Quê tôi cách Hà Nội chừng 5 cây số. Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ thì gia đình tôi tản cư lên Nhã Nam thuộc huyện Yên Thế, Bắc Giang. Đến năm 1948 khi cậu tôi từ Vĩnh Yên lên thăm chúng tôi lần đầu thì toàn thể gia đình chúng tôi ai nấy đều có màu da nửa vàng nửa xám xịt vì sốt rét rừng.
- Anh chị phải cho các cháu tản cư về mạn dưới như chúng tôi - lời cậu tôi nói với thầy mẹ tôi - chứ cứ như thế này thì không chết cũng chẳng còn ra hồn người nữa.
Sau ngót hai năm tản cư gia đình tôi khánh tận rồi. Có lẽ vì nghĩ vậy nên thầy mẹ tôi tìm cách nói thác:
- Ngày xưa vùng Yên Thế Thượng này độc nhưng nay vì có nhiều người lên khai phá nên khí hậu cũng không đáng ngại lắm.
Cậu tôi không chịu:
- Anh chị về Vĩnh Yên gần chúng tôi cho có anh có em, vừa tránh được nạn sốt rét rừng vừa có cơ buôn bán khá. (Dạo đó Vĩnh Yên còn là cửa ngõ của việc thông thương giữa Liên khu III với Bắc Việt).
Rồi cậu tôi về Vĩnh Yên. Hai tháng sau người lại lên, nhất quyết đón gia đình tôi xuôi, nói là nơi ăn chốn ở đã thu xếp đâu vào đó cả.
Thế là gia đình tôi xuôi Vĩnh Yên, còn một mình tôi ở lại Sở Thông Tin Liên khu I. Công tác của tôi là đi tuyên truyền mười điều kháng chiến trong toàn huyện Yên Thế. Vì lưu động như vậy nên tôi cũng quên đi nỗi buồn gia đình phân cách đôi nơi. Nỗi buồn đó chỉ đến thắc mắc lòng tôi mỗi khi trở về trụ sở kiểm điểm công tác. Trụ Sở Thông Tin ở một làng bên tả ngạn sông Thương, gần một bến đò đẹp vào bậc nhất Bắc Giang, bến đò Lục Liễu. Để tăng phần thơ mộng cho cái tên đó tôi vẫn thường dịch nôm là "Bến đò liễu xanh".
Thư của em tôi tới báo cho hay gia đình đã tới tản cư cùng làng với gia đình cậu mợ tôi. Làng đó ở ngay bến Rau, bên này là Vĩnh Yên, bên kia là Sơn Tây rất thuận tiện cho việc buôn bán.
Rủi thay, thầy mẹ tôi vừa đến Vĩnh Yên thì quân Pháp mở chiến dịch càn quét khắp vùng Sơn Tây rồi thiết lập thêm đồn quân dọc theo hữu ngạn sông Hồng từ Sơn Tây ngược lên đến Việt Trì. Các ngả đường giao thông với Liên khu III đều bị quân Lê Dương phục kích ráo riết.
Cậu tôi đã rơi vào ổ phục kích của chúng, dấn vốn khánh tận may thoát được người. Mẹ tôi phải ngừng chuyện buôn bán.
Nghe nói làng N.H. bên hữu ngạn sông Đáy gần chân dãy núi Tam Đảo là một làng trù mật, chuyên bán đỗ, gia đình tôi bèn chuyển đến đây theo sáng kiến của mẹ tôi. khi tới nơi, mẹ tôi mới thấy rằng mình đã nhầm. Trước đấy một năm thì địa điểm này buôn bán được vì hầu như dân chúng toàn hạt Vĩnh Yên đổ xô về để tránh Pháp tấn công, nhưng nay, tình hình tạm yên ai nấy trở về chốn cũ, địa điểm N.H. trở lại chốn trầm mặt của chốn chuyển tiếp giữa vùng trung du bên dưới với vùng đèo heo hút gió bên trên.
Vừa lúc đó tôi xin thôi ở sở Thông Tin về.
Mẹ tôi mừng lắm vì người vẫn thường nói: "Thời loạn lạc gia đình nên gần nhau nhỡ có thế nào...". Hình như trong óc người - có thể nói trong óc mỗi người trong gia đình tôi - đều luôn luôn lo sợ cảnh một người bị chết vì bom đạn rồi mất xác vì gia đình không kịp biết để nhìn nhận. Niềm vui đoàn tụ giúp chúng tôi bớt buồn nản khi thu xếp gồng gánh trở lại huyện Yên Lạc. Lần này gia đình tôi không dám ở gần bến đò Rau nữa vì sợ phi cơ oanh tạc, mà ở một làng cách huyện Yên Lạc chừng gần một cây số. Gia đình cậu tôi ở ngay làng bên. Lẽ cố nhiên cả hai gia đình chúng tôi cùng nghèo túng lắm, nghèo túng đến nỗi cậu mợ tôi, thày me tôi cũng không dám sang nhà thăm nhau, chỉ chiều chiều ra gặp nhau trên quãng đường đá nối huyện Yên Lạc với bến đò Rau.
Tôi gặp lại người yêu cũ từ Phủ Lý (Khu III) chạy lên. Chúng tôi thành vợ chồng, tuy có ký giấy tờ tại Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Huyện - cậu mợ tôi là những người làm chứng - nhưng đám cưới hoàn toàn êm ả, y như một đám cưới vụng trộm.
Em gái lớn tôi xoay đi buôn gạo, ngày ngày kĩu kịt đi về 20 cây số kiếm chút lãi. Ở Yên Thế tuy bị sốt rét nhưng nhà ở giữa rừng ít lo bị địch tấn công bất ngờ; tuy cũng nghèo túng nhưng còn có đất rộng để tăng gia rau cỏ và nuôi được lợn gà.
Về đây những buổi ăn cháo ngô trừ bữa, mẹ tôi thường có ý khép cửa giữa lại.
Em gái tôi đã phải đi chợ thật xa để đong gạo rẻ mà rồi tính ra lời lãi cũng chẳng được là bao. Các cụ giải thích hiện tượng kinh tế này bằng câu: "Thóc gạo có tinh", mẹ tôi làm tương gánh đi các chợ xa bán để kiếm thêm. Vợ tôi tạng người yếu nhưng khéo tay, không làm được việc nặng, nàng phụ trách những việc nhẹ như rang đỗ tương, ủ mốc, pha muối vào nước tương...
Dạo đó trường Luật mở ở gần chợ Me (Vĩnh Yên), tôi có ghi tên theo học nốt năm thứ ba hy vọng ngày thành tài sẽ ra thẩm phán, đồng lương họa có cao để giúp gia đình. Vì hoàn cảnh kháng chiến các giáo sư thường từ nơi xa lại trường sở dạy liền trong mấy ngày, sau đó sinh viên tự tìm tài liệu nghiên cứu thêm. Có khi thời gian nghiên cứu lấy dài hơn một tháng mới có giáo sư mới. Tôi triệt để lợi dụng khoảng cách này để bon về giúp đỡ gia đình những công việc nặng.
Mùa đông năm đó rét lạ lùng. Gió hun hút giật từng cơn buốt như dao cắt từng mảnh thịt hở, thế mà hôm nào mẹ và em gái tôi cũng phải dậy từ bốn giờ rưỡi sáng để sửa soạn gồng gánh ra đi. Quần áo và chăn chiếu của gia đình tôi thiếu mất nhiều. Thằng em thứ ba của tôi có được cái chiếu rách mướp vừa nằm vừa đắp, chân thò ra ngoài thì nó lấy rơm phủ lên.
- "Ấy cứ thế mà ấm ra phết anh ạ" - Nó vừa cười khoái trí vừa nói với tôi như vậy.
Các em trai em gái tôi đã lớn cả, chúng tôi hầu như thường thi đua trong việc nhường nhịn nhau. Mẹ tôi chỉ còn thắc mắc về thằng em út của tôi. Nó còn nhỏ tuổi quá chưa thể tìm nguồn vui ở tinh thần để quên đói rét. Tương đối với cả nhà nó được mặc lành nhất. Nó mặc cái áo đỏ chót có những vệt chữ nho đen và những đường kim tuyến (nguyên đó là chiếc câu đối người ta phúng bà tôi hồi chưa tác chiến). Câu đối đỏ thì may áo, còn nẹp sa teng vàng mẹ tôi cố gạn may thêm cho nó chiếc áo di-lê. Chúng tôi gọi đùa nó là "anh cờ đỏ sao vàng". Đêm đến rét quá không đủ chăn ấm, nó thường khóc khậm khạch. Chỉ cần có thêm đôi chiếu nữa thì cả nhà đủ ấm.
- "Chiếu cói kỵ gió". - Mẹ tôi bảo thế.
Nhưng đến ăn còn chẳng đủ làm sao chúng tôi mua được đôi chiếu bây giờ?
