Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 2 tháng 3, 2017

Dù có giận con, hay lí do gì khác, một người cha không nên làm như vậy!

Nhiều người quyên góp giúp nhà Đoàn Thị Hương
Sáng 2/3, khi VOA hỏi ông Đoàn Văn Thạnh, cha đẻ của Hương, về việc đi Malaysia, ông chỉ nói ngắn gọn: “Tôi không đi đâu, không đi. Không đi được. Tôi đang bận lắm. Thông cảm nhé”. Báo chí Việt Nam cũng đưa tin ngày 2/3 rằng ông Thạnh nói ông sẽ không đi Malaysia. Ông bày tỏ rằng gia đình rất mong muốn Malaysia giảm tội trạng cho con gái ông. Các nguồn tin địa phương cho VOA biết nhà chức trách đã “dặn” gia đình ông hạn chế tiếp xúc với báo chí, nhất là báo chí nước ngoài để “tránh bị lợi dụng”.

Nữ doanh nhân Lê Hoài Anh, chủ tịch HAL Group, ở tpHCM
Một số phụ nữ có nhiều ảnh hưởng trên mạng xã hội đang vận động gây quỹ để giúp đỡ cho gia đình cô Đoàn Thị Hương, người đang trong quá trình xét xử ở Malaysia vì tham gia vụ ám sát Kim Jong Nam, anh trai cùng cha khác mẹ của lãnh tụ Bắc Triều Tiên. Các hoạt động gây quỹ có mục tiêu giúp cha mẹ của Hương đi đến Malaysia thăm con và giúp họ chi trả phí tổn về luật sư bào chữa. Gia đình Hương có điều kiện kinh tế khó khăn.

Những người gây quỹ nói họ thương cảm về tình cảnh cô Hương chưa nhận được sự trợ giúp pháp lý đầy đủ, nhanh chóng từ nhà chức trách Việt Nam, cũng như về hoàn cảnh gia đình của cô.

Song họ nói nỗ lực của họ không phải chỉ vì cô Hương mà vì điều lớn lao hơn, đó là thân phận người Việt ở nước ngoài cần được bảo vệ.

Nữ doanh nhân Lê Hoài Anh, chủ tịch HAL Group, ở tpHCM, chia sẻ với VOA:

“Tôi không muốn thấy một người phụ nữ Việt Nam không có một sự bảo vệ cần thiết của luật pháp và không được một sự hỗ trợ tốt của đất nước của mình, và của đại sứ quán và của chính phủ của mình. Tôi chỉ mong muốn được giúp cô ấy bảo vệ cái quyền lợi hợp pháp của cô ấy. Nếu cô ấy có tội, phải chịu tội thôi. Nhưng tôi mong muốn rằng phải có cơ hội để cô ấy nói lên được cái thực chất của việc này và phải được bảo vệ một cách hợp pháp”.

Giảng viên đại học Nguyễn Hoàng Ánh ở Hà Nội cùng chung suy nghĩ này. Bà bày tỏ về động lực khi kêu gọi quyên góp cho Hương:

“Cô ý là phụ nữ, cô ý chỉ ngang tuổi con gái tôi thôi. Kể cả gia đình cũng như chính phủ chả ai giúp gì cho cô cả. Hình như cho đến bây giờ là họ biệt giam. Hình như người duy nhất từng vào gặp cô ấy là là đại diện của đại sứ quán [Việt Nam]. Thì chắc là cô ấy rất là cô đơn và khủng hoảng. Cứ thử tưởng tượng chỉ nghĩ là mình đi đóng phim mà rồi cả một hệ thống luật pháp xông vào và bắt giam, nó rất là sốc, rất là khủng hoảng. Tôi nghĩ như vậy thì người ta khổ quá. Tôi cũng nghĩ rằng là chỉ cần cho cô ấy biết rằng là có một vài người Việt Nam vẫn quan tâm đến cô ấy, vẫn thương xót cô ấy và sẽ không bỏ rơi cô ấy thì có lẽ là cô ấy sẽ có một chút niềm vui trong cái cuộc đời mà có lẽ nó cũng không vui vẻ lắm”.

Tính đến tối 2/3, nỗ lực của bà Nguyễn Hoàng Ánh đã quyên góp được 73 triệu đồng. Bà Lê Hoài Anh cũng đã nhận được 72 triệu đồng từ các nhà hảo tâm, bên cạnh đó cá nhân bà đóng góp 2.000 đôla. Số tiền dùng để trả vé máy bay và khách sạn cho cha mẹ cô Hương và một luật sư.

Hai bà Anh và Ánh cho biết họ cùng các bạn bè đã liên lạc với gia đình Đoàn Thị Hương để bàn việc đưa họ đi thăm con, cũng như bàn phương án chọn luật sư.

Tuy nhiên, vào sáng 2/3, khi VOA hỏi ông Đoàn Văn Thạnh, cha đẻ của Hương, về việc đi Malaysia, ông chỉ nói ngắn gọn:

“Tôi không đi đâu, không đi. Không đi được. Tôi đang bận lắm. Thông cảm nhé”.

Báo chí Việt Nam cũng đưa tin ngày 2/3 rằng ông Thạnh nói ông sẽ không đi Malaysia. Ông bày tỏ rằng gia đình rất mong muốn Malaysia giảm tội trạng cho con gái ông.

Các nguồn tin địa phương cho VOA biết nhà chức trách đã “dặn” gia đình ông hạn chế tiếp xúc với báo chí, nhất là báo chí nước ngoài để “tránh bị lợi dụng”.

Ông Thạnh từng là quân nhân tham chiến ở mặt trận Quảng Trị năm 1972. Hiện ông hưởng chế độ thương bệnh binh của nhà nước Việt Nam.

