người ta thấy cây bút văn xuôi này không hề non tay khi phải tạo ra các loại văn vần để gán cho các nhân vật của mình, chẳng hạn bài văn tế Ba Mỹ Ký trong Cạm bẫy người (nhân vật soạn giả là ký Vũ, cái tên này có chỉ dẫn điều gì dính dấp tên tác giả chăng?), hoặc mấy bài hát chèo trong Cơm thầy cơm cô, rồi bài ca trù trong Người tù được tha...

Vậy thì nếu chính Vũ Trọng Phụng có soạn vài bài ca theo các điệu hát Nam, cũng không phải là điều lạ (gần đây nhân xem lại biên bản thảo luận hồi 1960, tôi thấy ghi lời Vũ Đình Liên nói việc Vũ Trọng Phụng có bài vọng cổ đăng Phụ nữ tân văn. Vậy đích xác đây là tác phẩm của họ Vũ). Trong hai bài ca vừa tìm thấy này, Người đi là lời một lữ khách phiêu lưu xa nhà vì đang đeo đuổi danh phận. Kẻ ở là lời người chốn phòng the, một khúc “khuê oán”.

Với hai bài ca này, tác giả Vũ Trọng Phụng hiện diện như người soạn vở cho sân khấu ca nhạc, lời ca đầy những ước lệ của thơ văn truyền thống. Ở đây chưa hề xuất hiện cái định hướng “tả chân”. Nhưng đây là văn bản đăng báo năm 1930, có thể thuộc loại những bài đăng báo sớm nhất của tác giả Vũ Trọng Phụng.

Chùm bài vở đăng Hà thành Ngọ báo
Nhiều người trong giới còn nhớ, khoảng năm 1989, giáo sư Đỗ Tất Lợi trong một chuyến đi Pháp ra tìm mang về tặng thân nhân nhà văn Vũ Trọng Phụng bản chụp 3 truyện ngắn đăng Hà thành Ngọ báo (gọi tắt là Ngọ báo)  năm 1931-32: Một cái chết, Bà lão lòa, Con người điêu trá.
Biết nguồn Ngọ báo là đáng kể nên khi trên thư viện đại học Berkeley, thấy có vi phim Ngọ báo, tôi đem đọc ngay. Phải nói cách làm báo những năm 1930 thường ưu đãi những người đã nổi tiếng và hầu như bạc đãi các cây bút mới, điều này bộc lộ ngay ở cách xếp chữ. Phải rất tinh mới nhận ra bài của tác giả Vũ Trọng Phụng trên tờ này. Ví dụ truyện Thủ đoạn đăng 3 kỳ báo trong mục Mặt trái đời. Kỳ đầu tiên bút danh tác giả còn bị in lầm thành Nguyễn Trọng Phụng, hai lần sau mới sửa đúng là họ Vũ; tên tác giả chỉ được xếp bằng cỡ chữ nhỏ ở tận cuối bài. Đến truyện Cô Mai thưởng xuân vẫn trong mục Mặt trái đời, tên tác giả vẫn đặt cuối bài bằng cỡ chữ thường vả nhỏ như thế, nhưng chỉ sau đó hai tuần, đến truyện Một cái chết in trong mục Câu chuyện thứ hai thì tên tác giả đã được xếp chữ hoa và đặt ngay dưới tên truyện; nghĩa là đến đây thì tên tuổi tác giả đã có lợi cho tờ báo, và thế là tòa báo tìm ngay ra cách cho người đọc dễ nhận ra tên tác giả.

Đến đây, tôi xin có sự bổ chính nhỏ về tư liệu trước bạn đọc và giới nghiên cứu: Trong lần đọc vi phim Ngọ báo nói trên (tháng 10/2000) tôi đã  nghĩ bài đăng đầu tiên của Vũ Trọng Phụng trên tờ này chính là truyện ngắn Thủ đoạn, và điều này được tôi thể hiện trong sưu tập Chống nạng lên đường lần trước (in và phát hành quý I/2002). Tháng 7/2002, được đọc bản in Ngọ báo  ở Thư viện Quốc gia Hà Nội, tôi tìm thấy 2 bài ký Vũ Trọng Phụng đăng Ngọ báo năm l930: truyện Uyên ương và tiểu luận Nghề diễn kịch nên chấn hưng. Như thế, cùng với hai bài ca đăng Phụ nữ tân văn (Sài Gòn), ta biết thêm hai bài nữa của Vũ Trọng Phụng đăng báo trong năm l930. Phải chăng đây là những tác phẩm công bố sớm nhất của ông?

Tôi đã thông kê, thấy mình tìm được 14 tên tác phẩm ký Vũ Trọng Phụng đăng Ngọ báo, cộng với 3 truyện ông Đỗ Tất Lợi tìm thấy từ trước là 17 tác phẩm, trong số này có 3 tác phẩm đăng vào mục "Mặt trái đời"(Thủ đoạn, Cô Mai thưởng xuân, Phép ông láng giềng); 6 tác phẩm đăng vào mục ''Câu chuyện thứ hai" (Một cái chết, Bà lão loà, Chống nạng lên đường, Cái tin vặt, Nhân quả, Con người điêu trá); 5 tác phẩm đăng vào mục “Chuyện Ngọ báo” (Uyên ương, Bẫy tình, Điên, Tội người cô, Câu chuyện của nhà văn sĩ vô danh); 1 kịch vui (Bên góc giường); 2 tiểu luận (Nghề diễn kịch nên chấn hưng; Hiu quạnh). Bên cạnh các sáng tác, trong số này có một số tác phẩm dịch: Điên, Hiu quạnh đều ghi rõ xuất xứ là dịch của Guy de Maupassant; Con người điêu trá tuy không ghi xuất xứ, nhưng tôi tin chắc là phỏng theo một truyện ngắn Guy de Maupassant mà độc giả ở miền Bắc hồi những năm 1960 từng được đọc bản dịch dưới nhan đềChuỗi hạt trai giả.

Điều đáng lưu ý là từ sau Con người điêu trá đăng Ngọ báo giữa tháng 3/1932, không thấy xuất hiện tên Vũ Trọng Phụng trên Ngọ báo nữa. Tháng 2/1934 Ngọ báo đăng bài của Thái Phỉ điểm sách Cạm bẫy người của Vũ Trọng Phụng. Nhà phê bình Thái Phỉ cho biết răng: Vũ Trọng Phụng đã ra mắt độc giả Ngọ báo “bằng những bài đoản thiên tiểu thuyết có tính cách tả chân”, rằng cây bút trẻ này là tín đồ của Flaubert và Maupassant. “Sau khi phải ra đối đáp với thần công lý về một bài đoản thiên tiểu thuyết có tính cách khiêu dâm đăng trong tập văn Tiếng chuông, ông quay ra bình phẩm kịch. Song chừng như thấy đó cũng chưa phải là con đường cho mình theo, ông Vũ Trọng Phụng liền ngả về lối ký sự”.(4)

Những điều Thái Phỉ đương thời viết như trên, đối với chúng ta giờ đây, là những thông tin rất đáng chú ý. Chuyện Vũ Trọng Phụng bị gọi ra toà hẳn là có thật. Tập sách Tiếng chuông nay chưa tìm thấy, không rõ thiên truyện Vũ Trọng Phụng in trong đó là truyện nào. Tôi ngờ là truyện Thủ đoạn, kể về một viên thư ký quá tận tuỵ với sếp của mình, không chỉ ở sở mà ngay khi sếp đã về nhà. Từ bồi tiêm đến tìm gái cho sếp đều một tay anh ta. Do thuyết phục vợ (vốn là một gái điếm hoàn lương) hiến thân cho chủ mình không được, nhiều lần chính anh ta phải hiến thân cho sếp và trò làm tình đồng giới lạ lùng ấy đã không thoát khỏi những cặp mắt tò mò nhòm qua lỗ khoá của mấy bác bồi…Còn cô vợ anh ta, do bị chồng sỉ nhục nặng nề, đã tự tử. Tôi nhớ trong mấy bài đăng hồi 1957, ông Thiều Quang đã nhắc đến vụ việc xảy ra với truyện ngắn có yếu tố homosexualle này.(5)Nhưng có giá trị hơn cả trong số các truyện đăng Ngọ báo này của Vũ Trọng Phụng, theo tôi làChống nạng lên đường và Cái tin vặt. Chống nạng lên đường kể chuyện một chú bé nhà ở Gia Lâm đi kéo xe tay bị ô tô cán gẫy chân, rồi bị anh ruột ruồng rẫy, cha mẹ già không dám cưu mang, phải bỏ nhà, “chống nạng lên đường” qua cầu Long Biên vào thành phố, chưa biết sẽ trở thành cái gì: người ăn xin hay gã ăn cắp. Cái tin vặt kể lịch trình một chuyện chiếm con hại người của một nhà giàu ở thị trấn Yên Viên, có những tình tiết có lẽ ít nhiều báo trước một phần cốt truyện Giông tố.