Hôm đó suốt từ sáng sớm đến trưa phi cơ bay từng đoàn bắn phá và dội bom liên tiếp xuống các chợ lân cận: chợ Me, chợ Vàng, chợ An Lạc... Mọi ngày chỉ khoảng bốn giờ chiều mẹ tôi có mặt ở nhà. Ngày đó giời đã xế chiều mà người vẫn chưa về. Toàn thể gia đình tôi bắt đầu sốt ruột tuy không ai nói một câu.
Chiều ngả màu xẫm. Gió bấc rít trong bụi tre già làm nền cho tiếng khàn khàn của lũ quạ lục đục trong ổ, gió bấc xoáy từng vòng cuồng loạn dứt từng vốc lá tre, lá bưởi vàng úa rồi lại nhào vút mất hút ra ngoài cánh đồng bát ngát hiu quạnh.
Mẹ tôi vẫn chưa về.
Trong óc tôi thoáng hiện những cảnh chợ bị phi cơ tàn phá, những hình người không kịp xuống hầm bị đạn chết gục bên cột lều tay còn quờ ôm những đồ hàng của mình, những hình người bị bom napalm thiêu rụi như những thân chuối cháy đen... Và tôi vùng ra cổng.
Thày tôi biết ý hẹn với:
- Con cứ thẳng đường ra bến Rau. Mẹ con thường về đường ấy.
Ra tới cổng làng, tôi đi như bay theo đường đã định, cổ họng nghẹn ngào, dạ cồn lên như lửa đốt. Con đường như rộng thênh thang, cánh đồng ngập trong bóng chiều xẫm và trong gió bấc, càng trở thành mênh mông. Tôi vun vút nhảy qua các hố phá hoại mà đi như một bóng ma cô độc đương muốn biến theo luồng gió.
Từ xa như có bóng người đi lại. Chắc người đó ở chợ Rau về. Để tôi phải hỏi tin tức về việc phi cơ oanh tạc hôm nay.
Hình như trên đòn gánh người đó có vắt ngang một cái gì.
Tôi lướt vội lên. Trời ơi, mẹ tôi!
Hai mẹ con mừng mừng tủi tủi như gặp nhau ở cửa âm ti.
Tôi hỏi: "Sao mẹ về muộn thế, cả nhà lo tưởng phát điên lên". Mẹ tôi cho biết hàng hôm nay bán ở chợ không hết, người phải đi sâu vào một vài làng lân cận để bán nốt. Rồi khi xuống khỏi đê, qua cái lạch lớn, thấy có chiếc chiếu trôi, vội tìm cách vớt lên và giặt luôn bên lạch. Đó là chiếc chiếu còn khá tốt tuy chiều rộng bị xén đi mất một phần ba.
Mẹ tôi chỉ vào chiếc chiếu phơi trên đòn gánh nói:
- Về đến nhà thì chiếu vừa khô con ạ. Tối hôm nay thằng Tư - tên thằng em út tôi - có chiếu đắp ấm.
- Mẹ ơi, "giàu con út, khó con út", mẹ chẳng để ý gì đến chúng con, chỉ chăm chút cho chú Tư thôi.
Mẹ tôi đi trước, gió ngược chiều nên tiếng tôi mất hút về phía sau. tuy nghe tiếng được tiếng không nhưng mẹ tôi vẫn hiểu câu nói đùa. Người vừa giữ cái chiếu vừa quay nhìn tôi mỉm cười.
Tối hôm đó khi đi ngủ thằng chú Tư được mẹ tôi đắp cho chiếc chiếu vớt ở lạch. Chân nó thò ra một tí khiến tôi nhận thấy chiếc bí tất cũ vàng xỉn của tôi, chỗ đầu rách được buộc túm lại để các ngón chân xinh của nó khỏi "thoát ly" ra ngoài.
Dạo đó chỉ còn một tháng nữa là tết. Tôi lại có dịp tạm rời trường Luật, đợi đến qua giêng mới có giáo sư. Tôi về vừa đúng lúc gia đình đương cần nhân công xay thóc giã gạo. Dấn vốn của gia đình tôi còn đong được năm nồi thóc. Dùng số tiền đó làm tiền đặt mẹ tôi có thể đong về được tám nồi. Theo như mẹ tôi phác tính mỗi nồi thóc làm, được lợi ít ra là hai ca gạo, vị chi với tám nồi thóc, chúng tôi sẽ lợi ít nhất là một nồi rưỡi gạo. Cứ như vậy mà đủ việc liền trong một tháng, nghĩa là vừa đến tết, thì chúng tôi có thừa tiền đong gạo nếp gói bánh chưng và mua thịt cá để đón một mùa xuân kháng chiến tương đối huy hoàng.
Chúng tôi ngoại giao ổn thỏa với các nhà có cối xay cối giã rồi bắt đầu vào việc. Thầy tôi trông nom mấy đứa nhỏ sửa soạn cơm nước. Tôi và thằng em giai xay thóc trong khi mẹ tôi điều khiển vợ tôi và cô em gái sàng gạo. Xay hết thóc chúng tôi đã có gạo đem đi giã, giã đến đâu mẹ và em tôi sàng tấm sẩy cám đến đấy. Trong khi xay thóc tôi nhẩm ôn các đạo luật, các án lệ để sửa soạn kỳ thi cuối niên khóa. Khi giã gạo với vợ, tôi cùng nàng thủ thỉ xây mộng tương lai. Ngày kháng chiến thành công hẳn chúng tôi đã có những đứa con kháu khỉnh, đã trở về quê hương dựng lại căn nhà xinh, sống tự do bình dị trong tổ ấm gia đình.
Ngày đầu chúng tôi làm được tám nồi thóc với số gạo dư là hai nồi. Một cụ già ở đấy gật gù nói: "Vạn sự xuất ư nho, đúng thật. Học trò thì cái gì cũng làm được. Cứ bảo người Hà nội không chịu được lam lũ!"
Ngày hôm sau có tin quân Pháp đánh lên Vĩnh yên. Những người có thóc giữ lại. mẹ tôi phải vất vả lắm mới mua được bằng giá khá cao sáu nồi thóc để chúng tôi có việc làm.
Quân Pháp chiếm Vĩnh Yên. Tiền Hồ Chí Minh sụt giá vùn vụt. Vẫn số tiền cũ giờ đây chưa chắc mẹ tôi đã mua nổi bốn nồi thóc.
Quân Pháp theo sông đào tiến lên chiếm chợ Me. Dân chúng xao xác chuẩn bị chạy. Số tiền trong tay mẹ tôi hầu trở thành giấy lộn. Chúng tôi ăn một bữa quà bánh đúc, lúc giả tiền thấy vợi hẳn túi. Viễn ảnh những ngày đầu xuân có gạo nếp, có thịt gà, thịt lợn bị giập vùi trong khói súng và biến thành một điểm mong manh chết đuối giữa cảnh tàn phá rùng rợn của bom đạn tơi bời cha lạc con vợ lạc chồng, anh em tán loạn mỗi người một phương.
Dạo đó tuy đã có phong trào "rèn cán chỉnh cơ" nhưng chưa có cố vấn Tàu, chưa có chính sách "ba cùng", học tập đấu tố nên mặc dầu kinh tế nguy ngập ai nấy vẫn tin tưởng ở ngày mai huy hoàng của dân tộc, tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của già Hồ (như lời tuyên truyền phát thanh chiều chiều).
Sang hạ tuần tháng chạp, suốt ngày mưa phùn gió bấc lạnh như cắt ruột. Không hiểu là vì rét nhiều hơn hay là vì chúng tôi đã bắt đầu giảm khẩu phần! Chiếc chiếu mẹ tôi vớt ở lạch đắp cho thằng em út đã rách xơ xác. Trong khi gia đình tôi giật gấu vá vai tìm cách nhường nhau miếng cơm manh chiếu thì xảy cuộc hỗn chiến giữa quân đội Pháp và quân đội Kháng Chiến ở chân núi Tam Đảo. Để giữ vững ưu thế quân sự về mình tại mặt trận Vĩnh Yên. Tướng Pháp De L. quyết định hy sinh đoàn quân hắn, và hạ lệnh cho thả bom tận diệt đôi bên.
(Trong cái điên ba của một cuộc thế lọc lừa phản trắc, người ta dày xéo lên tình người, điềm nhiên hy sinh xương máu đồng bào đồng loại nơi này cho quyền lợi thực dân, nơi kia cho học thuyết giai cấp. Tôi không ghê tởm những bộ mặt lãnh tụ như chúng sao được?)
Từ chân núi Tam Đảo quân Pháp đánh tỏa ra ba mặt, đồng thời từ hữu ngạn sông Hồng, một toán Lê Dương vượt sang càn quét bến Rau ở tả ngạn. Dân chúng từ bốn mặt chạy về huyện Yên Lạc, đổ xô vào các làng. Mẹ tôi bèn thổi cơm hàng gánh đến bán cho họ.