Đoàn Thị Hương, con gái ông Thạnh, và một phụ nữ người Indonesia, Siti Aisyah, hôm 1/3 đã chính thức bị buộc tội giết người trong vụ ám sát ông Kim Jong-nam.
(VOA)


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Phóng sinh



Buồn cũng chẳng làm chi,
ta thả nỗi sầu lên mây
Như phóng sinh con hoạ mi bé nhỏ
bấy lâu nuôi mãi trong lồng
Nỗi buồn cũng như chim
đâu có ưa đời giam hãm?
Muốn vượt thoát niềm riêng tư
đã có lúc giày vò ta khốn khổ
Khóc thật
yêu hờ
sống nhạt ngày đang qua..
Trộn lẫn bao điều không đáng có
Giờ thì ..
nhẹ lòng
dễ thở
Có gã đi đường ngang qua
cười thân thiện
chiều vàng như mơ
hoạ mi khuất bóng
và ..nỗi buồn đang xa .. !

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Dòng đời



Dòng đời ..
Khi thì mênh mông bể sở
khi thì cát bụi cằn khô
Gió thổi
mây bay,
nước,
lửa..
Cố gồng mình,
để vượt qua!
Đâu là bến là bờ, đâu nơi trú ngụ?
Đường xa..
Hun hút,
càng xa!
Ríu rít chim trời gọi bạn
Về nơi tít tắp xa mờ
Có không tình người cháy lửa,
hay rồi ta lại gặp ta?

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Sinh viên Việt Nam tụt hậu vì những môn học vô bổ NGỌC QUANG (THỰC HIỆN)



(GDVN) - PGS.TS Nguyễn Văn Nhã cho biết, ở nhiều nước đào tạo đại học 4 năm, nhưng sinh viên được học rất sâu về ngành, chứ không học nhiều môn vô bổ như ở Việt Nam.

Vào tháng 1/2016, Bộ Giáo dục đã có tờ trình đề nghị rút ngắn thời gian đào tạo đại học từ 3 – 4 năm. Trao đổi với Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, PGS.TS Nguyễn Văn Nhã – nguyên Trưởng Ban Đào tạo Đại học Quốc gia Hà Nội nhận định, rút ngắn thời gian đào tạo mà cắt thời gian học ngành thì chẳng khác nào trong bữa ăn để lại toàn món phụ, cắt đi món chính.

Thưa Phó Giáo sư, ông có ủng hộ việc rút ngắn thời gian đào tạo đại học không? Và theo ông, khi rút ngắn thời gian đào tạo thì phải cấu trúc lại thế nào?

PGS.TS Nguyễn Văn Nhã: Tôi ủng hộ quan điểm rút ngắn thời gian đào tạo đại học. Chúng ta biết rằng có 4 khối kiến thức, bao gồm: Kiến thức chung (Chính trị, tư tưởng, ngoại ngữ, toán đại cương…) có tổng cộng vào khoảng 30 tín chỉ. Gần như tất cả các trường đều học khối kiến thức chung này. 30 tín chỉ ấy chiếm mất khoảng 1 năm học. Như vậy thực chất hiện nay đào tạo đại học 4 năm thì học vào chuyên ngành và chuẩn bị cho tốt nghiệp chỉ có 3 năm.

Ở châu Âu, nhiều trường áp dụng chương trình đào tạo 3 năm, nghĩa là họ không có khối kiến thức chung như Việt Nam. Khối kiến thức chung với một số môn học bắt buộc đều được đẩy ra khỏi chương trình đào tạo chính thức, trở thành điều kiện cần cho các sinh viên tốt nghiệp. Thí dụ như ngoại ngữ chẳng hạn, sinh viên có thể học ở đâu cũng được, miễn là cuối cùng phải có được chứng chỉ đúng theo yêu cầu là đảm bảo yêu cầu.

Trong chương trình chính khóa thì bao giờ cũng học từ kiến thức cơ sở, sau đó vào kiến thức ngành, rồi đi sâu vào chuyên ngành. Ở bậc đại học vẫn là kiến thức ngành chứ chưa thể gọi là chuyên ngành, còn đến sau đại học thì mới đi vào chuyên ngành.

Thí dụ như Vật lý rất rộng, phải học cơ, điện, nhiệt, quang… gọi là đại cương; rồi sau đó mới đi theo phương pháp giảng dạy, hay theo Vật lý lý thuyết hoặc một lĩnh vực khác chuyên sâu. 

Bây giờ chúng ta đào tạo 3 năm thì có nghĩa là thời gian đào tạo ngành không thể rút đi được, lý thuyết có thể điều chỉnh ngắn đi, nhưng phải tăng thời gian thực hành, đây cũng điểm còn yếu với đa phần sinh viên Việt Nam hiện nay.

Vậy khối kiến thức chung kia phải làm thế nào? Rõ ràng chúng ta cũng chỉ còn cách là đẩy nó ra khỏi chương trình chính khóa, trở thành các lớp học ngoại khóa, và cách dạy cũng phải đổi mới, không thể tiếp diễn tình trạng nhồi sọ những môn học tư tưởng như hiện nay. Thầy cứ đọc, trò cứ chép, rồi thi xong thì chữ thầy trả lại cho thầy.

Cũng có người nói rằng, nếu đào tạo rút gọn, lược bớt đi những phần nội dung chính trị, tư tưởng thì sinh viên được đào tạo ra liệu có còn là người Việt Nam yêu nước không?

PGS.TS Nguyễn Văn Nhã: Đấy là suy nghĩ sai lầm, bởi vì bản thân mỗi chúng ta khi sinh ra là người Việt Nam thì đã có dòng máu yêu nước rồi.

Trong cả cuộc hành trình nhiều năm tháng học từ Tiểu học cho tới Trung học cơ sở, rồi vào phổ thông, các em cũng liên tục được gia đình và nhà trường dạy dỗ truyền thống của dân tộc. Cho nên sẽ là một sai lầm nếu cứ duy trì cách dạy cũ, tức là nhồi cho các em những môn học mang tính tư tưởng một cách khô cứng ngay từ khi bước chân vào giảng đường đại học.

Tôi lấy thí dụ các em học những ngành về nghệ thuật thì ngay từ ban đầu đã phải dạy cho các em những môn học cảm nhận được cái hay, cái thú vị của ngành ấy. Hay những em nào học về Toán thì rõ ràng đam mê của các em sẽ là Toán, vậy phải học những môn có tính gợi mở của Toán, chứ không thể nào vào học là dạy Triết, nào là quan niệm phương Đông, quan niệm phương Tây… những kiến thức đó đều hay cả. Nhưng thiết kế kiểu ấy không phù hợp và nó dễ gây ra tâm lý chán nản cho sinh viên.

