Thứ Năm, 23 tháng 11, 2017
Những Điều Bí Ẩn Về Nhà Lãnh Đạo Triều Tiên Kim Jong - un
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Kỷ niệm Lên Mười của Trung Tâm Minh Triết
Sắp tới Trung tâm Minh Triết sẽ tổ chức kỷ niệm Lên Mười (2007- 2017). Để đánh dấu 10 năm hoạt động của mình, Trung Tâm sẽ thực hiện:
– Báo cáo đánh giá kết quả hoạt động, những thành tích và khuyết nhược điểm. Đề ra Chương trình và hướng hoạt động cho những năm tới.
– Tổ chức một sinh hoạt học thuật với chủ điểm: “Minh Triết Ích Gì Cho Hôm Nay”. Chúng tôi dự kiến có ba có ba chủ đề thảo luận:
Chủ đề I: Minh Triết Trị Nước An Dân. (Bàn về những giá trị minh triết của tiền nhân về Đạo Trị Quốc.
Chủ đề II: Tư Duy Minh Triết. (Đi tìm những phẩm chất của tư duy minh triết ứng dụng cho thời đại mới)
Chủ đề III: Kinh tế minh triết. (Một trào lưu hiện đại)
Về chủ đề I, chúng tôi mời NNC Nguyễn khắc Mai, PGS.TS Trần Thị Băng Thanh, PGS.TS Trương Sĩ Hùng đảm nhiệm.
Chủ đề II, sẽ do PGS. Phạm Khiêm Ích, GS.TS Tô Duy Hợp và KS. Nguyễn Thái Hòa (TT KH Tư Duy) đảm nhiệm.
Về chủ đề III, mời ThS Ngô Toàn và TS Kinh tế Phạm Gia Minh đảm nhiệm.
Để làm cho sinh hoạt học thuật Lên Mười của TT phong phú và có chất lượng, xin kính mời các bậc thức giả, cùng tất cả những ai “yêu mến” minh triết (sophia phylo) và quan tâm đến lĩnh vực này xin tham gia viết bài theo chủ đề và nhiệt tình tham dự cuộc kỷ niệm. Bài viết xin gởi cho chúng tôi qua email:maiminhtriet@gmail.com hoặc đ/c Nguyễn Khắc Mai 26/40 Phố Kim Hoa, Hà Nội.
Cuộc kỷ niệm sẽ tiến hành vào sau Noel năm 2017 tại Hà nội. Chúng tôi sẽ có giấy mời cụ thể sau.
Kính mong được sự hưởng ứng nhiệt tình của quý vị.
T/M TT: GĐ Nguyễn Khắc Mai.
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Bộ TN&MT 'đặc cách' cho Formosa xả thải vượt chuẩn?
24/11/2017 06:39
Văn bản “cá biệt”
Ngày 9/1/2014, nguyên Thứ trưởng Bộ TN&MT, Bùi Cách Tuyến ký công văn số 68, cho phép Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (Formosa Hà Tĩnh) sử dụng hàm lượng oxy tham chiếu trong giai đoạn thiêu kết là 15%, trong lúc QCVN 51:2013 là 7%.
Giải thích về công văn nói trên, đại diện Bộ TN&MT, ông Lê Hoài Nam, Cục trưởng Cục Kiểm soát ô nhiễm thừa nhận đây là một văn bản cá biệt. Nói về việc “đặc cách” cho Formosa Hà Tĩnh xé rào pháp luật Việt Nam, không chịu sự điều chỉnh của QCVN, ông Nam cho biết: Ngày 10/12/2013, Formosa Hà Tĩnh có văn bản gửi Tổng cục Môi trường, xin ý kiến chỉ đạo về quy trình thiêu kết trong QCVN 51:2013/BTNMT. Formosa Hà Tĩnh cho rằng, các tiêu chuẩn kiểm soát khí thải đối với các nước có ngành gang thép phát triển đều có quy định riêng, đặc thù về hàm lượng oxy tham chiếu cho công đoạn này là 15%.
Hệ thống ống khói tại các lò thiêu kết của Formosa đang xả thải
vượt ngưỡng quy chuẩn Việt Nam nhiều lần. Ảnh: pv.
Ngoài ra, Tổng cục Môi trường cũng đã thu thập, nghiên cứu, biên dịch các quy định của nước ngoài liên quan đến khí thải công nghiệp cho thấy họ đều áp dụng hàm lượng oxy tham chiếu 15%. Đồng thời, các chuyên gia về quản lí chất lượng không khí JICA Nhật Bản cũng đề xuất hàm lượng oxy tham chiếu là 15%.
“Với những căn cứ và lí do trên, Tổng cục Môi trường đã trình Thứ trưởng Bùi Cách Tuyến ký văn bản cá biệt, hướng dẫn Công ty TNHH Gang thép Hưng nghiệp Formosa Hà Tĩnh kiểm soát các thông số trong khí thải của công đoạn thiêu kết ở mức hàm lượng oxy tham chiếu là 15%” – ông Nam trả lời PV báoTiền Phong.
Khí thải của Formosa vượt ngưỡng nhiều lần
Khí thải của Formosa vượt ngưỡng nhiều lần
Ngày 6/11/2017, ông Phan Lam Sơn, Phó Giám đốc Sở TN&MT Hà Tĩnh ký công văn số 3384, gửi Bộ TN&MT đề nghị xem xét, chỉ đạo việc Formosa Hà Tĩnh đang xả khí thải vượt ngưỡng QCVN 51:2013.
Công văn có nội dung: Gần đây, theo kết quả quan trắc khí thải hàng ngày của Viện Công nghệ Môi trường (đơn vị được Bộ TN&MT giao thực hiện giám sát môi trường Dự án Formosa), tại xưởng thiêu kết cho thấy: Tại cột kết quả phân tích có đưa ra 2 giá trị kết quả đo khí thải lò thiêu kết, trong đó một cột kết quả tính toán theo hàm lượng oxy tham chiếu là 7% và một cột kết quả tính toán theo hàm lượng oxy tham chiếu là 15%. Qua kết quả đo và so sánh với với cột B1 – QCVN 51:2013/BTNMT, cho thấy kết quả phân tích thông số SO2, NOx, nếu tính toán theo hàm lượng oxy tham chiếu là 7%, có nhiều thời điểm vượt giới hạn cho phép 1,07 – 2,47 lần; Nếu tính toán theo hàm lượng oxy tham chiếu là 15%, thì nằm trong giới hạn cho phép.