Trong số rất đông các người ở làng Rau mang đồ đạc chạy đến làng Lũng Thượng, có gia đình ông Lý Cựu vốn là bà con với ông chủ nhà nơi tôi tản cư. Ông Lý nói chuyện với thầy tôi rất tương đắc nhất là khi ông biết tôi đương học trường luật thi ra thẩm phán.
Ông nói:
- Tôi có thằng cháu năm nay lên sáu; giời cho làm người, sau này kháng chiến thành công, tôi nhất định sẽ gởi cháu lên Hà Nội phiền ông bà và cậu Cả trông nom giúp cho thành thân người.
Quân Pháp sau khi từ chợ Me vượt qua sông Đáy tiến sâu vào huyện Lập Thạch đốt phá một ngày rồi rút lui về tỉnh. Cánh quân tiến sang tả ngạn sông Hồng đốt phá bến đò Rau cũng rút lui về vị trí cũ bên hữu ngạn. Dân chúng chạy loạn lục tục đâu trở về đấy ngay để còn kịp sửa soạn tết.
Làng Lũng Thượng trở lại yên tĩnh.
Trưa hôm đó mẹ tôi ra phía bụi tre đầu nhà thấy cong queo dưới hầm trú ẩn một chiếc chiếu hoa cạp điều. Đúng là chiếc chiếu của một gia đình chạy loạn nào khi về mừng quá bỏ quên.
Mẹ tôi nói: "Thôi thế cũng là giời thương mà cho nhà mình!"
Đã lâu lắm, đêm đó tôi mới thấy thằng em út tôi có chiếc chiếu đắp kín chân không trông thấy đôi bí tất buộc túm chỗ rách. Sáng ra, mẹ tôi cẩn thận gấp chiếu rồi vắt lên chiếc giây thừng căng cao ngang mái nhà. Thế là từ đây đêm đêm nghe tiếng gió rít và những hạt mưa táp vào đầu hồi tôi cũng yên chí cho các em đã tạm đủ chiếu nằm, chiếu đắp. Hai ngày sau, tới buổi sớm ba mươi tết, khi sực tỉnh, tôi thấy không khí trong làng có vẻ tưng bừng hơn vì những tiếng bàn tán xôn xao xen với tiếng cười ròn rã ngoài đường xóm. Tôi vùng dậy ra thẳng ngõ. Trời tuy lạnh ngọt nhưng quang đãng và êm ả vô cùng. Tôi gặp mọi người mắt ai nấy sáng sáng ngời tin tưởng. Thì ra ở khắp các tường làng đều đã kẻ khẩu hiệu:
"Chuẩn bị tổng phản công".
Đồng bào thủ đô bàn nhau ngày về nhận nhà nhận cửa, đồng bào địa phương hơi có vẻ ngậm ngùi tưởng như giờ phút chia tay đã điểm.
Buổi trưa hôm đó ông Lý Cựu từ làng Rau mang theo vài thứ xa xỉ phẩm làm quà biếu ông chủ nhà vào dịp tết. Ông Lý Cựu có xuống căn nhà dưới thăm thầy tôi. Câu chuyện vừa xong phần xã giao thường lệ thì ông ngửng nhìn thấy chiếc chiếu hoa cạp điều vắt ở giây thừng, ông đứng nhỏm dậy chạy lại kéo tuột xuống nói gọn:
- Chiếc chiếu này của tôi
Mẹ tôi chợt có một cử chỉ phản ứng của một người mẹ gìn giữ con trong cơn nguy biến.
Người nói:
- "Ấy chiếc chiếu đó của nhà tôi..."
Mẹ tôi vốn là một Phật tử trung thành. Người chỉ nói được đến đấy thì lương tâm Phật tử trở lại và người lúng túng quay nhìn ra ngõ.
Ông Lý Cựu thản nhiên gấp chiếu lại, cắp gọn nách rồi thản nhiên nói:
- Không, chiếc chiếu của tôi. Tôi mua đôi chiếu cặp điều từ năm mới tác chiến, một chiếc còn trên kia.
Thì ra đôi chiếu đó, ông Lý mang đến gửi ông chủ nhà trong dịp vừa qua, rồi những người đến chạy loạn tự động mượn đem ra giải ở bụi tre nghỉ tạm, lúc về vì chiếu rơi xuống hầm trú ẩn nên họ quên không trả lại chỗ cũ.
Tuy chỉ một thoáng qua nhận biết sự thể là vậy nhưng tôi vẫn chưa chịu và tiếp lời mẹ tôi:
- Chiếc chiếu này mẹ mua của một người ở chợ Lầm. (Ý tôi muốn nói người đó lấy chiếc chiếu ở đây mang ra chợ Lầm bán).
Ông Lý vẫn thản nhiên, thản nhiên một cách cương quyết:
- Không, chiếc chiếu này của tôi.
Rồi ông cắp chiếu đi thẳng lên nhà. Lúc đó tôi cũng vừa trở lại với tôi để nhớ ra rằng cuối năm nay tôi đã thi xong, có thể ra làm thẩm phán. Tôi thoáng nghe phía sau tiếng vợ tôi thở dài rồi quay vào buồng.
Tối hôm đó khi thấy tôi lấy chiếc chiếu rách cũ vớt ở lạch đắp cho thằng em út, mẹ tôi chép miệng nói khẽ:
- Thôi, sang giêng trời bắt đầu ấm, vả lại cũng sắp tổng phản công rồi!
"Vả lại cũng sắp tổng phản công rồi!" - mẹ tôi nghĩ thật chí lý. Tổng phản công để bờ cõi được vinh quang độc lập, để mọi người được trở về dựng lại quê hương yên vui.
Tôi hiểu khi đó hầu hết các gia đình khác cũng như chúng tôi, chịu đựng bao nhục nhằn với những phút sa ngã nhỏ như chuyện chiếc chiếu hoa cạp điều. Tất cả những hy sinh đó - kể cả hy sinh một chút danh dự cho sự yếu đuối thường tình của con người - tuy dằn vặt, ray rứt mà không tàn phá nổi niềm vui trong sáng, thanh thản của tâm hồn, vì ai nấy vẫn sống ngợp hy vọng một ngày mai vinh quang.
Sớm mùng một năm đó mẹ tôi ra chùa lễ. Người quỳ rất lâu trước bàn thờ Phật. Giọng người thành kính thiết tha cầu đức Phật phù hộ cho chóng trở lại ỵên bình, gia đình được qua thì đói khỏi thì loạn.
Tiếng người khấn đôi khi nức nở. Tôi nghe nước mắt như muốn trào ra.
Cộng sản dìm nhân loại trong thiếu thốn để chứng minh nguyên lý "Vật chất quyết định hết thảy". Chúng lầm! Con người càng từng trải cảnh thiếu thốn vật chất, niềm tin và đạo đức càng được hun đúc và tình cảm thêm dạt dào. Sau này khi về vùng quốc gia, rồi di cư vào Nam tôi còn trải qua nhiều gian lao nghèo túng và nhiều lần bị khinh rẻ, nhưng dù nghèo túng đến đâu, dù bị khinh rẻ đến đâu, điều đau nhục nhất với tôi vẫn là chuyện chiếc chiếu hoa cạp điều, tuy thực tình câu chuyện chỉ giản dị có vậy.
Cách đây ít lâu khi mua được đôi chiếu hoa Phát Diệm ở đường Hai mươi về giải lên phản cho con nằm, tôi thấy vợ tôi chợt úp mặt vào hai bàn tay trước bàn gương. Có lẽ nàng nghĩ đến câu chuyện chiếc chiếu hoa cạp điều khi xưa. Chuyện đó như biến thành chiếc phao xẫm màu, bất chấp mọi giông tố vẫn nổi lềnh bềnh trên biển, biển thời gian của đời, biển kỷ niệm của hồn. Cũng kể từ sau ngày xảy chuyện đó, thái độ tôi đối với người đời khác xưa nhiều. Tôi thận trọng tránh mọi thái độ hẹp hòi, kiêu ngạo, ích kỷ, sắc cạnh. Lòng dễ xúc động, tôi thương người như thương chính thân mình vậy. Tôi thương những em nhỏ sớm phải lăn lưng vào cuộc đời để tự nuôi sống, tôi thương những người đói khát ham ăn ham uống, tôi thương những hình ảnh lam lũ một sương hai nắng, những hình ảnh giật gấu vá vai, tôi thương những kẻ thù dân tộc hôm qua, ngày nay thất thế ngơ ngác đi giữa kinh thành.
Ở thế giới thực dân tư bản người ta tung vật chất ra để giam lỏng linh hồn, ở thế giới thực dân cộng sản, người ta phong tỏa vật chất để mua rẻ linh hồn. Cả hai cùng thất bại! Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua được bằng tình thương yêu rộng rãi và chân thành.
Thấy tôi hằng kiềm chế được nóng giận và nhất là vẫn mỉm cười, khi ứa nước mắt các bạn bè thân thường khen tôi có thái độ hồn nhiên của Trang Chu.
