Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 2 tháng 1, 2013

DỰ ĐOÁN CỦA "THẦY BÓI"

NĂM 2013 - DỰ ĐOÁN CỦA "THẦY BÓI"



 SƯU TẦM của bạn Kỳ Gai:



2013, năm Quý Tỵ, được các nhà phong thủy cho là năm biểu tượng cho lạc quan, cải cách, trong đó các ngành như nông nghiệp, báo chí và nhà đất phát triển, trong khi ngành tài chính và ô tô còn nhiều khó khăn.
Năm Quý Tỵ 2013 tượng trưng cho sự lạc quan, cải cách và thịnh vượng. Ảnh: Zulu
Dựa vào các yếu tố trong vũ trụ gồm kim mộc thủy hỏa và thổ, các chuyên gia phong thủy tính toán những điều thuận và bất lợi của khách quan trong từng giai đoạn và đưa ra dự đoán. Thuật phong thủy rất thịnh hành ở phương Đông, và bạn có thể tin hoặc không tin, nhưng việc xem phong thủy khá thịnh vào mỗi dịp đầu năm ở các cộng đồng người Á.
Năm 2013 là năm Tỵ, mệnh trường lưu thủy - một năm rắn mang khí âm, với nước ở trên và lửa ở dưới. Theo vòng tròn tương khắc, nước hủy diệt lửa, hai yếu tố này là xung khắc với nhau, dự báo cho một năm không yên ả với thế giới bởi sự thay đổi, cải cách hoặc những xung đột quốc tế, Raymond Lo, chuyên gia phong thủy Hong Kong, cho biết.
Rắn lại là con vật tượng trưng cho tháng 5 theo lịch phương tây, vì thế xung đột hoặc cải cách có thể bùng lên mạnh mẽ vào đầu hè. Ví dụ như những năm rắn trước đây như 1941 có sự kiện Trân Châu cảng, sự sụp đổ của bức tường Berlin năm 1989 hoặc vụ tấn công khủng bố 11/9/2001.
Về bản thân loài rắn, đây là con vật biểu tượng cho dương khí, không chỉ mang trong mình ngọn lửa mạnh mẽ và còn sinh ra khí dương, kim loại dương, như một loại vũ khí. Do đó, không loại trừ sẽ xảy ra bạo lực, xung đột trong năm nay. Tuy nhiên, năm 2013, nguyên tố nước âm lại nổi lên trên, khiến mọi việc sẽ nhẹ nhàng và khiêm tốn hơn, vì thế xung đột có thể sẽ không khốc liệt như những năm 1941, 1989 hay 2001, theo nhà phong thủy nổi tiếng nhất Hong Kong Lo.
Kang Hong Kian, nhà phong thủy ở Indonesia, cũng có quan điểm tương tự. Ông cho rằng trong năm rắn 2013 có sự tác động của cả yếu tố thủy và hỏa. Các yếu tố mạnh mẽ của nước và lửa có thể gây ra thiên tai nguy hiểm như lũ lụt và núi lửa.
Theo chiêm tinh học, rắn thuộc cung di, tượng trưng cho du lịch và thủy cũng là một yếu tố vượng cho giao thông và thông tin liên lạc. Năm thủy xà sẽ là năm thúc đẩy du lịch nhiều hơn nhưng cũng có thể gây ra nhiều tai nạn hơn, đáng sợ nhất là trên không và trên biển. Ngoài ra rắn cũng là một con vật có mình dài, tương tự như tàu hỏa, vì vậy đường sắt cũng cần dè chừng.


Rắn làm bằng vàng ròng trong một cửa hàng ở Trung Quốc  Ảnh :China Daily

Về vấn đề kinh tế, theo ông Lo, thị trường chứng khoán trong năm nay sẽ phát đạt bởi yếu tố lửa thường thúc đẩy thị trường chứng khoán. Theo các nhà phong thủy học, có 5 yếu tố, thường gọi là hành, ảnh hưởng đến tâm lý của con người. Những năm hỏa thường vui vẻ, năm thủy lo sợ, năm thổ thiền định, năm kim buồn bã và năm mộc tức giận. Ví dụ như những năm hỏa từng tạo ra sự lạc quan và thúc đẩy thị trường chứng khoán như năm 2006, 2007.
Nhưng những năm sau đó, nền kinh tế thế giới có phần trồi sụt theo sự lên xuống của nước, đất và gỗ. Trong năm thủy 2012, kinh tế thế giới giậm chân tại chỗ, đặc biệt là nửa cuối năm, vì hỏa khí lụi tàn. Nhưng đến năm 2013, con rắn lửa được kỳ vọng sẽ cải thiện đáng kể môi trường kinh doanh cho thế giới và các nhà đầu tư sẽ lấy lại được sự tự tin nhờ vượng khí của chú rắn lửa. Vì vậy, đây có thể là một năm các hoạt động kinh tế và thị trường chứng khoán sẽ rất tích cực, nhất là vào mùa xuân và mùa hè.
Hỏa khí mạnh mẽ của năm nay tạo ra tâm lý tích cực, lạc quan và khiến lượng mua vào tăng cao. Vượng khí tích cực sẽ tiếp tục kéo dài đến năm 2014 khi ngọn lửa mạnh mẽ hơn nữa được Giáp Ngọ mang đến.
Năm 2013 với hai yếu tố nước và lửa cũng được dự đoán tốt cho các ngành công nghiệp thuộc thổ và kim. Những ngành thuộc thổ ví dụ như bất động sản, khách sạn, bảo hiểm, những ngành thuộc kim như ngân hàng, cơ khí, máy móc, ô tô và các ngành công nghệ cao. Những ngành thuộc hành mộc cũng tốt trong năm hỏa ví dụ như thời trang, in ấn, báo chí, công nghệ môi trường. Những ngành thuộc thủy như tàu bè, giao thông cũng có sự tiến bộ.
Có ngành nghề không tốt lắm chính thuộc hỏa như năng lượng, tài chính, bởi hỏa gặp hỏa mang lại rất nhiều cạnh tranh và sức nóng quá lớn. Tuy nhiên, Hỏa Xà cũng là một đại diện của giải trí và vui vẻ, được cho là sẽ mang đến sự lãng mạn và thu hoạch cho các ngành công nghiệp như điện ảnh, giải trí, nhà hàng, ông Lo nói.
Còn nhà phong thủy Indonesia thì cho rằng lĩnh vực phát đạt nhất liên quan đến thổ tức là nông nghiệp, tài chính, tài sản và dịch vụ. Dịch vụ phát triển nhà ở, cơ sở hạ tầng có sự tiến bộ. Tuy nhiên, không thực sự thuận lợi cho các ngành kinh doanh liên quan đến hành kim ví dụ như công nghiệp ô tô.
Ngoài ra, theo y học Trung Quốc, nước mang tính âm là tượng trưng cho thận và hệ sinh sản. Năm rắn cũng là năm "quý tộc" trong số những năm mang mệnh thủy. Do đó, năm Quý Tỵ cũng là một năm tốt để sinh con.
Các chuyên gia phong thủy cho rằng năng lượng phong thủy thay đổi theo từng năm, vì thế họ nhìn nhận sự phân bố năng lượng đó để dự đoán các điều thuận lợi và chuẩn bị đối phó những gì khó khăn. Họ cho rằng năm tới biểu tượng cho sự lạc quan, cải cách, sáng tạo và thịnh vượng.
                                                                                                                 Vũ Hà

Chào những nẻo đường đầy gió (Sen - tiểu luận mừng năm 2013)

Người Do Thái..