Nếu rút ngắn thời gian đào tạo mà lại giữ khối kiến thức chung, cắt vào kiến thức ngành thì có khác nào trong một bữa ăn cắt đi món chính và để lại toàn món phụ. Thế thì nguy hiểm quá.

Vì sao trình độ cử nhân của Việt Nam quá yếu?

Cũng là thời lượng đào tạo 4 năm, nhưng vì sao trình độ của cử nhân Việt Nam với nhiều nước có sự chênh lệch rất lớn?

PGS.TS Nguyễn Văn Nhã: Tôi lấy một thí dụ điển hình là ở nước Mỹ, cũng đào tạo đại học 4 năm, nhưng 4 năm của họ là làm việc thật, làm việc cật lực, chứ không chia thời gian cho những môn học như ở ta, để rồi không dùng được vào ngành học.

Tiêu chí đào tạo của Mỹ rất khoa học, nó được thể hiện rất rõ ràng qua việc sinh viên phải hoàn thành được một bài tập cụ thể, và phải tham gia được vào một nghiên cứu ngay từ năm thứ nhất.

Tới năm thứ hai, sinh viên phải xuống thực tế tại các nhà máy, các cơ sở lao động và phải có được một bài tham luận.

Tới năm thứ ba, sinh viên phải tham gia được vào các công trình nghiên cứu khoa học của thầy cô, để được trực tiếp làm một số việc đơn giản, qua đó hiểu về quy trình, cách thức làm một đề tài khoa học.

Tới năm thứ tư, sinh viên phải có một khóa luận thức sự, phải có được công trình nghiên cứu của riêng mình.

Qua cả một quá trình học tập, làm việc thực tế như vậy cho nên sinh viên của Mỹ nắm rất chắc cả lý thuyết với kỹ năng.

Như vậy, vấn đề đặt ra cho nền giáo dục Việt Nam là khi rút ngắn thời lượng đào tạo thì cấu trúc phải thay đổi, nhưng thay đổi như thế nào thì cho tới nay cũng chưa rõ. Tôi mong rằng, Bộ Giáo dục sẽ có tính toán cẩn trọng, lắng nghe ý kiến của các nhà khoa học, ý kiến của các nhà chuyên môn tâm huyết với giáo dục để đưa ra được cấu trúc khoa học, phù hợp với mong muốn đổi mới của giáo dục Việt Nam.

Cùng với việc tính toán lại thời gian đào tạo đại học, ở bậc phổ thông cũng đồng thời phải cấu trúc lại để phù hợp với sự đổi mới?

PGS.TS Nguyễn Văn Nhã: Đúng như vậy! Tính hệ thống phải được đảm bảo, và cách tốt nhất là làm đồng bộ thì sẽ nhìn thấy cả một chặng đường định hướng nghề nghiệp từ phổ thông.

Theo như đề xuất của Bộ Giáo dục thì bậc Trung học phổ thông có 3 luồng, gồm: Định hướng chung (có tính hàn lâm/khoa học như hiện nay); Định hướng kỹ thuật/công nghệ; Định hướng năng khiếu (nghệ thuật, thể thao). Với sự phân chia 3 luồng rõ rệt như vậy, đào tạo sẽ đi vào chuyên sâu rõ rệt hơn.

Điều tôi muốn nhấn mạnh là với khoảng thời gian 3 năm hoàn toàn có thể xây dựng cho các em một nền kiến thức cơ bản, đảm bảo cho quá trình vào ngành ở đại học. Thí dụ, ngoại ngữ sau khi tốt nghiệp phổ thông, các em đạt được trình độ gì? Đừng để phí 6 năm trời từ trung học cho tới hết phổ thông rồi không đạt được gì.

Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau cho nên có thể triển khai ở bậc đại học trước, vì đây là nơi đưa sản phẩm trực tiếp ra thị trường. Việc cơ cấu lại thời gian đào tạo hay giảm bớt số lượng đào tạo với từng ngành, từng trường cũng mới chỉ là một biện pháp cơ bản có tính mở đầu. Cái mà xã hội quan tâm là chất lượng đào tạo, đây là vấn đề tự các trường phải vận động nếu không muốn bị tụt hậu, bị mất sinh viên.

Trân trọng cảm ơn ông!

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hương, tuyệt tình cốc và cái đạo đức sáng chói của chúng ta



>> Cú lừa ngoạn mục từ đại gia bảnh bao, mê rượu ngoại
>> Quảng Nam: Kỳ án đem thơ... thế chấp vay vàng!


FB Hoàng Nguyên Vũ
1. Hương: Chẳng ai biết đến Hương cho đến khi có thông tin rằng một trong hai sát thủ là người Việt Nam. Chẳng ai biết rõ về Hương cho đến khi mọi người nhìn qua báo chí thấy Hương bị ra toà ở nước bạn với tư cách là một sát thủ. Và ai cũng tò mò về Hương khi một phần đời chìm "nàng Kiều" nơi đất khách của Hương được hé lộ.

Và có vẻ nhiều người "thương" Hương hơn khi cô bé một mình đơn độc trong phiên xử ở nước khác: phía Việt Nam không có một luật sự nào được cử đi bào chữa cho Hương.

Bình tĩnh nào, sao cứ phải trách nhau vô cảm? Mọi thứ đang ở trong trạng thái tuyên bố cáo trạng, còn tất thảy tính mạng của Hương đang còn ở phía trước mà.

Nhưng sự vô cảm thì có thật.

Bạn và tôi có chắc là chúng ta không vô cảm với Hương? Chúng ta cũng chỉ lên cơn thịnh nộ khi cáo trạng được công bố và Hương phải đối diện với án tử mà? Trước đó, ai, trong số gần 80 triệu con người lên mạng xã hội chém gió mỗi ngày, nói rằng Việt Nam cần có một luật sư bào chữa cho Hương?

