Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 7 tháng 10, 2015

Toàn văn bản tóm tắt Hiệp định TPP bằng tiếng Việt


THƯ VIỆN PHÁP LUẬT xin dịch toàn văn bản tóm tắt Hiệp định Đối tác Thương mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP) sang tiếng Việt như sau: Toàn văn bản tóm tắt Hiệp định TPP bằng tiếng Anh / Những nội dung cơ bản của Hiệp định TPP / TPP và Việt Nam: GDP tăng, xuất khẩu giảm
Vào ngày 4/10/2015, Bộ trưởng của 12 nước tham gia TPP gồm Úc, Brunei Darussalam, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ, và Việt Nam đã tuyên bố kết thúc đàm phán với kết quả là một Hiệp định có những tiêu chuẩn cao, tham vọng, toàn diện và cân bằng với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ tạo ra và duy trì việc làm; tăng cường đổi mới, năng suất, và sức cạnh tranh; nâng cao mức sống; giảm đói nghèo ở các nước ký kết; đồng thời thúc đẩy quản lý hiệu quả, minh bạch, bảo vệ người lao động, và bảo vệ môi trường. Chúng tôi kỳ vọng rằng việc ký kết TPP với các tiêu chuẩn cao mới cho thương mại và đầu tư tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương sẽ là một bước gần hơn đến mục tiêu cuối cùng là mở cửa thương mại và hội nhập cho toàn khu vực.

NỘI DUNG CHÍNH

Có năm đặc điểm chính đã làm TPP trở thành một Hiệp định quan trọng của thế kỷ 21, đặt ra các tiêu chuẩn mới cho thương mại toàn cầu, đồng thời tiếp tục giải quyết các vấn đề của thời đại mới. Những đặc điểm đó bao gồm:

- Tiếp cận thị trường toàn diện. TPP đã xóa bỏ hoặc giảm thuế quan và các rào cản phi thuế quan một cách đáng kể đối với mua bán hàng hóa và dịch vụ, bao trùm một mảng lớn về thương mại, bao gồm hàng hóa, dịch vụ, và đầu tư nhằm tạo ra các cơ hội mới và lợi ích cho doanh nghiệp, công nhân, và người tiêu dùng của các nước ký kết.

- Cách tiếp cận các cam kết khu vực. TPP hỗ trợ sự phát triển sản xuất, chuỗi cung ứng, và thương mại liền mạch, tăng cường hiệu quả, tạo và hỗ trợ việc làm, nâng cao mức sống, tăng cường các nỗ lực bảo tồn, hỗ trợ hội nhập xuyên biên giới, cũng như mở cửa thị trường trong nước.

- Giải quyết các thách thức thương mại mới. TPP thúc đẩy sự đổi mới, năng suất, và tính cạnh tranh nhờ vào việc xem xét giải quyết các vấn đề mới, trong đó có phát triển kinh tế kỹ thuật số và vai trò của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế toàn cầu.

- Thương mại toàn diện. TPP bao gồm các yếu tố mới nhằm đảm bảo các nền kinh tế ở các mức độ phát triển khác nhau và các doanh nghiệp có quy mô khác nhau đều có thể đạt được lợi ích từ thương mại. Hiệp định bao gồm cam kết giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiểu được Hiệp định, nắm bắt các cơ hội, và buộc chính quyền các nước tham gia TPP phải chú ý đến những thách thức đặc thù của mình. Hiệp định cũng bao gồm những cam kết cụ thể về phát triển và xây dựng năng lực thương mại để đảm bảo rằng tất cả các Bên có thể tuân thủ cam kết trong Hiệp định và tận dụng được những lợi ích.

- Nến tảng hội nhập khu vực. TPP được định hình như một nền tảng cho hội nhập kinh tế khu vực và nhắm đến cả những nền kinh tế khác trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.

Phạm vi áp dụng

- TPP bao gồm 30 chương về thương mại và các vấn đề liên quan đến thương mại, từ thương mại hàng hóa đến hải quan và trợ giúp thương mại; biện pháp vệ sinh dịch tễ; rào cản kỹ thuật đối với thương mại; biện pháp phòng vệ thương mại; đầu tư; dịch vụ; thương mại điện tử; mua sắm công; sở hữu trí tuệ; lao động; môi trường; các chương “ngang” nhằm mục đích đảm bảo TPP tận dụng được các tiềm năng về phát triển, năng lực cạnh tranh, và sự toàn diện; giải quyết tranh chấp, các điều khoản ngoại lệ, và điều khoản thi hành.

- Ngoài cập nhật các phương pháp truyền thống đối với vấn đề của các hiệp định thương mại tự do trước đây, TPP còn đưa vào các vấn đề thương mại mới và các vấn đề xuyên suốt, bao gồm các vấn đề liên quan đến Internet và nền kinh tế kỹ thuật số, sự tham gia của các doanh nghiệp nhà nước trong đầu tư và thương mại quốc tế , khả năng của các doanh nghiệp nhỏ để tận dụng lợi thế của các hiệp định thương mại, và các chủ đề khác.

- TPP kết nối một nhóm gồm nhiều nước đa dạng về mặt địa lý, ngôn ngữ và lịch sử, kích thước và mức độ phát triển. Tất cả các nước ký kết TPP nhận thấy rằng sự đa dạng là một tài sản đặc thù, nhưng cũng đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ, xây dựng năng lực cho các nước TPP kém phát triển hơn, và phát triển năng lực để thực hiện những nghĩa vụ mới trong một số trường hợp trong thời gian chuyển tiếp đặc biệt và có cơ chế cho phép một số Bên thêm thời gian.

ĐẶT RA CÁC QUY ĐỊNH THƯƠNG MẠI TRONG KHU VỰC

Dưới đây là tóm tắt của 30 chương trong TPP. Các bảng biểu và phụ lục được đính kèm các chương của Hiệp định liên quan đến thương mại hàng hóa và dịch vụ , đầu tư, mua sắm công, và tạm nhập cảnh cho doanh nhân. Ngoài ra, chương về doanh nghiệp nhà nước cũng bao gồm phụ lục về các quốc gia ngoại lệ cụ thể.

1. Quy định chung và các định nghĩa

Nhiều Bên ký kết TPP (sau đây gọi là Bên) hiện đã có các thỏa thuận với nhau. Các quy định ban đầu và định nghĩa chung trong chương này thừa nhận rằng TPP có thể tồn tại song song với các thỏa thuận thương mại quốc tế giữa các Bên, bao gồm Hiệp định WTO, các hiệp định song phương và khu vực. Chương này cũng cung cấp định nghĩa của các thuật ngữ được sử dụng trong nhiều chương khác của Hiệp định.

2. Thương mại hàng hóa

Các Bên đồng ý xoá bỏ và cắt giảm thuế quan và các rào cản phi thuế quan đối với hàng hóa công nghiệp, xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan và các chính sách hạn chế khác về hàng hoá nông nghiệp. Các tiếp cận ưu đãi được cung cấp thông qua TPP sẽ tăng cường thương mại giữa các quốc gia TPP trong một thị trường gồm 800 triệu người và sẽ hỗ trợ việc làm chất lượng cao trong tất cả 12 nước thành viên. Hầu hết việc loại bỏ thuế quan đối hàng công nghiệp sẽ được thực hiện ngay lập tức, mặc dù thuế đối với một số sản phẩm sẽ được loại bỏ theo một khung thời gian dài hơn như các Bên đã thỏa thuận. Việc cắt giảm thuế cụ thể theo thỏa thuận của các Bên có trong lịch trình bao gồm tất cả các mặt hàng. Các Bên sẽ công bố tất cả các sắc thuế và thông tin khác liên quan đến thương mại hàng hóa để đảm bảo rằng các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng như các công ty lớn có thể tận dụng lợi thế của TPP. Các Bên cũng đồng ý không áp đặt các yêu cầu bao gồm những điều kiện như tỷ lệ sản xuất của địa phương do một số nước áp đặt mà các công ty cần tuân thủ để có lợi ích thuế quan. Ngoài ra, các Bên cũng đồng ý không áp đặt các hạn chế và thuế không đồng nhất của WTO đối với nhập khẩu và xuất khẩu , bao gồm cả hàng hóa tái sản xuất – vốn sẽ thúc đẩy việc tái chế các bộ phận thành các sản phẩm mới. Các Bên giữ nguyên các yêu cầu về nhập khẩu hoặc giấy phép xuất khẩu sẽ thông báo cho nhau về các thủ tục để tăng tính minh bạch và tạo điều kiện thuận lợi cho dòng chảy thương mại.

Các Bên sẽ loại bỏ hoặc cắt giảm thuế quan và chính sách hạn chế khác đối với các sản phẩm nông nghiệp nhằm mục đích tăng cường thương mại nông nghiệp trong khu vực và tăng cường an ninh lương thực. Ngoài loại trừ hoặc cắt giảm thuế quan, các Bên đồng ý thúc đẩy cải cách chính sách, kể cả việc loại bỏ trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp, làm việc cùng nhau trong WTO để xây dựng quy định về doanh nghiệp xuất khẩu thương mại nhà nước , tín dụng xuất khẩu, và giảm thời gian hạn chế xuất khẩu lương thực để cải thiện an ninh lương thực trong khu vực. Các Bên cũng đã đồng ý tăng tính minh bạch và hợp tác trên một số hoạt động liên quan đến công nghệ sinh học nông nghiệp.

3. Dệt may

Các Bên đồng ý xoá bỏ thuế quan đối với hàng dệt và may mặc, các ngành công nghiệp có đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế tại thị trường của một số Bên. Hầu hết các sắc thuế sẽ được xóa bỏ ngay lập tức, mặc dù thuế đối với một số sản phẩm nhạy cảm sẽ được xóa bỏ trong khung thời gian dài hơn theo thỏa thuận của các Bên. Chương này cũng bao gồm các quy định cụ thể xuất xứ, trong đó có yêu cầu về việc sử dụng của các loại sợi và vải trong khu vực TPP nhằm thúc đẩy chuỗi cung ứng và đầu tư vào lĩnh vực này trong khu vực nhờ cơ chế áp dụng "danh sách ngắn các nhà cung cấp" cho phép việc sử dụng các loại sợi và vải nhất định vốn không có sẵn trong khu vực. Ngoài ra, chương này cũng bao gồm các cam kết về hợp tác hải quan và thực thi để ngăn chặn tình trạng trốn thuế, buôn lậu và gian lận, cũng như các biện pháp tự vệ đặc biệt đối với ngành dệt để ứng phó với thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa thiệt hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp trong nước trong trường hợp nhập khẩu ồ ạt.