Người Do Thái: Dân tộc nhỏ, nền văn minh lớn

Trần Hoàng Duy

Trước hết người Do Thái có truyền thống coi kiến thức trí tuệ là thứ quý nhất của con người. Kinh Talmud viết: Tài sản có thể bị mất, chỉ có tri thức và trí tuệ thì mãi mãi không mất đi đâu được. Các ông bố bà mẹ Do Thái dạy con: Của cải, tiền bạc của chúng ta đều có thể bị kẻ khác tước đoạt nhưng kiến thức, trí tuệ trong đầu óc ta thì không ai có thể cướp nổi. Với phương châm đó, họ đặc biệt coi trọng việc giáo dục, dù khó khăn đến đâu cũng tìm cách cho con học hành; ngoài ra họ chú trọng truyền đạt cho nhau các kinh nghiệm làm ăn, không bao giờ giấu nghề. Người Do Thái có trình độ giáo dục tốt nhất trong các cộng đồng thiểu số ở Mỹ, thể hiện ở chỗ họ chiếm tỷ lệ cao nhất trong sinh viên các trường đại học hàng đầu cũng như trong giới khoa học kỹ thuật và văn hóa nghệ thuật.
Từ lâu tôi đã định viết chủ đề về người Do Thái trên VFpress.vn. Tiếp theo bài viết về nước Nhật và nhân việc George Soros thăm Việt Nam, hôm nay tôi xin giới thiệu về đất nước Do Thái. Một dân tộc nhỏ nhưng tác động đến rất lớn toàn bộ văn minh của trái đất. Từ cuộc sống, khoa học, làm giàu… đến tư tưởng mọi thứ đều có sự tác động của người Do Thái. Văn minh Do Thái không để lại những kiến trúc nổi tiếng như Kim tự tháp, điện Pantheon hoặc Vạn lý Trường thành, nhưng nó lưu lại mãi mãi một di sản phi vật thể vô giá mà ít có nền văn minh nào có thể sánh được về tầm ảnh hưởng lâu dài, sâu sắc đối với văn minh toàn nhân loại.
Dường như là, mỗi khi bàn luận về sự thông minh có di truyền không, người ta đều nêu lên dẫn chứng về giải Nobel và người Do Thái. Và cũng như một thông lệ, hàng năm sau khi công bố giải, người ta đều hỏi người Do Thái chiếm bao nhiêu phần trăm giải năm ấy. Và thực tế thì con số này không hề nhỏ.
Ví dụ chỉ sau khi vừa công bố 3 giải Nobel 2011, lập tức có một bài báo nhan đề “Bà mẹ Yiddeshe có thể tự hào: Năm trong bảy Nobel gia là người Do Thái”. Đó là: Ralph Steinman và Bruce Beutler, giải Nobel về Y học, Saul Pelmutter và Adam G. Ross - giải Nobel về Vật lý, Daniel Shechtman - giải Nobel về Hoá học.
Dân tộc Do Thái là một trong những dân tộc có nền văn hoá và lịch sử lâu đời nhất của nhân loại, ra đời cùng với thời kỳ văn minh Ai Cập, văn minh Lưỡng Hà và văn minh Hy Lạp-La Mã thời cổ đại. Nhưng lịch sử bắt họ phải chịu một số phận không may mắn, bị các bộ tộc và các lãnh chúa khác xâm chiếm đất đai và xua đuổi dưới những lý do tôn giáo. Từ đó họ phải sống tha hương, từng nhóm kéo nhau đi khắp mọi nơi trên thế giới để duy trì sự sinh tồn, vượt qua những định mệnh nghiệt ngã của lịch sử.
Trên 2000 năm qua, đi đến đâu họ cũng tỏ ra là một dân tộc có sức sống dẻo dai, không bị đồng hoá và ý thức vươn lên mãnh liệt.Trong công việc họ cần cù, kiên trì và quyết tâm đạt những mục đích mình theo đuổi. Bởi vậy, gần như sống ở đâu họ cũng thành công.
Sự thành đạt và khôn ngoan của họ nhiều khi bị thành kiến và kỳ thị. Trong Thế chiến II, dưới chế độ phát xít, khi Hitler đề cao thuyết “người Đức là một dân tộc thượng đẳng”. Hitler rất sợ sự vượt trội của người Do Thái, nên dã bắt họ sống trong các trại tập trung, đày đoạ họ với ý đồ để họ chết dần chết mòn trong đó.
Người Do Thái đặc biệt xuất sắc trong lĩnh vực trí tuệ. Họ thường là những nhà khoa học lớn, những doanh nhân lỗi lạc, những nhà văn kiệt xuất, những nhà tư tưởng uyên bác, những chính trị gia tài giỏi…
Từ năm 1901, giải Nobel được thành lập và trở thành một giải thưởng uy tín nhất và danh giá nhất hành tinh, tôn vinh những người có đóng góp lớn nhất cho nhân loại, có những phát minh đột phá, những tác phẩm văn chương thấm đẫm tính nhân văn, những người có công lao kiến tạo một thế giới an bình hơn, tốt đẹp hơn. Người Do Thái lập tức trở thành một yếu tố quan trọng của giải, dù họ sống ở các nước khác nhau, mang quốc tịch khác nhau hoặc chính tại đất nước mới thành lập cách nay không lâu của họ là Israel.
Tính đến năm 2011, giải Nobel đã trao 108 lần (trừ 4 năm trong Thế chiến I và II không trao giải) cho trên 800 nhân vật và các tổ chức xã hội. Nếu tính tất cả các giải, ít nhất có 181 người Do Thái (thuần chủng, hoặc từ 1/2 đến 3/4 dòng máu Do Thái) được trao giải Nobel, chiếm 22% số nhân vật được coi là những trí tuệ hàng đầu của nhân loại.
Trong các giải Nobel qua hơn một thế kỷ, tỉ lệ số người Do Thái chiếm lĩnh các giải Nobel trong các lĩnh vực như sau:
- Hoá học: 32 người, chiếm tỷ lệ 21%
- Kinh tế: 28 người, chiếm tỷ lệ 42%
- Văn chương: 13 người, chiếm tỷ lệ 12%
- Vật lý: 49 người, chiếm tỷ lệ 27%
- Hoà bình: 9 người, chiếm tỷ lệ 8%.
Cần lưu ý rằng số người Do Thái trên Trái đất là 20 triệu (cả trong và ngoài nước) nghĩa là chưa đến 0,2% dân số thế giới. Như vậy, trong khi dân số thế giới là gần 8 tỷ với trên 800 giải Nobel, thì bình quân số giải trên đầu người của người Do Thái so với bình quân của thế giới cao hơn đến 11.950%. Song đó chỉ là so sánh cho vui thôi, chứ con số này không mấy ý nghĩa bởi kèm theo nó còn bao nhiêu điều kiện khác nữa. Người ta thường nói giải Nobel trong vài chục năm gần đây đổ dồn về Mỹ. Song ít ai để ý, trong những “giải Nobel mang thương hiệu Mỹ” thì người Mỹ gốc Do Thái chiếm một phần quan trọng.
Xin nêu một vài con số: Giải Nobel Hoá học của Mỹ có 27% là người gốc Do Thái, Nobel Vật lý - 37%, Nobel Y học & Sinh lý học - 42%, Nobel Kinh tế - 55%, Nobel Văn chương - 27%, Nobel Hoà bình 10%. Và cũng xin nhớ rằng dân số của cộng đồng Do Thái chỉ bằng 2% của Mỹ.
Trí tuệ Do Thái thể hiện không chỉ ở nam giới mà cả nữ giới. Trong 4 ngành khoa học có 18 nữ Nobel gia thì 36% là các bà gốc Do Thái, tỷ lệ còn cao hơn cả các ông. Nếu không kể giải Nobel, thì bất cứ giải quốc tế nào khác, tỷ lệ các nhà khoa học Do Thái cũng tương tự. Chỉ xin kể một giải chúng ta đã nói nhiều là giải Fields thì các nhà toán học trẻ người Do Thái được giải chiếm 27%, giải thành tựu suốt đời trong Toán học, họ chiếm tới 55%.
Các Nobel gia người Do Thái cũng nằm trong một số “điều đặc biệt” của giải. Chẳng hạn Elia Wiesel, người sống sót từ trại tập trung của phát xít Đức được giải Nobel Hoà bình năm 1986. Nhà Nobel cao tuổi nhất khi được trao giải là người Balan gốc Do Thái, Leonid Hurwicz, giải Nobel kinh tế 2007 năm ông đã 90. Nobel gia sống thọ nhất là bà Rita Levi-Montalcini, giải Nobel Sinh lý học 1936 hiện đã vượt qua tuổi 102 hoặc một nhà văn bị nhà nước buộc không được nhận giải là Boris Pasternak, giải Nobel văn học năm 1958. Nhà khoa học được bình chọn là nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ XX - Albert Einstein – cũng là người Mỹ gốc Do Thái.