Theo quy định tại Bảng 1 và Bảng 2 của QCVN 51:2013/BTNMT – Quy chuẩn quốc gia về khí thải công nghiệp sản xuất thép “Hàm lượng oxy tham chiếu trong khí thải công nghiệp sản xuất thép là 7%” thì kết quả quan trắc khí thải thông số SO2, NOx tại lò thiêu kết của Formosa có nhiều thời điểm vượt giới hạn cho phép.
“Sở TN&MT Hà Tĩnh thấy rằng, Công ty Formosa đang sử dụng các loại nguyên liệu đầu vào như hiện nay nhưng khí thải tại lò thiêu kết có nhiều thời điểm vượt quy chuẩn như đã nêu trên, do đó trường hợp Công ty Formosa tái sử dụng các loại bùn, bụi mà chưa đầu tư hệ thống khử Lưu huỳnh, Nitơ, Dioxin (theo báo cáo của Formosa dự kiến đến năm 2020 mới thi công xong), thì việc xử lí khí thải tại xưởng thiêu kết sẽ không đảm bảo theo QCVN 51:2013/BTNMT” – công văn của Sở TN&MT Hà Tĩnh nếu rõ.
Sửa đổi QCVN 51:2013 vì Formosa?
Theo thông tin mà Tiền Phong có được, hiện Bộ TN&MT đang giao Tổng cục Môi trường biên soạn một quy chuẩn kỹ thuật quốc gia mới (QCVN 51: 2017/BTNMT) về khí thải công nghiệp sản xuất thép, thay thế quy chuẩn của năm 2013 (QCVN 51:2013/BTNMT).
Theo đó, quy chuẩn mới vẫn cơ bản giữ nguyên các thông số kỹ thuật về khí thải công nghiệp trong sản xuất thép, nhưng lại thay đổi hàm lượng oxy tham chiếu từ 7% (QCVN 51;2013) lên 15% (QCVN 51:2017).
Việc thay đổi này khiến dư luận nghi ngờ Bộ TN&MT đang chạy theo Formosa, làm lợi cho doanh nghiệp, bỏ mặc môi trường bị hủy hoại vì ô nhiễm. Cơ sở của việc nghi ngờ này là ngày 16/8/2017, Formosa Hà Tĩnh có công văn số 1708049, gửi Bộ TN&MT báo cáo về việc lắp đặt bổ sung hệ thống công trình bảo vệ môi trường khử lưu huỳnh, khử Nitơ, và khử Dioxin tại xưởng thiêu kết. Và dự kiến hoàn thành hệ thống thứ nhất vào năm 2020, hệ thống thứ 2 vào năm 2021.
Mốc thời gian năm 2020 trong QCVN sửa đổi và trong báo cáo lắp đặt bổ sung hệ thống bảo vệ môi trường của Formosa liệu có liên quan đến nhau? Lí giải điều này, một chuyên gia trong ngành thép cho biết: “Với hệ thống xử lí khí thải hiện nay của Formosa không thể đáp ứng yêu cầu của QCVN 51:2013, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp này phải đóng cửa đến năm 2020, khi mà hệ thống bảo vệ môi trường bổ sung của họ hoàn thành thì mới được vận hành sản xuất. Nếu vẫn để Formosa áp dụng văn bản “đặc cách” của ông Bùi Cách Tuyến, Bộ TN&MT sẽ bị các nhà sản xuất thép khác kiện vì ưu ái Formosa, đồng thời các cơ quan chức năng phát hiện; còn bắt Formosa áp dụng theo QCVN 51:2013, thì chắc chắn Formosa vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường của Việt Nam”.
HOÀNG NAM
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Về Nhân Văn Giai Phẩm
- Nhiều bạn trẻ nghe nói NHÂN VĂN GIAI PHẨM (NVGP), mà chưa có điều kiện hiểu rõ nó là cái gì. NVGP là một nỗi đau của các trí thức và văn nghệ sĩ cách nay đã trên 60 năm, là một vết đen trong việc đàn áp tư tưởng của nền chuyên chính vô sản. Tôi xin viết 1 bài ngắn giúp các bạn tìm hiểu qua về nó.
Phiên tòa tại Hà Nội ngày 19/01/1960, xử vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Từ trái sang phải: Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Thuỵ An, Phan Tại và Lê Nguyên Chí. Ảnh: Flickr
NHÂN VĂN là tên một tờ báo tư nhân do một số văn nghệ sĩ, trí thức lập ra vào giữa năm 1956, phát hành được 5 số thì bị cấm. GIAI PHẨM (GP) là tên tạp chi, có GP mùa xuân, GP mùa Thu, GP mùa Đông, phát hành từ tháng 1 đến tháng 12 năm 1956, mỗi GP có vài số. Trước đây ghép vào Nhân văn, Giai phẩm còn có thêm ĐẤT MỚI, nhưng dần dần Đất Mới bị bỏ qua. Đất Mới là tên một tạp chí của sinh viên vào cuối năm 1956, chỉ ra được 1 số. NVGP là một phong trào của văn nghệ sĩ và trí thức, nói lên nguyện vọng được tự do sáng tác, tự do thể hiện tình cảm con người, tự do tư tưởng và ngôn luận.
Những người đề xướng và có vai trò hàng đầu như là: Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Trương Tửu, Đào Duy Anh, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo,Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Phùng Cung, Hữu Loan, Nguyễn Bính, Quang Dũng, Văn Cao, Xuân Sách, Thụy An….Hai người bị kết án nặng nhất là ông Nguyễn Hữu Đang và bà Thụy An (xử án tháng 10/ 1960, kết án 15 năm tù).