Chùm tiểu luận, dịch thuật với bút đanh Phụng Hoàng
Gần như cùng lúc với chùm truyện sáng tác và dịch thuật kể trên của Vũ Trọng Phụng, trên Ngọ báo xuất hiện một số bài với bút danh Phụng Hoàng. Tôi tìm thấy 5 bài, trong đó 2 bài dịch G. de Maupassant (Tư cách nhà phê bình; Lối viết chuyện của phái tả chân), 3 bài còn lại đều liên quan đến việc đọc và dịch văn học Pháp: Một ông thầy cãi của nhà làm thơ tóm lược ý của Alfred de Vigny về Chatterton trong vở kịch cùng tên; Một cái án văn chương nói việc nhà văn Pháp J. Richepin tự bào chữa khi bị toà án tuyên phạt về tác phẩm Chansons des gueux; Cái đặc tính của kịch lãng mạn nêu đặc điểm kịch lãng mạn của V. Hugo thể hiện trong vở Lucrece Borgia.

Ngay khi đọc lần đầu, tôi thấy 5 bài này liền mạch với các bài ký Vũ Trọng Phụng (ví dụ cũng là dịch G. de Maupassant hoặc truyện hoặc tiểu luận, chỉ khác ở cái tên ký dưới dịch phẩm). Hơn nữa các bài này đều có những chỗ tương ứng với những tác phẩm đã biết (đã tìm thấy từ trước) của Vũ Trọng Phụng (ví dụ ý về kịch lãng mạn sẽ được nhắc lại ở “mấy lời của người xuất bản” trong bản in kịch Lucrece Borgia, bản dịch nhan đề Giết mẹ (Dịch thuật tùng thư, Hà Nội, l936); ý trong bàiMột ông thầy cãi của nhà làm thơ sẽ được Vũ Trọng Phụng nhắc lại trong bài vĩnh biệt Tản Đà, đăng Tiểu thuyết thứ Năm tháng 8/1939).

Một điểm nữa đáng lưu ý là khi Vũ Trọng Phụng thôi cộng tác với Ngọ báo thì bút danh Phụng Hoàng cũng không thấy xuất hiện trên tờ báo ấy nữa. Việc tôi tin bút danh Phụng Hoàng trong 5 bài kể trên là của Vũ Trọng Phụng, gần đây, đang được cúng cố thêm. Bạn Anh Chi (người đã và đang sưu tầm để khôi phục toàn bộ tạp chí Tiểu thuyết thứ Năm, trong đó có đăng truyện Quý phái và một số bài báo khác của Vũ Trọng Phụng) hồi cuối tháng 11/2000 cho tôi biết ông Phạm Quang Hòa, một người có tham gia viết báo viết văn ở Hà Nội thời 1930 - 1945 từng bảo với Anh Chi rằng Vũ Trọng Phụng còn có bút danh Phụng Hoàng.

Như vậy, tôi nghĩ có thể nói lời khẳng định đối với chùm 5 bài tiểu luận, dịch thuật ký Phụng Hoàng: đó là tác phẩm của Vũ Trọng Phụng.

Chùm tiểu luận, dịch thêm này cho ta thấy ở nhà văn trẻ này sớm phát triển một ý thức lý luận, song song với thử nghiệm sáng tác. Ta cũng sẽ thấy qua đây cái định hướng chủ nghĩa tả chân ở nhà văn này là sớm sủa, sâu sắc, và được ông ý thức cả ở bình diện kỹ thuật chứ không chỉ ở các phương diện nhận thức lý thuyết và cảm hứng xã hội.

Ngoài chùm bài ở Ngọ báo nói trên, tôi còn tìm được một vài tác phẩm nữa của Vũ Trọng Phụng trên các báo Loa (hài kịch Lễ Tết), Phụ nữ thời đàm (2 kỳ III và IV phóng sự Vẽ nhọ bôi hề). (6)

 Đối với tác phẩm của Vũ Trọng Phụng mà tôi vừa tìm thấy lại này, tôi nghĩ tốt nhất là sớm công bố nhanh làm tài liệu cho giới nghiên cứu và các bạn đọc yêu văn học. Tập sách mỏng với nhan đềChống nạng lên đường này được biên soạn trong mục đích nói trên.

Tập Chống nạng lên đường này cũng như tập Vẽ nhọ bôi hề ra mắt năm trước, là những sưu tập bổ sung cho bộ sách 5 tập nhan đề Toàn tập Vũ Trọng Phụng, vì vậy tôi cũng chú ý đưa thêm vào đây những văn bản tác phẩm mới được các đồng nghiệp khác tìm thấy lại. Nhà thơ Anh Chi cung cấp cho tôi 4 kỳ truyện dài Quý phái của Vũ Trọng Phụng trên Tiểu thuyết thứ Năm; kỹ sư Nguyễn An Kiều cung cấp cho tôi truyện Anh em họ, đăng sách Chơi xuân năm Ất Hợi 1935, tác phẩm mà 2 năm sau Vũ Trọng Phụng sửa chữa và đăng Đông Dương tạp chí với nhan đề Lòng tự ái... Đọc kỹ truyện Anh em họ, ta sẽ thấy chất sống ở đây dồi dào hơn, vả lại ở Anh em họ dường như phảng phất có những chi tiết tự truyện dù khá kín đáo. Rất mong rồi đây sẽ nhận được từ  đồng nghiệp và các bạn đọc những đóng góp tương tự để thu hẹp dần khoảng trống vắng những tác phẩm chưa tìm thấy của 'nhà văn Vũ Trọng Phụng.
*
Việc tìm lại thêm được tác phẩm bị quên của một tác giả không khép lại danh mục tác phẩm và các vấn đề về sáng tác của tác giả ấy. Ngược lại, những phát hiện tương tự đặt giới nghiên cứu trước những giới hạn mới, do có những thông tin mới.

Đối với văn học chữ quốc ngữ ở thế kỷ XX, cho đến nay dường như rất ít tác giả của bộ phận văn học này được giới nghiên cứu soạn thảo cho họ những bản thống kê các tác phẩm từng đăng báo, in sách. Ấy thế mà mươi năm gần lại đây, giới làm sách lại rất khoái làm tuyển tập thậm chí toàn tậpcho họ. Có một sự chênh lệch khá rõ giữa sự hiểu biết khá hạn hẹp của chúng ta và ý đồ thường quá to tát của chính chúng ta. Đây có lẽ là một trong những lý do cắt nghĩa cái chất lượng thường là thấp thậm chí rất thấp của số đông các loại sách tập hợp tác phẩm được gọi là tuyển tập, toàn tập.

Kinh nghiệm làm biên tập sách Toàn tập Vũ Trọng Phụng hồi năm 1999 cho tôi một bài học. Dù đã cố gắng khuyên can, tôi vẫn không thể ngăn ý thích dùng tên sách "Toàn tập" của nhiều phía: phía làm sách, kinh doanh sách, phía gia đình tác giả. Thế nhưng, vừa làm xong cả bộ sách gọi là "toàn tập" thì có người phát hiện cho vài chục tác phẩm sau đó, chính mình đi tìm và lại thấy thêm vài chục tác phẩm nữa! Quả là sự giễu cợt của thực tế tư liệu đối với các ý đồ đóng khuôn thành các bộ sách to và dày nhân danh sự bao quát ''toàn bộ".

Quá trình tìm lại các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng cho đến hiện nay, tôi xin quả quyết nói rằng: vẫn chưa hoàn tất. (*)
       
 Tháng Năm 2004

(*)  Bài này là lời nói đầu cuốn sưu tập nhan đề Chống nạng lên đường (các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng do Lại Nguyên Ân sưu tầm), Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội, in lần thứ nhất 2002; in lần thứ hai có bổ sung 2004.  
(1) Xem: Lại Nguyên Ân, Những tác phẩm mới thấy của Vũ Trọng Phụng // Thế giới mới (Tp Hồ Chí Minh) số 375 (28/2/2000); Tạp chí văn học (Hà Nội) số 4 (tháng 4/2000); Tạp chí Nhà văn (Hà Nội) số 3 (tháng 5 và 6/2000).