4. Quy tắc xuất xứ

Để cung cấp các quy tắc xuất xứ đơn giản, thúc đẩy chuỗi cung ứng khu vực, và giúp đảm bảo rằng các nước tham gia TPP là những Bên hưởng lợi chính của Hiệp định chứ không phải các nước khác, 12 Bên đã nhất trí về một bộ quy tắc xuất xứ để xác định liệu một hàng hóa cụ thể có xuất xứ từ TPP và do đó đủ điều kiện để nhận được ưu đãi thuế quan TPP. Các quy tắc xuất xứ cụ thể được đính kèm với toàn văn Hiệp định. TPP có quy định về "tích lũy", cho nên nói chung, nguyên liệu đầu vào từ một trong các các nước ký kết được xem như nguyên vật liệu từ một nước ký kết khác nếu nguyên liệu đó được sử dụng để sản xuất ra một sản phẩm tại bất kỳ nước ký kết nào. Các Bên cũng đã đặt ra các quy tắc nhằm đảm bảo doanh nghiệp có thể dễ dàng hoạt động trên toàn khu vực TPP bằng cách tạo ra một hệ thống chung trong TPP cho phép hiển thị và xác minh hàng hoá sản xuất trong khu vực TPP đáp ứng các quy tắc xuất xứ. Nhà nhập khẩu sẽ có thể yêu cầu áp dụng ưu đãi thuế quan, miễn là họ có tài liệu chứng minh đủ điều kiện áp dụng. Ngoài ra, chương này cũng cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền các thủ tục để xác minh các yêu cầu này một cách thích hợp.

5. Hải quan và thuận lợi hóa thương mại

Nhằm bổ sung cho các nỗ lực tạo thuận lợi cho thương mại khi gia nhập WTO , các Bên đã nhất trí về quy định tăng cường thuận lợi hóa thương mại, nâng cao tính minh bạch trong thủ tục hải quan, và đảm bảo sự chính trực của cơ quan hải quan. Những quy định này sẽ giúp các doanh nghiệp thuộc TPP, bao gồm cả các doanh nghiệp nhỏ và vừa, bằng cách khuyến khích việc đơn giản hóa thủ tục hải quan và thủ tục tại biên giới, và thúc đẩy chuỗi cung ứng khu vực. Các Bên đã nhất trí về các nguyên tắc minh bạch, bao gồm xuất bản quy định pháp luật về hải quan của mình, ban hành quy định về giải phóng hàng mà không có những trì hoãn không cần thiết, và quy định về khế ước hoặc 'thanh toán bắt buộc’ nếu cơ quan nơi hải quan vẫn chưa có quyết định về số tiền thuế hoặc phí còn nợ. Các Bên đồng ý về quy tắc xác định trước trị giá hải quan và các vấn đề khác có thể giúp doanh nghiệp lớn nhỏ có thể dự đoán trước trong thương mại. Các Bên cũng đồng ý với các quy định về xử phạt trong lĩnh vực hải quan nhằn đảm bảo các chế tài được thực hiện một cách công bằng và minh bạch. Do tầm quan trọng của vận chuyển nhanh đối với các ngành kinh doanh bao gồm cả các công ty nhỏ và vừa, các nước TPP đã đồng ý thực hiện thủ tục hải quan rút gọn cho các lô hàng nhanh. Để giúp phòng chống buôn lậu và trốn thuế, các Bên đồng ý cung cấp thông tin khi được yêu cầu để giúp đỡ nhau thực thi pháp luật hải quan tương ứng của mình.

6. Biện pháp vệ sinh dịch tễ (VSDT)

Khi xây dựng các quy định về VSDT, các Bên đã nêu mối quan tâm chung trong việc bảo đảm sự minh bạch, quy tắc không phân biệt đối xử dựa trên khoa học, và tái khẳng định quyền của các nước đối với việc bảo vệ con người và động thực vật ở nước mình. TPP được xây dựng dựa trên các quy tắc VSDT của WTO để xác định và quản lý rủi ro sao cho không có hạn chế thương mại quá mức cần thiết. Các Bên đồng ý cho phép công chúng đóng góp ý kiến về các biện pháp VSDT được đề xuất trong quá trình ra quyết định của mình, và để đảm bảo thương nhân hiểu các quy tắc mà họ cần tuân thủ. Các Bên đồng ý rằng các chương trình nhập khẩu được xây dựng dựa trên các rủi ro liên quan đến nhập khẩu, và việc kiểm tra ở khâu nhập khẩu được thực hiện mà không có những trì hoãn không cần thiết. Các Bên cũng nhất trí rằng các biện pháp khẩn cấp cần thiết để bảo vệ con người, động vật có thể được áp dụng với điều kiện nước thực hiện phải thông báo cho tất cả các Bên còn lại. Một nước khi áp dụng một biện pháp khẩn cấp sẽ rà soát cơ sở khoa học của biện pháp đó trong vòng sáu tháng và công bố kết quả cho các Bên khác theo yêu cầu. Ngoài ra, các Bên cam kết cải thiện việc trao đổi thông tin liên quan đến các yêu cầu về tương đương hoặc khu vực hóa các yêu cầu và thúc đẩy kiểm toán dựa trên các hệ thống để đánh giá tính hiệu quả về kiểm soát quy định của nước xuất khẩu. Trong nỗ lực nhanh chóng giải quyết các vấn đề VSDT phát sinh, các nước đã nhất trí thiết lập một cơ chế tham vấn giữa các chính phủ.

7. Rào cản kỹ thuật đối với thương mại (RCKTTM)

Trong quá trình xây dựng các quy định về RCKTTM, các Bên đã nhất trí về nguyên tắc minh bạch và không phân biệt đối xử trong việc phát triển các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, và quy trình đánh giá sự phù hợp, đồng thời vẫn cho phép các Bên theo đuổi những mục tiêu chính đáng của mình. Các Bên đồng ý hợp tác để đảm bảo rằng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật này không tạo ra các rào cản không cần thiết đối với thương mại. Nhằm giảm chi phí cho các doanh nghiệp TPP, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ, các Bên đồng ý với các quy định tạo thuận lợi cho việc chấp nhận các kết quả của quy trình đánh giá sự phù hợp từ các tổ chức đánh giá sự phù hợp của các nước TPP khác, tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty tiếp cận các thị trường TPP. Theo TPP, các Bên phải cho phép công chúng đóng góp ý kiến về các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, và các thủ tục đánh giá sự phù hợp được đề xuất để thông báo cho các quy trình quản lý của mình và đảm bảo thương nhân hiểu các quy định mà họ sẽ cần phải tuân thủ. Các Bên cũng sẽ đảm bảo một khoảng thời gian hợp lý giữa thời điểm công bố các quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp và thời điểm có hiệu lực của các quy chuẩn, quy trình này để doanh nghiệp có đủ thời gian để đáp ứng những yêu cầu mới. Ngoài ra, TPP có đính kèm các phụ lục liên quan đến quy định về những ngành cụ thể để thúc đẩy cách tiếp cận pháp lý chung trên toàn khu vực TPP. Các ngành này gồm mỹ phẩm, thiết bị y tế, dược phẩm, các sản phẩm công nghệ thông tin và truyền thông, rượu và thức uống chưng cất, công thức độc quyền cho các loại thực phẩm đóng gói sẵn và phụ gia thực phẩm, và các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ.

8. Biện pháp phòng vệ thương mại

Chương về biện pháp phòng vệ thúc đẩy tính minh bạch và quy trình chuẩn trong thủ tục tố tụng về phòng vệ thương mại thông qua việc công nhận các quy trình tốt nhất mà không làm ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ các Bên trong khuôn khổ WTO. Chương này quy định một cơ chế tự vệ chuyển tiếp cho phép một Bên áp dụng một biện pháp tự vệ chuyển tiếp trong một khoảng thời gian nhất định khi nhập khẩu tăng do cắt giảm thuế quan theo TPP gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp trong nước. Những biện pháp này có thể được duy trì đến hai năm và có thể gia hạn một lần thêm một năm, nhưng phải dần dần tự do hóa nếu kéo dài hơn một năm. Các Bên áp dụng các biện pháp phòng vệ phải tuân thủ yêu cầu về thông báo và tham vấn. Chương này cũng đưa ra các quy định yêu cầu một Bên áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp bồi thường theo thỏa thuận. Các Bên chỉ được phép áp dụng một trong những biện pháp bảo vệ được TPP cho phép đối với cùng một sản phẩm tại một thời điểm. Các Bên không được áp dụng một biện pháp tự vệ chuyển tiếp đối với bất kỳ sản phẩm nào nhập khẩu theo hạn ngạch thuế quan TPP, và có thể loại trừ các sản phẩm TPP ra khỏi một biện pháp phòng vệ trong khuôn khổ WTO nếu các sản phẩm nhập khẩu đó không phải là nguyên nhân gây ra thiệt hại nghiêm trọng hoặc có nguy cơ gây thiệt hại nghiêm trọng.

9. Đầu tư

Đối với việc thiết lập các quy tắc trong lĩnh vực đầu tư, các nước tham gia hiệp định TPP phải ban hành các chính sách đầu tư và các biện pháp bảo hộ trên cơ sở không phân biệt đối xử, đảm bảo nguyên tắc cơ bản trong việc bảo vệ pháp luật. Bên cạnh đó, các nước thành viên cũng phải bảo đảm các chính phủ thành viên sẽ đạt được các mục tiêu chính sách công theo đúng qui định. Hiệp định TPP quy định các nguyên tắc bảo hộ đầu tư cơ bản tương tự như các nguyên tắc trong các hiệp định liên quan đến đầu tư khác, bao gồm nguyên tắc đối xử quốc gia; đối xử tối huệ quốc; chuẩn mực ứng xử tối thiểu trong đầu tư phù hợp với các nguyên tắc luật pháp quốc tế; nghiêm cấm các hành vi thu hồi tài sản không phục vụ cho mục đích công, không đảm bảo đúng trình tự, thủ tục quy định hoặc không thực hiện bồi thường; nghiêm cấm những yêu cầu về thực hiện như yêu cầu về hàm lượng nội địa hay nội địa hóa công nghệ; tự do chuyển giao nguồn vốn thực hiện đầu tư phù hợp với những điều khoản ngoại lệ quy định trong Hiệp định TPP nhằm đảm bảo các chính phủ thành viên được phép quản lý các dòng vốn vãng lai một cách linh hoạt thông qua các biện pháp bảo hộ tạm thời (như các biện pháp kiểm soát vốn) nhằm hạn chế hành vi chuyển vốn đầu tư trong trường hợp xảy ra khủng hoảng cán cân thanh toán hoặc những mối đe dọa, suy thoái kinh tế khác, cũng như nhằm bảo vệ tính thống nhất và ổn định của hệ thống tài chính; bảo đảm quyền tự chủ của các quốc gia thành viên trong việc bổ nhiệm các vị trí quản lý cao cấp.