Trước 1956, theo đường lối cách mạng, mọi sáng tác và hoạt động văn hóa văn nghệ đều phải chịu sự lãnh đạo của Đảng. Thực chất sự lãnh đạo này là bắt buộc các văn nghệ sĩ phải nghe theo, làm theo các chỉ thị, chịu sự kiểm soát độc đoán của các đảng viên phụ trách, trên cùng là Trường Chinh và Tố Hữu, dưới là các cán bộ tuyên giáo các cấp. Trong tác phẩm của ai đó, là văn thơ, nhạc họa hay lý luận phê bình nếu bị phát hiện dù chỉ một câu, một ý, một chi tiết nhỏ bị cho là vi phạm lập trường giai cấp vô sản, bị cho là sai với tính đảng thì không những tác phẩm mà tác giả xem như đã bị nhận xuống bùn đen vạn kiếp. Màu tím hoa sim với Hữu Loan, Tây tiến với Quang Dũng là các dẫn chứng. Tình trạng đó làm ngột ngạt một số trí thức và văn nghệ sĩ, nhưng vì còn chiến tranh chống Pháp nên nhiều người tạm chấp nhận, tam chịu đựng.
Năm 1956, ở Liên xô có việc Khơ rút sốp, Tổng bí thư Đảng CS kêu gọi chung sống hòa bình, mở rộng tự do dân chủ, đặc biệt là chống sùng bái cá nhân lãnh tụ, Trung quốc có phong trào Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng, Việt Nam phát hiện sai lầm cải cách ruộng đất, Đảng Lao động kêu gọi mở rộng dân chủ. Một số trí thức và văn nghệ sĩ tưởng thời cơ đã đến để vận động cho dân chủ hóa và tự do sáng tác nên mới tập hợp nhau để hoạt động. Đầu tiên là một số văn nghệ sĩ trong quân đội viết kiến nghi, xin được tự do sáng tác, được để cho văn nghệ lãnh đạo văn nghệ. Kiến nghị không được chấp nhận. Viết bài thì báo nhà nước không đăng. Đã vậy thì vận động lập tờ báo tư nhân, lấy tên là Nhân Văn. Một số người có tên kể trên đã có nhiều kiến thức và kinh nghiệm trong việc làm báo tư nhân từ trước năm 1945, đặc biệt là Phan Khôi, một trí thức có tinh thần phản biện mạnh mẽ, đã lão luyện trong nghề báo. Hồi đó ở Hà Nội vẫn có một vài tờ báo tư nhân được tiếp tục hoạt động, mạnh nhất là nhật báo Thời Mới (sau sáp nhập với Báo Hà Nội thành tờ Hà Nội Mới). Trong thời gian ở Hà Nội chuẩn bị thi đại học tôi đã chứng kiến cảnh mọi người chờ đợi, hào hứng tiếp nhận báo Nhân Văn.
Ngày 9 tháng 12 năm 1956 Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bãi bỏ quyền tự do báo chí. Ngày 15 tháng 12/ 1956, lệnh đóng cửa báo Nhân Văn (đang in số 6). Tờ báo bị cấm trong sự tiếc nuối của nhiều độc giả.
NVGP bị quy kết phạm vào các tội sau: 1- Không tin vào Chủ nghĩa cộng sản. 2-Phản đối chuyên chính vô sản, đòi dân chủ. 3-Chống sùng bái cá nhân. 4-Không tin vào tinh thần quốc tế vô sản, chống rập khuôn theo Liên xô, đề cao dân tộc. 5-Chống sai lầm cải cách ruộng đất. 6- Đòi văn nghệ sĩ được tự do sáng tác.
Sau khi NVGP bị cấm, bắt đầu một đợt học tập và phê phán trong hàng ngũ văn nghệ sĩ, trí thức và sinh viên. Tháng 2 năm 1957 Trường Chinh kêu gọi đập nát bọn NVGP. Tố Hữu là người trực tiếp chỉ đạo cuộc đấu tranh. Đây là một dịp tốt để cho một vài trí thức và văn nghệ sĩ tỏ lòng trung thành với Đảng. Họ có 3 loại cơ bản. Loại 1, hăng hái nhất, thường là những người tài năng có hạn, muốn tỏ ra tuyệt đối trung thành để được tiến thân. Loại 2, tuy có tài năng nhưng từ trước đến lúc đó chưa được Đảng tin yêu thật sự nên cố tỏ ra có lập trường giai cấp và tự giác theo Đảng, hy vọng được tin cậy hơn. Loại 3, tuy trong lòng thấy được chính nghĩa của NVGP, nhưng vì sợ uy quyền, vì lo cho miếng cơm manh áo mà phải phụ họa theo.
Những người của NVGP phẩm bị tù đáy, bị đàn áp, bị tước bỏ nhiều quyền của con người, quyền của công dân, ít nhất họ cũng bị cách chức, bị quản thúc, bị hạn chế về nhiều mặt và phải sống một quãng đời quá cơ cực. Đại đa số họ đều có nhân cách cao thượng, được những người tử tế tôn trọng. Từ sau 1986 một số người được phục hồi một cách lặng lẽ bằng việc được nhắc đến tên, các sáng tác được ghi tên thật. Những Phùng Quán, Hoàng Cầm, Trần Dần, Quang Dũng, Hữu Loan, Văn Cao v.v… lại được quần chúng yêu mến và tôn vinh. Nguyễn Hữu Đang và Thụy An mãn hạn tù. Thế nhưng Đảng và Chính quyền không có một lời chính thức nào minh oan cho họ. Phan Khôi chết trong tủi nhục năm 1959, gần đây được một số nhà nghiên cứu đề cao, tôn vinh là nhà văn hóa lớn. Nguyễn Hữu Đang ốm chết năm 2007 trong vòng tay bè bạn. Thụy An được đón ra khỏi tù như một bà hoàng.
Vào cuối đời, lúc sắp chết Tố Hữu có tỏ ra ân hận, nhưng cũng không dám công khai nhận lỗi lầm, mà chỉ tâm sự riêng với một vài người thân tín. Phùng Quán, gọi Tố Hữu là cậu ruột, kể chuyện sau: khi cậu đã nghỉ hưu Quán mới dám đến thăm, ra về được nghe tâm sự rằng cháu đã dại mà cậu cũng quá dại. Cậu còn đọc cho Quán nghe bài thơ vừa sáng tác.