(2) Bộ Toàn tập Vũ Trọng Phụng này gồm 5 tập, tập 2 ra mắt tháng 10/1999, các tập 1, 3, 4, 5 ra mắt trong quý II/2000, sách do Nxb Hội Nhà văn xuất bản.
(3) Nguyễn Tuân, Một đêm họp đưa ma Phụng //Tao đàn lớp mới (Hà Nội) số 1, Décembre 1939.
(4) Thái Phỉ, Qua các hàng sách: Cạm bẫy người của Vũ Trọng Phụng// Ngọ báo số 1939, ra ngày thứ năm 2/2/1934.
(5) Xem: Thiều Quang, Chút ít tài liệu về Vũ Trọng Phụng // Tập san phê bình số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng. Tác giả xuất bản, Nhà in Minh Quang, Hà Nội, 1957, tr.3-4.
(6) Sau đây là thư mục của các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng mà tôi mới phát hiện lại. (Tôi ghi 3 truyện do Đỗ Tất Lợi tìm thấy năm 1989 vào mạch bài vở của nhà văn đăng Ngọ báo, nhưng không đánh số, vì nằm ngoài các bài vở do tôi tìm thấy lần này):
1. Vũ Trọng Phụng – Người đi (bài ca điệu Vọng cổ hoài lang); Kẻ ở (bài ca điệu Tây Thi) // Phụ nữ tân văn, Sài Gòn s.62 (24/7/1930).
2. Vũ Trọng Phụng – Uyên ương // Ngọ báo, H., s.955 (13 và 14/10/1930.
3. Vũ Trọng Phụng – Nghề diễn kịch nên chấn hưng // Ngọ báo, H., s.965 (25/10/1930).
4. Vũ Trọng Phụng – Thủ đoạn // Ngọ báo, H., s.1038 (25/1/1931), s.1039 (27/1/1931), s.1040 (28/1/1931).
5. Vũ Trọng Phụng – Cô Mai thưởng xuân // Ngọ báo, H., s.1064 (1/3/1931).
* Vũ Trọng Phụng – Một cái chết // Ngọ báo, H., s.1077 (16 và 17/3/1931).
* Vũ Trọng Phụng – Bà lão loà // Ngọ báo, H., s.1095 (7 và 8/4/1931).
6. Vũ Trọng Phụng – Phép ông láng giềng // Ngọ báo, H., s.1111 (26/4/1931).
7. Vũ Trọng Phụng – Bẫy tình // Ngọ báo, H., s.1172 (11/7/1931); s.1173 (12/7/1931).
8. Vũ Trọng Phụng – Chống nạng lên đường // Ngọ báo, H., s.1196 (10 và 11/8/1931); s.1197 (12/8/1931)
9. Vũ Trọng Phụng – Điên (dịch truyện Fou của G. de Maupassant) // Ngọ báo, H., s.1204 (21/8/1931); s.1205 (22/8/1931).
10. Vũ Trọng Phụng – Cái tin vặt // Ngọ báo, H., s.1231 (22.9.1931).
11. Vũ Trọng Phụng – Bên góc giường (hài kịch) // Ngọ báo, H., s.1236 (27/9/1931).
12. Phụng Hoàng – Tư cách nhà phê bình (dịch của G. de Maupassant) // Ngọ báo, H., s.1267 (3 và 4/11/1931).
13. Phụng Hoàng – Lối viết chuyện của phái tả chân (lược dịch G. de Maupassant)  //  Ngọ báo, H., s.1271 (8/11/1931).
14. Phụng Hoàng – Một ông thầy cãi của nhà làm thơ // Ngọ báo, H., s.1282 (22/11/1931).
15. Vũ Trọng Phụng – Nhân quả // Ngọ báo, H., s.1307 (21 và 22/12/1931).
16. Phụng Hoàng – Một cái án văn chương // Ngọ báo, H., s.1333 (23/1/1932).
17. Phụng Hoàng – Cái đặc tính của kịch lãng mạn // Ngọ báo, H., s.1337 (28/1/1932).
18. Vũ Trọng Phụng – Tội người cô // Ngọ báo, H., s.1341 (1 và 2/2/1932).
19. Vũ Trọng Phụng – Câu chuyện của nhà văn sĩ vô danh // Ngọ báo, H., s.1360 (29/2 và 1/3/1932); s.1361 (2/3/1932).
20. Vũ Trọng Phụng – Hiu quạnh (ý nghĩ đau đớn của một nhà văn; dịch Solitude của G. de Maupassant) // Ngọ báo, H., s.1368 (10/3/1932).
*   Vũ Trọng Phụng – Con người điêu trá // Ngọ báo, H., s.1372 (14 và 15/3/1932).
21. Vũ Trọng Phụng – Lễ Tết (hài kịch) // Loa, H., s. 3 (1/3/1934).
22. Vũ Trọng Phụng – Vẽ nhọ bôi hề: III. Đổng Trác trong áo sa-tanh // Phụ nữ thời đàm, tập mới, H., s. 25 (29/5/1934); IV. Biểu tượng với tả chân // Phụ nữ thời đàm, tập mới, s.26 (6/6/1934).


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trung Quốc sắp đưa nhà máy cá khổng lồ ra Trường Sa

 - 

Một căn cứ phi pháp của Trung Quốc tại bãi Vành khăn.
Một căn cứ phi pháp của Trung Quốc tại bãi Vành khăn.
Trung Quốc chuẩn bị tạo sóng ở biển Đông bằng việc triển khai một siêu tàu cá ra bãi Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa (Việt Nam). Đây là thông tin mà tờ nhật báo khoa học Trung Quốc có trụ sở tại Bắc Kinh loan báo và được Want China Times trích dẫn lại.
Want China Times cho biết tàu cá này có tải trọng 200.000 tấn với chức năng là xử lý cá sống và có thể coi nó là một nhà máy chế biến cá di động của Trung Quốc. Con tàu này được giới khoa học Trung Quốc hy vọng sẽ giúp ngư dân tiện lợi trong việc khai thác cá ở biển Đông.
Trên tờ Nhật báo khoa học Trung Quốc, ông Lôi Tễ Lâm - một nhà nghiên cứu thủy sản ở Hoàng hải thuộc Viện Hàn lâm Khoa học thủy sản Trung Quốc nói rằng: "bảo vệ biên giới quốc gia" không phải là nhiệm vụ duy nhất với các nhà lãnh đạo Trung Quốc.
Ông Lôi còn cho rằng giới lãnh đạo cần phải nhận thức được tầm quan trọng của việc khai thác tài nguyên thiên nhiên đúng cách. Do vậy, Trung Quốc đã mua một tàu chở dầu 200.000 tấn và cải tạo nó thành tàu chế biến cá sống.
Ngoài việc làm "trại cá", ông Lôi còn nói rằng nó còn có thể đóng vai trò như một cơ sở hậu cần cho tàu dân sự và quân sự Trung Quốc hoạt động ở nam biển Đông. Ông Lôi cũng nói nếu kế hoạch dùng tàu cá 200.000 tấn ở bãi Vành khăn thành công thì Trung quốc nên triển khai nhân rộng khắp biển Đông và Hoa Đông, dưới sự bảo vệ của hải quân Trung Quốc.
Nếu những gì mà Nhật báo khoa học Trung Quốc viết là chính xác thì có thể coi đây là hành động leo thang của Trung Quốc tại Biển Đông sau khi họ đưa giàn khoan Haiyang Shiyou 981 ra thăm dò trái phép trên vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ đầu tháng 5 đến giữa tháng 7.
Về vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa, Bộ ngoại giao Việt Nam nhiều lần khẳng định Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Mọi hoạt động của nước ngoài liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà không được phép của Việt Nam, đều là vi phạm chủ quyền của Việt Nam và không có giá trị pháp lý.
Anh Tú (theo WCT)


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đột kích “massage đế vương” bậc nhất Hà Nội

Khi khách sử dụng gói VIP này thì sẽ có 2 nhân viên nữ phục vụ tận tình chu đáo cùng một lúc. Và sẽ được hưởng cảm giác cung phụng gần giống như các bậc đế vương ngày xưa…