Các nước thành viên của TPP phải ban hành các quy định về danh mục cấm để bảo đảm thị trường của các quốc gia luôn công khai đối với các nhà đầu tư ngoại, trừ trường hợp nhà đầu tư chấp nhận một điều khoản ngoại lệ (biện pháp không tương thích) nào đó được quy định tại một trong hai phụ lục cụ thể của từng quốc gia thành viên như sau: (1) các biện pháp hiện hành quy định nước thành viên có nghĩa vụ không áp đặt thêm bất kỳ biện pháp chế tài nào khác trong tương lai cũng như tuân thủ thỏa thuận tự do hóa trong các hoạt động đầu tư sau này, và (2) các biện pháp và chính sách quy định nước thành viên có đầy đủ quyền tự quyết trong các hoạt động trong tương lai.

Chuơng này cũng đưa ra những quy định mang tính trung lập và minh bạch về vấn đề trọng tài quốc tế để giải quyết các tranh chấp liên quan đến đầu tư cùng với các biện pháp bảo hộ nghiêm ngặt nhằm ngăn chặn các tuyên bố vi phạm và không phù hợp với quy định cũng như nhằm bảo đảm quyền của mỗi chính phủ thành viên trong việc ban hành các quy định phục vụ cho những lợi ích công cộng, bao gồm quy định về y tế, an toàn và bảo vệ môi trường. Các biện pháp bảo hộ về quy trình, thủ tục bao gồm quy định về sự minh bạch trong thủ tục khởi kiện, tham gia tòa án với tư cách bạn của tòa án (amicus curiae), tham gia toà án với tư cách không phải là Bên liên quan tranh chấp; xúc tiến quá trình xem xét các tuyên bố sai trái và thanh toán phí luật sư; minh bạch trong quy định về thủ tục xem xét một quyết định tạm thời; quy định ràng buộc để các nước TPP đạt được sự thông hiểu lẫn nhau; quy định thời hạn nộp đơn lên toà; và các nguyên tắc không cho phép Bên nguyên đơn tham gia một vụ kiện tương tự và diễn ra song song với vụ kiện mà Bên đó đang tham gia.

10. Thương mại dịch vụ xuyên biên giới

Xét thấy tầm quan trọng ngày càng tăng của các dịch vụ trong quan hệ thương mại giữa các nước TPP, 12 quốc gia thành viên sẽ cùng nhau cam kết thực hiện thương mại tự do trong lĩnh vực này. Hiệp định TPP bao gồm những nghĩa vụ cốt lõi đã được thỏa thuận trong Hiệp định WTO and các hiệp định thương mại khác như nghĩa vụ đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc; gia nhập thị trường, trong đó quy định các quốc gia không phải thành viên của TPP có thể áp đặt những biện pháp chế tài việc cung cấp dịch vụ (chẳng hạn như giới hạn số lượng nhà cung cấp hoặc số lượng giao dịch) hoặc có thể yêu cầu quy định một hình thái tư cách pháp nhân đặc trưng hoặc liên doanh; và sự hiện diện của các yêu tố quốc nội, trong đó quy định không một quốc gia nào có thể yêu cầu nhà cung cấp từ quốc gia khác thành lập văn phòng hay chi nhánh, hoặc phải là đối tượng cư trú trong lãnh thổ của mỗi quốc gia để cung cấp dịch vụ. Các nước thành viên của TPP có nghĩa vụ ban hành các danh mục cấm để bảo đảm thị trường của các quốc gia luôn công khai đối với các nhà đầu tư ngoại, trừ trường hợp nhà đầu tư chấp nhận một điều khoản ngoại lệ (biện pháp không tương thích) nào đó được quy định tại một trong hai phụ lục cụ thể của từng quốc gia như sau: (1) các biện pháp hiện hành quy định các nước tham gia phải có nghĩa vụ không áp đặt thêm bất kỳ biện pháp chế tài nào khác trong tương lai cũng như tuân thủ thỏa thuận tự do hóa trong các hoạt động sau này, và (2) các lĩnh vực và chính sách quy định quốc gia thành viên có đầy đủ quyền tự quyết trong các hoạt động trong tương lai.

Các nước thành viên của TPP cũng sẽ thống nhất thực hiện các biện pháp áp dụng chung trên cơ sở đảm bảo tính hợp lý, khách quan và không thiên vị; chấp nhận các điều kiện về tính minh bạch trong triển khai các quy định liên quan đến các dịch vụ mới. Các quyền lợi nêu ra trong chương này có thể sẽ bị từ chối nhằm bảo vệ cho các công ty và nhà cung cấp dịch vụ do những Bên không phải là thành viên của TPP sở hữu có một vài giao dịch mà các nước TPP ngăn cấm thực hiện. Các nước TPP nhất trí thừa nhận việc chuyển vốn liên quan đến việc cung cấp dịch vụ. Ngoài ra, chương này bao gồm phần phụ lục về các dịch vụ chuyên môn nhằm khuyến khích hoạt động hợp tác về công nhận qua việc cấp giấy phép và các vấn đề chính sách khác cũng như phụ lục về dịch vụ chuyển phát nhanh.

11. Dịch vụ tài chính

Chương dịch vụ tài chính của TPP cung cấp nhiều cơ hội tiếp cận thị trường qua biên giới và đầu tư quan trọng nhưng vẫn đảm bảo rằng các nước TPP vẫn có đủ năng lực điều hành thị trường và các tổ chức tài chính cũng như thực hiện các biện pháp khẩn cấp trong trường hợp khủng hoảng. Chương này bao gồm các nghĩa vụ cốt lõi tìm thấy trong các hiệp định thương mại khác, bao gồm đối xử quốc gia; đối xử tối huệ quốc; tiếp cận thị trường; và một vài quy định cụ thể của chương Đầu tư bao gồm Tiêu chuẩn đối xử tối thiểu. Chương này cũng quy định việc cung cấp dịch vụ tài chính qua biên giới cho một nước TPP từ một nhà cung cấp của một nước TPP khác mà không yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ phải thành lập cơ sở hoạt động tại một nước khác để bán các dịch vụ của mình nhưng phải phù hợp với quy định đăng ký hoặc ủy quyền cho các nhà cung cấp dịch vụ tài chính qua biên giới của một nước TPP khác nhằm đảm bảo cho công tác điều hành và giám sát phù hợp. Một nhà cung cấp dịch vụ của một nước TPP có thể cung cấp một dịch vụ tài chính mới tại thị trường của nước TPP khác nếu các công ty trong nước hoạt động tại thị trường này được phép cung cấp dịch vụ đó. Các nước thành viên của TPP phải ban hành quy định trường hợp ngoại lệ đối với một số quy tắc trong hai phụ lục đính kèm theo TPP phù hợp với điều kiện của từng nước: (1) các biện pháp hiện hành quy định Bên tham gia phải có nghĩa vụ không áp đặt thêm bất kỳ biện pháp chế tài nào khác trong tương lại cũng như tuân thủ thỏa thuận tự do hóa trong các hoạt động sau này, và (2) các biện pháp và chính sách quy định Bên tham gia có đầy đủ quyền tự quyết trong tương lai.

Các nước TPP cũng đặt ra các nguyên tắc công nhận chính thức tầm quan trọng của các quy trình thủ tục pháp lý nhằm khuyến khích việc cung cấp các dịch vụ bảo hiểm của các nhà cung cấp được cấp phép và các quy trình để đạt được mục tiêu này. Ngoài ra, Hiệp định TPP cũng đề cập đến các cam kết cụ thể về quản lý danh mục đầu tư, các dịch vụ thẻ thanh toán điện tử và chuyển giao thông tin để phục vụ mục đích xử lý dữ liệu.

Chương về các dịch vụ tài chính cũng qui định cách thức giải quyết các tranh chấp phát sinh liên quan đến một số điều khoản thông qua quy định trung lập và minh bạch về trọng tài đầu tư. Chương này cũng đưa ra những điều khoản cụ thể về các tranh chấp trong đầu tư liên quan đến tiêu chuẩn đối xử tối thiểu và các điều khoản yêu cầu các trọng tài phải có chuyên môn về các dịch vụ tài chính và các điều khoản về cơ chế đối xử đặc biệt giữa các quốc gia thành viên nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các quy định ngoại lệ mà từng quốc gia thành viên cần xem xét một cách thận trọng và các quy định ngoại lệ được đề cập trong chương này trong trường hợp phát sinh tranh chấp trong đầu tư. Cuối cùng, chương này cũng đề cập đến các trường hợp ngoại lệ trong việc bảo hộ quyền tự chủ của các nhà quản lý tài chính của các nước TPP, trong đó họ sẽ được quyền chủ động thực hiện các biện pháp củng cố tính ổn định tài chính và tính thống nhất của hệ thống tài chính của mình, bao gồm những quy định ngoại lệ mà các quốc gia thành viên xem xét một cách thận trọng và những quy định ngoại lệ về các biện pháp không phân biệt đối xử trong quá trình thiết lập và thực thi các chính sách tiền tệ hay các chính sách khác.