Có anh bộ đội mua đồng hồ.
Thật giả không tường anh cứ lo
Mới hỏi cô bán hàng, cô tủm tỉm
Giả mà như thật, khó chi mô
Tên bài thơ, có thể đặt là “Anh bộ đội bị lừa”. Anh bộ đội và cả tác giả đều đã bị lừa. Một đời làm cách mạng, cuối cùng tỉnh ngộ ra “Giả mà như thật”. Đó là kết quả của tuyên truyền lừa dối. Đó là bi kịch của cuộc đời.
Vào cuối đời, nhiều người trước đây tích cực trong việc đánh NVGP cũng tỏ ra hối hận (như Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu chẳng hạn). Cũng có một vài người không có sự hối hận thật sự, những sai sót trong các sách và bài viết của họ bị một số hậu thế vạch ra và phê bình nghiêm túc (như Nguyễn Lân, Phạm Huy Thông chẳng hạn).
Nhân Văn Giai Phẩm nên được viết vào lịch sử để nhắc nhở hậu thế.
© Nguyễn Đình Cống
Phần nhận xét hiển thị trên trang
VÌ SAO GIA ĐÌNH CỤ TRỊNH VĂN BÔ CHƯA CHO ĐẶT TÊN PHỐ ?
Ông Trịnh Cần Chính nói về việc hoãn đặt tên phố mang tên nhà tư sản Trịnh Văn Bô.
Ảnh: Cường Ngô
Ảnh: Cường Ngô
Con trai cụ Trịnh Văn Bô:
"Con phố mới không xứng đáng được đặt tên Trịnh Văn Bô"
Cường Ngô
Soha
23/11/2017
Liên quan đến việc hoãn đặt tên phố Trịnh Văn Bô cho một con phố ở quận Cầu Giấy, ông Trịnh Cần Chính (con trai cụ Trịnh Văn Bô) chia sẻ, con phố mới không xứng đáng được đặt tên cụ thân sinh của ông.
Hoãn đặt tên đường mang tên 'người hiến 5.000 lượng vàng' Trịnh Văn Bô
Hà Nội sẽ có tên đường Trịnh Văn Bô, người hiến 5.000 cây vàng?
"Con phố mới không xứng đáng được đặt tên Trịnh Văn Bô"
Cường Ngô
Soha
23/11/2017
Liên quan đến việc hoãn đặt tên phố Trịnh Văn Bô cho một con phố ở quận Cầu Giấy, ông Trịnh Cần Chính (con trai cụ Trịnh Văn Bô) chia sẻ, con phố mới không xứng đáng được đặt tên cụ thân sinh của ông.
Hoãn đặt tên đường mang tên 'người hiến 5.000 lượng vàng' Trịnh Văn Bô
Hà Nội sẽ có tên đường Trịnh Văn Bô, người hiến 5.000 cây vàng?
Trong tờ trình mới nhất của UBND TP Hà Nội lên HĐND TP về việc đặt tên và điều chỉnh độ dài các tuyến phố vừa được Ban Pháp chế HĐND và các đơn vị liên quan xem xét, chỉ có 19 tuyến phố, thay vì con số 20 như đưa ra lấy ý kiến trước đó.
Tên đường phố được đưa ra khỏi tờ trình là nhà tư sản Trịnh Văn Bô, người đã tặng 5.000 lượng vàng cho Nhà nước.
Giám đốc Sở VH-TT Hà Nội Tô Văn Động cho biết, do chưa đạt được sự thống nhất với gia đình nên tuyến phố mang tên nhà tư sản Trịnh Văn Bô bị hoãn lại, không trình HĐND TP thông qua kỳ họp diễn ra vào đầu tháng 12 tới.
Theo ông Động, thời gian tới, đơn vị liên quan sẽ làm việc với đại diện gia đình nhà tư sản Trịnh Văn Bô, với kỳ vọng đạt được thống nhất để đặt tên phố vào năm 2018.
.
Liên quan đến vấn đề này, chia sẻ với Báo Lao Động, ông Trịnh Cần Chính (con trai cụ Trịnh Văn Bô) cho hay, từ năm 2016, Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch Hà Nội có ý định đặt tên Trịnh Văn Bô cho một con phố ở quận Cầu Giấy, con phố này kéo dài từ Nguyễn Văn Huyên ra đường Cầu Giấy nhưng sau đó bị thay thế bởi con phố khác.
Con phố mới dài 1,2 km, rộng 7,5 m, từ ngã tư giao cắt phố Nguyễn Đình Hoàn tại cầu T11, đến ngã ba giao cắt đường Phùng Chí Kiên tại cổng sau Học viện Quốc phòng.
"Việc đặt tên Trịnh Văn Bô cho con phố mới tại cổng sau Học viện Quốc phòng, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội chưa bàn với gia đình.
Con phố này không xứng đáng được đặt tên Trịnh Văn Bô nên chúng tôi không đồng ý. Gia đình sẽ làm việc với Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch Hà Nội để thống nhất", ông Trịnh Cần Chính chia sẻ.
.
Tên đường phố được đưa ra khỏi tờ trình là nhà tư sản Trịnh Văn Bô, người đã tặng 5.000 lượng vàng cho Nhà nước.
Giám đốc Sở VH-TT Hà Nội Tô Văn Động cho biết, do chưa đạt được sự thống nhất với gia đình nên tuyến phố mang tên nhà tư sản Trịnh Văn Bô bị hoãn lại, không trình HĐND TP thông qua kỳ họp diễn ra vào đầu tháng 12 tới.
Theo ông Động, thời gian tới, đơn vị liên quan sẽ làm việc với đại diện gia đình nhà tư sản Trịnh Văn Bô, với kỳ vọng đạt được thống nhất để đặt tên phố vào năm 2018.
.