Massage kiểu “vua chúa”, “cung đình”
“Nằm trong khuôn viên đường Kim Mã sầm uất bậc nhất Hà Thành, 5M VIP massage được thiết kế với phong cách sang trọng và tinh tế bậc nhất Hà Nội, phòng ốc rộng tãi, cơ sở vật chất đạt tiêu chuẩn quốc tế cùng với đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, cùng với khuôn viên yên tĩnh đang là điểm đến lý tưởng của những người có nhu cầu thư giãn…
Đặc biệt hơn nữa là những kỹ thuật massage Relax độc quyền chỉ có tại 5M VIP Massage Spa, do chính những chuyên gia giàu kinh nghiệm của chúng tôi sáng tạo ra. Đến với 5M VIP Massage, bạn sẽ được tận hưởng một dịch vụ chăm sóc hoàn hảo trong không gian được thiết kế theo kiểu vua chúa, cung đình xưa…”
Trên đây là một đoạn quản cáo hấp dẫn của dịch vụ massage mang tên “5M VIP”tại Kim Mã, quận Ba Đình, Hà Nội. Đoạn quảng cáo này được đăng tràn ngập trên mạng Internet kèm theo hình ảnh các nhân viên nữ trang phục yếm đào mát mẻ đứng trong các phòng massage trướng phủ màn che một cách lả lướt đầy khiêu khích.
Những hình ảnh bên trong quán Massage 5M.
Massage 5M VIP được thiết kế giống như một khách sạn mini 5 tầng. Mỗi tầng được bố trí 2 phòng khép kín, gồm bồn sục, giường massage. Trên các diễn đàn của đấng mày râu thì nơi đây được xem như là một điểm đến lý tưởng sau những chầu nhậu say bét nhè. Lý do là tại 5M Spa cơ sở vật chất rất khang trang mới mẻ, lại có phong cách thiết kế rất ấn tượng, đánh trúng vào thị hiếu của cánh mày râu.
Nhưng có lẽ, điểm nhấn của quán Massage 5M là sức hút của những nhân viên làm dịch vụ tại đây. Họ là những cô gái xinh đẹp, trẻ trung với vóc dáng uyển chuyển cùng những đường cong quyến rũ lấp ló dưới chiếc yếm đào làm bằng tơ lụa. Luôn là nhát gươm chí mạng vào những gã đàn ông mất nết ham của lạ.
Thậm chí, nếu bỏ ra số tiền đủ lớn để mua chiếc vé VIP thì những cô gái dịch vụ kia còn không mặc áo ngực, khiến cho người ta có cái cảm giác là chỉ huơ tay khẽ kéo nhẹ một cái thôi là sẽ chẳng còn gì có thể che được những điểm nhạy cảm trên người.
Dàn nữ nhân viên trẻ trung, xinh đẹp tạo sức lôi cuốn đối với những quý ông ham của lạ.
Nhân viên tại 5M Massage hầu như đều là những cô gái tới từ miền Tây Nam Bộ. Không chỉ có giọng nói ngọt như mía lùi khiến khách đến dịch vụ một lần thì có lẽ khó có thể nào mà quên được, những cô gái này còn có những ngón nghề massage rất thành thạo không kém gì những nhân viên được đào tạo bài bản.
Quản lý của tất cả những nhân viên nữ là một người đàn bà tên Phạm Thị Hạnh (SN 1982), quê Vũng Tàu. Theo thông tin từ Hạnh thì, mỗi nhân viên sẽ sở hữu những con số riêng. Như vậy sẽ giúp cho những khách quen dễ nhớ những cô nhân viên ruột của mình, ưng cô nào khách chỉ cần đọc đúng số thì quản lý sẽ điều động vào phòng để phục vụ.
Cũng theo lời của Hạnh thì, tất cả các nhân viên khi được tuyển vào làm tại quán cũng được ký hợp đồng lao động với mức lương 1,5 triệu VNĐ/tháng. Nhưng trên thực tế, hợp đồng đó chỉ là để hợp thức hóa lao động, những nhân viên massage của quán không sống bằng tiền lương này, mà thu nhập chính của họ là tiền “bo” của khách. Một nhân viên của quán cho hay, mỗi lần phục vụ khách xong và nhận được tiền “bo” họ đều phải trích lại khoảng 100.000 VNĐ cho quản lý.
Anh Trần Khánh D (SN 1984) một khách hàng quen thuộc của quán cho hay: “Mỗi lần tôi tới đây massage, sau khi hoàn thành những bài đấm bóp giúp giãn gân giãn cốt quen thuộc, tôi đều thỏa thuận với nhân viên về việc massage. Và thường thường, giá cho mỗi lần thỏa mãn như vậy thường là 500.000 – 1 triệu VNĐ…”
Cũng theo lời anh D, thì mặc dù giá massage ở 5M khá là “chát” so với mặt bằng chung. Nhưng những người khách như anh vẫn thường lui tới rất thường xuyên là bởi dàn nhân viên nữ đều trẻ đẹp, biết chiều lòng thượng khách, quan trọng hơn các nữ nhân viên này đều chiều khách tới bến.
Một thanh niên khác tên Nguyễn Hồng Q (SN 1984), cũng là một khách hàng ruột của quán massage 5M cho biết rằng, quán có nhiều “gói” dịch vụ khác nhau để cho khách có thể lựa chọn. Giá trung bình cho các mức dịch vụ ở đây là từ 400.000 VNĐ cho đến 600.000 VNĐ, tương ứng với số thời gian được phục vụ là 60 và 120 phút.
Theo Hồng Q. thì đặc biệt phải kể đến gói phục vụ VIP có giá tới 800.000 VNĐ. Khi khách sử dụng gói VIP này thì sẽ có 2 nhân viên nữ phục vụ tận tình chu đáo cùng một lúc. Và sẽ được hưởng cảm giác cung phụng gần giống như các bậc đế vương ngày xưa.
Nhân viên ở quán massage với chiếc yếm đào là điểm nhấn.
Hồng Q. cho biết: “Khi khách sử dụng gói dịch vụ này thì sẽ đúng là thượng đế thật sự. Đầu tiên, anh sẽ cởi đồ ngâm mình trong bồn sục, để cho nhân viên tắm rửa, gội đầu, kỳ cọ như một đứa trẻ nhỏ mỗi lần được mẹ tắm cho. Quá trình này sẽ diễn ra khoảng 15 phút, sau đó khách sẽ được 2 em nhân viên đưa lên giường massage để ‘tẩy tế bào chết’ toàn thân bằng bột ngọc trai. Khi hoàn thành tất cả các công đoạn trên, nếu khách có nhu cầu, 2 nhân viên nữ sẽ thay nhau làm cho ‘thượng đế’ sướng theo kiểu ‘nóng lạnh’, nghĩa là một cô sẽ ngậm viên đá, cô còn lại sẽ ngậm nước nóng phục vụ cho tới khi khách thỏa mãn mới thôi… ”
Theo thông tin từ những vị khách làng chơi như Khánh D. và Hồng Q. thì số tiền khách phải trả để hưởng thụ những dịch vụ sướng ở trên là không nhỏ. Ít nhất cũng phải là 500.000 VNĐ cho mỗi em nhân viên ở quán. Thêm nữa, nếu khách cảm thấy ưng mắt cô nào, có thể xin số điện thoại và hẹn hò gặp nhau ngoài giờ làm việc, giá cả thì đôi bên tự thỏa thuận.
Như vậy, quán massage 5M đã hoạt động theo cách massage biến tướng điển hình hiện nay. Những quán massage như 5M đang mọc lên ngày càng nhiều tại các khu vực trung tâm thành phố, đô thị lớn. Tất nhiên có cầu thì ắt có cung, những quán massage như 5M được thành lập ra để phục vụ một bộ phận không nhỏ những “quý ông” lắm tiền lại ham vui, thèm của lạ.
Những quán massage VIP như 5M đang mọc lên như nấm, đáng chú ý là, một hoạt động tệ nạn trá hình như vậy nhưng lại đang đối phó với cơ quan chức năng bằng cách mỗi khi tuyển nhân viên mới, chủ quán đều có ký hợp đồng lao động đàng hoàng, kèm theo điều kiện trong khi hành nghề phải cam kết không có hành vi, bán dâm cho khách. Nhưng mặt khác, chủ quán và quản lý lại cố tình làm ngơ trước những hoạt động tệ nạn diễn ra hằng ngày trước mặt mình.
Một điều khác ai ai cũng có thể thấy, đó là những người có nhu cầu trị liệu thật sự sẽ tìm đến những cơ sở massage y học cổ truyền lành mạnh, giá cả phải chăng. Với mục đích phục vụ sức khỏe của bản thân là trên hết. Còn những massage VIP biến tướng chỉ hoạt động với mục đích duy nhất đó là kiếm tiền của những vị khách thích của lạ.
Do đó việc vẽ vời ra những chiêu trò, tệ nạn bất chấp các quy phạm đạo đức của xã hội là điều không thể tránh khỏi.
Đột kích
Sự thực massage kiểu “5M VIP” đã bị Công an quận Ba Đình phanh phui vào ngày 23-9 vừa qua.
Khoảng 14 giờ cùng ngày, kiểm tra hành chính 4 phòng massage đang có khách, tổ công tác công an quận đã bắt quả tang tại phòng 202 và 303 có 2 nhân viên nữ đang cho khách. Toàn bộ số nhân viên và khách có mặt tại thời điểm kiểm tra đã được đưa về trụ sở công an quận để làm rõ.
Tại cơ quan công an, 7 nhân viên nữ của quán đều thừa nhận trong quá trình massage, nếu khách có nhu cầu sẽ thực hiện hành vi cho khách ngay tại phòng.
Số nhân viên này do Phạm Thị Hạnh (Sn 1982) ở Vũng Tàu quản lý. Mỗi nhân viên sẽ được đánh số riêng. Khách quen, nếu ưng cô nào sẽ chủ động đọc số để quản lý điều vào phòng phục vụ. Theo khai nhận của số nhân viên nữ, mặc dù có ký hợp đồng lao động với mức lương 1,5 triệu đồng/tháng nhưng đó chỉ là hình thức. Thực tế nhân viên không có lương, thu nhập bằng tiền “bo” của khách. Mỗi lần phục vụ khách xong, nhân viên phải trích lại cho quản lý 100.000 đồng.
Bốn khách massage là Nguyễn Văn V (SN 1971) ở Hưng Yên, Nguyễn Văn T (SN 1984), Lê Văn M (SN 1969) và Trần Khánh H (SN 1976) đều ở Hà Nội thừa nhận, khi vào massage, họ yêu cầu nhân viên massage và được thỏa thuận giá khi xong việc sẽ là 500.000 đến 1 triệu đồng/lượt.
Những khách đã từng vào quán này cho biết, mặc dù giá massage ở đây khá “chát” nhưng khách vẫn đến đông bởi dàn nhân viên nữ trẻ đẹp, chiều khách “tới bến”.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

TRIỆU XUÂN – BÚT LỰC CỦA QUẺ TIỆM

Nguyễn Nguyên Bảy đò đưa

1. Tôi lên đò lần này có mang theo hành lý gồm ba khúc thức và một khúc hưởng lợi, nên cần khai báo hải quan cho chuyến đưa này qua biên giới nào cũng được hanh thông.