Các bạn yêu quý của tôi!
Các bạn có ngờ chăng thái độ hồn nhiên đó là kết quả của biết bao cảnh cơ hàn mà tôi và những người thân của tôi đã trải qua, trong đó có chuyện Chiếc chiếu hoa cạp điều!
“Sông Đằng một dải dài ghê Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông Những người bất nghĩa tiêu vong Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh”
(Bạch Đằng Giang Phú – Trương Hán Siêu)
Lịch sử như dòng sông dài cuốn đi trong lớp sóng của nó bao nhiêu sự tích, chiến công, thành bại của cả một dân tộc. Thế kỷ 21 hiện đại với quá nhiều thú vui và dục vọng, mấy ai còn lưu tâm đến những huy hoàng của quá khứ, những tinh hoa của cổ nhân hay những bài học sâu sắc từ ngàn xưa?
Việt Nam 4.000 năm văn hiến với nhiều triều đại kiệt xuất thấm đẫm văn hóa Phật Đạo Thần đã đem đến cho dải đất xinh đẹp này biết bao nhiêu kỳ tích và truyền kỳ vẫn còn rọi sáng đến tận hôm nay. Chúng tôi tiến hành loạt bài viết về lịch sử Việt Nam mong muốn đem đến cho quý độc giả một góc nhìn mới về sử Việt, chính là ôn cũ biết mới, ngẫm chuyện xưa nhìn chuyện nay, tự đúc rút cho mình những trải nghiệm riêng.
Lịch sử Việt Nam đầy ắp những chiến công hiển hách cũng như những vị tướng vĩ đại lưu danh thiên cổ. Thế nhưng thông tin về những loại vũ khí nổi tiếng từng góp phần tạo nên vinh quang ấy thì lại rất rời rạc, ít người biết đến. Loạt bài này sẽ phần nào lý giải những thắc mắc đó.
Những Hoàng đế và các tướng lĩnh của Việt Nam và Trung Hoa xưa đều rất ưa thích đại đao. Quang Trung cũng không nằm ngoài số đó. Theo sử sách, cuộc đời binh nghiệp của nhà chỉ huy quân sự bách chiến bách thắng này luôn gắn liền với thanh Ô Long đao đầy huyền bí. Tương truyền Nguyễn Huệ là người có võ công cao cường, nhờ thân vóc cao lớn và nội lực mạnh mẽ, ông ưa dùng đao rất thiện nghệ.
Vào năm Tân Mão (1771), Nguyễn Huệ được giao trọng trách tổ chức và huấn luyện quân sự cho nghĩa binh. Hằng ngày, ông lo luyện tập cho binh sĩ các môn: côn, quyền, đao, kiếm, bắn cung, cỡi ngựa, ghép thành đội ngũ. Trong các môn võ đó, Nguyễn Huệ tinh thông sử dụng đại đao hơn cả. Sách “Võ nhân Bình Định” của Quách Tấn – Quách Giao có chép rằng, sự nghiệp của Nguyễn Huệ luôn gắn với cây Ô Long đao huyền thoại.
Cho tới nay, do không còn hiện vật nên những gì mô tả về Ô Long đao mang nặng tính truyền thuyết. Chuyện kể rằng vào một buổi sáng sớm khi Nguyễn Huệ dẫn quân đến đoạn đèo An Khê, bỗng có hai con rắn rất lớn, nước da đen tuyền (sách gọi là ô long – rắn đen như mun, to lớn như rồng) chắn ngang đường.
Nghĩa quân ùn lại, rối hàng ngũ vì không dám bước tiếp. Nguyễn Huệ đến xem sự thể, ông bước xuống ngựa chắp tay khấn: “Nếu Sơn thần, Xà thần phù trợ cho việc làm chính nghĩa của anh em nhà Tây Sơn, biết trước sự thành công thì xin Xà thần mở đường cho quân đi, còn sự nghiệp không thành, thì xin Xà thần hãy trị tội mình tôi, để nghĩa sĩ trở về với gia đình, đồng ruộng”.
Lời khấn của Nguyễn Huệ vừa xong, cả hai con rắn to kia quay đầu. Quãng sau, một con lao vào bụi rậm, lúc trở ra miệng ngậm một thanh Ô Long Đao sáng như nước, vươn cổ trao cho Nguyễn Huệ. Thanh đao có cán bằng gỗ mun đen nhánh, lưỡi đao cũng bằng một loại kim khí màu đen. Khi đao ra khỏi vỏ thì khí lạnh tỏa ra một vùng. Trọng lượng đao rất nặng, phải là một người binh lính chuyên vác đồ nặng vác mới nổi.
Trong trận Rạch Gầm, Xoài Mút năm Giáp Thìn (1785) Nguyễn Huệ đã sử dụng thanh Ô Long đao chém được hàng trăm quân tướng Xiêm. Đao loan đến đâu vũ khí và đầu người rụng đến đó. Rồi đến năm Kỷ Dậu (1789), một lần nữa thanh Ô Long đao lại góp công lớn trong chiến dịch đẩy lùi quân Mãn Thanh xâm lược ra khỏi bờ cõi.
Huỳnh Long đao của Trần Quang Diệu
Là thanh bảo đao của tướng quân Trần Quang Diệu, do sư phụ Trần Quang Diệu là võ sư Diệp Đình Tòng truyền tặng. Sở dĩ có tên Huỳnh Long là vì tại đầu con cù nơi ngậm lưỡi đao được thếp vàng. Các chiến công của Trần Quang Diệu đều do thanh Huỳnh Long đao góp phần tạo nên.
Trần Quang Diệu (1760 – 1802) là một trong thất hổ tướng của nhà Tây Sơn. Ông là người có nhiều chiến công nhất cả trong và ngoài nước từ những buổi đầu Tây Sơn khởi nghĩa đến khi mất. Thanh Huỳnh Long đao đã từng tung hoành trong trận đánh quân Xiêm tại Rạch Gầm, Xoài Mút, rồi ra uy trong cuộc chiến với quân Thanh tại miền Bắc. Thanh đao đã cùng với chủ nhân của mình chinh phạt nước Vạn Tượng, binh uy chế áp cả người Xiêm, chỉ do thời thế mà ngậm hờn cùng chủ nhân mình kết thúc đời binh nghiệp ngắn ngủi. Tiếc là thanh đao quý ấy đã không còn để hậu thế có dịp chiêm ngưỡng.
Ngân côn của tướng quân Võ Đình Tú và Thiết côn của tướng quân Đặng Xuân Phong
Côn pháp là gốc của trăm binh khí dài. Nghĩa là từ côn pháp mà người ta sáng tạo ra được cách đánh của các loại khác như thương, kích… Tuy nhiên võ tướng ra trận thì rất hiếm dùng côn làm binh khí vì khả năng sát thương không mạnh như binh khí có lưỡi. Tuy nhiên 2 vị tướng quân nổi tiếng của Tây Sơn lại dùng côn làm binh khí và đã để lại truyền thuyết khá nổi tiếng. Cây ngân côn của tướng quân Võ Đình Tú màu trắng được rèn bằng bạch thiết, rất chắc và khá nặng, phải cần đến hai người khiêng. Cây thiết côn của tướng quân Đặng Xuân Phong màu đen, cũng nặng như cây ngân côn.
Ngân côn và thiết côn chỉ lớn bằng cổ tay, dài quá đầu, song lại rất nặng. Khi lâm trận côn múa lên, ngân côn tạo thành một đạo bạch quang, thiết côn tạo nên một luồng hắc quang. Đường côn đi đến đâu, vũ khí của đối phương văng lên tứ phía, thây người ngã rạp như rạ gặp bão.
Vì danh vang khắp nơi nên đích thân nữ tướng Bùi Thị Xuân đã thêu hai lá cờ đề tặng “Ngân Côn Tướng Quân” cho Võ Đình Tú và “Thiết Côn Tướng Quân” cho Đặng Xuân Phong. Tương truyền 2 vị tướng quân này cũng từng có lần so đấu với nhau nhưng may mắn là không ai bị thương.
Tích xưa kể rằng, do Thị Lang Bộ Lễ Bùi Đắc Tuyên biết Võ Đình Tú có tài nhảy cao nên thường bảo thái tử Nguyễn Quang Toản yêu cầu ông biểu diễn võ nghệ cho xem. Có lần, Võ Đình Tú cùng Đặng Xuân Phong vào cung bệ kiến vua Quang Trung. Biết rằng đó là hai tướng giỏi đánh côn, Bùi Đắc Tuyên tìm cách mua vui cho thái tử.
Bùi Đắc Tuyên mời hai ông Võ – Đặng đến nhà riêng uống rượu cùng Nguyễn Quang Toản. Tiệc xong, thái tử đòi xem hai vị đại thần đấu côn. Đuốc được thắp sáng rực cả sân. Đặng Xuân Phong sử dụng côn đồng, Võ Đình Tú dùng côn sắt. Đường côn qua lại nhanh nhẹn, mạnh mẽ, như “rồng bay phượng múa”. Gia tướng đến xem chật cả trong lẫn ngoài. Tiếng vỗ tay vang không ngớt.