Liên quan đến vấn đề này, chia sẻ với Báo Lao Động, ông Trịnh Cần Chính (con trai cụ Trịnh Văn Bô) cho hay, từ năm 2016, Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch Hà Nội có ý định đặt tên Trịnh Văn Bô cho một con phố ở quận Cầu Giấy, con phố này kéo dài từ Nguyễn Văn Huyên ra đường Cầu Giấy nhưng sau đó bị thay thế bởi con phố khác.
Con phố mới dài 1,2 km, rộng 7,5 m, từ ngã tư giao cắt phố Nguyễn Đình Hoàn tại cầu T11, đến ngã ba giao cắt đường Phùng Chí Kiên tại cổng sau Học viện Quốc phòng.
"Việc đặt tên Trịnh Văn Bô cho con phố mới tại cổng sau Học viện Quốc phòng, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội chưa bàn với gia đình.
Con phố này không xứng đáng được đặt tên Trịnh Văn Bô nên chúng tôi không đồng ý. Gia đình sẽ làm việc với Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch Hà Nội để thống nhất", ông Trịnh Cần Chính chia sẻ.
.
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Quảng Ngãi: Thạc sĩ viết văn bản không được thì lãnh đạo kiểu gì?
(Dân Việt) “Thực tế, nhiều cán bộ tốt nghiệp đại học tại chức, từ xa sau khi lấy bằng thạc sĩ và được bổ nhiệm làm lãnh đạo ở các phòng ban của sở, huyện, xã. Nhưng viết văn bản không được thì lãnh đạo kiểu gì?”, ông Nguyễn Thanh Quang – Phó bí thư tỉnh Quảng Ngãi đặt câu hỏi.
Chiều 23.11, liên quan đến việc tỉnh Quảng Ngãi ban hành và thực hiện quy định “Cán bộ sinh từ năm 1975 trở về sau phải có bằng tốt nghiệp đại học chính quy mới được bổ nhiệm chức danh Trưởng, Phó phòng và tương đương thuộc sở, ban, ngành UBND huyện, thành phố” gây nhiều tranh cãi, ông Nguyễn Thanh Quang – Phó bí thư tỉnh Quảng Ngãi đã có trao đổi với PV Dân Việt.
Theo ông Nguyễn Thanh Quang, những năm trước đó, do điều kiện nguồn cán bộ của địa phương quá khó khăn nên phải tuyển nhiều trường hợp trình độ trung cấp, cao đẳng… Trong quá trình công tác, số cán bộ này đã hoàn thiện tốt nghiệp đại học tại chức, từ xa. Đến năm 2015, để nâng dần chất lượng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đáp ứng tình hình phát triển của địa phương, tỉnh đã đề ra yêu cầu cán bộ sinh từ năm 1965 trở về sau, nếu không tốt nghiệp đại học chính quy thì phải có bằng thạc sĩ mới được bổ nhiệm.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, tiếp thu ý kiến từ cơ sở và nhận thấy do nhiều nguyên nhân khác nhau mà số người tốt nghiệp đại học tại chức, từ xa dù đã có bằng thạc sĩ nhưng trình độ, năng lực vẫn không khác trước. “Không ít trường hợp tiếng là thạc sĩ nhưng viết văn bản không được thì lãnh đạo kiểu gì?” – ông Quang bày tỏ. Vì vậy, cùng với sửa đổi độ tuổi cán bộ bổ nhiệm từ 1965 thành 1975 trở về sau, tỉnh đã đề ra tiêu chuẩn “phải tốt nghiệp đại học chính quy” mới được bổ nhiệm, bổ nhiệm cao hơn.
Ông Nguyễn Thanh Quang – Phó bí thư tỉnh Quảng Ngãi.
Vị phó Bí thư tỉnh ủy nói thêm: “Tước khi đề ra chủ trương trên, tập thể tỉnh ủy đã họp, cân nhắc và xem xét rất nhiều. Cùng với mục đích nâng cao dần chất lượng của đội ngũ cán bộ, lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi mong muốn hạn chế bớt đi các trường hợp “con ông cháu cha” học hành làng nhàng cứ đưa vào, bổ túc lên cho đạt chuẩn rồi bổ nhiệm. Trong khi đó, hàng ngàn con em khác của người dân học hành tử tế, đào tạo chính quy nhưng bằng cấp thấp hơn không được nhận, bổ nhiệm”.
“Đại học như nhau chỉ là một cách nói, còn trên thực tế ai cũng hiểu không phải như vậy. Làm gì có chuyện năng lực của một người rất vất vả mới thi đỗ và tốt nghiệp đại học chính quy, lại ngang bằng với người học tại chức, từ xa hay thạc sĩ “9+3″ mà báo đã nêu” – ông Quang thẳng thắn.
Theo vị lãnh đạo này, nói như vậy không phải là nói đa số tại chức, từ xa và sau đó học lên thạc sĩ. Bởi lẽ rất nhiều cán bộ dù tại chức, từ xa nhưng có quá trình công tác và năng lực thực tiễn vượt trội, có uy tín, phẩm chất đạo đức tốt, được đơn vị tín nhiệm… vẫn được xem xét và bổ nhiệm, bổ nhiệm cao hơn. Tương tự ở các huyện miền núi, dù không thể hiện trong văn bản nhưng trên thực tế, tỉnh đã nới lỏng rất nhiều trong việc bổ nhiệm cán bộ học tại chức, từ xa.
“Tỉnh đề ra chủ trương này là để nâng chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo được bổ nhiệm ngày càng cao hơn, đáp ứng tình hình ngày càng phát triển của địa phương và xu hướng chung của đất nước; loại bỏ dần số cán bộ không có năng lực đang ngồi choán chỗ ở các cấp ngành của địa phương. Vì thế, nếu thật sự là người có năng lực thì dù tại chức, từ xa… vẫn được trọng dụng và bổ nhiệm bình thường. Trong quá trình triển khai nếu yêu cầu, tiêu chuẩn bổ nhiệm nào chưa phù hợp thì tỉnh sẽ điều chỉnh sửa đổi để phù hợp hơn”, ông Quang nói thêm.