Cả một dân tộc giỏi làm kinh tế

Chúng ta đều biết người Do Thái (thời cổ gọi là Hebrew) là dân tộc thành công nhất trên nhiều lĩnh vực trí tuệ, nhưng có lẽ ít ai biết họ thực ra còn cực kỳ xuất sắc trên mặt kinh tế, tài chính, thương mại. Họ đạt được những thành tựu đó trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn: toàn bộ dân tộc Do Thái buộc phải sống lưu vong phân tán, “ăn nhờ ở đợ” suốt 2000 năm qua trên khắp thế giới, đi tới đâu (trừ ở Mỹ) cũng bị xa lánh hoặc hắt hủi, xua đuổi, tước đoạt, thậm chí hãm hại, tàn sát vô cùng dã man, bị cấm được sở hữu bất cứ tài sản cố định nào như nhà đất, tài nguyên thiên nhiên...
Chỉ cần lướt các mạng tìm kiếm là ta có thể sưu tầm được ngay một số thành tựu cực kỳ gây ấn tượng của người Do Thái trên lĩnh vực kinh tế, dù là về mặt lý thuyết hay thực tiễn. Hãy xem một số số liệu sau đây:
Rất nhiều nhà lý thuyết kinh tế hàng đầu thế giới là người Do Thái, các lý thuyết họ xây dựng nên đã ảnh hưởng vô cùng to lớn nếu không nói là quyết định tới quá trình trình tiến hóa của nhân loại:
- Karl Marx (Các Mác) người khám phá ra “giá trị thặng dư” và xây dựng học thuyết kinh tế chủ nghĩa cộng sản sẽ thay thế cho chủ nghĩa tư bản, được gọi là một trong hai người Do Thái làm đảo lộn cả thế giới (người kia là Jesus Christ);
- Alan Greenspan 17 năm liền được 4 đời Tổng thống Mỹ tín nhiệm cử làm Chủ tịch Cơ quan Dự trữ Liên bang (FED, tức Ngân hàng Nhà nước Mỹ) nắm quyền sinh sát lớn nhất trong giới tài chính Mỹ, thống trị lĩnh vực tài chính tiền tệ toàn cầu;
- Paul Wolfowitz cùng người tiền nhiệm James Wolfensohn, hai cựu chủ tịch Ngân hàng Thế giới, tổ chức tài chính có tác dụng rất lớn đối với các nước đang phát triển;
- 41% chủ nhân giải Nobel kinh tế thời gian 1901-2007 là người Do Thái (cộng 13 người), chẳng hạn Paul Samuelson (1970), Milton Friedman (1976) và Paul Krugman (2008)… là những tên tuổi quen thuộc trong giới kinh tế thế giới hiện nay, các lý thuyết của họ được cả thế giới thừa nhận và học tập, áp dụng...
Nhiều nhà giàu nổi tiếng thế giới từng tác động không nhỏ tới chính trị, kinh tế nước Mỹ và thế giới là người Do Thái. Đơn cử vài người:
- Jacob Schiff, chủ nhà băng ở Đức, sau sang Mỹ định cư; đầu thế kỷ XX do căm ghét chính quyền Sa Hoàng giết hại hàng trăm nghìn dân Do Thái ở Nga, ông đã cho chính phủ Nhật Bản vay 200 triệu USD (một số tiền cực kỳ lớn hồi ấy) để xây dựng hải quân, nhờ đó Nhật thắng Nga trong trận hải chiến Nhật-Nga năm 1905. Nhớ ơn này, trong đại chiến II Nhật đã không giết hại người Do Thái sống ở Trung Quốc tuy đồng minh số Một của Nhật là phát xít Đức Hitler có nhờ Nhật “làm hộ” chuyện ấy.
- Sheldon Adelson, người giàu thứ 3 nước Mỹ, với tài sản cá nhân lên tới 36 tỷ USD. Nếu được chính phủ VN cho phép thì khả năng Sheldon Adelson sắp mở sòng bạc tại thành phố Hồ Chí Minh.
- George Soros giàu thứ 22 ở Mỹ (19 tỷ USD) không chỉ nổi tiếng về giàu có mà ông còn là bậc thầy về những phi vụ đầu cơ đi vào lịch sử...
- Michael Bloomberg có tài sản riêng 22 tỷ USD, làm thị trưởng thành phố New York đã 8 năm nay với mức lương tượng trưng mỗi năm 1 USD và là chủ kênh truyền hình Bloomberg nổi tiếng trong giới kinh tế.
Cộng đồng Do Thái ở Mỹ chiếm một nửa tổng số người Do Thái trên toàn thế giới là quần thể thiểu số thành công nhất ở Mỹ dù chỉ chiếm 2,5% số dân. Khoảng một nửa số doanh nhân giàu nhất Mỹ, 21 trong số 40 nhà giàu đứng đầu bảng xếp hạng của tạp chí Forbes là người Do Thái, và cộng đồng Do Thái có mức sống bình quân cao hơn mức trung bình của nước này. Họ nắm giữ phần lớn nền kinh tế tài chính Mỹ, tới mức người Mỹ có câu nói “Tiền nước Mỹ nằm trong túi người Do Thái”. Nhờ thế trên vấn đề Trung Đông chính phủ Mỹ xưa nay luôn bênh vực và viện trợ Israel.
Nước Israel nhỏ bé với hơn 5 triệu người Do Thái tuy ở trên vùng sa mạc khô cằn nhưng nông nghiệp và các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật đều rất phát triển, dân rất giàu, GDP đầu người năm 2011 khoảng 31.500 USD (nguồn web CIA.gov). Nhờ sức mạnh mọi mặt ấy, quốc gia nhỏ xíu này đã đứng vững được trong làn sóng hằn thù và công kích của cả trăm triệu người Ả Rập xung quanh...

Nguyên nhân do đâu?