Và ngược lại, trong thời gian trước bạn cáo trạng, chúng ta còn đưa Hương ra đùa giỡn: rằng người tên Hương thì thế này, quê Nam Định thì thế nọ, học dược thì thế kia.

Và trong trường hợp này, bạn nghĩ rằng Hương được sống là một điều tốt ư?

Hương sống, ở góc độ nhân sinh, là điều mừng cho Hương, mừng lắm lắm. Nhưng nếu Hương sống với mấy chục năm trong lao tù, khi ra tù thành một bà lão già, mang trên vai hai cái án mà người đời chờ sẵn: tiếng sát thủ và nàng Kiều, hỡi ôi!

Hương cũng như bao cô gái Việt Nam khác phải lang thang nơi xứ người, làm tất cả mọi nghề, dù là nghề ô nhục nhất để nuôi thân, hay là một điệp viên thượng thặng, thì đó mới là điều đáng khóc bạn ạ. Còn nhiều, nhiều lắm. Cô thì bán mình với tư cách "cô dâu Việt"; cô thì tháo xương bán lẻ lao động xứ người gửi tiền về nuôi gia đình. Cô thì phải buôn phấn bán son. Đến nỗi, cứ phụ nữ Việt qua một vài cửa khẩu là bị lục soát hỏi han như hỏi tội phạm xem có phải sang đất người ta để bán dâm không...

Thế đó, tại sao bạn không khóc cho điều này? Không khóc cho một đất nước mà còn rất nhiều phụ nữ không thể sống được trên chính đất nước của mình?

Hương bơ vơ ở xứ người? Không, còn biết bao phụ nữ bơ vơ như thế, các bạn ạ!

2: Gái "tuyệt tình cốc": Ngày Hương ra toà cũng là ngày trên mạng rần rần hai cô gái Việt "hư hỏng" trong một bộ ảnh có tên Tuyệt tình cốc. Người đời vào ném đá: Cứ gái hư, phò phạch đĩ điếm mới chụp hình như thế.

Đàn ông thì hả hê như được xem hàng tươi mát miễn phí. Phụ nữ thì được dịp cấu cào đồng loại để nhân danh cái đạo đức sáng chói.

Bạn có chắc một ngày bạn sẽ không bị vợ một anh đồng nghiệp hay một đối tác sẽ không gào lên trước cổng công ty rằng bạn là "con đĩ" đang phá hoại hạnh phúc của cô ấy? Bạn có chắc rằng mọi người không biết chiếc xe bạn đang đi không phải do bạn tự mua dù bạn đang muốn ngoi lên ghế phó tổng của một tờ báo của dân tộc?

Bạn có chắc vợ bạn không giống hai cô kia khi bạn góp phần khiến họ trở nên như thế?

Bạn khác họ không? Không. Chỉ khác là họ không che giấu còn bạn thì có.

Bạn biết hai cô đó hư hay đang hư để tìm một cơ hội kiếm sống? Tìm một ông chồng hoặc một người bồ giàu có như cô Ngọc Trinh, cô Hà Hồ? Hay tìm một anh khách hạng sang bao bọc? Tìm một cơ hội bước chân vào showbiz mà không cần phải qua Ban giám khảo của các cuộc thi hoa hậu, để rồi cũng thành nàng Kiều như không ít hoa hậu hiện tại?

Họ có khác gì hoa hậu đâu. Họ chỉ khác, hoa hậu được tôn vinh và có fan cuồng. Còn các cô này bị vùi dập không thương tiếc. Nói chung, tôn vinh hay vùi dập, đều đã nói lên rằng, chúng ta là ai.

Lại vẫn là câu chuyện phụ nữ. Lại vẫn là định kiến. Lại vẫn là sự vô cảm. Lại vẫn là nhân danh đạo đức.

Chúng ta là những kẻ vô đạo đức. Và họ đang tồn tại trên cái sự vô đạo đức của chúng ta. Họ được tôn vinh trên cái vô đạo đức của chúng ta. Họ làm việc nhục nhã trên cái vô đạo đức của chúng ta. Và họ bị vùi xuống Vũng bùn, có thể chết trong đơn độc như Hương hay bất cứ "nàng Kiều" nào, cũng bởi sự vô đạo đức của chúng ta.

Chúng ta bớt dối trá đi, thì Hương, tuyệt tình cốc hay hoa hậu "Kiều" sẽ ít lại. Và thân phận phụ nữ khi ấy, sẽ bớt đau thương hơn.

Vâng

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Lịch Sử


Có mồm mép lu loa thành lịch sử 
Có máu thiêng lặng thấm hóa sa bồi 
Máu cuộn xoáy mạch ngầm xói lên thời phán xử 
Mọi tấn tuồng tráo trở sẽ phanh phơi. 


(1997)