12. Nhập cảnh tạm thời cho doanh nhân

Chương về nhập cảnh tạm thời cho doanh nhân khuyến khích các cơ quan có thẩm quyền của các nước TPP cung cấp thông tin về hồ sơ đăng ký nhập cảnh tạm thời nhằm đảm bảo phí đăng ký ở mức hợp lý và đưa ra các quyết định về hồ sơ đăng ký và thông báo người nộp đơn đăng ký về kết quả giải quyết hồ sơ trong thời gian sớm nhất có thể. Các nước TPP thỏa thuận với nhau để đảm bảo thông tin liên quan đến các điều kiện nhập cảnh tạm thời luôn được công khai đến với toàn dân, trong đó bao gồm việc công bố thông tin sớm nhất hay nếu được thì có thể công bố qua mạng, song song đó phải cung cấp các tài liệu rõ ràng, dễ hiểu. Các nước TPP thỏa thuận tiếp tục hợp tác về các vấn đề nhập cảnh tạm thời như hợp tác trong quá trình giải quyết hồ sơ xin thị thực. Hầu hết tất cả các nước TPP đã tham gia cam kết cho phép nhập cảnh của các doanh nhân của nước thành viên khác tùy thuộc vào các phụ lục của riêng từng nước.

13. Viễn thông

Các nước TPP đều bày tỏ quan tâm đến việc đảm bảo tính hiệu quả và tin cậy của mạng viễn thông của mình. Các mạng này đóng vai trò quan trọng đối với các công ty cung cấp dịch vụ bất kể quy mô hoạt động lớn hay nhỏ. Các nhà cung cấp dịch vụ di động cũng thuộc đối tượng điều chỉnh của các quy tắc truy cập mạng cạnh tranh hơn được thỏa thuận trong Hiệp định TPP. Các nước TPP cam kết đảm bảo các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông lớn ở mỗi quốc gia sẽ cung cấp các dịch vụ kết nối, thuê dây dẫn truyền của nhau, cho thuê chỗ đặt máy chủ và được phép sử dụng cột phát tín hiệu và các trang thiết bị khác theo đúng với các điều khoản liên quan và đúng thời điểm. Các quốc gia cũng cam kết là khi được cấp giấy phép thì mỗi quốc gia sẽ đảm bảo các quy trình và quy định pháp lý của mình không phân biệt đối xử với bất kỳ công nghệ cụ thể nào. Bên cạnh, họ cũng cam kết thực hiện các quy trình phân bổ và sử dụng các nguồn tài nguyên viễn thông độc đáo của riêng mình, bao gồm tần số, số hiệu và quyền ưu tiên trên cơ sở khách quan, đúng lúc, minh bạch và không phân biệt đối xử. Các nước TPP công nhận tầm quan trọng của các tác nhân thị trường và các thỏa thuận thương mại trong lĩnh vực viễn thông. Các quốc gia cũng thỏa thuận sẽ hành động thao các bước nhằm khuyến khích cạnh tranh trong các dịch vụ chuyển vùng di động quốc tế và tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng các giải pháp thay thế cho dịch vụ chuyển vùng quốc tế. Các nước TPP cũng thống nhất rằng trong trường hợp một nước thành viên quy định mức thuế suất áp dụng cho việc bán buôn các dịch vụ chuyển vùng di động quốc tế, nước đó sẽ cho phép các nhà khai thác dịch vụ của các nước TPP không quy định mức thuế suất này có được cơ hội nhận được ưu đãi khi áp dụng mức thuế thấp hơn.

14. Thương mại điện tử

Trong chương về thương mại điện tử, các nước TPP cam kết bảo đảm luồng thông tin và dữ liệu mang tính toàn cầu được lưu hành một cách tự do giúp phát triển nền kinh tế Internet và kỹ thuật số đáp ứng các mục tiêu chính sách công liên quan như chính sách bảo mật thông tin cá nhân. 12 nước TPP cũng thống nhất không ràng buộc các công ty của các nước TPP phải xây dựng các trung tâm dữ liệu như một điều kiện cần thiết để hoạt động trong thị trường của nhau cũng như không yêu cầu phải có mã nguồn phần mềm khi cần chuyển giao hay truy cập. Chương này cũng nghiêm cấm việc áp đặt các loại thuế xuất nhập khẩu đối với việc truyền tin điện tử và ngăn không cho các nước TPP ưu đãi cho các nhà sản xuất hoặc nhà cung cấp sản phẩm truyền tin điện tử nội địa bằng cách áp dụng các biện pháp mang tính phân biệt đối xử hay khóa chặn hoàn toàn việc truyền tin. Nhằm mục đích bảo vệ người tiêu dùng, các nước TPP thống nhất thông qua và duy trì các điều luật liên quan đến các hoạt động giả mạo, gian dối trên mạng cũng như đảm bảo các biện pháp bảo vệ tính riêng tư và các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng khác có thể được áp dụng vào thị trường của các nước TPP. Các nước TPP cũng phải đưa ra các biện pháp nhằm chấm dứt các tin nhắn rác. Nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại điện tử, chương này bao gồm các điều khoản khuyến khích các nước TPP phát triển hình thức giao dịch thương mại giữa các doanh nghiệp và chính phủ như các hình thức hải quan điện tử cũng như đưa ra các quy định về chứng thực và chữ ký điện tử trong các giao dịch thương mại. Một số nghĩa vụ trong chương này phải phù hợp với các biện pháp không tương thích của từng nước thành viên TPP. Tất cả 12 nước TPP đồng ý phối hợp cùng nhau để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc tận dụng lợi thế thương mại điện tử. Chương này cũng khuyến khích sự hợp tác về các quy chế liên quan đến bảo mật thông tin cá nhân, bảo vệ người tiêu dùng tham gia thương mại qua mạng, các mối đe dọa đến an toàn thông tin và năng lực bảo vệ an toàn thông tin.

15. Mua sắm công

Các nước TPP chia sẽ lợi ích chung trong việc tiếp cận thị trường mua sắm công của nhau thông qua những qui định minh bạch, có thể dự đoán, và không phân biệt đối xử. Trong chương về mua sắm công, các nước TPP sẽ cam kết những nguyên tắc quan trọng về đối xử và không phân biệt đối xử giữa các quốc gia. Các nước TPP cũng thống nhất việc công bố kịp thời các thông tin liên quan nhằm giúp cho các nhà cung cấp có đủ thời gian nhận hồ sơ mời thầu và tham gia dự thầu, tiếp nhận và xử lý hồ sơ dự thầu một cách công bằng và không thiên vị, đồng thời bảo mật thông tin trong đó. Ngoài ra, các nước TPP thỏa thuận sử dụng thông số kỹ thuật một cách công bằng và khách quan, chỉ lựa chọn nhà thầu (ký hợp đồng) dựa trên các tiêu chí đánh giá được ghi trong các thông báo và hồ sơ mời thầu, và xây dựng các thủ tục pháp lý phù hợp để chất vấn hoặc xem xét những kiến nghị về việc lựa chọn nhà thầu. Mỗi nước TPP đồng ý đưa ra danh sách các tổ chức và hoạt động được điều chỉnh trong chương này (trong phụ lục đính kèm).

16. Chính sách cạnh tranh

Các nước TPP có một mối quan tâm chung trong việc đảm bảo một khuôn khổ cạnh tranh công bằng trong khu vực thông qua các qui định đòi hỏi các nước TPP phải duy trì các chế độ pháp lý ngăn cấm hành vi kinh doanh phi cạnh tranh cũng như các hoạt động thương mại gian lận và lừa đảo làm tổn hại đến người tiêu dùng.

Các nước TPP đồng ý áp dụng hoặc duy trì luật cạnh tranh nhằm ngăn cấm hành vi kinh doanh phi cạnh tranh và áp dụng luật này vào tất cả các hoạt động thương mại trong lãnh thổ của mình. Để đảm bảo các luật này được thực thi một cách hiệu quả, các nước TPP đồng ý thiết lập hoặc duy trì các cơ quan chịu trách nhiệm thi hành luật cạnh tranh quốc gia, áp dụng hoặc duy trì pháp luật hoặc qui định chống lại các hoạt động thương mại gian lận và lừa đảo làm tổn hại đến khách hàng. Các nước TPP cũng đồng ý hợp tác về những vấn đề vì lợi ích đôi bên liên quan đến các hoạt động cạnh tranh nếu phù hợp.

Ngoài ra, các nước TPP đồng ý hợp tác trong chính sách cạnh tranh và thi hành luật cạnh tranh thông qua việc thông báo, tư vấn và trao đổi thông tin. Chương này không thuộc các điều khoản giải quyết tranh chấp của TPP nhưng các nước TPP có thể tham khảo những vấn đề mình quan tâm liên quan đến chương này.

17. Các doanh nghiệp nhà nước và các đơn vị độc quyền

Tất cả các nước TPP đều có doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò cung cấp dịch vụ công và các hoạt động khác nhưng các nước cũng nhận ra lợi ích của việc thống nhất một khung pháp lý về các doanh nghiệp nhà nước. Chương này điều chỉnh những doanh nghiệp nhà nước lớn tham gia vào các hoạt động thương mại. Các bên cùng đảm bảo rằng các doanh nghiệp nhà nước của mình sẽ thực hiện việc mua bán trên cơ sở các xem xét thương mại trừ khi việc làm đó không nhất quán với bất kỳ một nhiệm vụ nào mà một doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động theo đó. Các nước TPP còn thỏa thuận sẽ đảm bảo các doanh nghiệp nhà nước hoặc những đơn vị độc quyền của mình không phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp, hàng hóa và dịch vụ của các nước còn lại. Các nước TPP đồng ý trao cho tòa án quyền tài phán đối với các hoạt động thương mại của các DNNN nước ngoài trên lãnh thổ của mình, và bảo đảm rằng các cơ quan hành chính quản lý của các DNNN và doanh nghiệp tư nhân cũng làm như vậy một cách công bằng. Các Nước TPP đồng ý sẽ không tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với lợi ích của các nước TPP khác khi cung cấp hỗ trợ phi thương mại cho các DNNN, hay làm tổn hại đến ngành công nghiệp trong nước của thành viên khác thông qua việc cung cấp các hỗ trợ phi thương mại cho DNNN sản xuất và bán hàng hóa trên lãnh thổ nước đó. Nước TPP đồng ý chia sẻ danh sách các DNNN của mình với các nước TPP khác và khi được yêu cầu sẽ cung cấp các thông tin bổ sung về mức độ sở hữu hoặc kiểm soát của chính phủ và những hỗ trợ phi thương mại cung cấp cho các DNNN. Chương này cũng quy định về các trường hợp ngoại lệ , ví dụ trong trường hợp khẩn cấp quốc gia hoặc toàn cầu, cũng như những ngoại lệ cụ thể của từng nước được nêu cụ theể trong các phụ lục kèm theo.