Vì sao người Do Thái giỏi làm kinh tế trên cả hai mặt lý thuyết và thực hành như vậy? Lịch sử đã chứng minh, yếu tố quyết định thành công của một dân tộc bắt nguồn từ truyền thống văn hóa của dân tộc ấy.
Để tìm hiểu truyền thống văn hóa của dân tộc này có lẽ ta cần tìm hiểu các nguyên tắc chính của đạo Do Thái (Judaism), tôn giáo lâu đời nhất thế giới còn tồn tại tới ngày nay và là chất keo bền chắc gắn bó cộng đồng, khiến dân tộc này giữ gìn được nguyên vẹn nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa mặc dù phải sống phân tán, lưu vong và bị kỳ thị, xua đuổi, hãm hại, tàn sát dã man suốt 2000 năm qua. Có thể nói, nếu không có chất keo ấy thì từ lâu dân tộc Do Thái đã bị tiêu diệt hoặc đồng hóa và biến mất khỏi lịch sử. Đạo Do Thái là tôn giáo duy nhất thành công trên cả hai mặt: giữ được sự tồn tại của dân tộc và hơn nữa đưa họ vươn lên hàng đầu thế giới trên hầu hết các lĩnh vực trí tuệ.
Muốn vậy, ta thử điểm qua vài nét về Kinh thánh của người Do Thái (Hebrew Bible) – kinh điển này hơn 10 thế kỷ sau được đạo Ki-tô lấy nguyên văn làm phần đầu Kinh Thánh của họ và gọi là Cựu Ước, nhằm phân biệt với Tân Ước do các nhà sáng lập Ki-tô giáo viết. Ta cũng cần xem xét một kinh điển nữa của đạo Do Thái gọi là Kinh Talmud, quan trọng hơn cả Cựu Ước, có đưa ra nhiều nguyên tắc cụ thể cho tới thời nay vẫn còn giá trị về kinh doanh, buôn bán.
Trước hết người Do Thái có truyền thống coi kiến thức trí tuệ là thứ quý nhất của con người. Kinh Talmud viết: Tài sản có thể bị mất, chỉ có tri thức và trí tuệ thì mãi mãi không mất đi đâu được. Các ông bố bà mẹ Do Thái dạy con: Của cải, tiền bạc của chúng ta đều có thể bị kẻ khác tước đoạt nhưng kiến thức, trí tuệ trong đầu óc ta thì không ai có thể cướp nổi. Với phương châm đó, họ đặc biệt coi trọng việc giáo dục, dù khó khăn đến đâu cũng tìm cách cho con học hành; ngoài ra họ chú trọng truyền đạt cho nhau các kinh nghiệm làm ăn, không bao giờ giấu nghề. Người Do Thái có trình độ giáo dục tốt nhất trong các cộng đồng thiểu số ở Mỹ, thể hiện ở chỗ họ chiếm tỷ lệ cao nhất trong sinh viên các trường đại học hàng đầu cũng như trong giới khoa học kỹ thuật và văn hóa nghệ thuật.
Thứ hai, đạo Do Thái đặc biệt coi trọng tài sản và tiền bạc. Đây là một điểm độc đáo khác hẳn đạo Ki-tô, đạo Phật, đạo Nho, ta cần phân tích thêm. Có lẽ sở hữu tài sản là một trong các vấn đề quan trọng nhất của đời sống loài người, là nguyên nhân của cuộc đấu tranh giữa con người với nhau (đấu tranh giai cấp) và chiến tranh giữa các quốc gia. Heghel, đại diện nổi tiếng nhất của triết học cổ điển Đức từng nói: “Nhân quyền nói cho tới cùng là quyền (sở hữu) về tài sản.” Chính Marx cũng nói: Chủ nghĩa cộng sản “là sự phục hồi chế độ sở hữu của cá nhân trên một hình thức cao hơn”. Rõ ràng, chỉ khi nào mọi người đều có tài sản, đều giàu có thì khi ấy mới có sự bình đẳng đích thực, người người mới có nhân quyền. Một xã hội có phân hóa giàu nghèo thì chưa thể có bình đẳng thực sự. Đạo Do Thái rất chú trọng nguyên tắc làm cho mọi người cùng có tài sản, tiền bạc, cùng giàu có.
Triết gia Max Weber viết: “Đạo Ki-tô không làm tốt bằng đạo Do Thái, vì họ kết tội sự giàu có.” Quả vậy, Chúa Jesus từng nói: “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Chúa” (Tân Ước, Mathew 19:24), ý nói ai giàu thì khó lên thiên đường, ai nghèo thì dễ lên thiên đường hơn – qua đó có thể suy ra đạo Ki-tô thân cận với người nghèo khổ. Nho giáo và đạo Phật lại càng khinh thường tài sản, tiền bạc, coi nghèo là trong sạch, giàu là bẩn thỉu.
Ngược lại Cựu Ước ngay từ đầu đã viết: “Vàng ở xứ này rất quý” (Genesis 2:12). Ý tưởng quý vàng bạc, coi trọng tài sản vật chất đã ảnh hưởng lớn tới người Do Thái, họ đều muốn giàu có. Khái niệm tài sản xuất hiện ngay từ cách đây hơn 3000 năm khi vua Ai Cập bồi thường cho vị tổ phụ của bộ lạc Do Thái là Abraham, khiến ông này “có rất nhiều súc vật, vàng bạc” (Genesis 13:2). Thượng Đế Jehovah yêu cầu Abraham phải giàu để có cái mà thờ cúng Ngài. Thượng Đế cho rằng sự giàu có sẽ giúp chấm dứt nạn chém giết nhau. Khi Moses dẫn dân Do Thái đi khỏi Ai Cập cũng mang theo rất nhiều súc vật. Những người xuất thân gia đình giàu có hồi ấy như Jacob, Saul, David ... đều được Cựu Ước ca ngợi là có nhiều phẩm chất tốt, lắm tài năng, lập được công trạng lớn cho cộng đồng dân tộc và đều trở thành lãnh đạo, vua chúa. Ngược lại, văn hóa phương Đông thường ca ngợi phẩm chất của những người nghèo.
Trọng tiền bạc là đặc điểm nổi bật ở người Do Thái. Họ coi đó là phương tiện tốt nhất để bảo vệ mình và bảo vệ dân tộc họ. Quả vậy, không có tiền thì họ làm sao tồn tại nổi ở những quốc gia và địa phương họ sống nhờ ở đợ, nơi chính quyền và dân bản địa luôn chèn ép, gây khó khăn. Hoàn cảnh ấy khiến họ sáng tạo ra nhiều biện pháp làm giàu rất khôn ngoan. Thí dụ cửa hiệu cầm đồ và cho vay lãi là sáng tạo độc đáo của người Do Thái cổ đại – về sau gọi là hệ thống ngân hàng. Buôn bán cũng là một biện pháp tồn tại khi trong tay không có tài sản cố định nào. Người ta nói dân Do Thái có hai bản năng: thứ nhất là bản năng kiếm tiền; thứ hai là bản năng làm cho tiền đẻ ra tiền – họ là cha đẻ của thuyết lưu thông tiền tệ ngày nay chúng ta đều áp dụng với quy mô lớn (còn ai kiếm tiền dễ hơn ngành ngân hàng?).
Tuy vậy, sự quá gắn bó với tiền bạc là một lý do khiến người Do Thái bị chê bai. Bạn nào đã đọc tiểu thuyết Ai-van-hô (Ivanhoe) của Walter Scott chắc còn nhớ mãi hình ảnh ông lão Do Thái Isaac (I-sắc) đáng thương, bố của nàng Rebeca xinh đẹp và thánh thiện, lúc nào cũng khư khư giữ túi tiền và bị hiệp sĩ Đầu Bò nhạo báng khinh bỉ thậm tệ. Kịch của Shakespeare đưa ra nhiều hình ảnh khiến người ta có cảm giác người Do Thái bần tiện, ích kỷ, xảo trá. Tập quán cho vay lãi của người Do Thái bị nhiều nơi lên án. Hệ thống cửa hiệu của người Do Thái ở Đức là đối tượng bị bọn Quốc Xã Hitler đập phá đầu tiên hồi thập niên 30. Người Đức có câu ngạn ngữ “Chẳng con dê nào không có râu, chẳng người Do Thái nào không có tiền để dành.” Karl Marx từng viết: Tiền bạc là vị thần gắn bó với người Do Thái; xóa bỏ chủ nghĩa tư bản sẽ kéo theo sự xóa bỏ chủ nghĩa Do Thái. Marx nói như vậy nghĩa là đã thừa nhận người Do Thái tham dự sáng lập ra chủ nghĩa tư bản, một chế độ xã hội mới thay thế chế độ phong kiến và làm nên phần chủ yếu trong cộng đồng quốc tế hiện nay. Quả thật, người Do Thái có đóng góp rất lớn về lý thuyết và thực hành trong việc xây dựng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Kinh Talmud viết: Mọi người phải yêu Thượng Đế với toàn bộ trái tim, cuộc đời và của cải của mình; mỗi người đều phải quan tâm tới tài sản; không ai được phép dùng tài sản của mình để làm hại kẻ khác và không ai được trộm cắp tài sản người khác; tài sản của một người nhưng không phải chỉ là của người đó mà phải dùng nó để giúp kẻ khác... Có thể hiểu “Yêu Thượng Đế với toàn bộ tài sản của mình” nghĩa là phải sử dụng tài sản riêng của mình theo lệnh Thượng Đế, nghĩa là phải chia bớt cho người nghèo. Quy ước này đã đặt nền móng cho tư tưởng nhân ái, bình đẳng của văn minh phương Tây. Từ đó ta dễ hiểu vì sao cộng đồng Do Thái ở đâu cũng giúp đỡ nhau để tất cả cùng giàu lên, không có ai nghèo khổ.
Đạo Do Thái coi làm giàu là bổn phận nặng nề của con người; nói “nặng nề” vì người giàu có trách nhiệm to lớn đối với xã hội: họ không được bóc lột người nghèo mà phải chia một phần tài sản của mình để làm từ thiện. Những người Do Thái giàu có luôn sống rất giản dị, tiết kiệm và năng làm từ thiện. Soros từng cúng 4 tỷ USD (trong tổng tài sản 7 tỷ) cho công tác từ thiện. Không một nhà giàu Do Thái nào không có quỹ từ thiện của mình. Từ đây có thể hiểu được tại sao cộng đồng Do Thái lại cùng giàu có như thế.
Người Do Thái luôn nghĩ rằng Thượng Đế giao cho họ nghĩa vụ và quyền làm giàu. Đây là động lực chủ yếu khiến họ ở đâu cũng lo làm giàu, không bao giờ chịu nghèo khổ. Hai nghìn năm qua, dù sống lưu vong ăn nhờ ở đợ các quốc gia khác và ở đâu cũng bị cấm sở hữu mọi tài sản cố định nhưng dân tộc này vẫn nghĩ ra nhiều cách kinh doanh hữu hiệu bằng các dịch vụ như buôn bán, dành dụm tiền để cho vay lãi …
Muốn làm giàu, điều cơ bản là xã hội phải thừa nhận quyền tư hữu tài sản. Kinh Talmud viết: ai nói “Của tôi là của tôi, của anh là của anh” (mine is mine and yours is yours) thì là người bình thường (average); nói “Của tôi là của anh, của anh là của tôi” thì là kẻ ngu ngốc; nói “Của tôi là của anh và của anh là của anh” thì là ngoan đạo (godly); ai nói “Của anh là của tôi và của tôi là của tôi” là kẻ xấu (evil). Nghĩa là họ thừa nhận quyền tư hữu tài sản là chính đáng, không ai được xâm phạm tài sản của người khác.
Tuy thừa nhận quyền sở hữu tài sản và luật pháp bảo vệ quyền đó, nhưng đạo Do Thái không thừa nhận quyền sở hữu tài sản tuyệt đối và vô hạn, cho rằng tất cả của cải đều không thuộc về cá nhân mà thuộc về Thượng Đế, mọi người đều chỉ là kẻ quản lý hoặc kẻ được ủy thác của cải đó. Tài nguyên thiên nhiên do Thượng Đế tạo ra là để ban cho tất cả mọi người, không ai có quyền coi là của riêng mình. Đây là một quan niệm cực kỳ tiến bộ và có giá trị hiện thực cho tới ngày nay: tài nguyên thiên nhiên, sự giàu có của đất nước là tài sản của toàn dân, tuyệt đối không được coi là của một số nhóm lợi ích hoặc cá nhân.
Kinh Talmud viết nhiều quy tắc hữu dụng về kinh doanh. Chẳng hạn:
- Vay một quả trứng, biến thành một trại ấp gà;
- Bán nhiều lãi ít tức là bán 3 cái (lãi) chỉ bằng bán 1 cái;
- Mất tiền chỉ là mất nửa đời người, mất lòng tin (tín dụng) là mất tất cả;
- Nghèo thì đáng sợ hơn 50 loại tai nạn;
- Giúp người thì sẽ làm tăng tài sản; ki bo chỉ làm nghèo đi;
- Chỉ lấy đi thứ gì đã trả đủ tiền cho người ta;
- Biết kiếm tiền thì phải biết tiêu tiền; v.v…
So sánh Cựu Ước và Talmud với Tân Ước, có thể thấy đạo Do Thái là tôn giáo của người muốn làm giàu, còn đạo Ki-tô là tôn giáo của người nghèo. Khác biệt căn bản ấy là một trong các lý do khiến Giáo hội Ki-tô ngày xưa khinh ghét người Do Thái (hy vọng trong một dịp khác chúng tôi sẽ trình bày về vấn đề này).
Từ sự phân tích sơ qua về quan điểm đối với tài sản và tiền bạc nói trên, có thể thấy hệ thống tư tưởng của đạo Do Thái rất phù hợp với quy luật tiến hóa của nhân loại và chính vì thế nó tạo dựng nên truyền thống văn hóa bất hủ của dân tộc Do Thái – nền móng vững chắc làm cho dân tộc này dù phải sống lưu vong không tổ quốc hàng nghìn năm nhưng cuối cùng vẫn là dân tộc thành công nhất trên hầu hết các hoạt động của loài người.
Đồng thời các nguyên lý chính của đạo Do Thái đã tác động không nhỏ tới giáo lý đạo Ki-tô và đạo Islam; hai tôn giáo lớn này đều có nguồn gốc từ đạo Do Thái. Cuối cùng, nhờ có những điểm độc đáo nói trên, văn minh Hebrew của phương Đông trong quá trình giao lưu kết hợp với văn minh Hy-lạp của phương Tây đã sinh ra một nền văn minh mới – văn minh Ki-tô giáo, sau rốt trở thành nền văn minh phương Tây rực rỡ mấy nghìn năm nay. Có lẽ đây là thành tựu đáng kể nhất mà nền văn minh Hebrew đã đóng góp cho nhân loại. Điều đáng nói là, do các nguyên nhân lịch sử cực kỳ phức tạp, lâu nay người ta đã coi nhẹ nền văn minh Hebrew, và bây giờ đã đến lúc loài người nên sửa chữa sai lầm đó.
Nguồn: Thành viên Trần Hoàng Duy - diễn đàn VFpress.vn, blog dân tộc do thái.