Cũng theo ông Quang, sắp tới, tỉnh ủy sẽ chỉ đạo kiểm tra, đề ra biện pháp để ngăn chặn, hạn chế tình trạng thạc sĩ “giấy” đi học lại đại học để được bổ nhiệm cao hơn mà báo đã đưa tin.
Như đã phản ánh, đến tháng 8.2017, tuy sửa đổi hạ mốc năm sinh (tính từ năm 1975 thay cho năm 1965 trở về sau), nhưng tỉnh Quảng Ngãi vẫn giữ tiêu chuẩn phải có bằng tốt nghiệp đại học chính quy mới được bổ nhiệm và thăng chức. Theo đó, nhiều trưởng, phó phòng ban của cấp huyện đã là thạc sĩ nhưng bằng tốt nghiệp đại học là tại chức, từ xa nên phải đăng ký học lại đại học chính quy.
Nguồn: Dantri
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Thơ Mới: cấu trúc
Tiếp tục câu chuyện về Thơ Mới (trước hết, Thơ Mới là thơ không hề mới), đương nhiên là phải nói đến cấu trúc của nó. Vả lại, một cái gì có phải là mới hay không thì trước hết nó có là mới hay không ở trong cấu trúc của nó.
Trước hết, cấu trúc của Thi nhân Việt Nam như thế nào? Ngoài chuyện Thi nhân Việt Nam là tập hợp chủ yếu của thơ dở (trong cuốn sách, có một thứ nhiều hơn "thơ dở": thơ rất dở, chẳng hạn Thu Hồng hay Phan Văn Dật, cùng vô số nhân vật khác - đây chỉ là các biểu hiện), cấu trúc của nó liên quan rất nhiều đến cách nó nhìn nhận Xuân Diệu.
Tôi đã phân tích trí tưởng tượng (nói đúng hơn, cấu trúc trí tưởng tượng) của Xuân Diệu ở kia, dĩ nhiên đây chỉ là một khởi đầu, vì Xuân Diệu (thơ của Xuân Diệu) có nhiều ý nghĩa hơn thế. Xuân Diệu là một ký hiệu (signe), thơ Xuân Diệu là signal và nó phát ra các "communication". Nếu coi thơ Xuân Diệu là "signifiant", thì "signifié" của nó còn rộng hơn nhiều (so với tất cả những gì người ta từng nói). Xuân Diệu là một biểu nghĩa mà ta cần xem xét. Vả lại, trong trường hợp Xuân Diệu, nếu nhìn nhận chủ yếu dựa vào Thơ thơ (tất cả thơ Xuân Diệu trong Thi nhân Việt Nam đều làThơ thơ) thì sẽ bất công rất lớn: Gửi hương cho gió vượt xa Thơ thơ. Sắp tới, tôi sẽ phân tích "Hy Mã Lạp Sơn" ("Ta là một là riêng là thứ nhất"), bài thơ quan trọng (nói đúng hơn, một biểu nghĩa lớn) của Gửi hương cho gió.
Một lần nữa, Kiều hết sức quan trọng. Trong cấu trúc,Kiều là một khoảnh khắc của cân bằng. Cân bằng của cái gì? Của tinh thần và thế giới (tạm gọi là) bên ngoài. Tất nhiên, đó là sự cân bằng giữa sống và chết. Biểu nghĩa của Nguyễn Du là cân bằng (của tồn tại). Trong khoảnh khắc của cân bằng, sự thật hiện ra. Chính vì thế, ngược lại, nó là một cấu trúc. Nhưng trong số các cân bằng, còn có một cân bằng hết sức ít được nhìn nhận: Kiều là một tổng hợp (tổ hợp thì có lẽ đúng hơn) chứa đựng cả thơ lẫn văn xuôi. Đây là một cấu trúc rất khó, vô cùng khó, mà các "truyện Nôm" mang triệu chứng, hay nói đúng hơn là một trực giác. Nói một cách đơn giản, người ta kể chuyện bằng thơ: nhưng điều này có nhiều ý nghĩa hơn bản thân "kể chuyện bằng thơ". Cấu trúc của Kiều đẩy thơ Việt Nam lên đến đỉnh cao (tức là về đúng chỗ) đồng thời, cũng như mọi thứ gì đạt đến mức độ đầy đủ, nó chứa đựng luôn cái chết của chính nó. Cái chết ấy, ta sẽ thấy rất rõ, trong biểu hiện, ở một số nhân vật, đặc biệt là Nguyễn Công Trứ. Thơ của Nguyễn Công Trứ chính là prototype của Thơ Mới. Không phải Tản Đà.
Ngay tức khắc, một cái nhìn ngược lại cho thấy lịch sử phê bình thơ Việt Nam là một câu chuyện của không biết đọc. Mọi thứ gì mà các nhà phê bình sắp xếp đều sai. Người ta coi trọng Vũ Trọng Phụng chẳng qua chỉ vì không biết đọc, rất đơn giản, không có gì khác.
Nhưng, đến lượt nó, biểu nghĩa của sai lại chính là đúng. Điều này có thể là khó hiểu, nhưng nó không quá mức khó hiểu, nếu giữ một khoảng cách. Sai cũng phát ra nghĩa.
Và tại sao lại như vậy? Ta hãy hình dung, có một người đi đào giếng. Người đó đào xuống đất, với hy vọng tìm thấy mạch nước. Nhưng lẽ ra phải đào hai mét thì sẽ thấy nước, người đó đào được ba mươi phân đã chuyển sang đào chỗ khác. Cứ như vậy, cuối cùng không có một cái giếng mà có năm mươi cái hố. Người đào giếng bị tha hóa thành người phá hoại bề mặt. Một chức năng đã bị phá hủy.