Phần nhận xét hiển thị trên trang

THỰC HƯ CHUYỆN ĐẤU TỐ THÂN PHỤ ÔNG TRƯỜNG CHINH…


Cung trầm làng Hành Thiện - Kỳ II: Nội thất một gia phong

TP - Cú hích quan trọng của Tổng Bí thư Trường Chinh dẫn đến Đổi Mới ấy không phải ngẫu nhiên mà phải có duyên do, căn nguyên từ trước? Tôi chợt nghĩ đến việc vấn tổ tầm tông độc đáo của ông Trường Chinh thời điểm năm 1975 (đã nói kỳ trước) về nhà thờ Đặng Tất, Đặng Dung ở Nghệ Tĩnh như một kiểu lĩnh hội, xác quyết thêm thông điệp của tiền nhân là phải biết quyết trong thời điểm cần thiết?
Cung trầm làng Hành Thiện - Kỳ II: Nội thất một gia phong
Khu lưu niệm cố Tổng Bí thư Trường Chinh.
Có lẽ cũng chỉ là tình cờ, khi ngôi nhà gia đình ông Trường Chinh ở lâu nhất cho đến cuối đời là số 3 Nguyễn Cảnh Chân.
Căn nhà số 3 Nguyễn Cảnh Chân hiện tại đã được gia đình ông Trường Chinh trả lại cho nhà nước. Cũng cần nói thêm, ngôi nhà gần như không có sự thay đổi như cách đây nửa thế kỷ khi gia đình ông Trường Chinh chuyển đến. Khoảng sân rộng với cây muỗm già tán rộng tỏa ra sự ấm áp, sinh sắc cho cả khu nhà.
Bước qua cánh cổng trang nghiêm, đột ngột òa ra một không gian giản dị đến không ngờ: chiếc chuồng gà sắt bên trái bức tường gần cổng, giàn sắt để treo những giò phong lan ông chăm sóc mỗi chiều, sân gạch rêu mốc và chiếc ghế đá mỗi ngày ông ngồi đọc sách hoặc trò chuyện với con cháu.
Trong căn nhà, những tủ sách với hàng trăm cuốn. Sách của các lãnh tụ, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sách luật, sách văn học nghệ thuật trong và ngoài nước. Trên bàn làm việc, cuốn sách đang đọc dở, chiếc bút thường dùng, triện thấm mực và tờ lịch đang mở những ngày cuối tháng 9…
Nếu không phải cần kíp bấn bíu việc nước thì bao giờ ông Trường Chinh cũng dành mươi phút buổi chiều nếu không ngồi thì tản bộ quanh cái sân con của nhà số 3 Nguyễn Cảnh Chân hầu chuyện cha già Đặng Xuân Viện.
Cụ Đặng Xuân Viện sinh năm 1880 mất năm 1958 tại Hà Nội, là con thứ tư của cụ nghè Đặng Xuân Bảng, học rộng nhưng không chuyên về cử nghiệp. Ông đã làm Thừa phái tỉnh Hưng Yên  được dăm năm thì xin nghỉ. Ông có tham gia vào phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, từng bị chính quyền Pháp theo dõi và bắt quản thúc ở quê nhà.
Ông là một cây bút trong nhóm “Nam Việt Đồng Thiên Hội”, biên soạn bộ Minh Đô sử gồm 100 quyển. Tác phẩm Hành Thiện xã chí của ông gồm 4 tập bằng chữ Hán. Tuy viết về chỉ một làng Hành Thiện nhưng trình bày rất khoa học lớp lang như một dư địa chí sau này rất được các nhà sử học, địa lý học và dân tộc học tham khảo.
Trong kho tàng trước tác chữ Hán và quốc ngữ của cụ Đặng Xuân Viện, tôi để ý đến cuốn mỏng thôi nhưng bây giờ vẫn còn tày tặn nguyên vẹn giá trị, rất có ích cho giới viết lách. Đó là cuốn Hán văn sơ học tiệp giảiphiên ra quốc ngữ in năm 1941.
Trong cuốn ấy,  cụ bày cho cặn kẽ nghĩa của những từ tiếng Hán thông dụng kiêm cách dùng trong từng trường hợp. Sở học cũng như tính cách của cụ thân sinh chắc ông Trường Chinh chịu nhiều ảnh hưởng nhất là tác phong chỉn chu, thấu đáo? Chả thế mà ông còn có tên là Thận. Cẩn thận,  chu tất trong lối sống, trong công việc, việc nước việc nhà…
Đặng Xuân Kỳ, Đặng Việt Bích, con trai cụ Trường Chinh (thứ ba, tư từ trái sang).
Cái câu đất có lề quê có thói như một thứ mặc định của người Việt? Lề ấy, thói ấy có sự hay dở tốt lành? Hành Thiện là xứ đất lạ. Mà lề thói cũng lạ?
Người xưa có câu quang ư tiền dụ ư hậu hay vắn tắt là quang tiền dụ hậuđại để người trước mở mang, đời sau hoàn thiện, chỉnh nắn. Để ý qua biên khảo, Hành Thiện có sự chênh lệch số người giữa các dòng họ khá lớn: họ Nguyễn chiếm gần nửa dân số; họ Đặng có hơn một phần ba dân số, nhưng có họ chỉ có một vài trăm, thậm chí một vài chục người.
Điều này cho thấy Hành Thiện khá bình đẳng không phân biệt dân ngụ cư cũng như chính gốc. Hành Thiện luôn rộng mở đón dân lưu tán nơi khác đến cùng sinh cơ lập nghiệp. Đây cũng là một đặc điểm trong tính cách của người Hành Thiện. Chả thế mà chặt chẽ như vua Tự Đức cũng đã hào phóng ban cho Hành Thiện một thứ  sắc phong về cái làng, nói như bây giờ là đạt tiêu chí làng văn hóa mới. Đó là 10 điều ban huấn của Tự Đức.
1. Đôn nhân hậu (luôn ăn ở có luân thường đạo lý); 2- Chính tâm thuật (ăn ở ngay thẳng); 3- Thương tiết kiệm (chuộng đường tiết kiệm); 4- Hậu phong tục (duy trì lệ tốt); 5- Huấn tử đệ (dạy con em cho có nếp); 6- Vụ bản nghiệp (duy trì nghề nghiệp tốt); 7- Sùng chính học (chuộng học tập điểm ngay); 8- Giới dâm thác (tránh những điều dâm dục); 9- Thân pháp thư(giữ gìn lễ phép); 10- Quảng Hành Thiện (mở rộng điều lành).