Những khúc “Tuyệt ca” của Đỗ Doãn Phương


 – “Tuyệt ca” là tên của tập thơ sẽ xuất bản trong thời gian tới của Đỗ Doãn Phương. Anh tự bạch: “Không phải là tuyệt vời, “Tuyệt ca” của tôi là bài ca từ bỏ, dứt bỏ. Nhẹ nhàng là từ bỏ một cuộc tình mà mình bị mắc kẹt; nặng hơn là trút bỏ cả thịt, cả da của kiếp này; và cuối cùng là từ bỏ "Sinh", lại dứt nốt "Duyên" để đi đến chỗ "đoạn tuyệt" hoàn toàn…” VanVN.Net trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc những bài thơ chọn từ tập bản thảo này.
Nhà thơ Đỗ Doãn Phương

Tuyệt ca với con

Con thức dậy giữa đêm sâu
Khi bố mẹ còn say ngủ
Quờ quạng chẳng thấy đâu
Con bò và khóc nghêu ngao

Con bò lên đầu bố, rồi lại bò xuống chân
Phòng ngủ tối om, chiếc giường rộng như quả đất
Con trèo lên mông mẹ mà tưởng lạc lên gò cao
Còn bò dọc chân cha mà tưởng tuột xuống bờ thấp

Con chạm vào mà không nhận ra bố mẹ vẫn bên con
Bố mẹ vẫn bên con mà con tưởng mất

Con cứ khóc đi
Rồi đến khi chân con đã cứng mạnh, mắt đã tinh tường
Giữa thanh thiên bạch nhật, trời đất sáng bừng
Con sẽ phải mải miết khắp gò cao, bờ thấp

Và rồi trong tối tăm, con òa khóc
Bố mẹ vẫn nằm dưới đó
Nhưng bố mẹ lại nơi đâu?


Tuyệt ca về cỗ xe ngựa

Nào cố lên chú ngựa!
Khi lên dốc, chân chú như bốn cánh cung
         đuôi cong lên, dom lòi ra, phân rơi lả tả
Khi xuống dốc, cổ chú rụt lại vì ách đè
Bốn chân dồn chụm vào nhau như bị phang vào khuỷu

Nào, cố lên chú ngựa
Mông ta đặt lên nệm xe, nệm xe đặt lên thùng
Thùng xe đặt lên càng
Càng xe quàng vào ách chú
Da thịt chú có mạch máu, gói bên trong có quả tim
Kéo ta đi, cỗ xe có nhịp đập

Nào cố lên chú ngựa!
Hôm nay, kéo ta đi không phải là một năng lượng hóa thạch
Không phải dòng nhiệt lượng đốt lên từ một thứ đã chết
Mà quả tim chú dưới cái ách
                             kéo ta đi

Không cần nhanh đâu
Mặc xe máy, ô tô, sự chết kéo sự chết
Chúng ta, hai sự sống cùng hành trình
Trong khoảnh khắc ngắn ngủi khi ta và chú hòa nhịp tim mình
Cỗ xe ngựa rùng mình vượt lên thứ Nhất


Viết cho bà ngoại dưới đáy biển

Cháu đã tìm bà ở khắp thế gian
Trên trời xanh, cháu nhìn không thấy
Dưới đất sâu, khi cải cát, cháu cũng không gặp bà
Quần áo và những gì còn lại của bà đã được chuyển đi nơi khác

Hôm nay cháu lại lặn xuống dưới 5m nước sâu
Xem có bà dưới đáy biển?
Bà có đi lụm cụm trên bề mặt rạn san hô?
Theo đàn cá ngũ sắc?

Căn nhà dưới biển của bà mở cửa sổ ra hướng nào?
Mâm cơm dọn ra ở đâu, dầu đèn nào để bà thắp?
Bà có ngửa cổ nhìn lên mặt nước mỗi sớm mai
Để đón ánh mặt trời khúc xạ

Dưới lòng biển, cây cối như núi rừng
Chiều sâu như chiều cao, và phải lộn đầu để đi xuống
Dưới lòng biển, phải đi mãi mới chạm tới đất
Và ai cũng sống lơ lửng ở lưng chừng

Càng xuống sâu, máu cháu càng lạnh như loài cá đang bơi 
Đời sống phù sinh của chúng ta hiện ra trong vệt sủi bong bóng
Ai cũng cố tìm cho mình hơi thở
Cho đến khi hai lá phổi hóa thành mang

Bà có ở dưới này không, nơi tận cùng của ba cõi
Những con cá xây mặt lại và nhìn
Chúng bảo rằng chúng ta đang ở giữa một bể cá lớn
Và những người chết đang đứng ngoài quan sát.