18. Sở hữu trí tuệ

Sở hữu trí tuệ trong TPP bao gồm bằng sáng chế, thương hiệu, bản quyền, thiết kế công nghiệp, chỉ dẫn địa lý, bí mật thương mại, các hình thức sở hữu trí tuệ khác, và thực thi quyền sở hữu trí tuệ cũng như các lĩnh vực mà các nước TPP đồng ý hợp tác. Chương này sẽ giúp cho các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm, đăng ký và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong những thị trường mới vốn đặc biệt quan trọng cho các doanh nghiệp nhỏ.

Chương này cũng thiết lập những chuẩn mực cho các bằng sáng chế dựa trên Hiệp định WTO về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ của (TRIPS Agreement) và những thông lệ quốc tế tốt nhất. Về thương hiệu, nó giúp bảo vệ các nhãn hiệu và những biểu tượng đặc thù khác mà các doanh nghiệp và cá nhân sử dụng cho hàng hóa của mình trên thị trường. Chương này đòi hỏi sự minh bạch nhất định và các quy trình bảo vệ phù hợp liên quan đến việc bảo vệ những chỉ dẫn địa lý mới kể cả những chỉ dẫn địa lý được công nhận hoặc được bảo vệ thông qua các điều ước quốc tế. Việc bảo vệ này bao gồm cả việc phân định rõ mối quan hệ giữa thương hiệu và chỉ dẫn địa lý, cũng như việc bảo vệ việc sử dụng những thuật ngữ thường dùng.

Ngoài ra, chương này còn có những điều khoản liên quan đến dược phẩm thúc đẩy sự phát triển các loại thuốc cứu sinh mới cũng như việc phổ biến các thuốc gốc (generic medicines), có tính đến thời gian từng thành viên cần để đáp ứng được các tiêu chuẩn này. Chương này có cả những cam kết liên quan đến việc bảo vệ kết quả thử nghiệm và những dữ liệu khác đã được đệ trình để xin cấp phép lưu hành một sản phẩm dược hoặc hóa chất nông nghiệp mới . Chương này còn tái khẳng định cam kết của các bên về Tuyên bố của WTO năm 2001 về Hiệp Ước TRIPS và Sức Khỏe cộng đồng, và xác nhận một cách cụ thể rằng các bên không bị ngăn cản sử dụng các biện pháp bảo vệ sức khỏe cộng đồng, bao gồm cả trong trường hợp có những đại dịch như HIV/AIDS.

Về bản quyền, chương sở hữu trí tuệ xây dựng những cam kết liên quan đến việc bảo hộ đối với các tác phẩm và công trình như bài hát, phim, sách, và phần mềm, và bao gồm những điều khoản cân đối và hiệu quả về các biện pháp bảo vệ công nghệ và thông tin quản lý bản quyền.

Chương này còn bao gồm một nghĩa vụ cho tất cả các nước TPP tiếp tục cố gắng đạt được sự cân bằng trong hệ thống bản quyền thông qua những ngoại lệ và hạn chế, bao gồm cả những nội dung trong môi trường số, và các biện pháp khác. Chương này yêu cầu các thành viên phải thông qua hoặc duy trì một khuôn khổ về vùng an toàn cho các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP). Các nghĩa vụ này không cho phép các nước TPP tạo ra các vùng an toàn ngẫu nhiên để giám sát hệ thống của các IPS tìm kiếm nội dung vi phạm.

Cuối cùng, các nước TPP đồng ý cung cấp các hệ thống chế tài mạnh, bao gồm cả những quy trình thủ tục dân sự, các biện pháp tạm thời, các biện phảp quản lý biên giới, các thủ tục và chế tài hình sự đối với tội giả mạo thương hiệu mang tính thương mại và vi phạm bản quyền hoặc các quyền liên quan. Chương này yêu cầu các nước TPP cung cấp các công cụ hợp pháp để ngăn ngừa việc lạm dụng các bí mật thương mại, xây dựng các thủ tục và xử phạt hình sự đối với tội phạm trộm cắp bí mật thương mại, bao gồm cả trộm cắp qua mạng hoặc quay phim.

19. Lao động

Tất cả các nước TPP đều là thành viên của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và công nhận tầm quan trọng của việc thúc đẩy các quyền lao động được quốc tế công nhận. Trong TPP, các thành viên đồng ý thông qua và duy trì trong luật và thông lệ của mình các quyền cơ bản của người lao động như được thừa nhận trong Tuyên bố 1998 của ILO, đó là quyền tự do liên kết và quyền thương lượng tập thể; xóa bỏ lao động cưỡng bức; xóa bỏ lao động trẻ em và cấm các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất; và loại bỏ sự phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp. Các thành viên cũng đồng ý có luật quy định mức lương tối thiểu, số giờ làm việc, an toàn và sức khỏe nghề nghiệp. Những cam kết này áp dụng cả với các khu chế xuất. Mười hai nước TPP đồng ý không miễn trừ hoặc giảm hiệu lực của pháp luật quy định việc thực thi các quyền cơ bản của người lao động để thu hút thương mại hoặc đầu tư, và thực thi một cách hiệu quả pháp luật liên quan đến lao động một cách bền vững hoặc đều đặn có thể có ảnh hưởng tới thương mại hoặc đầu tư giữa các nước TPP. Bên cạnh các cam kết của các nước TPP nhằm xóa bỏ lao động cưỡng bức trong nước mình, chương Lao động còn bao gồm những cam kết không khuyến khích việc nhập khẩu hàng hóa được sản xuất bằng lao động cưỡng bức hoặc lao động trẻ em, hoặc sử dụng nguyên liệu đầu vào được sản xuất ra bằng lao động cưỡng bức, bất kể nước xuất xứ có phải là nước TPP hay không. Mỗi nước TPP đều cam kết bảo đảm khả năng tiếp cận với hệ thống thủ tục hành chính và tư pháp công bằng, không thiên vị và minh bạch và sẽ cung cấp các biện pháp khắc phục hiệu quả những vi phạm luật lao động của mình. Các thành viên cũng đồng ý cho phép sự tham gia của công chúng vào việc thực thi chương Lao động, bao gồm cả việc xây dựng cơ chế tiếp nhận ý kiến đóng góp của công chúng.

Các cam kết tại chương này phải tuân thủ các thủ tục giải quyết tranh chấp được quy định tại chương Giải quyết tranh chấp. Để thúc đẩy việc giải quyết nhanh các vấn đề về lao động giữa các nước TPP, chương Lao động còn xây dựng cơ chế đối thoại mà các thành viên có thể lựa chọn áp dụng để giải quyết mọi vấn đề về lao động giữa các thành viên. Cơ chế đối thoại này cho phép xem xét nhanh các vấn đề và cho phép các thành viên cùng nhất trí với chương trình hành động để xử lý vấn đề. Chương Lao động tạo ra một cơ chế hợp tác về các vấn đề về lao động, bao gồm cả các cơ hội để các nhà đầu tư xác định phạm vi hợp tác và tham gia vào các hoạt động hợp tác nều thấy phù hợp và cùng thống nhất.

20. Môi trường

Với tư cách là các quốc gia chiếm một phần đáng kể về dân số, động vật hoang dã, thực vật và sinh vật biển trên thế giới, các nước TPP cùng ký một bản cam kết bền vững về việc bảo vệ và bảo tồn môi trường, bao gồm hợp tác trong việc giải quyết các thách thức về môi trường như ô nhiễm môi trường, buôn bán trái phép động vật hoang dã, khai thác gỗ bất hợp pháp và trong việc bảo vệ môi trường biển. 12 nước nhất trí thực thi có hiệu quả pháp luật về môi trường của nước mình và không đi ngược lại với hệ thống pháp luật về môi trường để khuyến khích thương mại và đầu tư. Các nước cũng đồng ý thực hiện nghĩa vụ của mình theo Công ước về Buôn bán quốc tế các loài hoang dã động thực vật (CITES), có biện pháp đối phó và hợp tác ngăn chặn buôn bán động trái phép vật hoang dã. Ngoài ra, các nước thống nhất đẩy mạnh quản lý rừng bền vững và để bảo vệ và bảo tồn động thực vật hoang dã và thực vật mà các quốc gia đã xác định là đang gặp nguy hiểm trong lãnh thổ của mình, kể cả các biện pháp để bảo tồn tính toàn vẹn sinh thái của khu vực tự nhiên được bảo vệ đặc biệt, chẳng hạn như vùng đầm lầy. Với nỗ lực để bảo vệ đại dương chung của mình, các nước TPP thống nhất về quản lý bền vững nghề cá, thúc đẩy bảo tồn các loài sinh vật biển quan trọng, bao gồm loài cá mập, để chống lại việc đánh bắt cá trái phép và để ngăn chặn một số trợ cấp nghề cá có tác động nguy hại nhất, tiếp tay cho các hoạt động đánh bắt cá trái phép, không được báo cáo và không được quy định, tạo ra ảnh hưởng tiêu cực dẫn đến nguồn cá bị khai thác quá mức dẫn đến cạn kiệt. Các nước cũng đồng ý nâng cao tính minh bạch liên quan đến các chương trình trợ cấp nêu trên và nỗ lực hết mình để không đưa ra các khoản trợ cấp mới cho việc khai thác quá mức hoặc quá tải nguồn cá.

Các nước TPP cũng thỏa thuận bảo vệ môi trường biển từ ô nhiễm tàu thủy và bảo vệ tầng ô zôn khỏi các chất phá hủy ozone. Các nước xác nhận lại cam kết của mình trong việc thực hiện các Hiệp định đa phương về môi trường (MEAs) mà mình gia nhập. Các nước cam kết minh bạch trong việc đưa ra quyết định, thực hiện và thi hành các quyết định về môi trường. Bên cạnh đó, các nước thỏa thuận tạo cơ hội cho cộng đồng đóng góp vào việc thực hiện chương về Môi trường, kể cả thông qua việc đệ trình và các buổi họp công khai của Ủy ban Môi trường để giám sát việc thực hiện của nội dung chương này. Chương này cũng phải tuân thủ quy trình giải quyết tranh chấp trong chương Giải quyết tranh chấp. Các nước cũng nhất trí khuyến khích các sáng kiến môi trường tự nguyện, chẳng hạn như các chương trình trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Cuối cùng, các nước cam kết hợp tác giải quyết các vấn đề quan tâm chung , kể cả trong các lĩnh vực bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học, và quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế ít phát thải và chóng phục hồi.