Thường các nhà nho có máu mặt, các trí thức có học hành hay khoa bảng, đỗ đạt thường trưng tại tư gia của mình nhà nhiều, nhà ít những chữ mang ngữ nghĩa hàm súc. Bảo chữ khó, chữ hiếm cũng được. Hoành phi hay câu đối đều mang hơi hướng na ná thứ uẩn súc ấy.
Về Hành Thiện, ghé nhà cụ Đặng Xuân Bảng, ông nội Trường Chinh. Cụ Bảng sinh năm Mậu Tý (năm 1828) thuở nhỏ ông theo học cha mình là cụ Đặng Viết Hòe. Đặng Xuân Bảng đỗ Tú tài năm 18 tuổi (năm 1846), đến khoa thi sau lại đỗ Tú tài một lần nữa, người đời gọi ông là Kép Bảng. Đến năm 22 tuổi, triều vua Tự Đức, ông đỗ Cử nhân, được bổ làm Giáo thụ phủ Ninh Giang (Hải Dương).
Khoa thi năm 1856, Đặng Xuân Bảng 28 tuổi, vào Huế thi Hội và đỗ Tiến sĩ, đỗ thứ nhì khoa ấy (Quyển ông đáng đậu Hoàng giáp, nhưng cuối bài sách có câu can vua về thanh sắc tuần du. Vua không ưng, đánh xuống đầu tam giáp Tiến sĩ). Khi vào lĩnh mũ áo, dự yến tiệc, vua Tự Đức hỏi:  Người ở nhà học ai? - Tâu bệ hạ, từ thuở bé đến lớn, hạ thần chỉ học cha ở nhà thôi. - Cha ngươi đỗ gì? - Tâu bệ hạ, cha hạ thần đỗ bảy khoa tú tài. Vua liền ban cho bốn chữ Giáo tử đăng khoa (Cha dạy con mà con thi đỗ Đại khoa).
Một số tác phẩm của cụ Đặng Xuân Viện.
Sau khi đỗ tiến sĩ, Đặng Xuân Bảng được vào làm việc ở Nội các triều đình rồi lần lượt giữ các chức vụ Tri phủ Thọ Xuân (Thanh Hóa), Giám sát ngự sử (1861), Chưởng ấn ở Lại Khoa (1863), Án sát Quảng Yên (1864), Bố chính Sơn Tây (1869), Tuần phủ Hải Dương (1872), Đốc học Nam Định (1886)...
Lẩn thẩn nghĩ, nếu cứ căn cứ vào xuất thân gia thế, cung cách xây cất bày biện còn lại bây giờ hẳn ngày  trước nhà cụ Bảng có khá nhiều bức hoành liễn đối với những chữ nghĩa uyên thâm, uẩn súc? Nhưng tại từ đường cụ Bảng, tôi chỉ thấy một vế đối gian chính giữa chữ nghĩa khá phổ thông…
Cụ Nguyễn Viết Điền người tham gia  trông coi cả khu di tích cũng công nhận vế đối này hậu thế làm theo lối mới. Cụ cũng cho biết kèm cái thở dài trong câu chuyện rằng đã thất tán mất mát đi nhiều chả biết nó là vào thời nào?!
Còn tại gian chính nhà lưu niệm Tổng Bí thư Trường Chinh thì lại khác. Khu nhà rộng 530m2 với một ngôi nhà lưu niệm rộng 5 gian. 3 gian chính giữa được bố trí làm nơi thờ đồng chí Trường Chinh và những người thân đã quá cố, 2 gian phòng ngủ nằm ở 2 đầu của căn nhà, trong đó có 1 gian là phòng ngủ của vợ chồng đồng chí Trường Chinh ngày mới cưới.
Trong nhà còn lưu giữ nhiều hiện vật, như: khung cửi dệt vải, tủ sách, nhiều bức hoành phi, câu đối… Mỗi năm, khu di tích đón trên 300 đoàn khách tham quan và là nơi để tổ chức các buổi kết nạp đoàn viên, đội viên… Nhờ được bảo tồn nên căn nhà vẫn giữ được gần như nguyên vẹn.
Theo lời giới thiệu của chị Nguyễn Thị Thoa, hướng dẫn viên của khu di tích: “Nhà lưu niệm đồng chí Trường Chinh trước đây được ông nội là tiến sĩ Đặng Xuân Bảng xây dựng vào năm Nhâm Dần (1902) cho người con trai của cụ là ông Đặng Xuân Viện. Đồng chí Trường Chinh là con trai cả của ông Đặng Xuân Viện, sinh ra và lớn lên rồi xây dựng gia đình cũng chính tại ngôi nhà này”.
Ngay ngắn gian giữa là bức hoành biến cách như dạng cuốn thư trên  nền hoa hiên cánh gián  đột ngột khởi lên ba chữ Âm Kỳ Ngọc (tạm hiểu na ná là tiếng của ngọc hoặc tiếng lành của ngọc, hoặc lành thay tiếng ngọc). Cố nhón chân, mới lõm bõm mấy dòng lạc khoản dương lịch nhất niên cửu bách thập bát Đông Pháp báo quán kính, hiệu Tiên Duệ chế tịch thư (Dương lịch năm 1928 Bản báo Đông Pháp kính tặng. Cửa hiệu Tiên Duệ Hà Nội chế và viết chữ).
            ______________
(Còn nữa)
Người viết xin mạn phép chút mở ngoặc. Khu lưu niệm Cố Tổng Bí thư Trường Chinh, một trong những di tích đặc biệt. Có lẽ mọi thứ hiện vật thuộc về nhà lưu niệm cũng như khu di tích chẳng hạn như phần chữ Hán, Ban quản lý nên nhờ các nhà thông chữ học rộng nên biên tu lại một lượt cho cẩn trọng, chính xác đem in thành sách mỏng bằng quốc ngữ đặng giúp cho khách tham quan thưởng lãm hiểu thêm tư tưởng chí khí của chủ nhân lẫn gia thế. Phải nói vậy vì là khách thăm, tôi may mắn được ông Điền và chị Thoa trong Ban quản lý di tích giúp cho, sau nữa cùng những chắp nối nhờ vả nên cũng lõm bõm về ngữ nghĩa của những bức hoành cùng liễn đối tại gian chính khu lưu niệm.
Xuân Ba