Khúc thức một. Bà Vaxia người Nga, lớn hơn tôi ba chục tuổi, hồi ấy tôi đôi mươi, tôi gọi bà là Mẹ, bà gọi tôi là xưnôchếch (út cưng), chúng tôi mẹ con qua thư từ, nhưng ruột thịt với nhau nhiều năm lắm. Thư qua thư lại, mẹ Vaxia đã thức tôi cách nhận mặt văn chương. Bà dạy tôi, theo cách mà bà cho là đơn giản nhất, là dịch văn chương từ ngữ này sang ngữ khác, nếu ở thứ ngữ dịch đó, văn chương còn có văn chương thì đó là văn chương, nếu chẳng may văn chương ấy là thứ hô hào rỗng tuyếch, là thứ khuôn sáo của mệnh lệnh, là thứ gia vị của thời trang… thì bao giờ cũng chỉ nên mỉm cười tiếp nhận. Lời sau đây, bà bảo bà chỉ viết cho “xưn” (con trai) của bà đọc, đọc xong rồi bỏ, đứng nói lại với ai mà hệ lụy tâm hồn, rằng Êsênhin, Lécmantốp là những nhà thơ đích thực, còn Maia thì không. Bà còn viết thêm, một câu ngắn, ở Liên Xô và ở Việt Nam chắc cũng vậy, các nhà thơ kiểu Maia một rừng. Con chưa tin cứ dịch thơ của họ ra tiếng Việt thì biết. Tôi đã dịch Maia, Êsênhin, Lécmantốp ra tiếng Việt và dịch ngược thơ các nhà thơ Việt kiểu Maia ra tiếng Nga và ngẫm nghĩ mãi lời dạy của Mẹ Vaxia trên suốt con đường tìm mặt văn chương cho đến tận bây giờ.

Khúc thức hai. Lạy bác Hoàng Tùng giờ đã ở trên mây trắng cùng với cha mẹ con, chứng giám cho những lời con nói dưới đây. Năm ấy, 1970, Lý Phương Liên bỗng hót lên một thanh âm thơ lạ, bác Hoàng Tùng thích giọng thơ Liên và thương cảm cảnh đời côi cực nhà họ Lý, mới cho đăng nguyên một trang báo Nhân Dân thơ Lý Phương Liên, rồi cho thợ đến lợp lại mái nhà giột nát của 5 chị em côi và cho Lý việc làm ở nhà in báo Nhân Dân. Nói ơn cao xanh thì lời ơn mơ hồ quá, chúng con ghi lòng tạc dạ tấm lòng bác Hoàng Tùng đã đưa bàn tay Bồ tát nâng dậy một cảnh đời cay đắng thực. Vài tháng sau, Lý Phương Liên bị “án thơ Nghĩ về Thúy Kiều” đánh cho một búa, gục hẳn. Bác Hoàng Tùng cho gọi hai đứa (chữ HT) lên Báo, cho ăn bữa cơm gia đình, và trong bữa cơm gia đình ấy bác bảo: “Con Liên (chữ HT) viết gì như Ca Bình Minh là tốt, là hay, viết như Nghĩ về Thúy Kiều thì Nó (không biết bác ám chỉ ai, điều gì trong chữ Nó) dìm mày phải chết. Còn thằng Bảy (bác nhấn mạnh) nghe cho kỹ ba điều sau đây: Một là đưa tao đọc tất cả thơ văn chưa đăng, in. Hai là không muốn cho bất kỳ ai đọc thì đốt sạch đi. Ba là tìm chỗ chôn giấu, chờ cho tới khi nào những người như tao chết đi hãy nghĩ tới việc đào lên mà in ấn. Từ nay trở đi, viết một câu một chữ nào cũng phải nhớ lời tao dặn, con sông văn nghệ thời chúng ta chỉ một dòng Hiện thực Xã Hội Chủ Nghĩa Hồng Chuyên”. Nghe bác Hoàng Tùng dậy dọa tôi thực sự xón. Ít ngày sau, tôi được bác Trần Lâm, Tổng biên tập  Đài TNVN, nơi tôi làm việc, gọi lên. Vừa thấy tôi, bác Lâm bắt tay tươi cười và bảo: Tụi mày (ý chỉ tôi và LPL) làm cách nào mà được ông Hoàng Tùng tin vậy? Tôi đâu có làm gì. Thơ đã viết tôi cũng đâu có đưa ông đọc, tôi cũng đâu có đốt, mà tôi nghe lời ông nhờ cha tôi giấu dùm, thật may mắn bốn chục năm sau, những sáng tác đó vẫn còn nguyên vẹn chỉ ải mục đôi phần. Cảm ơn bác Hoàng Tùng đã tin thương chúng tôi, sau này lòng tin thương ấy cũng đầy lòng bác Trần Lâm nên chúng tôi đã nhiều lần thoát hiểm mà có được ngày hôm nay. Duy có điều lời dậy của bác về Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa Hồng Chuyên thì tuy khắc trong tâm, quẩy trên vai đi trên đường nhận mặt văn chương, nhưng rồi ngẫm mãi, ngẫm có đến ngày thấy trong lời dậy ấy nhiều mơ hồ, tầm phào nếu không muốn nói là bức hại văn chương.

Khúc thức ba. Anh Nguyễn Khải là nhà văn lớn, được coi là một trong không nhiều cột cái dựng ngôi nhà văn chương Việt Nam thế kỷ thứ XX, vậy mà tôi, kẻ vô danh tiểu tốt, cứ tranh cãi nhem nhẻm với anh. Lạy anh trên trời thứ tội cho em. Trong những tranh cãi ấy, bữa tranh cãi tạm gọi là lớn nhất xẩy ra ở nhà Thế Ngữ, anh đến tặng Ngữ sách, còn tôi đến Ngữ bàn dựng kịch, Ngữ là đạo diễn kịch trong Ban Văn Nghệ Đài Tuyền Hình cùng tôi. Nhân lúc anh Khải và Ngữ trao đổi với nhau khoái lạc văn chương gì đó, tôi cầm sách mới của anh, tia đọc, tôi lướt nhanh ba trang đầu, lướt nhanh ba trang cuối và mở bụng sách, chính giữa đọc thêm ba trang và đặt sách trả lại Ngữ. Hẳn vì chứng kiến tận mắt cảnh tôi trân trọng nâng lên đặt xuống sách của mình, nên anh Khải mới nói với tôi an ủi: Mình sẽ tặng sách cho Bẩy sau... Tôi cúi đầu cảm ơn anh và buột miệng: Em đọc rồi, anh dành sách tặng người khác cho đỡ phí. Anh Khải sậm mặt. Bẩy đọc khi nào. Thì mới đó. Tôi đáp. Và để anh tin, tôi kể lại sách của anh với ba trang đầu, ba trang cuối và ba trang giữa vừa đọc. Anh thoáng ngạc nhiên, nhưng chưa hết giận, hỏi thêm: Em có lối đọc sách gì lạ vậy? Tôi đáp: Chữ nghĩa của anh cực chuẩn, văn của anh cực sáng, bố cục truyện cực lý, đó là thương hiệu Nguyễn Khải không cần bàn, còn nội dung thì… Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa Hồng Chuyên… Tôi chỉ mới nói có vậy, anh Khải đã đứng dậy cáo về và kể từ đó không nhìn mặt tôi nữa. Nghe nói, trước khi về trời, anh có viết cuốn hồi ký gì đó, tôi chưa được đọc, tất nhiên là anh viết cho anh, nhưng tôi tin là nhiều dòng tuy không cụ thể cho tôi, nhưng cứ xin vơ vào là cho tôi, anh chẳng những bỏ lỗi cho tôi bệnh nói nhiều đau răng  mà còn bảo tôi bỏ lỗi cho anh tật không đủ lực nghe ngược. Thức thứ ba này tôi coi là giải pháp ứng xử trên đường văn chương, vì thế, thu hoạch về bất cứ sách nào, tác giả nào, tôi cũng chỉ coi là khúc đò đưa mình nói trước hết cho mình nghe, thu hoạch nào cũng hàm nghĩa tu thân học làm văn chương.