Sau cuộc đấu côn này, dư luận xôn xao, có nhiều ý kiến khác nhau. Người khen hai vị công thần tài nghệ tuyệt luân, xứng danh “Tây côn lưỡng thần công”, người chê bai hai vị đại thần không biết tự trọng. Lời thị phi đến tai vua Quang Trung. Nhà vua liền trách thái tử và hai vị đại thần Võ, Đặng, rồi cấm Bùi Đắc Tuyên không được bày các trò vui làm mất thể thống các quan đại thần như thế nữa.
Thiết Quai cung – Nguyễn Quang Huy
Cung tên là vũ khí tầm xa lợi hại nhất trong quân đội. Lịch sử còn ghi dấu những đội Thiết kỵ Mông Cổ hay Khiết Đan, Hung Nô cưỡi ngựa bắn cung, đã từng càn quét chiến trường không có địch thủ. Mặc dù cung tên không phải là thành phần chủ lực trong quân đội Đại Việt do khác biệt về khí hậu và địa hình, nhưng sử sách Việt Nam vẫn ghi nhận những chiến tướng nổi danh dùng cung.
Nguyễn Quang Huy gốc người Phú Yên, được sử sách miêu tả như một nhân vật nổi bật với khả năng tinh thông binh pháp và bản lĩnh võ nghệ cá nhân. Ông đặc biệt được vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc) quý trọng và tín cẩn giao cho chức Phòng ngự sứ tại trấn Bình Thuận.
Nguyễn Quang Huy lui về Phú Yên sau khi Bình Thuận bị Nguyễn Phúc Ánh chiếm. Năm Kỷ Mùi (1799), hay tin thành Quy Nhơn bị Phúc Ánh uy hiếp, Quang Huy kéo quân ra, trong một ngày mà hạ gục 25 viên tướng của Phúc Ánh. Giữa lúc đang tả xung hữu đột, chợt thấy Phúc Ánh đứng trên thành, Nguyễn Quang Huy vẫn bình tĩnh giương cung bắn. Trúng tên ngã bất tỉnh, Phúc Ánh buộc phải rút hẳn về Gia Định.
Tương truyền, Nguyễn Quang Huy dùng cây Thiết Quai cung trong suốt đời binh nghiệp của mình. Đó là một cây cung bằng thép (thiết quai) nên nặng gấp ba bốn lần cung thường, uy lực cũng đáng sợ gấp mấy lần như thế.
Vĩ Mao cung – La Xuân Kiều
La Xuân Kiều là một văn thần với vẻ ngoài thanh tao, nho nhã và giỏi thơ phú. Dù vậy, ông lại yêu thích cưỡi ngựa bắn cung và là một xạ thủ nổi tiếng suốt thời Tây Sơn. Theo văn hóa Á Đông, binh khí phải xứng với cốt cách của chủ nhân, điều này đặc biệt đúng với trường hợp của La Xuân Kiều.
Cây Vĩ Mao cung của ông là một thanh trường cung, thanh mảnh bằng gỗ quý, dây cung bện bằng lông đuôi ngựa (vĩ mao). Khi bắn tên, dây cung phát ra âm thanh du dương trong trẻo, nhưng với tài nghệ của Xuân Kiều thì âm thanh nho nhã ấy lại chính là tiếng tử thần gọi tên những kẻ bị ông ngắm bắn.
Kỳ Nam cung – Lý Văn Bưu
Lý Văn Bưu là một trong những vị tướng có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình hình thành nhà Tây Sơn. Ông có một cây cung quý, tương truyền được chế tác cùng gỗ Kỳ Nam (một loại gỗ tương tự như trầm hương) nên được gọi là Kỳ Nam cung. Khi treo trong phòng, mùi gỗ Kỳ Nam bay ra thơm ngát khắp nhà.
Lúc chiến đấu, mùi Kỳ Nam cũng khiến ông phấn chấn tinh thần, lập nên nhiều kỳ tích giương cung bách phát bách trúng. Lúc còn đóng quân tại Ninh Thuận, Lý Văn Bưu từng dùng Kỳ Nam Cung bắn chết hổ dữ, trừ họa cho dân khắp vùng. Về sau, cây cung này cùng ông Nam chinh Bắc chiến với quân Xiêm và Mãn Thanh.
Liên Phát cung – Đặng Xuân Phong
Đặng Xuân Phong tương truyền là người có tướng kỳ tài, khí thế hùng dũng hiên ngang nhưng dung mạo trung hậu chất phác, lại có tài cưỡi ngựa. Ông dùng một cây cung bằng thép, được đặc chế để thuận tiện bắn nhiều mũi tên liên tiếp. Lúc mới dựng nhà Tây Sơn, tướng Bùi Thị Xuân đứng ở Kiên Mỹ, trông thấy Xuân Phong tay cầm côn đồng, lưng mang cung thép, cưỡi ngựa ô chạy trên triền núi gập ghềnh mà như đi trên bình địa. Lúc thấy đàn quạ bay qua, ông giương cung bắn 7 phát, 7 con quạ rơi xuống như lá rụng. Biết là người có tài, Bùi Thị Xuân bèn thăm hỏi gốc tích, mời về cùng nhà Tây Sơn lập đại sự.
Hỏa hổ và Hỏa cầu thời Tây Sơn
Hỏa hổ và Hỏa cầu không phải là vũ khí mới được tạo ra dưới thời Tây Sơn, nó đã có lịch sử trước đó từ thời Lê còn gọi là Hỏa đồng. Sách “Hổ trướng khu cơ” của Đào Duy Từ mô tả: “Hỏa đồng còn có tên là Hỏa hổ, có bầu lớn dài chừng một thước, khi lâm trận phun lửa, trong ống tống nhựa thông ra, trúng phải đâu, lập tức bốc cháy.Vì lửa cháy dữ dội, nên gọi là hỏa hổ”. Sử sách thời Nguyễn thường gọi Hỏa hổ là Hỏa phún đồng. Gặp địch, người dùng Hỏa hổ châm ngòi, cầm cán tre chĩa vào, thuốc phun và đạn sẽ phóng ra đốt cháy sát thương đối phương. Dùng xong lại có thể lấy ống đó nạp liều thuốc khác.
Hỏa cầu là loại vũ khí xuất hiện từ thế kỉ 17, được nhà quân sự Đào Duy Từ sáng chế dựa trên kĩ thuật hỏa khí phương Tây. Hỏa cầu còn có tên gọi khác là hỏa cầu lưu hoàng. Đây là một quả cầu kim loại rỗng ruột hoặc bằng giấy quết nhựa bên ngoài, có tay cầm, to cỡ quả bưởi, bên trong nhồi thuốc nổ, chất cháy, mảnh gang, sắt vụn và các quả cầu con, để gây cháy, nổ dây chuyền. Khi sử dụng thì châm ngòi nổ và ném vào đối phương. Có thể coi đây là một loại lựu đạn sơ khai có tác dụng gây cháy.
Quân Tây Sơn đã sử dụng Hỏa cầu lưu hoàng trong trận đốt cháy tàu chiến Bồ Đào Nha dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Manuel năm 1782 và trong trận tấn công đồn Ngọc Hồi năm 1789 đã làm quân Thanh khiếp vía. Theo các nhà nghiên cứu, Hỏa hổ thời Tây Sơn được cải tiến từ các Hỏa đồng (ống lửa) hạng nhỏ thời Lê sơ. Trong tay nghĩa quân Tây Sơn, nó được dùng một cách tập trung, ồ ạt, kết hợp với voi chiến và Hỏa cầu tạo thành hỏa lực giáp chiến hết sức lợi hại.
Lời kết:
Những vũ khí trong chiến trận không chỉ là dùng để chiến đấu mà thực chất nó còn là thứ dụng cụ phản ánh của cả một thời đại về văn hóa và nghệ thuật (võ thuật cũng chính là một loại nghệ thuật, nghệ thuật sử dụng vũ khí và rèn luyện thân thể). Tìm hiểu về binh khí xưa để biết và hiểu rõ hơn về văn hóa của dân tộc cũng là điều nên làm vậy.
Vì chỉ có một dân tộc với nền văn hóa sâu dày và mạnh mẽ thì mới có được nghệ thuật chiến đấu đỉnh cao và những vũ khí mạnh mẽ như vậy để có thể trường tồn xuyên suốt lịch sử đầy biến động. Những người luyện võ đến đỉnh cao để kiện thân vệ quốc cũng đáng quý như những người làm văn hóa vậy.
MTG - Nhận thức về giáo dục trong quan niệm của dư luận xã hội ngày nay đang có nhiều thay đổi. Những thay đổi đó xuất phát tự thân từ môi trường giáo dục với những thành tố cấu thành nên nó và cũng bởi sự tác động không nhỏ của các yếu tố ngoài giáo dục.