Những cây nến trong dạ hội thơ

Khi mọi người mang lửa đến
Chúng tôi mới nhận ra trong mình có mỡ bò, cừu, parafin hay dầu lạc
Và chúng tôi có thể cháy sáng
Với cùng một ngọn lửa

Từng người, từng người chúng tôi nối nhau đi lên
Đặt ngọn nến của mình lên chiếc bàn
Rồi chúng tôi đứng lặng nhìn
Chính mình đang sáng

Một người bảo, may trời không mưa to
Một người lo, gió mạnh thêm sẽ tắt

Nhưng khi trở xuống khán đài, không một ai trong chúng tôi nhận ra cây nến của chính mình
Chỉ còn nhìn thấy, trên sân khấu, một vùng lửa sáng


Tái ngộ

Em lại ngồi trước mặt tôi
Đổ vỡ, tan nát
Thế mà em đã hăm hở lao xuống tìm hạnh phúc
Như đám trẻ đang nhảy cầu

Rất lâu sau, không thấy em mọc mũi, sủi tăm
Em có rờ tay lên ngực không, xem tim mình còn đập
Từng nhát một như búa tạ
Ta quai xuống bằng cả sức lực mình

Tôi muốn hỏi em trong hạnh phúc tột cùng, em có nhớ tôi không?
Tôi hỏi rồi tự trả lời bằng kinh nghiệm của chính tôi: Không, tôi cũng không nhớ
Ngay lúc này đây tôi không nhớ gì hết
Điều đó có nghĩa, không giống em, tôi đang hạnh phúc đầy mình
 
Ta lại ngồi đối mặt nhau
Trước khi em lao xuống dòng sông, còn tôi ở lại
Tôi nhận ra em chính là người tôi muốn gặp lại nhất trước khi chết
Chứ không phải lúc này

Diễn văn của SÂU BỌ LẬP!

Nguyễn Quang Lập - Hãy nói dối tốt hơn nữa


Chuyen phiem voi ong chu chieu ruou Que choa
Quang Lập
Diễn văn của bọ Lập chào mừng Ngày nói dối toàn thế giới.
Thưa các đồng chí và các bạn!
Hôm nay, trong không khí phấn khởi tự hào chào mừng ngày nói dối toàn thế giới, tôi xin gửi tới các đồng chí và các bạn lời chúc mừng nồng nhiệt nhất, thân thương nhất.
Thưa các đồng chí và các bạn.
Trải qua một chặng đường đấu tranh gian khổ với bè lũ nói thật chúng ta đã thu được nhiều thắng lợi to lớn. Nhờ có nói dối mà vợ không làm gì được chồng, cấp dưới không làm gì được cấp trên, phụ huynh không làm gì được cô thầy, bố mẹ không làm gì đựơc con cái.
Nhờ có nói dối chúng ta có được hàng ngàn dự án bánh vẽ, giải thưởng ma, tiến sĩ giấy, công trình dổm. Nhờ có nói dối mà nhân dân tin tưởng, bạn bè quốc tế nể trọng, cho vay ngày càng nhiều đòi nợ ngày càng khó. Thử hỏi cứ nói thật làm thật thì chúng ta có bao nhiêu thắng lợi rực rỡ, bao nhiêu thành công lớn lao, bao nhiêu công trình vì đại. Và lấy đâu ra sự đồng thuận hả các đồng chí, lấy đâu ra?
Có người nói muốn giàu có vững mạnh cần phải nói thật, sai, nếu nói thật thì làm sao có ổn định, không ổn định làm sao nói đến giàu có vững mạnh? Nói dối là để chứng minh chính sự thật là dối trá, là ác ý, là vô cùng nham hiểm. Chúng ta phải kiên quyết bài trừ sự thật bởi vì chỉ có sự thật mới cản trở con đường tiến lên thế giới đồ đồng. (Không phải thế giới đại đồng, các đồng chí phiên dịch sai, đại đồng là cái đinh gì, nó chính là thế giới đồ đồng).
Gần đây có nhà thơ nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo hô hào cần có một ngày nói thật, sai. Đồng chí Tạo không nắm được thông tin, không hiểu được tình hình đất nước nên đã phát ngôn bừa bãi.
Nếu đồng chí Tạo không nói dối làm sao quần chúng say mê nhạc đồng chí được. Đồng chí Tạo viết: quá nửa đời phiêu bạt, ta lại về úp mặt vào sông quê, sai, đồng chí Tạo lười tắm, úp mặt vào sông quê bao giờ. Nhưng nói dối thế mới hay, mới sáng tạo. Nếu đồng chí Tạo nói đồng chí úp mặt vào cái ấy thì có hay nữa không, quần chúng còn say mê đồng chí nữa không.
Cho nên không nên nghe bè lũ nói thật lung lạc mà đề xuất linh tinh. Một phút nói thật cũng không, nói thật thì lợi hay hại… lợi hay hại hả các đồng chí.
Vì thế, tôi đánh giá rất cao lực lượng đánh máy nước nhà. Các đồng chí đã chịu thương chịu khó, đồng cam cộng khó, trên dưới một lòng, đứng mũi chịu sào đưa nói dối nước nhà đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Từ nay cậu đánh máy là biểu tượng hào hùng đầy sức sáng taọ của nói dối nước nhà, đưa nói dối nước nhà lên một tầm cao mới.
Thưa các đồng chí và các bạn
Chúng ta không thể tồn tại nếu chúng ta không được nói dối, không biết nói dối. Nhân ngày lễ trọng đại này, tôi kêu gọi các đồng chí hãy phát huy tinh thần tiến công, chủ động sáng tạo, đánh bại mọi âm mưu thâm độc của bè lũ nói thật, đánh bại từng bước, đánh đổ từng bộ phận, tiến lên dành thắng lợi hoàn toàn.
Láu hơn nữa, trơ hơn nữa, lì lợm hơn nữa đó là khẩu hiệu nói dối của chúng ta.
Chúc các đồng chí sức khoẻ và an tâm sống chung với lũ.

Thứ Ba, 1 tháng 1, 2013

Văn chương và nỗi buồn!