Các nhà phê bình (và nghiên cứu) văn học Việt Nam có một xung động rất lớn về "cái mới" (nhưng đây là cái mới giả vờ - tôi sẽ quay trở lại điều này), họ sẽ "thi pháp", họ sẽ "tự sự học" như đi đào hố (tạo ra ổ gà, làm hỏng đường) thay vì đào giếng. Họ nhảy quá nhanh. Nhưng ngay cả ấp quả trứng để nó nở ra thì con gà mái cũng phải kiên nhẫn đợi cho đủ thời gian (về riêng chuyện này, chuyện ấp trứng, Maupassant có một truyện ngắn kiệt tác, "Toine") - ẩn dụ này, như mọi ẩn dụ, tất nhiên là một ẩn dụ tồi, vì gà mái tự biết cần phải làm gì với quả trứng của nó. Các nhà phê bình Việt Nam thì không. Chưa nói đến cả loạt, gần đây, "lý thuyết trò chơi" (ngay cái tên đã không đúng), queer, discours, rồi lại cả thêu thùa khâu vá. Cơ chế hoạt động của phê bình Việt Nam, xét trên diện rộng nhất, là cơ chế biện minh. Điều này có nghĩa: nhà phê bình lấy tự sự học để biện minh cho thi pháp (tức là đào một cái hố mới để biện minh cho cái hố cũ không có nước). Điều này thấy rất rõ ở hiện tượng các nhà phê bình thế nào cũng chuyển sang nghiên cứu văn hóa hoặc triết học (tôi đã nói qua điều này ở kia). Họ cho thấy (và tự thuyết phục bản thân) rằng họ "mở rộng chủ đề nghiên cứu". Nhưng không, trong cấu trúc của nó, sự "chuyển" này chỉ nói lên một điều rất đơn giản: họ chạy trốn. Tức là không ở ngoài cơ chế biện minh. Họ dùng triết học hoặc văn hóa để biện minh cho hoạt động nghiên cứu văn học của họ. Và, điều này rất hài hước, họ tưởng (họ thực sự tin) văn hóa hay triết học thì rộng hơn văn chương. Trong một biểu hiện khác còn lớn hơn: các nhà nghiên cứu (thành công - tức là thất bại) một ngày nọ sẽ trở thành một nhà tranh đấu, một người cấp tiến, họ nói điều công chính ngày ngày, họ phẫn nộ luôn luôn, khi chụp ảnh họ hay trầm ngâm, nhiều người có sẵn bộ tóc bạc đẹp thì khả năng thành công sẽ cao (Chu Hảo). Họ trở thành những người phát ra nghĩa cho một ý luận mà ta có thể gọi bằng nhiều cái tên khác nhau (tử tế, chia sẻ, suy tư, khai phóng, khai minh, nhưng tất tật không ở ngoài cấu trúc của biện minh). Ở chiều ngược lại, những người tranh đấu với tham vọng chính trị đến một ngày bỗng trở thành nhà nghiên cứu: một loạt trí thức cánh tả, nhất là hải ngoại (Hà Dương Tường).
Khi nói đến câu chuyện "nouveaux riches" ở Việt Nam, tôi còn chưa nói đến hình tượng lớn nhất: đó chính là Phan Cẩm Thượng. Tất nhiên, câu chuyện không nằm ngoài cấu trúc của biện minh nốt. Khi người ta vẽ không nổi, người ta viết phê bình hội họa (rỗng tuếch) rồi, rất định mệnh,nghiên cứu văn hóa.
Các "heros" của tôi trong câu chuyện nhìn nhận cấu trúc Thơ Mới là bốn người: Hoài Thanh (tất nhiên), Văn Tâm, Đặng Tiến và Đỗ Lai Thúy. Tôi nhìn vào họ, nhưng là nhìn vào âm bản. Bởi vì cả bốn đều phát nghĩa mạnh. Những gì còn không phát nổi nghĩa (tóm gọn vào một câu: Sừ một bên và Sử một bên) lại là một câu chuyện khác nữa.
(còn nữa)
nhân tiện: đã tiếp tục tiện bút "Les Feuillantines"
Trước hết, cấu trúc của Thi nhân Việt Nam như thế nào? Ngoài chuyện Thi nhân Việt Nam là tập hợp chủ yếu của thơ dở (trong cuốn sách, có một thứ nhiều hơn "thơ dở": thơ rất dở, chẳng hạn Thu Hồng hay Phan Văn Dật, cùng vô số nhân vật khác - đây chỉ là các biểu hiện), cấu trúc của nó liên quan rất nhiều đến cách nó nhìn nhận Xuân Diệu.
Tôi đã phân tích trí tưởng tượng (nói đúng hơn, cấu trúc trí tưởng tượng) của Xuân Diệu ở kia, dĩ nhiên đây chỉ là một khởi đầu, vì Xuân Diệu (thơ của Xuân Diệu) có nhiều ý nghĩa hơn thế. Xuân Diệu là một ký hiệu (signe), thơ Xuân Diệu là signal và nó phát ra các "communication". Nếu coi thơ Xuân Diệu là "signifiant", thì "signifié" của nó còn rộng hơn nhiều (so với tất cả những gì người ta từng nói). Xuân Diệu là một biểu nghĩa mà ta cần xem xét. Vả lại, trong trường hợp Xuân Diệu, nếu nhìn nhận chủ yếu dựa vào Thơ thơ (tất cả thơ Xuân Diệu trong Thi nhân Việt Nam đều làThơ thơ) thì sẽ bất công rất lớn: Gửi hương cho gió vượt xa Thơ thơ. Sắp tới, tôi sẽ phân tích "Hy Mã Lạp Sơn" ("Ta là một là riêng là thứ nhất"), bài thơ quan trọng (nói đúng hơn, một biểu nghĩa lớn) của Gửi hương cho gió.