Tư nhân hóa và quốc tế hóa đang khiến cho giáo dục nước nhà thay đổi từng ngày từng giờ. Những “va chạm” về mặt tôn chỉ, mục đích cũng như nguyên tắc thực hành giáo dục giữa các nhà đầu tư kinh doanh và các nhà sư phạm truyền thống vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của quá trình tư nhân hóa giáo dục đang diễn ra với muôn hình vạn trạng các tình huống.
Nếu nhà kinh doanh xem giáo dục như một lĩnh vực kinh doanh thuần túy như các loại hình kinh doanh khác (bằng cách áp dụng rập khuôn các mô hình quản trị, điều hành) thì các nhà giáo dục đề xuất kinh doanh giáo dục phải là một loại hình kinh doanh đặc thù. Độ vênh giữa các quan điểm dần hiển lộ khi chúng ta quan sát mô hình hoạt động của các đơn vị giáo dục tư nhân.
Sự tham gia của các nhà đầu tư giáo dục nước ngoài ngày một gia tăng tại Việt Nam cũng cho thấy bức tranh quốc tế hóa giáo dục đang có những biến chuyển không ngừng. Tâm lý hướng ngoại của người Việt cũng như quá trình tất yếu của bối cảnh toàn cầu hóa là những điểm tựa quan trọng khiến xu hướng quốc tế hóa giáo dục càng thêm “trăm hoa đua nở”. Tuy vậy, những vướng mắc về khác biệt văn hóa cùng nhiều trở ngại không tên khác đang là thách thức cho các mô hình giáo dục quốc tế tại Việt Nam, đòi hỏi những giải pháp linh hoạt hơn, mang tính địa phương hơn (bên cạnh sự dung hòa với toàn cầu).
Cũng như trong nhiều lĩnh vực khác, truyền thông hiện đại ảnh hưởng không hề nhỏ đến những chuyển biến trong nhận thức về giáo dục của đại đa số dân chúng. Thật đáng buồn là truyền thông (phần lớn là truyền thông mạng) đang có những biểu hiện của sự sa đà vào thói quen gây sốc bởi những tin tức mang tính giật gân nhằm thu hút “tính đám đông” của dư luận. Ngược lại, những khía cạnh tốt đẹp của giáo dục ít được sự quan tâm của xã hội.
Thật dễ dàng để nhận thấy những góc khuất, những hạn chế, những tồn tại trong các câu chuyện tiêu cực của giáo dục đã và đang là mồi lửa khiến cho tính thành kiến về giáo dục được dịp bùng cháy. Tuy vậy, dư luận xã luận thiên về phản ứng cực đoan với thực trạng hơn là hướng đến thái độ góp ý mang tính xây dựng. Rất ít các biện pháp khắc phục hay những đề xuất mang tính khả dĩ được đề xuất. Chủ yếu là các bình luận một chiều, thậm chí có đôi phần khiếm nhã.
Ở một góc độ khác, tư duy người học hiện nay cũng có nhiều thay đổi khi nhận thức về giáo dục. Người học hiện nay phần nhiều chờ đợi ở giáo dục tính kết quả thực dụng hơn là những giá trị tri thức được truyền dạy từ người thầy. Người học đến với giáo dục như là phương cách để kiếm tìm cách thức sinh ra lợi nhuận nuôi sống bản thân bởi những thước đo về vật chất thay vì mong muốn nhận được những trải nghiệm sống thật sự về mặt trí tuệ. Sự đổi thay trong suy nghĩ về giáo dục của người học đặt ra bài toán hóc búa cho những người trong cuộc, đòi hỏi sự chung tay cùng nhau tìm giải pháp.
Cuối cùng, không thể không nhắc đến tâm trạng phần nào hụt hẫng khi xã hội dành nhiều sự kỳ vọng từ các “dự án cải cách” giáo dục được nhà quản lý các cấp phát đi hàng năm bởi các thông điệp có cánh nhưng kết quả thì mơ hồ và mông lung như một… trò đùa! Một vòng luẩn quẩn là cách gọi để người ta dễ hình dung nhất khi nhận định về những dự án cải cách của ngành giáo dục. Thật trớ trêu là chính giáo dục cũng đang khiến cho nhận thức về giáo dục trong suy nghĩ của người dân trở nên tiêu cực hơn.
(Dân trí) - Một thông tin rất đáng chú ý tuần trước là cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Sơn La đã khởi tố 17 người (bắt tạm giam 15 người), trong đó có 2 Phó giám đốc 2 sở, ngành của tỉnh này do những sai phạm nghiêm trọng trong dự án di dân, tái định cư công trình thủy điện Sơn La.
Như Dân trí và nhiều tờ báo khác đã đưa tin, việc bắt giữ 15 cán bộ (trong tổng số 17 người bị khởi tố) của các sở, ngành của tỉnh Sơn La được thực hiện cấp tập trong ngày 16/11. Trong số người bị bắt, đáng chú ý có ông Trương Tuấn Dũng, Phó Giám đốc Sở Tài chính và ông Phan Tiến Diện, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên - Môi trường. Ông Dũng và ông Diện đều đã từng làm cán bộ huyện Mường La, nơi triển khai dự án di dân, tái định cư cho công trình thủy điện Sơn La.
Những người này bị bắt ngay tại cơ quan, trước sự chứng kiến của lãnh đạo cơ quan. Có người còn bị bắt khi đang ngồi họp. Những thông tin ban đầu được công bố cho thấy, những người bị khởi tố, tạm giam được cho là có sai phạm hoặc liên quan đến những sai phạm trong quá trình triển khai dụ án di dân, tái định cư thủy điện Sơn La.
Theo cơ quan điều tra, những người liên quan bị khởi tố với tội danh: Cố ý làm trái quy định của Nhà nước và thiếu trách nhiệm, gây hậu quả nghiêm trọng. Như vậy, đây là một vụ việc nghiêm trọng trong việc triển khai dự án nhóm A của quốc gia nên dễ hiểu về sự cấp bách trong việc khởi tố, bắt giữ số đông người liên quan, một số người bị bắt có tính khẩn cấp.
Ai cũng biết, công trình thủy điện Sơn La hiện nay (hoàn thành và đi vào vận hành từ tháng 12/2012), là một nhà máy thủy điện có qui mô lớn nhất của cả nước (2400 MW). Để làm được công trình này, việc di dân, tái định cư đã phải lập riêng thành một dự án có qui mô rất đồ sộ: Di dân 20.340 hộ với 92.300 nhân khẩu (riêng Sơn La là 12.584 hộ, 58.337 người) với số kinh phí cũng vô cùng tốn kém: Trên 26.457 tỷ đồng (sau này còn phải bổ sung hàng ngàn tỷ đồng).
Thủy điện Sơn La cho đến nay, hầu như không còn mấy ai nghi ngờ hiệu quả kinh tế-xã hội to lớn của nó khi hàng năm đã đem lại một sản lượng điện rất lớn (sản lượng điện bình quân 10 tỷ kWh/năm, chiếm khoảng 10% tổng sản lượng điện quốc gia thời điểm đi vào vận hành), hiệu quả kinh tế cao, điều hòa, cắt lũ... Tuy nhiên, hiệu quả của việc di dân, tái định cư cho công trình này vẫn luôn là dấu hỏi khi nhiều năm sau khi nhà máy thủy điện đi vào vận hành, đời sống của hàng vạn người dân phải di cư chưa được ổn định và đến năm 2016, Chính phủ mới tạm đánh giá là việc di dân đã ổn định.
Việc khởi tố, bắt giữ tới 17 cán bộ liên quan đến công tác di dân, tái định cư cho công trình trên ở Sơn La dù chưa có kết quả điều tra cuối cùng nhưng bước đầu cho thấy, không phải không có những tiêu cực ở cấp cơ sở, làm giảm hiệu quả của chủ trương lớn của Nhà nước khi đầu tư hàng chục ngàn tỷ đồng cho công tác này.
Theo cơ quan điều tra, hành vi sai phạm của các đối tượng ở các khâu như: đo đạc, lập bản đồ địa chính, thẩm định, thu hồi và bồi thường hỗ trợ không đúng quy định… gây thiệt hại cho nhà nước. Nhưng những hành vi trên chắc chắn cũng gây thiệt hại, làm chồng chất khó khăn cho những người dân tái định cư dự án thủy điện Sơn La.
Đó có thể là lý do khiến không ít hộ dân ở Sơn La gặp khó khăn trong ổn định đời sống, thậm chí có thời kỳ, có không ít hộ dân bỏ nơi ở mới- nơi họ thấy khó khăn hơn rất nhiều để tự tìm nơi ở mới phù hợp hơn mà không có sự hỗ trợ của nhà nước.