Hà Nội những ngày đông cuối năm


1. Như đã hẹn định, tôi trở lại Hà Nội vào những ngày đông cuối năm. Cánh vũ tôi tự nhận thấy trong những chuyến thiên di của mình, Hà Nội vẫn là nơi tôi dừng lại nhiều hơn cả. Dù nơi đây, gió đã quăng quật tôi tới mức có thể, và đôi cánh tôi đã có lúc dã dời...
Cảm nhận cái lạnh sâu sắc nhất vào những ngày đông là cây bằng lăng trước của khách sạn nơi tôi ở đứng trân mình im phăng phắc, thân cây xám ngoét một vẻ xù xì cau có, những chiếc lá thôi xào xạc dường như cũng đóng băng trong sự tĩnh lặng. Những giọt nước đọng lại từ đêm qua nhễu nhợt rớt xuống một cách uể oải và trễ nại tới phát bực mình. Cái mạng nhện giăng trên đám lá thì trĩu xuống trùng trình bởi sương sớm vương vào, khi tôi đứng nhìn là thời khắc đã quá buổi sáng tới gần trưa mà giọt nước cũng chưa chịu bốc hơi tan biến.
Tôi không thích mùa đông, bởi sáng nay trời đổi mùa khiến tôi thấy mình quắt queo như cành cây khô giữa cái màn xanh biếc và lạnh lùng của lá. Đôi khi thiên nhiên cũng khắc nghiệt như con người, nhưng cũng chẳng tàn nhẫn cho bằng,
Ừ thôi, tìm cái khác đi của mùa đông Hà Nội. Tối đó tôi chui tọt vào một gian hầm mà một lúc nữa thôi nơi này sẽ có buổi trình diễn âm nhạc thính phòng. Vậy đấy, âm nhạc thính phòng, thứ âm nhạc trước nay tôi vẫn đánh giá là một loại nhạc bác học không phải để những loại tai như tôi nghe được vậy mà cuối cùng tôi vẫn nghe nó.
2. Đến sớm nhất rồi cũng thành ra muộn nhất. Chuyện đời đôi khi vẫn vậy, bởi có đủ lý do có thể biến những điều tưởng như đã mà thành ra không. Khán phòng - gọi khán phòng cho phù hợp với loại hình âm nhạc bác học này chứ thực ra thì tôi chưa biết gọi nơi tôi đang ngồi là gì nữa. Nó nửa giống như một quầy bar, nửa giống như một quán cafe và cũng gần giống như một phòng họp. Một tầng hầm hơi thấp, được thiết kế giản đơn và những chiếc ghế ngay lối vào giống như nơi ngồi thử đồ ở một cửa hiệu mua sắm. Chỉ có phần chính giữa là những chiếc ghế bọc da màu ghi xám được xếp một cách thẳng hàng ngay lối, đây là nơi đặc biệt dành cho khách mời, khách mời là những ai thì tôi cũng chịu bởi tôi cũng chẳng bận tâm cho lắm. Tôi đang vẩn vơ nghĩ với không gian này thì lát nữa âm nhạc sẽ rơi vào đâu?
3. Sẽ là thiếu sót vô cùng nếu tôi kể về đêm nhạc này mà chẳng hề nhắc tới cái bàn được trải khăn bên trên bày la liệt sách của Vi Thuỳ Linh. Cái bàn nằm ngay cửa ra vào vậy nên không thể không chú ý những Vili Tuỳ bút, Vili & Paris đang thản nhiên nằm thở đều đặn và ngước cặp mắt ngước nhìn từng người ra vào, có lẽ chúng cũng giống như người mẹ khai sinh ra chúng đang thẩm định ai mua, ai không mua trong số người qua lại.
Tôi biết đến thơ của Linh từ những năm 2000. Khi đó diễn đàn văn học nghệ thuật tràn ngập những lời bình xét, đánh giá về một “hiện tượng” mới mẻ mới xuất hiện trong làng thơ Việt Nam lúc bấy giờ. Khen có, chê có, mỉa mai có, tâng bốc có... Nhưng phải thú nhận nếu không có nhạc sĩ Ngọc Đại, không có ca sĩ Trần Thu Hà thì tôi sẽ không bao giờ biết tới những câu thơ “Ngày thì nhật thực/ Đêm thì nhật nguyệt/ Sông thành sa mạc/ Anh thành hư vô”; Hay “Em lầm lũi đến trước cửa nhà anh/ Nhặt xác nỗi buồn còn tươi nguyên/ Đốt lên thành lửa ném lên trời...” Và “Cài then tiếng khóc của em bằng đôi môi anh/ Bàn tay lã chã trầy xước nụ gai đớn đau...” còn nữa:  “Trên ngực anh em thở/ Thu đầy thu nghìn trùng...”; “Ta cứ viết như là ta đang sống/ Em nhớ anh vò nát cả biển rồi/ Biển đổ xanh lên những ngôi nhà cổ/ Em chênh vênh mái phố cuối cùng...”;
Bỗng  tôi nghe loáng  thoáng “...Con phe chữ!” – Tôi phải hỏi tới lần thứ hai Nữ hoàng bên cạnh tôi mới kể cho tôi nghe tại sao lại có sự ám thị khinh miệt trong câu nói đó. Thì ra nguyên nhân cũng bởi biết tôi thích thơ của Linh nên nàng Lidơ của tôi mới cùng Nữ hoàng rủ nhau ra phía ngoài cửa ra vào mua sách. Do không biết nàng thơ ViLi là ai trong vô số người đứng ngồi phía sau cái bàn đang bày bán những thoi thóp kia nên nàng Lidơ đã vô tư nói. “Cái H thích thơ của con bé Linh này, mua tặng nó một quyển làm kỷ niệm”. Thì ngay lập tức nàng thơ của chúng ta bật lên: “Linh đây, mua đi, mua đi. Hôm nay các chị mua ở đây là gặp may đấy nhé. Bình thường sách em bán đúng giá nhưng em quý các chị nên em giảm giá cho các chị một nửa...”. Vì là nghe kể nên tôi cũng không biết cách chào hàng và chào giá của Linh như trên đã khiến nàng Lidơ vốn dĩ không thích con người của nhà thơ này cảm thấy khó chịu. Tôi nghe xong chỉ cười nhưng trong lòng lại cảm thấy nhoi nhói.
Chương trình âm nhạc CEG số 9 bắt đầu khi những nhộn nhạo nơi cửa ra vào bắt đầu lắng xuống. Tâm điểm buổi biểu diễn ngày hôm nay đó là buổi trình diễn của những nghệ sĩ trẻ của hai nước Việt Nam và Hàn Quốc. Nếu so về bề dày thành tích thì phía Việt Nam nổi bật hơn cả, đặc biệt nghệ sĩ pianist Trang Trịnh. Trang Trịnh sinh năm 1986, tốt nghiệp thạc sỹ xuất sắc năm 2010, đoạt vô khối giải thưởng danh giá trong và ngoài nước, đặc biệt là Giải nhì tại Liszt Competition Hungary. Phía Hàn Quốc có Tenor Park Sung Min, ấn tượng buổi biểu diễn tối đó bởi Park Sung Min là khi anh chàng này cất giọng hát Hà Nội niềm tin và hi vọng tôi đã căng cả người khi anh chàng ngân những nốt cao với chất giọng rền, vang và sáng chưa từng có, dù anh chàng hát bằng tiếng Việt!
Thính phòng nhường sân cho văn chương. Tôi tự hỏi làm thế nào mà cô ấy có thể đưa văn chương sánh ngang những buổi trình diễn nghệ thuật điều mà trước nay chưa một nhà văn, nhà thơ nào làm được?
Ấy là khi người dẫn chương trình giới thiệu khách mời tới tham dự buổi biểu diễn hôm nay “... có nhà thơ, nhà văn trẻ Vi Thuỳ Linh. Chị vừa có buổi trình diễn thành công tại Nhà hát lớn Hà Nội với một chương trình mang tên “Bay cùng Vili”. Xin mời nhà thơ, nhà văn Vi Thuỳ Linh có đôi lời chia sẻ với các vị khách tới dự chương trình âm nhạc CEG số 9”. Và thế là thay cho những bản nhạc thánh thót buông từng giọt từng giọt thì một chất giọng khàn khàn và một dòng chảy ngôn ngữ ào ạt của Linh được nhả ra. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy Linh, lần đầu tiên tôi nghe Linh và ngay lần đầu đấy tôi đã thấy thất vọng.
Linh trên sân khấu với gương mặt không trang điểm, mái tóc thả bù xù, chiếc áo len thả bên ngoài chiếc quần jean màu xanh lạt. Không biết có ai để ý Linh hay không hay đang mải nghe cô ấy nhả chữ. Còn tôi thì vừa nghe vừa ngắm. Bởi thế câu chữ của cô ấy trôi tuột ra ngoài, tôi chẳng thể nào mà hình dung nổi một nàng thơ đang đứng kia, nói những lời bay bướm kia để bao biện cho việc xuất hiện tại đây không được “tươm tất cho lắm. Tôi thà chấp nhận mình xấu để có mặt ở nơi đây trước giờ biểu diễn của các bạn mà không bị mất một phút, một giây âm nhạc nào...”. Linh nói xong, lại tất tả trở lại ngồi bán những cuốn sách của mình KingKong ngồi bên cạnh tôi thầm thì “Nhà văn có khác, nói hay thật chị nhỉ?”. Hay à, có hay không? Biết nhiều về Linh rồi nhưng hôm nay tôi mới được mục sở thị, bỗng nhiên thấy điều gì đó đang vơi đi.
4. Khác với một Linh xốc nổi, ồn ã. Nhạc sĩ Giáng Son ngồi yên lặng trong một góc khuất nơi khán phòng, ngay sát cạnh bên phải tôi. Vậy mà nếu KingKông không nhắc tôi, chắc hẳn tôi không nhận ra chị.  Suốt buổi chị không nói lời nào, thỉnh thoảng thấy chị nhắn tin cho ai đó, đôi lúc trao đổi với người bạn đi cùng cũng bên tay phải chị. Tôi thích thơ của Linh nhưng không làm quen với Linh dù nàng Lidơ cố lôi kéo tôi ra đó để gặp “thần tượng”. Tôi thích Giáng Son bởi những bản nhạc chị viết ra đẹp từ phần lời tới phần nhạc như “Cỏ và mưa”, như “Thu cạn”... Nhưng cả buổi tôi không nói với chị câu nào để nói về sự yêu mến của mình, sự hâm mộ của mình. Chỉ đến khi âm nhạc kết thúc, tôi đứng vậy ra về và quay ra chào chị. Đáp lại lời chào của tôi là sự ngỡ ngàng và nụ cười thật tươi tắn và rạng rỡ. Có lẽ chẳng bao giờ tôi quên nụ cười đó. Sự ngưỡng mộ, yêu mến giống như âm nhạc, chúng ta không cần dùng đến lời.
5. Chim Biển trên đường về chỉ vào cuốn sách tôi đang cầm trên tay và nói: “Em không hiểu chị đọc được gì từ thứ như thế này?” - Thứ như thế này  là cuốn “Vili tuỳ bút”. Với giá bìa là 309.000VND/25USD/20 Euros, nhưng đêm đó nó được bán với giá bằng một nửa giá ghi trên bìa bằng lời chào mời “Mua đi... mua đi... em quý chị lắm thì em mới bán với giá đó...”.
Con phe chữ! Tôi bị cái câu nói từ nàng Lidơ của tôi ám thị tới mức thấy cái mình cầm trên tay thật tầm thường quá mức. Tôi đọc được gì từ thứ như thế này? Câu hỏi của Chim Biển cũng khiến tôi nghĩ lại, ừ mình đọc được gì nhỉ? Khi cuộc gặp gỡ thoáng chốc đã khẳng định thêm đôi điều về Linh.
Mới đây thôi Linh còn tự hào với sản phẩm mới của mình, sự “lao động vị nghệ thuật suốt ba năm của tôi chẳng lẽ không bằng 10 bát phở buổi sáng” khi có người nói giá sách của Linh đắt gấp nhiều lần các cuốn cách đương đại khác. Mới đây thôi Linh đã có buổi trình diễn thơ ca trong một sân khấu sang trọng bậc nhất cả nước để thể hiện đẳng cấp của mình, vậy mà hôm nay Linh lại ngồi đó rao bán chúng ở một lối đi thiếu sáng bằng kinh nghiệm bán hàng của một con buôn... “mua đi... hôm nay có giảm giá”.
Linh đã giảm giá luôn cả giá trị bản thân mình mà Linh không hề biết.
6. Đêm Hà Nội lạnh vô cùng trong những ngày đông cuối năm. Tôi trở về trong sự hụt hẫng thấy rõ, nhưng nguồn cơn của sự hụt hẫng ngày đến từ đâu thì tôi chẳng thể diễn tả nổi. Rồi cũng ngay trong đêm đó ở một nơi cách tôi không xa một chiếc lá vàng nữa lại rụng. Tôi thấy trống trải quá, xót xa quá cho sự mất mát liên tiếp của người đã lấy mất đi niềm tin của tôi. Chiếc lá vàng trước là người thầy, chiếc là vàng sau là người thân thiết trong gia đình anh... Nếu là trước kia tôi đã ào đến như gió, nhưng giờ phút này tôi chỉ có đứng nhìn và thinh lặng. Nguyện cầu cho anh nhiều may mắn và hạnh phúc hơn trong những ngày đầu năm mới. Tôi sẽ lại thiên di trong gió để quên đi một mùa đông buốt giá.
Một năm mới an lành cho tất cả mọi người. Vẫn là yêu thương những gì yêu thương, và cả những gì không yêu thương cũng yêu thương nốt... cho mình được an nhiên.