Khúc hưởng lợi. Tôi nhớ không chính xác, nhưng có lẽ là năm 1985, tôi đang rất “oách” ở truyền hình, hết tung kịch lại hoành phim, nổi lắm. Bữa kia vớ được cuốn tiểu thuyết Giấy Trắng của Triệu Xuân, tôi ngốn vội và ngốn xong chạy vội (cũng là vội) tới ông Phạm Quang Hưng, Tổng giám đốc Liksin – nguyên mẫu nhân vật chính của tiểu thuyết Giấy Trắng - bàn với ông đưa Giấy Trắng lên truyền hình. Ông Hưng OK và qua ông tôi gặp Triệu Xuân, để thông báo việc tôi viết kịch bản phim truyền hình với tên gọi Người Mở Đường. Sau đó, phim truyền hình Người Mở Đường công chiếu và hầu như lâu lắm lắm sau đó, tôi và Triệu Xuân không dịp gặp nhau. Lại nói, trong suốt thời gian (ngắn) làm phim Người Mở Đường, được Giấy Trắng hướng dẫn, tôi gần như đã thuộc nằm lòng bối cảnh và con người miêu tả trong Giấy Trắng, và thu hoạch hưởng lợi đầu tiên từ tiểu thuyết này là tôi đã viết được hẳn một cuốn tiểu thuyết 300 trang tựa đề Ma Trận Tình, với một cách nhìn khác Giấy Trắng, tôi có đưa cho nhà văn Nguyễn Văn Đồng hỏi ý kiến, Đồng bảo tôi không in được vì chưa đúng điểm rơi và anh khuyên tôi nên viết như Giấy Trắng, bán chạy lắm. (Đồng nhấn mạnh chữ bán chạy lắm). Lúc ấy, đang thời mở cửa, sách được in và bán chạy (tức là bạn đọc thích) thì người viết văn nào chẳng mừng. Tôi lập tức cắm rễ nơi bàn viết của mình, trước mặt đặt trân trọng cuốn tiểu thuyết Giấy Trắnglàm tượng đài, và bắt đầu mổ cò máy chữ. Mổ suốt ngày đêm, lúc nghỉ tay lại cầm Giấy Trắng của Triệu Xuân mở xòe một đôi trang như cầu xin chữ nghĩa bay sang mình. Hai năm dòng dã, 1986-1987, tôi viết và xuất bản 6 cuốn tiểu thuyết, cuốn in ít nhất cũng 20.000 bản và nói dối chẳng hại ai, đây là hai năm tôi nuôi được thân mình bằng văn chương. Sau này tôi vẫn tiếp tục viết tiểu thuyết, không hỏa tốc như trước, vài năm một cuốn, nhưng chưa in, vì như Nguyễn Văn Đồng bạn tôi đã nói: Chưa đúng điểm rơi. Chuyện huênh hoang này, khi nào có dịp sẽ nói tiếp, còn bây giờ trở lại với Triệu Xuân, bài thu hoạch xin là lời cảm ơn muộn của kẻ hưởng lợi từ bạn mà không thưa lời ân tạ, thật đáng trách!

2. Hai mươi sáu năm sau, năm 2011, nhân việc tôi in sách tại NXB Văn Học Hà Nội (không phải chi nhánh NXB Văn Học ở Sài Gòn nơi Triệu Xuân làm giám đốc), tôi và Triệu Xuân mới thực sự gặp lại nhau. Tôi tặng Xuân sách thơ mới in và Xuân tặng tôi cuốn tiểu thuyết Trả Giá, tái bản lần thứ 10, NXB Văn học, năm 2009, và ít ngày sau tặng thêm tiểu thuyết Cõi Mê, NXB Hội Nhà văn, in lần tư, còn thơm mùi mực.
Tôi có thói quen không thể trì hoãn cái sướng đọc sách của bạn tặng, nhất là với Triệu Xuân, người tôi đã nói những lời hưởng lợi ở trên. Nhưng vì là người đang trị bệnh dữ tôi biết mình không thể dành một hơi thời gian cho nó, nhưng lại thích đọc nó một hơi, nên tôi đành xin bác sĩ một mũi moóc, và tôi đã không hối hận vì quyết định ấy của mình sau 6 giờ đồng hồ ăn chậm nhai kỹ 460 trang Trả Giá. Khi tôi vừa gấp sách thả hồn theo “ Chiếc vỏ lãi lao vun vút xuyên rừng đước” (chữ trong thuyết của TX) , tôi bỗng như nghe vu vang tiếng dòng sông hỏi: Cảm tưởng thế nào? Tôi đáp: Thích. Sông hỏi thêm: Triệu Xuân thế nào? Tôi buột miệng: Đáng yêu… rồi hình như cả tôi và dòng sông đều chìm vào giấc ngủ; khi tỉnh lại chỉ còn nhớ từ thích và hai chữ đáng yêubèn ghi ngay vào sổ thu hoạch quẻ dịch Phong trên/ Sơn dưới là quẻ Tiệm. Ngẫm nghĩ quẻ dịch quá hay, quá ứng với con đường văn chương của Triệu Xuân, con đường dịch biến, thức thời, tả xung hữu phá.

Về quẻ Tiệm: Tiệm là tiến dần dần tương nghĩa với hai từ tiệm tiến? Nghĩa đen, Phong trên thuộc quẻ Tốn, hình là gió, tượng là cây. Sơn dưới thuộc quẻ Cấn, tượng là núi hay còn gọi là thổ nhỏ. Gió dưới núi thổi dần lên cao trời hoặc là cây dưới thấp vươn dần lên đỉnh núi, cây không thể cao trong một nhật, mà phải lớn từ từ theo tháng theo năm. Chưa hết, Tiệm còn mượn chim hồng giảng hành trình bay bổng. Chim hồng là chim gì thực tôi không biết, dịch học bảo rằng đó là loài chim vừa biết bơi trong nước, vừa biết bay trên trời, không phải bay gần mà là bay xa, rất xa, cùng bầy đàn di cư từ phương Bắc lạnh giá về phương Nam ấm áp. Vậy nên dù là gió thổi, là cây lớn hay là chim bay thì sự vươn lên đều phải từ từ theo năng lực tu luyện, theo sinh dưỡng mà trưởng thành. Đức tu thân phải bền gan vững chí, phải thuận đạo chính trung, phải tương thích giữa cá thể với môi trường. Chỉ có vậy con đường lớn lên của cây, bay lên của chim mới thành tựu.

Quẻ Tiệm hào 1: Hồng Tiệm Vu Can (Chim hồng  tiến đến bờ nước). Không là khập khiễng nếu ví Triệu Xuân là con chim hồng non thơ kỳ lạ ấy, anh đã chọn nghiệp văn chương ngay từ thời chăn trâu cắt cỏ, trốn mẹ vùi mình vào cây rơm đọc sách, rồi nhất quyết theo vào đại học văn chương, rồi đi B tay súng tay bút. Con chim hồng non thơ ấy khao khát văn chương và chỉ nguyện dâng mình cho văn chương, cái nghiệp gian nan ấy nhiều chướng lắm, nhưng lòng Triệu Xuân khẳm đức tự tin. May thay, Triệu Xuân đã thành tựu vụng về với Những Người Mở Đất, Truyện vừa in năm 1983, NXB Văn nghệ TPHCM ấn hành, có thể nói đây là cuốn sách đầu tay đúng nghĩa nhất với văn cách Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa Hồng Chuyên. Con chim hồng mới ra bờ nước còn non dại, còn chưa trưởng thành, làm việc gì cũng còn phải ngẫm ngợi nghĩ suy, viết được cuốn Những Người Mở Đất, khoái đấy, nhưng nhìn ngang dọc biết là chưa mùi mẽ gì, nhưng tự tin là sẽ làm được lớn hơn, cao vời hơn. Khao khát ấy nơi Triệu Xuân chẳng những không có lỗi mà còn đáng khen.

Quẻ Tiệm hào 2: Hồng Tiệm Vu Bàn ( Chim hồng tiến đến phiến đá lớn). Nếu hào 1, chỉ mới nói cái chí cái muốn của chim hồng, thì hào hai, tức là chim hồng đã từ bờ nước đến được phiến đá lớn, vẫy cánh ba lần rũ sạch nước và nhởn nhơ hong cánh, nhấm nháp hạt mầm và ca hót. Sau năm 1975, đất nước thanh bình, người có bằng cấp, có công trạng như Triệu Xuân, ngồi “oách” một chiếc ghế địa vị nào đó và cứ thế mà thăng tiến thì thực cũng chẳng có gì đáng trách. Nhưng anh đã không thế, anh vẫn chọn văn chương làm nghiệp của mình. Tiểu thuyết Giấy Trắng đã ra đời trong giai đoạn này. Đây là cuốn tiểu thuyết khá nổi trong chùm chùm các tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ Đổi mới, có bề dầy của trang viết, có cấu trúc của tiểu thuyết, có chữ nghĩa của người được đào tạo bài bản, có trải nghiệm hỉ nộ của  đời sống. Với cây bút tuổi đời mới vừa ba chục mà đã dụng được chữ ngàn câu thì thực không thể đòi hòi gì hơn trước tài hoa trẻ.