Do đó, người dân chờ mong cơ quan bảo vệ pháp luật nhanh chóng làm rõ, công bố, xử lý những hành vi sai phạm, nhất là nếu có những việc làm: Ăn chặn, tham nhũng...các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, từ tiền tài trợ cấp cho người dân để làm nhà, phát triển sản xuất thì càng phải làm rõ để xử lý nghiêm, và cần mở rộng phạm vi điều tra không chỉ ở Sơn La mà cả các địa phương có triển khai dự án. Nếu hành vi đó là có cấu kết, tham nhũng có tổ chức thì hình phạt càng phải nặng hơn một bậc. Có như vậy mới đem lại niềm tin cho người dân- vốn đã chịu rất nhiều thiệt thòi khi phải ra đi để có chỗ xây dựng công trình thủy điện.
Và cũng để sau này, khi Nhà nước tiếp tục giải phóng mặt bằng, xây dựng những công trình lớn hơn, phải di dân nhiều hơn thì người dân cũng có niềm tin và sẵn sàng khi nhà nước vận động di
Đang ngồi uống cà phê thì tự nhiên thấy một bạn để ảnh đại diện của Nguyễn Văn Đài. Không hiểu tại sao tôi lại có thể quên một nhân vật tiêu biểu như vậy. Từ khi bị bắt cũng không ai biết thêm thông tin gì nữa. Nhưng trễ còn hơn không.
Tôi thú thật là biết rất ít về Nguyễn Văn Đài, trừ việc ông ta là một luật sư ở Hà Nội và đã bị bắt khi đi công việc ở tỉnh. Nhưng càng tìm hiểu thì tôi càng ngưỡng mộ ông ta. Hãy tìm hiểu vì sao. Có rất nhiều điều về ông ta, tôi không thể ghi hết, các bạn hãy tự tìm hiểu thêm.
Nguyễn Văn Đài sinh năm 1970 ở Tỉnh Hưng Yên trong một gia đình viên chức nhà nước. Sau khi trở về Việt Nam từ Đức, ông ta đã đăng ký học ở Đại Học Luật Hà Nội. Sau một thời gian làm luật ở bên ngoài, ông ta đã thấy xã hội thối nát ra sao, công lý đã bị tiền mua chuộc ra sao, nên bắt đầu thay đổi định hướng.
Vào tháng 4 năm 2004, ông ta và 11 đồng nghiệp khác đã thành lập nhóm “Luật Sư Vì Công Lý.” Mục đích là bào chữa miễn phí cho những nạn nhân bị xách nhiễu. Nhưng sau một thời gian thì tổ chức bị rút giấy phép.
Nguyễn Văn Đài đã góp phần để thành lập nhóm Khối 8406 và Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ trong năm 2006. Vì nỗ lực của mình, ông ta đã nhận giải Human Right Watch vào năm 2007.
Cũng vào năm 2007, Nguyễn Văn Đài và cộng sự Lê Thị Công Nhân đã bị bắt vì tội “tuyên truyền chống nhà nước” và tuyên án 4 năm tù giam và 4 năm quản chế.
Sau khi được thả, Nguyễn Văn Đài vẫn tiếp tục công việc của mình. Ông ta vẫn không sợ.
Vào tháng 10 năm 2015, khi trên đường về Hà Nội từ Hà Tĩnh, Nguyễn Văn Đài đã bị công an thường phục đánh bị thương.
Vào ngày 16/12/2015, Nguyễn Văn Đài đã một lần nữa bị bắt và khởi tố theo tội “tuyên truyền chống nhà nước Việt Nam.” Tuy nhiên, tới bây giờ vẫn chưa được xét xử công khai và không ai biết tình hình sức khỏe của ông ta bây giờ ra sao. Vợ ông ta chỉ gặp ở trong tù 2 lần.
Trong khi Nguyễn Văn Đài bị tạm giam, vợ ông ta, bà Vũ Minh Khánh đã đi vòng quanh thế giới vận động các chính phủ và tổ chức nhân quyền gây sức ép để chồng mình được thả. Khi được hỏi bà có đi tỵ nạn không, bà trả lời thẳng thắn: “Không, tôi sẽ tiếp đấu tranh ở Việt Nam.” Vì theo bà, đó là việc chính nghĩa cần phải làm.
Nguyễn Văn Đài đã được nhiều tổ chức nhân quyền lên tiếng bảo vệ. Tuy nhiên, mọi việc vẫn vậy. Không chỉ ông ta mà nhiều người khác cũng bị bắt lý do tương tự.
Nguyễn Văn Đài đã trở thành một biểu tượng đấu tranh cho nhân quyền ở Việt Nam. Ông ta là một luật sư hiếm hoi chịu nói lên sự thật và phải gánh chịu hậu quả của mình. Nhưng ông ta chưa hề hối hận và tiếc nuối.
Với gốc gác và học vấn của mình, Nguyễn Văn Đài hoàn toàn có thể trở thành một luật sự thành công và hốt bạc trong ngành luật Việt Nam. Nhưng ông ta đã từ chối điều đó để làm điều chính nghĩa đối với lương tâm của mình. Dù đã bị bắt và bỏ tù một lần rồi nhưng ông ta vẫn tiếp tục. Lòng yêu nước của ông ta đã trở thành cảm hứng cho những người khác, trong đó có người đang viết bài này.
Bạn không đồng ý với ông ta cũng chẳng sao. Nhưng bạn không thể không ngưỡng mộ người đàn ông này. Hãy làm việc chính nghĩa cho bản thân và đất nước. Ông ta là một người Bắc Kỳ Chính Nghĩa.
– Luật Quy hoạch, luật cải cách và gây tranh cãi nhiều nhất, cuối cùng cũng được Quốc hội thông qua trong ngày làm việc cuối cùng sáng nay 24-11 với tỷ lệ ủng hộ là 88,19%.
Luật này được kỳ vọng sẽ làm thay đổi rất nhiều trong công tác lập quy hoạch trong nhiều lĩnh vực lâu nay là thiếu minh bạch, manh mún, chồng chéo, kém hiệu quả, thiếu tính thị trường làm khó doanh nghiệp và người dân.
Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng từng nhắc lại một nhận xét tại Quốc hội rằng, dự luật này như một phát đại bác bắn vào thành lũy cuối cùng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung từng đày đọa nhau một thời.
Một trong những điểm quan trọng nhất của Luật Quy hoạch là bãi bỏ các quy hoạch ngành, sản phẩm, trong đó các điều kiện kinh doanh thường được lạm dụng để tạo cơ chế xin-cho với các doanh nghiệp.
Một điểm tiến bộ khác của luật là lập quy hoạch theo phương pháp tích hợp, theo đó, quy trình lập quy hoạch cần có sự tham gia của các bộ, ngành liên quan, các địa phương, của các chuyên gia trong và ngoài nước, được xây dựng từ dưới lên trên theo một nguyên tắc, trình tự nhất định và được gửi cho cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm lập quy hoạch.
Cơ quan này có trách nhiệm tổng hợp và phối hợp đồng bộ các quy hoạch thành phần trong các ngành, lĩnh vực có liên quan đến kết cấu hạ tầng, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường với mục tiêu phát triển cân đối, hài hòa, hiệu quả và bền vững; và tránh xung đột, tránh mâu thuẫn và phát huy được tối đa các lợi ích, lợi thế của các ngành, các địa phương.
Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đến nay đã có 8 luật chuyên ngành được sửa đổi để tương thích với Luật Quy hoạch, và còn phải sửa tiếp 25 bộ luật và luật. Chính phủ được giao xây dựng một Luật sửa nhiều luật và kiến nghị Quốc hội bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018.
Điều 30 của dự thảo trước đây liên quan đến các quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành từng được nhiều đại biểu bày tỏ lo ngại, băn khoăn đã được đưa ra khỏi luật và chuyển vào Phụ lục 2 về Danh mục các quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành để ghi nhận các quy hoạch hiện đang được quy định tại các bộ luật, luật, pháp lệnh.
Luật Quy hoạch được thông qua vào kỳ họp thứ 4 sau khi không được phê chuẩn trong kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV. Luật Quy hoạch sẽ có hiệu lực từ ngày 1-1-2019.
VNN - “Tôi còn nhớ như in văn bản ấy được ban hành vào ngày 10/05/1997. Sau đó vài ngày, anh em trong Ban điều phối, Tổng cục Bưu điện, Bộ Công an, Bộ Khoa học Công nghệ đọc, đánh giá văn bản ổn dù chúng ta đều mới tiếp cận, nhưng cần xem xét thêm vì nó khác với lĩnh vực báo chí”, ông Đỗ Quý Doãn kể.
Năm 1997, năm đánh dấu Việt Nam hòa mạng Internet, ông Đỗ Quý Doãn đang giữ cương vị Vụ trưởng tại Bộ Văn hoá Thông tin, được cấp trên giao nhiệm vụ tham gia khâu hoạch định chính sách, quy định của Nhà nước về thông tin mạng. Lúc ấy, ông Phạm Gia Khiêm là Bộ Trưởng Bộ Khoa học Công nghệ Môi trường, trưởng Ban điều phối quốc gia được thành lập từ Ban quản lý Internet của Chính phủ (ra đời ngày 24/03/1997) để chuẩn bị cho việc hoà mạng Internet vào cuối năm 1997.