Một lần nữa, Kiều hết sức quan trọng. Trong cấu trúc,Kiều là một khoảnh khắc của cân bằng. Cân bằng của cái gì? Của tinh thần và thế giới (tạm gọi là) bên ngoài. Tất nhiên, đó là sự cân bằng giữa sống và chết. Biểu nghĩa của Nguyễn Du là cân bằng (của tồn tại). Trong khoảnh khắc của cân bằng, sự thật hiện ra. Chính vì thế, ngược lại, nó là một cấu trúc. Nhưng trong số các cân bằng, còn có một cân bằng hết sức ít được nhìn nhận: Kiều là một tổng hợp (tổ hợp thì có lẽ đúng hơn) chứa đựng cả thơ lẫn văn xuôi. Đây là một cấu trúc rất khó, vô cùng khó, mà các "truyện Nôm" mang triệu chứng, hay nói đúng hơn là một trực giác. Nói một cách đơn giản, người ta kể chuyện bằng thơ: nhưng điều này có nhiều ý nghĩa hơn bản thân "kể chuyện bằng thơ". Cấu trúc của Kiều đẩy thơ Việt Nam lên đến đỉnh cao (tức là về đúng chỗ) đồng thời, cũng như mọi thứ gì đạt đến mức độ đầy đủ, nó chứa đựng luôn cái chết của chính nó. Cái chết ấy, ta sẽ thấy rất rõ, trong biểu hiện, ở một số nhân vật, đặc biệt là Nguyễn Công Trứ. Thơ của Nguyễn Công Trứ chính là prototype của Thơ Mới. Không phải Tản Đà.
Ngay tức khắc, một cái nhìn ngược lại cho thấy lịch sử phê bình thơ Việt Nam là một câu chuyện của không biết đọc. Mọi thứ gì mà các nhà phê bình sắp xếp đều sai. Người ta coi trọng Vũ Trọng Phụng chẳng qua chỉ vì không biết đọc, rất đơn giản, không có gì khác.
Nhưng, đến lượt nó, biểu nghĩa của sai lại chính là đúng. Điều này có thể là khó hiểu, nhưng nó không quá mức khó hiểu, nếu giữ một khoảng cách. Sai cũng phát ra nghĩa.
Và tại sao lại như vậy? Ta hãy hình dung, có một người đi đào giếng. Người đó đào xuống đất, với hy vọng tìm thấy mạch nước. Nhưng lẽ ra phải đào hai mét thì sẽ thấy nước, người đó đào được ba mươi phân đã chuyển sang đào chỗ khác. Cứ như vậy, cuối cùng không có một cái giếng mà có năm mươi cái hố. Người đào giếng bị tha hóa thành người phá hoại bề mặt. Một chức năng đã bị phá hủy.
Các nhà phê bình (và nghiên cứu) văn học Việt Nam có một xung động rất lớn về "cái mới" (nhưng đây là cái mới giả vờ - tôi sẽ quay trở lại điều này), họ sẽ "thi pháp", họ sẽ "tự sự học" như đi đào hố (tạo ra ổ gà, làm hỏng đường) thay vì đào giếng. Họ nhảy quá nhanh. Nhưng ngay cả ấp quả trứng để nó nở ra thì con gà mái cũng phải kiên nhẫn đợi cho đủ thời gian (về riêng chuyện này, chuyện ấp trứng, Maupassant có một truyện ngắn kiệt tác, "Toine") - ẩn dụ này, như mọi ẩn dụ, tất nhiên là một ẩn dụ tồi, vì gà mái tự biết cần phải làm gì với quả trứng của nó. Các nhà phê bình Việt Nam thì không. Chưa nói đến cả loạt, gần đây, "lý thuyết trò chơi" (ngay cái tên đã không đúng), queer, discours, rồi lại cả thêu thùa khâu vá. Cơ chế hoạt động của phê bình Việt Nam, xét trên diện rộng nhất, là cơ chế biện minh. Điều này có nghĩa: nhà phê bình lấy tự sự học để biện minh cho thi pháp (tức là đào một cái hố mới để biện minh cho cái hố cũ không có nước). Điều này thấy rất rõ ở hiện tượng các nhà phê bình thế nào cũng chuyển sang nghiên cứu văn hóa hoặc triết học (tôi đã nói qua điều này ở kia). Họ cho thấy (và tự thuyết phục bản thân) rằng họ "mở rộng chủ đề nghiên cứu". Nhưng không, trong cấu trúc của nó, sự "chuyển" này chỉ nói lên một điều rất đơn giản: họ chạy trốn. Tức là không ở ngoài cơ chế biện minh. Họ dùng triết học hoặc văn hóa để biện minh cho hoạt động nghiên cứu văn học của họ. Và, điều này rất hài hước, họ tưởng (họ thực sự tin) văn hóa hay triết học thì rộng hơn văn chương. Trong một biểu hiện khác còn lớn hơn: các nhà nghiên cứu (thành công - tức là thất bại) một ngày nọ sẽ trở thành một nhà tranh đấu, một người cấp tiến, họ nói điều công chính ngày ngày, họ phẫn nộ luôn luôn, khi chụp ảnh họ hay trầm ngâm, nhiều người có sẵn bộ tóc bạc đẹp thì khả năng thành công sẽ cao (Chu Hảo). Họ trở thành những người phát ra nghĩa cho một ý luận mà ta có thể gọi bằng nhiều cái tên khác nhau (tử tế, chia sẻ, suy tư, khai phóng, khai minh, nhưng tất tật không ở ngoài cấu trúc của biện minh). Ở chiều ngược lại, những người tranh đấu với tham vọng chính trị đến một ngày bỗng trở thành nhà nghiên cứu: một loạt trí thức cánh tả, nhất là hải ngoại (Hà Dương Tường).
Khi nói đến câu chuyện "nouveaux riches" ở Việt Nam, tôi còn chưa nói đến hình tượng lớn nhất: đó chính là Phan Cẩm Thượng. Tất nhiên, câu chuyện không nằm ngoài cấu trúc của biện minh nốt. Khi người ta vẽ không nổi, người ta viết phê bình hội họa (rỗng tuếch) rồi, rất định mệnh,nghiên cứu văn hóa.
Các "heros" của tôi trong câu chuyện nhìn nhận cấu trúc Thơ Mới là bốn người: Hoài Thanh (tất nhiên), Văn Tâm, Đặng Tiến và Đỗ Lai Thúy. Tôi nhìn vào họ, nhưng là nhìn vào âm bản. Bởi vì cả bốn đều phát nghĩa mạnh. Những gì còn không phát nổi nghĩa (tóm gọn vào một câu: Sừ một bên và Sử một bên) lại là một câu chuyện khác nữa.
(còn nữa)
nhân tiện: đã tiếp tục tiện bút "Les Feuillantines"
Posted by Nhị Linh
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)