Chim Hồng Tiến Đến Phiến Đá Lớn. Hào hai đắc trung, đắc chính, âm nhu (còn gọi là hào Hậu) tương ứng với hào 5 dương cương ở trên (còn gọi là hào Vương), đó là sự tương ứng vua tôi đòi hỏi tấm lòng kiên trinh, trung thành. Đây là hào quan trọng thể hiện bản chất tính cách người tử tế, trung thành với mục đích, lý tưởng và nguyện một lòng một dạ hiến dâng thân mình cho mục đích lý tưởng ấy. Tiểu thuyết Giấy Trắng của Triệu Xuân ra đời trong bối cảnh đất nước mở đầu thời kỳ Đổi mới, như một tuyên ngôn vững vàng về sự theo đuổi đến cùng con đường văn học Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa. Và thật may mắn, nhận thức và tài hoa đã giúp anh thoát khỏi bảo thủ, trở nên vượt trội hơn một số nhà văn khác cùng trường phái, là anh đã kịp dịch biến hai chữ chuyên hồng vào hai chữ đổi mới để có được Giấy Trắng trôi vào dòng tiểu thuyết thời kỳ đổi mới hay còn gọi là tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa đổi mới. Giấy Trắng là đức trung, chính của nhà văn với lý tưởng phụng sự.

Quẻ Tiệm hào 3: Hồng Tiệm Vu Lục (Chim hồng tiến đến đất bằng). Đất bằng tất nhiên lớn rộng hơn phiến đá? Con thuyền hái hoa, cắt rau muống trong hồ làm sao nói chuyện sóng gió với con thuyền trên sông, con tầu trên biển cả? Hào ba quẻ Tiệm dương cương, muốn tiến lên nữa, nhưng sát phía trên là hào 4 âm nhu, nó muốn kết thân, muốn phá phách như ngoại tình. Đó cũng chính là bối cảnh văn đàn Việt những năm nửa tám mươi chín mươi. Một số nhà văn vừa “đổi mới” thành công với đôi ba tiểu thuyết đã vội rẽ sang phim đàn, video đàn, đôi phần muốn nhanh nổi tiếng, nhiều phần muốn sướng ấm tấm thân. Số nhà văn khác thấy “đổi mới” này chưa là đổi mới, muốn phủ nhận, thậm chí xóa sạch, tìm một đổi mới cho là đích thực, nhưng tiếc thay 90% trong số này chỉ nói, chẳng thấy làm gì, thật tiếc! Và đa phần các nhà văn (định không nói ở đây) thì hoặc lực bất tòng tâm (sức khỏe, tuổi trời), hoặc viên mãn (bổng lộc chức quyền), hoặc số không là ít bị “ép” hay do “cánh hẩu” mà thành nhà văn thì đánh võng hát hưu, thỉnh thoảng có ai gọi thì dụng cái âm vang của thời oai lực tọa đình, ngồi miếu mà quát, dậy. Ở nơi văn đàn đất bằng ấy, lung lạc là chuyện thường tình, chẳng biết nhà văn Triệu Xuân đã bao giờ lung lạc?

Tác phẩm của Triệu Xuân thay câu trả lời:
Những Người Mở Đất, NXB Văn Nghệ TPHCM, 1983 (tái bản 2 lần)
Giấy Trắng, NXB Văn Nghệ TPHCM, 1985 (tái bản 12 lần)
Đâu Là Lời Phán Xét Cuối Cùng, NXB Văn Nghệ TPHCM, 1987 (tái bản 2 lần)
Nổi Chìm Trong Dòng Xoáy, NXB Giao thông vận tải, 1987 (tái bản 2 lần)
Trả Giá, NXB Văn Nghệ TPHCM, 1988 (tái bản 11 lần)
Bụi Đời, NXB Thanh Niên 1990 (tái bản 11 lần)
Sóng Lừng, NXB Giao thông vận tải, 1991 (nước ngoài in không xin phép tác giả 18 lần)
Cõi Mê, NXB Hội Nhà Văn, 2004. (tái bản 4 lần)
Lấp Lánh Tình Đời, NXB Văn học, 2007.
(Đó là chưa kể hàng ngàn phóng sự, bút ký – khi làm báo; và hàng chục Tuyển tập, Toàn tập về các nhà văn tài danh, do Triệu Xuân thực hiện khi làm Nhà xuất bản Văn học).

Tôi hứa với Triệu Xuân sẽ đọc hết tám cuốn tiểu thuyết, một tập truyện ký chọn lọc này của anh, nghĩ đến số lượng thời gian đọc chúng, tôi thực sự lo lắng về quỹ thời gian của mình, nhưng dù sao tôi cũng đã hứa. Để làm gì? Có bạn đọc hỏi thế. Trộm nghĩ, muốn vững tin đi vào tương lai, ắt phải đọc lại hôm qua mà tìm bài học, khối lượng “khủng” tiểu thuyết của Triệu Xuân đầy ắp hiện thực và sự kiện, hẳn là kho tư liệu quí báu? Đọc một trang viết, nhanh là một phút, chậm là năm phút, nhưng hoàn thành một trang viết nhanh nhất cũng phải nửa giờ, còn trang văn có lẽ phải mất cả ngày. Vậy mà Triệu Xuân đã viết một hơi hơn bốn ngàn trang sách, bằng say mê, kiên trì, bền bỉ, liên tục, thực là một lao động đáng nể trọng. Nể trọng tôi có căn cứ. Tám cuốn tiểu tuyết của Triệu Xuân, ngoại trừ ba cuốn   tái bản hai lần, những cuốn còn lại, cuốn nào cũng tái bản nhiều lần. Điều này chứng tỏ tiểu thuyết của Triệu Xuân có bạn đọc, nếu không muốn nói là có nhu cầu tìm đọc. Trong bối cảnh văn hóa đọc văn học Việt đang xuống thấp đến mức không thể thấp hơn, mà tiểu thuyết của Xuân vẫn được tái bản, quả là một lạ mừng, lạ mừng ấy chính là những ban thưởng của bạn đọc, những đánh giá xứng đáng, công bằng của đồng nghiệp. Vượt qua hào 3, chim hồng đến nơi đất bằng, không ngả nghiêng lung lạc, trung thành với con đường đi tới của mình. Bạn đọc tôn trọng lòng trung thành ấy của Triệu Xuân.
.

Quẻ Tiệm hào 4: Hồng Tiệm Vu Mộc (Chim hồng nhảy lên cây). Từ đất bằng (hào 3) chim hồng nhảy lên cây.
Nhấn mạnh 1: Chim hồng là loại chim sở trường bơi giỏi, bay cừ, nhưng đậu lại là sở đoản, vì vậy lời quẻ bảo là nhẩy lên cây không phải bay lên cây, tất nhiên là để đậu, may mà gặp cành thẳng nên chim hồng đậu yên mà không có lỗi.
Nhấn mạnh 2: Nói hào 4 (cũng là hào 1 của ngoại quái) là quẻ đã sang ngoại quái. Ngoại quái Tốn thuộc mộc âm, cây cái, gió mềm, bản tính nhu thuận, phục tùng. May thay hào 4 cũng âm nhu, tuy ở trên hào 3 dương cương, chịu áp lực ganh ghét đố kỵ, nhưng biết thuận theo thời, thời đây là cành thẳng, nên mọi việc được cát lợi.
.

Có thể đọc được Triệu Xuân đã ứng xử thế nào với hào hai nhấn mạnh này. Trước hết, đó là đức trung thành, chỉ thẳng chứ không cong, có nghĩa là nhà văn đã không viết, hoặc viết thoáng qua rồi tránh né, hoặc tránh né toàn phần khi đụng chạm tới cái “đậu”, là sở đoản của mình, dù cái sở đoản ấy là “huyệt” của danh vọng, khiến anh có thể nổi tiếng nhanh hơn, vĩ đại hơn theo cách nhìn nhận đánh giá nào đó, hay theo nhu cầu thời thượng của người đọc. Nói theo dịch học thì đó là giải pháp phản sinh hay phản khắc, nghịch ngược để thành tựu. Triệu Xuân đã không làm thế, anh vẫn chọn một cành thẳng để đậu, để viết, viết với một ý thức trách nhiệm cao, với lý tưởng viết mà anh trung thành, đó là văn cách Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa, dù có gắn thêm cái đuôi Hồng Chuyên, hay Đổi Mới, hay Phê Phán thì tựu trung cũng văn cách Triệu Xuân cả thôi.

Và thế đã sao? Tôi tin là Triệu Xuân đã hơn một lần hỏi mình như thế, và tôi nghe trong âm thanh câu hỏi ấy có tiếng hát. Tiếng hát ấy chính là sự nhu thuận, tự tin mà nhu thuận, tự tin mà vượt qua mọi ganh ghét tỵ hiềm, tự tin mà cần mẫn đổ mồ hôi cầy bừa trên cánh đồng văn học.