21. Nâng cao năng lực và hợp tác

Các nền kinh tế của 12 nước tham gia TPP rất đa dạng. Tất cả các nước công nhận rằng các nước TPP kém phát triển hơn có thể phải đối mặt với thách thức trong việc thực hiện Hiệp định và trong việc tận dụng các cơ hội mà Hiệp định tạo ra. Đề giải quyết các thách thức trên, chương về Nâng cao năng lực và hợp tác thiết lập một Ủy ban Nâng cao năng lực và hợp tác nhằm xác định và xem xét các khu vực có tiềm năng cho những nỗ lực hợp tác và nâng cao năng lực. Hoạt động của các nước là trên cơ sở đồng thuận và tùy thuộc vào nguồn tài nguyên sẵn có. Ủy ban này sẽ tạo thuận lợi cho việc trao đổi thông tin để hỗ trợ theo yêu cầu liên quan tới nâng cao năng lực và hợp tác.

22. Tạo thuận lợi trong kinh doanh và năng lực cạnh tranh

Tạo thuận lợi trong kinh doanh và năng lực cạnh tranh nhằm giúp cho TPP đạt được tiền năng của mình để cải thiện khả năng cạnh tranh của các nước tham gia và toàn bộ khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Chương này tạo ra cơ chế chính thức để xem xét tác động của TPP lên khả năng cạnh tranh của các nước thông qua các cuộc đối thoại giựa chính phủ các nước và giữa chính phủ, doanh nghiệp, và xã hội dân sự, đặc biệt tập trung đào sâu chuỗi cung ứng khu vực, đánh giá tiến độ, tận dụng cơ hội mới và giải quyết tất cả thách thức có thể nảy sinh một khi TPP có hiệu lực. Cơ chế này bao gồm cả Ủy ban Tạo thuận lợi kinh doanh và năng lực cạnh tranh có nhiệm vụ gặp gỡ thường xuyên để xem xét tác động của TPP lên khả năng cạnh tranh trong khu vực và quốc gia và hội nhập kinh tế khu vực. Ủy ban sẽ xem xét lời khuyên và khuyến nghị từ các nhà đầu tư của các nước về cách thức TPP có thể tiếp tục tăng cường khả năng cạnh tranh, bao gồm tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp vi mô, doanh nghiệp nhỏ và vừa trong chuỗi cung ứng khu vực. Chương này cũng thiết lập một khuôn khổ cơ bản cho Ủy ban để đánh giá hiệu suất của chuỗi cung ứng theo Hiệp định này, bao gồm cách để thúc đẩy sự tham gia của doanh nghiệp các nước và chuyên gia .

23. Phát triển

Các nước TPP tìm cách đảm bảo rằng TPP sẽ là một mô hình cao cấp cho thương mại và hội nhập kinh tế, và đặc biệt để đảm bảo rằng tất cả các nước TPP có thể có được những lợi ích đầy đủ của TPP hoàn toàn có thể thực hiện các cam kết của mình và trở nên phồn thịnh hơn với thị trường mạnh mẽ. Chương Phát triển bao gồm ba lĩnh vực cụ thể được xem xét cho công việc hợp tác một khi TPP có hiệu lực đối với mỗi nước: (1) tăng trưởng kinh tế trên diện rộng, bao gồm phát triển bền vững, xóa đói giảm nghèo và sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ; (2) phụ nữ và việc tăng trưởng kinh tế , bao gồm cả việc giúp phụ nữ nâng cao năng lực và kỹ năng, tăng cường tiếp cận của phụ nữ với các thị trường, đạt được công nghệ và tài chính, thiết lập mạng lưới lãnh đạo nữ, và xác định các thông lệ tốt nhất trong sự linh hoạt tại nơi làm việc; và (3) giáo dục, khoa học và công nghệ, nghiên cứu và đổi mới. Chương này thiết lập một Ủy ban Phát triển TPPcó nhiệm vụ họp thường xuyên nhằm thúc đẩy việc hợp tác tự nguyện trong các lĩnh vực này và các cơ hội mới.

24. Doanh nghiệp vừa và nhỏ

Các nước TPP có mối quan tâm chung tới việc thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thương mại nhằm đảm bảo rằng các doanh nghiệp nhỏ và vừa chia sẻ những lợi ích của TPP. Cùng với các cam kết trong các chương khác của TPP về tiếp cận thị trường, giảm công việc giấy tờ, truy cập Internet, thuận lợi thương mại, chuyển phát nhanh, v.v,…, nội dung chương về các Doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm các cam kết của mỗi nước TPP để tạo ra một trang web thân thiện với người dùng, nhằm vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa để cung cấp thông tin TPP có thể dễ dàng truy cập và cách mà các công ty nhỏ có thể tận dụng nó, bao gồm mô tả các quy định của TPP có liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và vừa; các quy định và thủ tục liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ; quy định đầu tư nước ngoài; thủ tục đăng ký kinh doanh; quy định việc làm; và thông tin thuế. Ngoài ra, chương này sẽ thiết lập một Ủy ban Doanh nghiệp nhỏ và vừa, tổ chức này sẽ gặp gỡ thường xuyên để xem xét khả năng phục vụ doanh nghiệp nhỏ và vừa của TPP, xem xét cách để nâng cao hơn nữa lợi ích của nó, và giám sát việc hoạt động nâng cao năng lực và hợp tác để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua tư vấn xuất khẩu, hỗ trợ, và các chương trình đào tạo cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa; chia sẻ thông tin; tài trợ thương mại và các hoạt động khác.

25. Sự đồng nhất về quy định

Chương sự đồng nhất về quy định sẽ giúp đảm bảo một môi trường pháp lý mở, công bằng, và có thể dự đoán cho các doanh nghiệp hoạt động trong thị trường TPP bằng cách khuyến khích sự minh bạch, công bằng, và phối hợp giữa các chính phủ để đạt được một cách tiếp cận quản lý chặt chẽ. Chương này nhằm mục đích tạo điều kiện cho sự chặt chẽ của các quy định ở mỗi nước TPP bằng cách thúc đẩy cơ chế tham vấn liên ngành có hiệu quả và sự phối hợp của các cơ quan. Nó khuyến khích các thông lệ quản lý tốt được chấp nhận rộng rãi, chẳng hạn như đánh giá tác động của các biện pháp quản lý đề xuất, truyền thông trong những căn cứ để lựa chọn các giải pháp thay thế quy định lựa chọn và bản chất của các quy định đang được ban hành. Chương này cũng bao gồm các điều khoản để đảm bảo các quy định được viết rõ ràng và chính xác, công chúng có thể tiếp cận thông tin về các biện pháp quản lý mới ( trực tuyến nếu có thể), và các biện pháp quản lý hiện tại theo định kỳ được xem xét để xác định xem liệu các biện pháp này vẫn là phương tiện hiệu quả nhất để đạt được mục tiêu mong muốn hay không. Ngoài ra, chương này khuyến khích các nước TPP cung cấp một thông báo công khai hàng năm về tất cả các biện pháp quản lý dự kiến sẽ áp dụng. Hướng tới những mục tiêu này, chương này thiết lập một Ủy ban có nhiệm vụ cung cấp cho các nước TPP, doanh nghiệp và xã hội dân sự cơ hội liên tục để báo cáo về việc thực hiện, chia sẻ kinh nghiệm về các thông lệ tốt nhất, và xem xét các khu vực tiềm năng hợp tác. Chương này, dưới bất kì hình thức nào, không ảnh hưởng đến quyền lợi của các nước TPP trong việc đưa ra quy định về sức khỏe cộng đồng, an toàn, an ninh, lợi ích công cộng và các lý do khác.

26. Sự minh bạch và công tác chống tham nhũng

Chương về Sự minh bạch và công tác chống tham nhũng trong TPP nhằm mục đích thúc đẩy mục tiêu chung của tất cả các nước TPP trong việc tăng cường quản trị tốt và giải quyết những tác động tiêu cực của việc hối lộ và tham nhũng có thể gây nên cho nền kinh tế của các nước. Theo chương này, các nước TPP cần phải đảm bảo rằng các luật, quy định và các quyết định hành chính áp dụng chung đối với bất kỳ vấn đề nào quy định trong TPP được công bố công khai và, ở mức độ có thể, các quy định có khả năng ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư giữa các nước có thể được nhận thấy và nhận xét. Các nước TPP thỏa thuận đảm bảo các quyền lợi theo đúng thủ tục cho các nhà đầu tư của các nước TPP với các tranh chấp hành chính, bao gồm việc xem xét nhanh chóng thông qua tòa án hoặc thủ tục công bằng về tư pháp hoặc hành chính. Các nước cũng đồng ý thông qua hoặc duy trì pháp luật về hình sự hóa các đề nghị, hoặc yêu cầu, các lợi ích không chính đáng của công chức, cũng như các hành vi tham nhũng ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư quốc tế. Các nước cũng cam kết thực thi hiệu quả các luật và các quy định của các nước về chống tham nhũng. Ngoài ra, các nước đồng ý nỗ lực áp dụng hoặc duy trì các quy tắc hoặc các tiêu chuẩn về ứng xử của công chức nước mình, cũng như các biện pháp để xác định và quản lý xung đột lợi ích nhằm tăng cường đào tạo công chức, thực hiện các bước để ngăn chặn việc tặng quà, khuyến khích việc báo cáo các hành vi tham nhũng và quy định các biện pháp kỷ luật hoặc các biện pháp khác đối với công chức tham gia vào các hành vi tham nhũng. Trong một phụ lục của chương này, các nước TPP cũng đồng ý với các điều khoản thúc đẩy tính minh bạch và công bằng về thủ tục liên quan đến việc niêm yết và bồi hoàn cho các sản phẩm dược phẩm hoặc các thiết bị y tế. Các cam kết trong phụ lục này không phải tuân thủ quy trình giải quyết tranh chấp.