Nhận thấy sự cấp thiết trong việc xây dựng văn bản, ông Khiêm đã chỉ đạo Bộ Văn hoá Thông tin, cụ thể là ông Đỗ Quý Doãn và ông Mai Linh cùng xây dựng văn bản quy chế về cung cấp thông tin lên mạng Internet. Quản lý nội dung thông tin trên mạng Internet là vấn đề rất quan trọng và đau đầu không chỉ ở Việt Nam mà cả trên thế giới lúc bấy giờ.
“Tôi còn nhớ như in văn bản ấy được ban hành vào ngày 10/05/1997. Sau đó vài ngày, anh em trong Ban điều phối, Tổng cục Bưu điện, Bộ Công an, Bộ Khoa học Công nghệ đọc, đánh giá văn bản ổn dù chúng ta đều mới tiếp cận, nhưng cần xem xét thêm vì nó khác với lĩnh vực báo chí”, ông Doãn kể.
Thời điểm đó, một văn bản vừa được ban hành mới vài ngày lại phải sửa đổi thì có vẻ gay go. Nhưng chúng ta rất cầu thị, từ Bộ Chính trị đến Chính phủ, và các cấp chính quyền, nếu thấy không phù hợp thì sẵn sàng sửa ngay, để phục vụ thật nhanh cho việc hoà mạng có cơ sở hoạt động.
Không ít những khó khăn và trở ngại vấp phải trong quá trình xây dựng văn bản, mà ông Doãn ví von như “đười ươi giữ ống”, tưởng là quản lí rất chặt nhưng cuối cùng lại tuột hết. Chúng ta không thể mang tư duy quản lí báo chí truyền thống vào quản lí Internet, bởi không thể nào lường trước được tốc độ truy cập và lan truyền đến chóng mặt của nó. Vì thế mà cần xác định trách nhiệm của từng đơn vị, bộ phận trong quá trình tham gia đưa nội dung lên Internet. Cấp cơ quan quản lí chỉ đưa ra các chính sách pháp luật, cấp cơ quan chủ quản trực tiếp phải chịu trách nhiệm. Thứ nữa là trách nhiệm của bản thân người thực hiện việc đó.
Ông Doãn không thể quên cuộc điện thoại của ông Phạm Gia Khiêm để hỏi: ông có hiểu Internet là như thế nào không? Khi đó ông đã phải thú thật, do mới được nhận nhiệm vụ nên cũng chưa hiểu lắm. Sau đó ông Doãn đã lập tức cử nhân viên tập hợp lại 100 bài viết, tài liệu liên quan đến Internet và in thành một quyển sách, xin giấy phép in theo dạng tài liệu với tên gọi: Internet và “Lĩnh vực quản lý”. Tài liệu này cung cấp những kiến thức cần thiết để giúp Internet phát triển.
Cũng theo ông Doãn, một trong những điểm rất quan trọng trong 20 năm phát triển Internet là ngay từ đầu ta đã xác định đúng nguyên tắc phát triển, hay còn gọi là tư duy phát triển. Nguyên tắc phát triển giai đoạn đầu khi mới hoà mạng Internet là Quản lý đến đâu, phát triển đến đó. Sau một thời gian nguyên tắc này được xác định là phát triển đi đôi với quản lý, rồi sau này tiến tới quản lý phải theo kịp sự phát triển. Đây là sự thay đổi tư duy quản lý rất quan trọng để cho Internet Việt Nam phát triển.
Lúc mới đầu, mọi người đều không thể biết được Internet sẽ phát triển như thế nào, phương thức quản lí ra sao. Việc quản lí thông tin trên mạng rất khác với những gì có trong kinh nghiệm của chúng ta, bởi tính cập nhật thông tin nhanh chóng, tính tương tác rộng mở. Nhưng chưa hiểu không có nghĩa là cấm đoán. Vì thế Ban điều phối đã cùng thống nhất là phát triển đến đâu thì quản lí đến đó, có nghĩa là quản lí phải theo kịp với sự phát triển, vừa làm vừa xem xét và rút kinh nghiệm.
Theo đó, điểm rất đáng ghi nhận là chúng ta đã thực sự chủ động trong xây dựng các chính sách phát triển, đã có nhiều văn bản được ban hành về cung cấp thông tin tiếp sau đó và đặc biệt là Thông tư Liên tịch của Bộ Văn hoá Thông tin, Bộ Công an và Tổng cục Bưu điện. Những văn bản ấy đưa ra các quy định, cơ chế quản lý, cách thức một cách rất chủ động và mang nhiều ý nghĩa đối với các nhà cung cấp dịch vụ Internet và các nhà cung cấp thông tin Internet về mặt pháp lý.
Hồi đó sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, như giữa Bộ Văn hoá và Thông tin, Tổng cục Bưu điện, Bộ Khoa học Công nghệ Môi trường và Bộ Công An rất tốt. Các bộ duy trì thế mạnh của nhau để phối hợp. Có hai đơn vị rất quan trọng là các nhà cung cấp dịch vụ Internet (gọi tắt là ISP) và các nhà cung cấp nội dung thông tin lên Internet (gọi tắt là ICP). Chẳng hạn, Bộ Công An xem xét việc cấp phép cơ sở hạ tầng kĩ thuật, Bộ Văn hoá Thông tin xem xét cung cấp nội dung thông tin lên mạng. Tất cả đều phối hợp tốt tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà cung cấp nội dung thông tin.
“Các cuộc trao đổi giữa các lãnh đạo và các bộ ban ngành rất thoải mái và cởi mở. Đặc biệt họ không tuyệt đối hoá, cũng không cực đoan hoá các biện pháp quản lý Internet”, ông Doãn kể.
Trong thực tiễn, sự phát triển bất cứ quốc gia nào cũng phải phù hợp với xu thế phát triển chung, chứ không thể quay lưng với nó. Vì vậy phương thức quản lí được đưa ra cần phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội quốc gia ấy.
Nhìn lại, Internet ở Việt Nam đã đi qua chặng đường 20 năm và 4 năm thai nghén, tổng cộng là 24 năm. Bài học rút ra trong suốt quãng thời gian đó vẫn còn nguyên giá trị cho chặng đường sắp tới. Đó là những bài học quý báu từ quyết định kết nối và cung cấp dịch vụ Internet, về đón nhận cái mới, lắng nghe từ thực tiễn và chủ động, khuyến khích để các đơn vị thử nghiệm dù xé rào mà không bị quy chụp, ngăn cấm. Đó là bài học về lựa chọn công nghệ và hướng đi, về việc đặt lợi ích phát triển đất nước lên cao nhất.
Nếu cho rằng, giai đoạn 20 năm qua là thận trọng, thì giai đoạn 20 năm tới cần phải vượt lên. Đây là con đường cho chính phủ kiến tạo, là nền tảng đưa Việt Nam hòa vào thế giới văn minh. Khi Internet, mạng di động và trí tuệ nhân tạo được đánh giá là chìa khóa cho các cuộc cách mạng sâu rộng thì đây đúng là vận hội to lớn cho Việt Nam bứt phá đi lên.
***
“Bốn năm thai nghén”
Đã có 4 đơn vị đi tiên phong thử nghiệm Internet trước ngày Chính phủ Việt Nam cho phép chính thức kết nối và cung cấp dịch vụ Internet, đó là, Viện CNTT với mạng Varenet được Đại học quốc gia Úc giúp kết nối bằng thủ tục truyền tin UUCP, chạy trên hệ điều hành SCO UNIX để gửi email vào cuối năm 1993. Liên hiệp khoa học sản xuất công nghệ phần mềm CSE tạo thủ tục truyền tin riêng Tnet, chạy trên hệ điều hành SCO UNIX từ năm 1993.
Trung tâm tin học Teltic trực thuộc Bưu điện Khánh Hoà từ năm 1994 đã thử nghiệm kết nối gửi email, sau đó ngày 15/8/1995 chính thức đưa lên mạng E-news, Báo điện tử đầu tiên, được cấp giấy phép thử nghiệm do Thứ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin Nguyễn Khoa Điềm ký. Sau đó vào cuối tháng 12/1995, hoàn thành Xa lộ Thông tin VietNet, và tháng 1/1996 Teltic chính thức khai trương cung cấp dịch vụ trên Xa lộ Thông tin VietNet, mạng đầu tiên ở Việt Nam sử dụng công nghệ TCP/IP của Internet cung cấp đầy đủ các dịch vụ của Internet như email, truyền file ftp, web… Đơn vị thứ tư là Công ty FPT xây dựng mạng Trí Tuệ Việt Nam với giao thức truyền tin riêng, từ cuối năm 1996.