Mạnh dạn cho rằng: Những nhà văn thế hệ Triệu Xuân đã cống hiến cho bạn đọc (cao hơn là cho nhân dân và đất nước) những tác phẩm văn học đúng chất, đúng tầm mà không phải canh cánh hối tiếc như các nhà văn thời chiến tranh dựng nước và giữ nước còn nợ non sông những tác phẩm văn học phúc dầy.
.
Quẻ Tiệm hào 5: Hồng Tiệm Vu Lăng (chim hồng lên gò cao hay chim hồng đã lên tới miệng vực). Hào này ở ngôi cao, hào 5, là hào Vương lại dương cương, đắc trung đắc chính. Hào 5 (Vương) với hào 2 (Hậu) nói ở trên là cặp hào âm dương thuận lý hoàn hảo. Cuộc phối ngẫu của âm dương này bị hào 4 (cũng âm nhu như hào 2), ghen với hào 2 về mối lương duyên này. Dù vậy, do đắc trung, đắc chính lương duyên của hào 5 và hào 2 vẫn thành tựu tốt đẹp và sự ghen tuông buộc phải thừa nhận sự chính đáng ấy với tâm phục, khẩu phục.
.
Lên đến hào 5, nhà văn Triệu Xuân đã thành tựu chói lói, thành tựu không thể phản bác, thành tựu được thừa nhận với sự ra đời bền bỉ, liên tục, thành tựu sau cao hơn thành tựu trước của 8 pho tiểu thuyết dẫn ở trên. Và theo tôi hai cuốn Trả Giá và Cõi Mê là đỉnh cao hơn cả của Triệu Xuân.

Và đó cũng chính là sự trung chính không mệt mỏi của Triệu Xuân với văn cách Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa dù là thuần túy hồng chuyên, hay đổi mới, hay phê phán. Triệu Xuân có vẻ thích được đánh giá và xếp định tiểu thuyết của mình vào dòng Hiện Thực Phê Phán. Anh thích vậy thì là vậy, chắc cũng chẳng ai bận tâm tranh cãi, nhưng thành thực mà nói, văn anh chỉ mới bước đến lằn ranh giữa đổi mới và phê phán. Mượn Trả Giá dẫn chứng: Khi nhà văn đã dám mở sách viết những trang hiện thực đúng bản chất của cảnh tù ngục, dù đó là kẻ lương thiện bị tù oan hay của kẻ bất lương đang chịu tội, dù đó kẻ cai tù hay kẻ bị cầm tù thì tính người và tính vật đều hiện nguyên hình, và đã là nhà tù thì nhà tù nào cũng đều tàn độc. Những trang viết này trăm phần trăm là hiện thực, nhưng vẫn là hiện thực phạm vi hồng chuyên, hoặc cao hơn là đổi mới. Người đọc vẫn thấy nhà văn đứng bên ngoài hiện thực, tìm những lý lẽ biện hộ theo đường lối Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa Hồng Chuyên qua nhiều năm được giáo dưỡng đã ăn vào máu thịt nhà văn. Đặc tính phê phán của Triệu Xuân chỉ mới dừng lại ở ngoài da, chưa vào thẳng lục phủ ngũ tạng, mổ xẻ những ung nhọt. Các nhân vật dù Đước, hay Phái, hay Bẩy Tụ tốt xấu thế nào như đã có khuôn với bàn tay tài khéo của tác giả mà nên hình nên bóng. Nên các nhân vật chưa thật, tức là còn giả, còn do người viết sinh nở, chứ thực ra hiếm có ngoài đời. Một nhân vật như Bảy Tụ vừa chào sách đã được ngay là “mụ”, thì người đọc biết tỏng nhân vật này phản diện, cái hứng thú của đọc vì thế giảm đi phần đáng kể. Dẫn chứng trên chỉ mang tính chi tiết, tính bắt bẻ và sự mong đợi của người đọc. Nói cách khác chỉ là để bài đò đưa đầy đủ khen chê. Vì vậy, xin không dẫn thêm

Thời nào bộ máy cai trị cũng không ưa nhà văn. Những năm 1960, miền Bắc với vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, là vết nhơ của Văn đàn Việt, mà mãi đến thập niên 1990 mới được gột rửa, các nhà văn bị oan sai mới được khôi phục lại phẩm hạnh và tài năng. Với lịch sử, sửa sai ấy được coi là nhanh, là văn đàn Việt còn phúc. Và ở miền Nam, những năm 1970 là những cuộc xuống đường của người cầm bút, với tuyên hiệu “Nhà văn đi xin cháo, nhà báo đi ăn mày”, tuyên hiệu ấy đủ nói lên sự tàn độc của cai trị và sự khốn cùng của bị trị. May thay mâu thuẫn ấy đã kết thúc sau 1975, đất nước thống nhất. Nhắc điều này chỉ muốn nói: Viết văn thời nào cũng khó!  Nhà văn Triệu Xuân đã không bị chìm vào bị kịch của khó ấy. Bởi anh là một nhà văn “tư duy tích cực” (chữ của Trần Đình Hoành) tức là anh biết thể tất cái khó của cai trị và cái nhẫn tài của bị trị để dung hòa mà viết. Đó là bản lĩnh của chân tài. Tôi biết Triệu Xuân không ngừng đi, sống, học, tích lũy vốn sống, làm giàu tri thức, đam mê học hỏi nhằm đạt tới sự sâu sắc, lịch lãm, thông tuệ. Triệu Xuân luôn thực hiện phương châm: Phải biết mười để chỉ viết một!”. Nội lực của anh xem ra rất dồi dào! Lên đến hào 5 của sự nghiệp văn chương, nhà văn Triệu Xuân với 8 cuốn tiểu thuyết xứng đáng là đỉnh của thành tựu Triệu Xuân. Tâm phục, khẩu phục!
.
Quẻ Tiệm hào 6: Hồng Tiệm Vu qui (học giả Nguyễn Hiến Lê dịch là chim Hồng bay bổng ở đường mây)

Trong 64 quẻ dịch, hầu như không có hào 6 nào tàng ẩn sự cát lợi tam tài (phúc, lộc, thọ), mà chỉ hàm cái ý tu thân hưu nhàn của thời khắc tuổi quẻ (60 tuổi) xế chiếu. Duy có quẻ Tiệm, hào 6, cho ta một cảm giác bay bổng thăng hoa, một cái gì đó thoát tục, không phải ở ẩn, không phải cam chịu hưu nhàn, mà như chim hồng kia bay vút trời xanh, bay lên trời xanh dù có gặp gió to, bão lớn thì cùng lắm cũng chỉ rớt rụng đôi ba sợi lông, mà không gặp lâm nguy gì khác, và ngay cả những sợi lông bị rơi rụng ấy vẫn có thể dụng làm đồ trang sức, nghĩa rằng vẫn giúp ích làm đẹp cho đời.

Nghe nói tháng 9 năm 2012, nhà văn Triệu Xuân nghỉ hưu, nghĩa là anh bước vào thời kỳ của hào 6 quẻ Tiệm. Những tác phẩm sẽ ra đời sau 8 pho tiểu thuyết nói trên, hẳn sẽ như chim hồng bay vút trời xanh?
.
3. Lời riêng với Triệu Xuân. Sau khi đại phẫu căn bệnh dữ bình phục, tôi chống gậy lên núi, đến một ngôi chùa cổ (Trung Quốc), do một nhà sư được tôn là Phật sống trụ trì, xin nghe Phật pháp. Bữa kia, tôi may mắn được trò truyện cùng Ngài Phật. Tôi chép được cuộc trò truyện ấy, đoạn sau đây ghi lại tặng Triệu Xuân.
Ngài Phật: Con muốn hỏi ta điều riêng tư?
Tôi: Bạch Ngài Phật, lòng con băn khoăn về lẽ sống chết.
Ngài Phật: Con muốn hỏi ta về tuổi thọ? -Ngài tươi cười và đột ngột hỏi-  Thế theo con ta thọ bao nhiêu tuổi?
Tôi, e ngại chút, nhưng được nụ cười Ngài khích lệ mà trở nên mạnh dạn: Bạch Ngài, Ngài đắc Phật nên Ngài thọ vĩnh hằng, thọ cùng trời đất, thọ cho đến khi còn Đạo còn Người.
Ngài Phật (cười vang): Khéo lắm, khéo lắm. -Đột ngột: Còn con, con thọ ít nhất trăm tuổi, dù có thể ngay ngày mai con chết, việc làm của con, sự tử tế của con bảo ta như thế.

Ngẫm lời Ngài Phật tôi cứ thể hồn nhiên mà sống. Thưa Triệu Xuân, tôi kính trọng lao động nhà văn của anh và tự đáy lòng khâm phục những thành tựu đạt được từ lao động ấy. Lao động của anh, sự tử tế của anh như cũng bảo rằng anh sống thọ trăm năm. Vậy là nhà văn Triệu Xuân còn những 40 năm đời sống? Anh sẽ còn viết những gì cho bạn đọc, cho đời, cho đất nước, cho mai sau? Tin là anh đã có lời đáp cho câu hỏi ấy? Tôi kết bài đò đưa này với lời khảng: Triệu Xuân bút lực của quẻ Tiệm, bay vút lên đi, hỡi con chim hồng dũng cảm!

Sài Gòn, 5/5/2011
Nguyễn Nguyên Bảy đò đưa


Phần nhận xét hiển thị trên trang