27. Các điều khoản về hành chính và thể chế

Chương về Các điều khoản hành chính và thể chế xây dựng một khuôn khổ thể chế theo đó các nước TPP sẽ đánh giá và hướng dẫn việc thi hành hoặc hoạt động của TPP, cụ thể là thông qua việc thành lập Ủy ban Quan hệ Đối tác xuyên Thái Bình Dương, bao gồm các Bộ trưởng hoặc các quan chức cấp cao, để giám sát việc thực hiện hoặc hoạt động của Hiệp định và định hướng sự phát triển tương lai của nó. Định kỳ, Ủy ban này sẽ xem xét các mối quan hệ kinh tế và quan hệ đối tác giữa các nước TPP để đảm bảo nội dung Hiệp định luôn giữ mối liên kết với những thách thức thương mại và đầu tư mà các nước TPP phải đối mặt. Mỗi Bên phải chỉ định một cơ quan đầu mối duy trì thông tin liên lạc giữa các nước TPP, và tạo ra một cơ chế để những Bên có thời hạn chuyển tiếp cụ thể đối với một nghĩa vụ nào đó có thể báo cáo về kế hoạch và lộ trình thực hiện nghĩa vụ. Điều này đảm bảo các nước TPP thực hiện nghĩa vụ một cách minh bạch hơn.

28. Giải quyết tranh chấp

Chương về Giải quyết tranh chấp nhằm cho giúp đỡ các nước TPP nhanh chóng giải quyết các tranh chấp giữa họ trong quá trình thực hiện Hiệp định TPP. Các nước TPP sẽ thực hiện mọi nỗ lực để giải quyết tranh chấp thông qua hợp tác, tham vấn và những cơ chế giải quyết tranh chấp thay thế phù hợp khác. Khi những nỗ lực trên thất bại, tranh chấp được giải quyết thông qua các Ban hội thẩm công bằng. Cơ chế giải quyết tranh chấp quy định trong Chương này áp dụng cho toàn bộ Hiệp định, ngoại trừ một số trường hợp cụ thể. Công chúng của mỗi nước TPP có thể theo dõi tiến trình tố tụng vì tất cả các đệ trình, các phiên điều trần (trừ khi các nước TPP có thỏa thuận khác) đến báo cáo cuối cùng của ban hội thẩm đều được công khai với công chúng. Các Ban hội thẩm sẽ xem xét các yêu cầu cung cấp quan điểm liên quan đến vụ tranh chấp từ các tổ chức phi chính phủ nằm trong lãnh thổ của nước có tranh chấp.

Nếu quá trình tham vấn thất bại, các nước TPP có quyền yêu cầu thành lập một ban hội thẩm trong vòng 60 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn hoặc trong vòng 30 ngày nếu tranh chấp có liên quan đến hàng hóa dễ hỏng. Ban hội thẩm gồm 3 chuyên gia về thương mại quốc tế và lĩnh vực liên quan đến vụ tranh chấp, độc lập với các nước TPP tranh chấp, cùng với quy chế thành lập ban hội thẩm kể cả trường hợp một nước thành viên không bổ nhiệm hội thẩm viên trong một thời hạn nhất định. Các hội thẩm viên phải tuân thủ một bộ quy tắc ứng xử để đảm bảo tính thống nhất của cơ chế giải quyết tranh chấp. Ban hội thẩm sẽ gửi báo cáo đầu tiên cho các nước TPP tranh chấp trong vòng 150 ngày kể từ ngày bổ nhiệm hội thẩm viên cuối cùng hoặc 120 ngày trong trường hợp khẩn cấp, chẳng hạn như các trường hợp liên quan đến hàng hóa dễ hỏng. Báo cáo đầu tiên sẽ được giữ bí mật để nước TPP tham gia đóng góp ý kiến. Báo cáo cuối cùng phải được gửi không quá 30 ngày sau báo cáo thứ nhất và phải được công khai trong thời hạn 15 ngày, tùy thuộc vào độ bảo mật của báo cáo.

Để tối đa hóa sự tuân thủ Hiệp định, chương này cho phép áp dụng trả đũa thương mại (ví dụ, tạm dừng cung cấp các lợi ích) nếu một bên không tuân thủ các nghĩa vụ mình và cũng không có biện pháp khắc phục. Trước khi biện pháp trả đũa thương mại được áp dụng, bên vi phạm có thể thương lượng hoặc yêu cầu một khoảng thời gian hợp lý để khắc phục vi phạm.

29. Trường hợp ngoại lệ

Chương về Trường hợp ngoại lệ đảm bảo các nước TPP có quyền linh hoạt áp dụng TPP miễn là các nước TPP đảm bảo đầy đủ các lợi ích công cộng, kể cả lợi ích an ninh thiết yếu và lý do phúc lợi công cộng khác. Chương này kết hợp các trường hợp ngoại lệ chung được quy định tại Điều XX của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 quy định về thương mại hàng hóa, theo đó Hiệp định này không ngăn cản các nước TPP áp dụng hoặc thi hành các biện pháp cần thiết để bảo vệ đạo đức công cộng, bảo vệ cuộc sống và sức khỏe của con người, động vật hoặc thực vật, bảo vệ tài sản trí tuệ, thực thi các biện pháp liên quan đến các sản phẩm do tù nhân tạo ra, và các biện pháp liên quan đến bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể bị cạn kiệt.

Chương này cũng bao gồm các trường hợp ngoại lệ chung tương tự quy định tại Điều XIV của Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ liên quan đến các quy định thương mại dịch vụ.

Chương này quy định một ngoại lệ tự đánh giá áp dụng cho toàn bộ Hiệp định TPP. Theo đó, một Bên có quyền dùng bất cứ biện pháp cần thiết nào để bảo vệ lợi ích an ninh cơ bản của mình. Chương này cũng xác định hoàn cảnh và điều kiện mà một Bên có thể áp dụng các biện pháp tự vệ tạm thời (chẳng hạn như kiểm soát vốn) để hạn chế giao dịch - như góp vốn, chuyển lợi nhuận và cổ tức, thanh toán lãi hoặc tiền bản quyền, và các khoản thanh toán theo hợp đồng - liên quan để đầu tư theo Hiệp định để đảm bảo các chính phủ linh hoạt quản lý các dòng vốn biến động, tùy thuộc vào tình hình cán cân thanh toán hoặc các cuộc khủng hoảng kinh tế khác hoặc mối đe dọa từ khủng hoảng. Ngoài ra, các nước TPP không có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin theo TPP nếu nó trái với pháp luật của mình hoặc lợi ích công cộng, hoặc làm phương hại đến lợi ích thương mại hợp pháp của các doanh nghiệp cụ thể. Một nước TPP được quyền phủ quyết lợi ích của việc giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước đối với một vụ việc liên quan đến một biện pháp kiểm soát thuốc lá của nước thành viên đó.

30. Điều khoản thi hành

Chương này quy định hiệu lực thi hành của TPP, cách thức sửa đổi, các quy tắc thiết lập quy trình để các quốc gia hay vùng lãnh thổ khác tham gia TPP trong tương lai, hình thức rút khỏi Hiệp định TPP, và ngôn ngữ chính thức của TPP. Hiệp định cũng thành lập một cơ quan lưu chiểu có trách nhiệm tiếp nhận và phổ biến các tài liệu.

Chương này đảm bảo rằng TPP có thể được sửa đổi với điều kiện tất cả các nước TPP đồng ý và sau khi mỗi nước TPP đã hoàn thành thủ tục pháp lý của mình và thông báo cho Cơ quan lưu chiểu bằng văn bản. Hiệp định TPP cho phép các thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương và các nước khác hoặc vùng lãnh thổ khác gia nhập nếu được các nước TPP đồng thuận, sau khi hoàn tất các thủ tục pháp lý được áp dụng tại mỗi nước TPP. Chương này cũng quy định các thủ tục cần thực hiện khi một Bên muốn rút khỏi Hiệp định TPP.

Minh Khoa (dịch)

http://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phap-luat/chinh-sach-moi/11539/toan-van-ban-tom-tat-hiep-dinh-tpp-bang-tieng-viet
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tiếp tục tác phẩm hiếm của Nhượng Tống


Sau khi vét các kho tài liệu, tôi trông chờ những tác phẩm khác nữa của Nhượng Tống từ các bộ sưu tập cá nhân. Dưới đây là những gì tôi mới tìm được, thông qua rất nhiều sự giúp đỡ, big big tks :p

Một tác phẩm rất lạ:

Một cuốn "xã hội tiểu thuyết" do Nhật Nam thư xã ấn hành vào năm 1934, một niên đại rất lạ.

Một số hình ảnh bên trong sách:

Ngay ở đầu sách có bài "Cô hàng hoa", có lẽ là bài thơ nổi tiếng nhất của Nhượng Tống, mà ta thấy Trúc Khê Ngô Văn Triện bình luận trên Văn học tạp chí.


Có ghi rõ tên Nhượng Tống. Sách dày chưa tới 40 trang. Hiện tượng này cần được tìm hiểu thêm:

(nguồn hình ảnh: nhà sưu tầm Nguyễn Ngọc Hoài Nam, hết sức cảm tạ :p)

Những quyển sách dịch của Nhượng Tống hồi trẻ, cuối thập niên 20:

Đây chính là Ngọc lê hồn của Từ Chẩm Á. Nhượng Tống là một trong những người đầu tiên dịch Từ Chẩm Á ở Việt Nam. Trước đó, Tuyết hồng lệ sử đã được dịch đăng Nam phong, nhưng sau đó rồi các cụ nhà nho mới nhận ra, Tuyết hồng lệ sử là tác phẩm sau của Ngọc lê hồn, được viết dưới dạng nhật ký để kể lại một lần nữa câu chuyện của Mộng Hà, tức là câu chuyện của Ngọc lê hồn.

Tác phẩm trên đây từng được Nhượng Tống đăng dài kỳ trên tờ Thực nghiệp dân báo.

Và đây nữa:

Sau 1945 cũng có một số thứ rất hiểm hóc. Ví dụ cuốn sách này:

Còn đây là Nhượng Tống dịch Liêu Trai chí dị đăng trên một tờ báo sau 1945:

(courtesy of VHT)


Dưới đây là danh mục tác phẩm Nhượng Tống do tôi lập ra, được cập nhật liên tục sau mỗi phát hiện mới:

Nhượng Tống có hai giai đoạn trước tác rõ ràng: thập niên 20 và thập niên 40. Trong những năm 30, Nhượng Tống gần như không hề xuất hiện trên văn đàn.