Cung trầm làng Hành Thiện - Kỳ III: Thực hư chuyện đấu tố

TP - Kỳ trước đang nói về bức hoành Âm Kỳ Ngọc - thiêng, lành thay tiếng ngọc! Quả khác xa và khó có chút gì na ná với các chữ Tâm, Phúc, Đức, Nhẫn… nhan nhản do các ông đồ trẻ sản xuất hàng loạt tại Miếu Văn.
Cung trầm làng Hành Thiện - Kỳ III: Thực hư chuyện đấu tốCụ Đặng Xuân Viện (thứ ba từ phải qua), thân sinh ông Trường Chinh, chụp ảnh lưu niệm cùng Bác Hồ
Người xưa thường ví,  thứ ngọc quý có thể phát sinh ra năng lượng, khi chạm nhau, ngọc phát ra thứ âm thanh như châu gieo, thoa ném rổn rảng, sinh sắc… Lại nữa, phần câu đối bên dưới rất xứng, ứng với bức hoành Âm kỳ ngọc. Chừng như hơi ấm cùng âm thanh của thứ ngọc lành từ bức hoành đang lan tỏa, cộng sinh xuống hai vế đối phía dưới. Mạo muội biên ra đây để mọi người cùng thưởng lãm cũng như chỉ giáo cho.
Nhân tại bách xích lâu phiêu nhiên quá vân lộ phủ thương mang biệt sinh kỳ tưởng
Hung đôi sổ vạn quyển, thời hoặc đăng tao đàn liệt kỳ cổ túc trương ngô quân
(Trên lầu cao trăm thước, thoắt nhẹ nhảy đường mây nhìn non nước bỗng khởi sinh tư tưởng lạ / Nhà dài chứa vạn sách có lúc bước tới chốn Tao đàn, bày cờ trống biểu dương thanh thế.
Tư tưởng lạ phải chăng nhắc đến cái chí của cụ Đặng Xuân Viện, thân sinh của Tổng Bí thư Trường Chinh, cùng đồng chí của mình trong Đông Kinh Nghĩa Thục?
Nhà dài chứa vạn sách. Cụm từ ấy chả phải ước lệ mà có  ý nhắc đến cái thư viện được coi là lớn nhất Bắc Kỳ thời điểm đó của cụ Đặng Xuân Bảng. Nhà sách ấy sau này không ngừng được bổ sung, nhất là dưới thời ông Đặng Xuân Viện.
Hoành cùng đối tặng cho chủ nhân, cả hai cha con đều hợp!
Nghĩ cũng hơi lạ về dòng lạc khoản.  Trọng đông Canh thân,  hiệu Hải Liễu Vân Tiều tặng ( Mùa đông Canh thân- 1920- Hiệu hải Liễu Vân Tiều tặng) Hải Liễu Vân Tiều, nghe nói là một cửa hiệu nổi tiếng ở Hà thành chuyên chế các loại chất liệu mỹ nghệ thư pháp tặng cụ Đặng Xuân Viện chứ không phải là bút hiệu của tác giả nào?
Còn nữa, kế gian giữa mạn Bắc, rơ rỡ bức hoành Tiên Quận Đằng Phươngcũng chả phải là thứ chữ thường! Tạm hiểu là tiếng thơm nơi tiên quận. Quận là danh từ, địa danh. Quận nào vậy? Cụ Đặng Xuân Viện từng tòng sự với chức quan nhỏ ( thừa phái) ở vùng Tiên Xá của đất Tiên Lữ, Hưng Yên nên được  bản chức vùng đó tặng cho bức hoành cùng vế đối. Có thể suy vậy vì căn cứ vào dòng lạc khoản  Mùa đông năm Nhâm Tuất (1922) Lý trưởng và Phó Lý Tiên Xá quận Tiên Lữ kính tặng. Có thể nói bức hoành đây khá bắt mắt. Hàng bao năm, sắc màu cùng ngữ, nghĩa cứ rờ rỡ.  Bắt mắt nhưng bức hoành chỉ hạp với gia cảnh, khí chất của chủ nhân. Bởi chẳng thể rinh đi treo ở nhà ai đó được?
Còn vế đối ghi gì? Cựu đức phương ư đằng các thụ/ Thi tài thanh tự lục giang ba (Đức cũ thơm tho như cây đằng cây các /Tài thơ trong sáng như sóng Lục giang) Ý chừng ca ngợi tài đức của chủ nhân Đặng Xuân Viện? Chợt giật mình bởi từng định kiến rằng, đám lý trưởng, phó lý thời phong kiến đế quốc chỉ biết nạt nộ, đánh chén vậy mà  đã nghĩ ra cái thứ tao nhã thế kia!
Một câu đối nữa của Tòa báo Đông Pháp tặng cụ Viện. Cứ như một lời chúc tinh tế Diễn đàn tảo chủng văn minh quả/Từ uyển liên đề giáp Ất hoa(Trên diễn đàn sớm kết quả văn minh/ Nơi từ uyển liền tên hoa Ất, Giáp)
Ngược thời gian, thời điểm báo Đông Pháp tặng bức hoành cùng câu đối cho cụ Viễn là cái năm ông chủ bút Nguyễn Kim Đính phải bán tờ báo lại cho ông Diệp Văn Kỳ. Ông Kỳ người có quốc tịch Pháp, cha làm thông ngôn cho triều đình Huế, mẹ là một quận chúa. Ông Diệp Văn Kỳ chắc cũng có mối giao du với các nhân sĩ Bắc Kỳ trong đó có cụ Viện?
Đông Pháp Thời Báo cũng đổi ngày ra báo (các ngày thứ Ba, thứ Năm và thứ Bảy) và cho ra các phụ trương Thể thao, Phụ nữ, Trẻ em, Văn chương.
Ông Kỳ còn mời thêm các cây bút tên tuổi ngoài Bắc như  Tản Đà, Ngô Tất Tố vào Nam để tăng cường cho ban biên tập báo.
Bức hoành Âm Kỳ Ngọc. Ảnh: Xuân Tùng
Thôi có lẽ khỏi phải biên chép, liệt kê thêm! Bấy nhiêu thứ của nổi lưu giữ trong nhà mà cụ Đặng Xuân Bảng làm cho con Đặng Xuân Viện tại làng Hành Thiện cũng là quá đủ, quá thừa nếu có một cuộc đấu tố quy kết thành những địa chủ thường, ác bá, cường hào… trong thời điểm cơn lốc của cải cách ruộng đất.