Nói với em..


http://upload.tarad.com/images2/4d/46/4d46cb80b3e4c163c7dbf8c227defe79.gif


Nếu lại kể những câu chuyện buồn..
Anh thành người có lỗi
Nhất là vào một ngày xuân mới
Anh đâu muốn làm hỏng niềm vui của em?

Thành phố vẫn như mọi ngày, đèn sáng thâu đêm
Thâu đêm những lời rì rầm to nhỏ
Có cảm giác mọi người đêm đầu năm không ngủ?
Không ngủ niềm vui? Hay không ngủ vì nỗi buồn?

Năm tháng này có lẽ đã khác hơn
Không ai có thể làm ta buồn, hay ta vui theo ý họ
Kẻng không gõ báo trước giờ thức ngủ
Một cái gì rất riêng đã đến thế giới này..

Thế giới còn nhiều lắm những quắt quay
“Nghe nói vậy, nhưng mà không phải vậy”
Nhưng hạnh phúc lần đầu tiên ta thấy:
Là “Độc lập, tự do” chân chất của riêng mình!

Anh đã lâu quên chuyện viết thơ tình..
Ngày đầu năm cả gan viết lời ước hẹn
Nếu tin nhau anh mời
em hãy đến
Dẫu xuân này còn lắm gian truân

Nhưng đã qua rồi
Không dễ nói thiệt hơn
Mùa xuân đâu có ưa những lời giả dối?
Dù là hoa lài, hoa hồng, hay hoa đào tươi mới
Em mong hoa nào?
Anh sẽ tặng em!





 THƠ Nguyễn Đăng Thường:
Để mừng Xuân 2013 và chúc lành mọi nhà và mọi người.
NĐT
Obama Chavez Nguyễn Ve Chai
- và ai nữa và ai nữa -
toàn là những khuôn mặt dễ thương không hà
của những năm đã qua
và có thể còn trong nhiều năm sắp tới nữa đa
khiến tôi bỗng dưng có những ý nghĩ
rất ư là giản dị:
Hy Vọng & Đổi Mới
- nhưng hy vọng cái gì
và đổi mới cái gì?
Một nước Mỹ chia rẽ tột cùng giàu nghèo chẳng còn là siêu cường?
Một Venezuela xã hội chủ nghĩa độc đảng độc tài kiểu sô-viết năm xưa?
Một Việt Nam Hà Nội tờ rời đút túi sau để dân Tàu chùi... miệng dưới?
Vân vân và etcetera...
Cứu cánh biện minh cho phương tiện?
Tiền bạc thay thế cho tình người?
Giả trá bạo lực cướp phá cưỡng chế đàn áp thẳng tay không cần che đậy?
Hàng hóa thức ăn thuốc men đồ chơi độc hại made in China?
Nòi giống Việt mà lai Hàn lai Khựa?
Vân vân và etcetera...
Etcetera và... vân vân... vân vân...
Vẫy tay vĩnh biệt năm cũ trong tiếng gió thét mưa gào
trên cái quảng trường
vì chính trị nghiêm túc nên sẽ dẹp tượng
anh hùng thế chiến thứ hai đã tiêu diệt phát xít bạo tàn
với trước mắt mình hình ảnh mường tượng
các blogger
Đ. C, T. P. T., N. H. V.
- và ai nữa và ai nữa -
đang thản nhiên ngồi tù
tôi thử tưởng tượng ra
một cái thế giới mới vắng bóng tư bản tỉ phú tài phiệt của đế quốc USA
một cái thế giới tương lai sáng chói với những công an tướng tá
lãnh tụ doanh nhân đại gia
những đỉnh cao trí tuệ
của Hồi Giáo và của Đại Hán
bắt tôi lại phải mỉm cười
vui khóc.

Thứ Hai, 31 tháng 12, 2012

Thơ Nguyễn Quý



Râu tôi mọc hoang mang. Tiễn năm cũ về trời.

Nguyễn Quý 寫於 2012年12月31日17:45 ·
Phương trời tôi nói với phương trời ngày lông tơ dài ra như tổ quạ không lề lối.
Chúng tổ chức hội họp.
Tôi đậy lại buồn phiền năm cũ rồi vứt đi.
Một bầy phi lí đi ngang qua buổi chiều. Rét buốt không mở miệng một câu nào.
Chúng ngập tràn thành phố.
Chiều cuối năm, mẹ tôi ra đồng. Ruộng nương bát ngát lạnh.
Vườn hoang vắng cỏ mọc. Lưng chừng heo may đi.
Những ngón tay tôi. Chúng ngủ gật mơ màng.
Cuống họng tôi. Ho hen từ đầu mùa.
Lưng tôi. Cái chứng thiếu canxi của tuổi già.
Tôi phớt lờ thời gian, mặc chúng đến vắng vẻ hay vội vàng và tôi im lặng.
Đôi mắt tôi thiếu tình. Nó hư vô bất chợt.
Phương trời này hoàng hôn cứ quay về dù lòng mình chẳng muốn.
Chúng đi qua phố phường rồi mất hút. Trái núi thật cô đơn.
Tây Nguyên thật rỡn đực. Thiếu nữ bay lên trời còn tôi và bóng tối.
Bóng tốii chẳng nói gì. Căn phòng thật khô hạn. Bàn phím thành thổn thức.
Tôi đậy lại tim tôi.
Mây phương nào trôi qua. Bóng lẻ con đường lẻ. Người lẻ bàn chân lẻ. Phố lẻ mưu sinh lẻ. Tình lẻ bàn tay lẻ. 
Tôi lẻ.
Và suy tư.
Những vần thơ đứt gãy giữa chiều. Chúng gấp khúc và nén chặt.
Tôi bị một cuộc trộm. Chúng cắp thời gian đi.
Dự báo một trận buồn. Râu tôi mọc hoang mang.
Tiễn năm cũ về trời.
讚好 ·  · 分享