Thế nhưng qua dày công tìm hiểu, tôi chưa gặp một ai hay người nào thốt ra dù xa xôi bóng gió việc song thân ông Trường Chinh bị đấu tố trong cải cách ruộng đất. Rùng mình gẫm lại những đồn thổi trước, nay, và cả những chi tiết rùng mình sởn gai ốc trong những biên chép vô tội vạ trên báo mạng.
Nào là, đương đêm, thân phụ ông Trường Chinh phải bí mật trốn lên Hà Nội với con trai để tránh cuộc đấu tố(!?) Hoặc  thời điểm cuộc đấu tố dưới Hành Thiện diễn ra khốc liệt, đội cải cách đang buộc tội bố, mẹ của ông Trường Chinh thì có lệnh từ trên đình lại.
Và giật gân hơn, lãnh tụ Trường Chinh tiên phong gương mẫu quyết liệt trong cuộc đấu tranh giai cấp đã chỉ đạo cho đội cải cách mang chính song thân của mình ra đấu tố! vv… và vv…
Những chuyện đồn thổi đầy hơi hướng  ác ý.  Buồn thay nó chỉ xuất phát ở một phía, với thông tin khó có thể kiểm chứng? Đâu là nơi nuôi dưỡng, dung chứa, phát tán sự đồn thổi ấy? Mà cũng lạ cho sự im lặng không thèm chấp ngần ấy năm…
Các nhân chứng, chứng cứ rằng không hề có cuộc đấu tố nào với gia đình ông Trường Chinh thì nhiều, nhiều lắm.
Nhân chứng đầu tiên có lẽ là người đương trông coi khu lưu niệm, ông Nguyễn Viết Điền. Ông Điền cười, nếu cứ như những đồn thổi thì các anh xem,  rất đơn giản là những hoành phi cùng câu đối kia trong nhà cụ Viện và sau này là nhà ông Trường Chinh, đâu có còn nguyên vẹn?
Thời ấy có nhiều gia thế máu mặt vướng vào đấu tố, gia sản sạch bách vì chia quả thực cho bần cố nông trong đó chả ít những hoành phi câu đối. Người ta mang làm cửa, cầu ao, bàn ghế, thưng chuồng lợn, chuồng bò. Ai may tẩu tán được thì quẳng xuống ao sau này yên hàn mới mò vớt. Nhưng ngôi nhà cụ Viện cùng vật dụng này đã  được yên hàn qua đợt cải cách.
Nghe chuyện, thầm nghĩ chữ trên đại tự câu đối, rằng hay thì thật là hay nhưng tự thân chữ đâu có phải là thứ thiêng, thứ bùa yểm ? Hẳn phải có sự ảnh hưởng vô hình lẫn hữu hình nào đó?
Phát sinh những sự đồn thổi thuận, nghịch là có nguyên do của nó?
Trong câu chuyện dài sau này với Nghệ sĩ nhân dân Đặng Xuân Hải đương kim Chủ tịch Hội Điện ảnh Việt Nam, cháu gọi ông Trường Chinh bằng bác ruột, ông Hải khẳng định song thân cụ Trường Chinh không bị đấu tố! Nhưng ông Hải cũng băn khoăn rằng, có lẽ do người nhà của ông Trường Chinh bị đấu mà người ta đã suy diễn? Hoặc đã hiểu nhầm? Và cả những suy diễn ác ý?
Liễn đối báo Đông pháp tặng.
Cụ Đặng Xuân Viện  có người anh ruột tên là Đặng Xuân Mậu. Cụ còn có tên là ông Hai Thêm mà ông Trường Chinh gọi là bác ruột. Có lẽ là con trai thứ hai cụ Bảng nên có tên là ông Hai? Như các người con trai của cụ Bảng, ông Hai cũng được học hành cẩn thận nhưng không thi cử đỗ đạt gì. Gia đình có máu mặt có bát ăn bát để, cụ Đặng Xuân Mậu dễ dàng trở thành đối tượng của đợt cải cách ruộng đất.
Cụ bị đem đấu tố. Dài mãi những ngày đấu tố vu khống như thế, một nhà nho một người có học như cụ Mậu coi đó là sự xúc phạm, tổn thương ghê gớm. Chắc những ngày bi đát ấy cụ nghĩ nhiều về người con trai Đặng Xuân Khang tham gia Vệ quốc đoàn từ những ngày đầu kháng chiến, từng dự nhiều trận đánh ác liệt trong đó có trận Điện Biên Phủ… Một đêm không kìm giữ, kiểm soát được mình, cụ Mậu đã quá uất ức tìm đến cái chết!
Một ngày thanh bình, anh chiến sĩ vệ quốc đoàn Đặng Xuân Khang về thăm quê Hành Thiện. Quá bất ngờ và anh chỉ biết lặng phắc đau đớn trước mộ người cha. Mọi sự đã nhỡ, đã quá muộn mất rồi.  Khoác ba lô trở về đơn vị, chắc  anh cũng có chút an ủi rằng, gia đình mình đã được sửa sai đã cởi cái án oan địa chủ.
Rồi những năm tháng rèn luyện học hành để sau này Đặng Xuân Khang trở thành một sĩ quan của quân chủng Phòng không - Không quân. Trong một trận  ác liệt đánh trả máy bay Mỹ bảo vệ cầu Hàm Rồng năm 1965, sĩ quan Đặng Xuân Khang đã anh dũng hy sinh.
Tôi đã ngồi với bác sĩ Đặng Xuân Phương con trai liệt sĩ Đặng Xuân Khang, một thầy thuốc giỏi ở Viện Quân y 108. Bác sĩ Phương đã nghỉ hưu và có một phòng mạch tư luôn đông, chật bệnh nhân. Cũng như Nghệ sĩ nhân dân Đặng Xuân Hải, người cháu nội cụ Mậu ít muốn nhắc lại và chỉ muốn quên đi một quá vãng buồn thương, khó nói ấy…
Khó tưởng tượng ra cái thời buổi đảo điên, có anh cố nông áo ôm khố rách từng được gia đình cụ cưu mang rau cháo, làm rẽ, cấy thuê nhưng bị cán bộ Đội cải cách vận động tỉ tê đã tráo trở dám chỉ mặt ân nhân mình mà vu khống tố cáo đủ điều bậy bạ.
Xuân Ba


Phần nhận xét hiển thị trên trang