Nhượng Tống có bài đăng trên báo Khai Hóa từ rất sớm, năm 1922 khi ông mới 16 tuổi (việc này đã được kể lại trong cuốn tiểu thuyết Lan Hữu). Sau đó là quãng cộng tác với tờ Thực nghiệp dân báo, ví dụ trong năm 1924 có các bài “Nên đặt thêm hai kỳ Đấu xảo Canh nông”, “Chủ nhật thăm mộ”, “Nhân công ở ta tại vì đâu mà thiếu”…

Cuối thập niên 20 là giai đoạn Nam Đồng thư xã. Vì Nam Đồng thư xã có mục đích chủ yếu là tuyên truyền, nên nhiều khi không rõ được tác giả của từng tác phẩm, ngoài một số trường hợp đặc biệt. Nhượng Tống là yếu nhân của Nam Đồng thư xã, nên chắc chắn các ấn phẩm ở đây đều có bàn tay chăm sóc của ông. Dưới đây là danh mục sách của Nam Đồng thư xã:

Gương thiếu niên: thứ I, II, III, IV, V - Dật Công, Mộng Tiên (Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm) dịch (1926-1927 - 5 fasc. 73 p. ; 0$10 mỗi cuốn)
Sóng hồ Ba Bể, Thuần Phong Phạm Bùi Cầm (1926 - 2 fasc. 147p. ; 0$50) (Impr. Nguyên Hàn)
Tiểu sử và học thuyết Tôn Dật Tiên (1927, In lần thứ 2 - 34 p. ; 0$10)
Tiểu sử và học thuyết Tôn Dật Tiên (1928, In lần thứ 3 - 30 p. ; 0$10)
Tân Hán: thứ I, II, III, IV - Thạch Bằng dịch (1926 - 4 fasc. 97 p. ; 0$10 mỗi cuốn), truyện cách mạng nước Tàu (Long Quang ấn quán)
Gương thành bại (sách bị cấm không được bán ở địa hạt Bắc Kỳ)
Trưng Vương, cuốn thứ I, II - Nhượng Tống (1927 - 2 fasc. 39 p. 70 p. ; 0$10 mỗi cuốn), thế giới đệ nhất nữ anh hùng (Kim Khuê ấn quán)
Một bầu tâm sự - Trần Huy Liệu (1927 - 41 p. ; 0$30) (Impr Bảo Tồn)

Cùng ở giai đoạn thập niên 20 này, Nhượng Tống còn có các tác phẩm:

- Dường như Nhượng Tống có vai trò nhất định trong ấn bản Lo nước thương dân của Nguyễn Thượng Hiền, nhà Minh Trân, 1926; cũng cuốn sách này được tái bản trong năm 1926 dưới nhan đề Một tập văn lo nước thương dân của cụ Nguyễn Thượng Hiền. Có bài tựa của cụ Phan Chu Trinh, Imprimerie Chân Phương
Dưới hoa (tức Ngọc lê hồn) (dịch), nhà in Long Quang, “Vạn quyển thư lâu”, 1928 (in lần 2)
Bả phồn hoa (dịch), Vạn quyển thư lâu, 1928
Chị cùng em (dịch), Vạn quyển thư lâu, 1928 (trước đó Nhượng Tống đã dịch tác phẩm này đăng nhiều kỳ trên Thực nghiệp dân báo)

Như ở trên đã nói, trong thập niên 30 gần như không thấy tên Nhượng Tống xuất hiện trên các ấn phẩm, tuy nhiên rất có thể Nhượng Tống có bài in trong cuốn sách Đời trong ngục và là tác giả cuốn “xã hội tiểu thuyết” mang tên Cô hàng hoa; trong cuốn Cô hàng hoa này có in bài thơ “Cô hàng hoa” của Nhượng Tống.

Giai đoạn thập niên 40:

Lan Hữu (tiểu thuyết), Lê Cường, 1940
Mái Tây tức Tây sương ký (dịch), Tân Việt, 1943
Sử ký Tư Mã Thiên (dịch), Tân Việt, 1944
Ly tao (dịch), Tân Việt, 1944
Thơ Đỗ Phủ (dịch), Tân Việt, 1944
Nam hoa kinh (dịch), Tân Việt, 1945
Lam Sơn thực lục (dịch, bút danh Mạc Bảo Thần), Tân Việt, 1945
Đại Việt sử ký toàn thư (dịch, bút danh Mạc Bảo Thần), Tân Việt, 1945
Tân Việt cách mệnh đảng, Việt Nam thư xã, 1945
Nguyễn Thái Học (1902-1930), Việt Nam thư xã, 1945
Hỗ trợ. Thảo luận (tức là “thảo luận về việc hỗ trợ”), Việt Nam thư xã, 1945
Hương ngọc (dịch), Tân Việt, 1947
Trời Nam mưa gió (ca kịch), Thời sự, 1949
Thượng thư (dịch, in sau khi Nhượng Tống đã chết), Tân Việt, 1963

Nhượng Tống đăng nhiều thơ trên tờ Hà Nội tân văn bắt đầu ra từ năm 1940. Nhượng Tống còn giúp Thi Nham Đinh Gia Thuyết hiệu chỉnh và dịch thêm Ức Trai tập - tác phẩm mới chỉ ở dạng bản thảo; có tài liệu cho biết ông từng dịch cả Hồng Lâu Mộng, Đạo đức kinh, thậm chí cả cuốn thứ sáu của “Lục tài tử thư” là Thủy hử. Năm 1947, dịch một ít Liêu Trai chí dịđăng trên báo Nguồn sáng. Trước tác của Nhượng Tống còn rải rác trong một số tuyển tập giờ đây ít người được biết đến như Tản văn mới của “Thư viện Tố Như” trước 1945.

Năm 1946, cũng trên báo Chính nghĩa, Nhượng Tống đã viết một loạt bài về các nhân vật cách mạng, chủ yếu là đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng, nhưng cũng viết cả về những người như Phạm Hồng Thái hay Lê Cần. Loạt bài này có lúc không ký tên, có lúc ký T. hoặc NT. Ta có thể xác định được đây là các bài của Nhượng Tống nhờ so sánh văn phong và nội dung với cuốn Nguyễn Thái Học.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nhà văn Nhật Tuấn, tác giả ‘Đi Về Nơi Hoang Dã,’ qua đời


Ảnh nhà văn Nhật Tuấn đăng trên Facebook của ông

Nhà văn NHẬT TUẤN (1942 – 2015)

Nhà văn Nhật Tuấn họ Bùi, sinh ở Hà Nội, vừa qua đời tại Việt Nam lúc 6 giờ chiều, ngày 6/10/2015.
Sự nghiệp văn học của ông nổi bật với thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Trong nhiều năm sau này, khi là cộng tác viên cùa đài Little Saigon Radio, HONVIETV và VIETSTREAM, ông thể hiện mình là nhà báo sắc sảo, nhạy bén với mọi sự kiện chính trị và xã hội trong nước.
Nhà văn Nhật Tuấn thuộc nhóm trí thức đi từ Bắc vào Nam, đi từ nhận thức bị “định hướng XHCN” đến sự thức tỉnh, rồi bất mãn và lên tiếng phẫn nộ, châm biếm đả kích.. Ở cả sáng tác văn học và báo chí của ông, chúng ta đều thấy tính phóng khoáng của người từng trải, phải sống giữa “thời đồ đểu” (chữ của ông); thấy cả giọng bất mãn của một người có lòng, biết yêu thương con người; và thấy cả sự tức giận của một con người có chí khí, thẳng tay tố cáo những cái xấu đang diễn ra trong nước.
Thu nay có một người “đi về nơi hoang dã”…
Đi Về Nơi Hoang Dã là một tiểu tuyết nổi tiếng của nhà văn Nhật Tuấn. Ngoài ra ông còn những sáng tác khác:
Trang 17 (1978)
Con chim biết chọn hạt (1981)
Bận rộn (1985)
Mô hình và thực tế (1986)
Lửa lạnh (1987)
Biển bờ (1987)
Tín hiệu của con người (1987)
Đi về nơi hoang dã (1988)
Niềm vui trần thế (1989)
Những mảnh tình đã vỡ (1990)
Tặng phẩm cho em (1995)
Một cái chết thong thả (1995)

Về tiểu thuyết  "Đi về nơi hoang dã "

Vào dịp Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ 6 năm 1995, trả lời phỏng vấn đài RFI về văn học Việt Nam thời đổi mới, nhà văn Nhật Tuấn đã phát biểu: Mấy năm 1987-1991 là thời hòang kim cuả tiểu thuyết Việt Nam. Thời đó giống như có một đứt gãy của lịch sử, khiến cho văn chương trong nước trào ra như dòng phún xuất thạch, hoặc nói theo ngôn ngữ đá banh, lúc đó trọng tài đang mải cãi nhau về luật bóng đá, tranh thủ thời cơ đó, các nhà văn tới tấp dẫn bóng lên làm bàn. Những thiên đường mù của Dương Thu Hương, Mùa lá rụng trong vườn của Ma văn Kháng, Thời xa vắng của Lê Lựu, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh... và cuốn sách đang trong tay quý vị: Đi về nơi hoang dã của Nhật Tuấn là những trái bóng sút tung lưới đó. Tuy nhiên, khác với những cuốn kể trên đuợc làm rùm beng, báo chí đua nhau lăng xê, cuốn của Nhật Tuấn cứ lặng lẽ đi vào nguời đọc và lặng lẽ rơi vào im lặng. Vì sao vậy? Co lẽ nhà văn Trần Thanh Giao ở trong nước đã nói được đúng tình thế lúc đó: Khen cuốn Đi về nơi hoang dã thì là dại, chê thì lại là ngu. Tốt hơn hết cứ nói là... chưa xem.... Và thế là cả các nhà văn, các nhà phê bình, các nhà báo văn hóa văn nghệ đều chưa.... đọc như thế. Tại sao nguời ta ngại cuốn sách này đến thế? Chống Đảng, nói xấu lãnh tụ, chia rẽ dân tộc chăng? Chả phải! Biểu tượng hai mặt, muợn xưa nói nay, mượn súc vật xỏ xiên con người chăng? Cũng chả phải! Phân tích ra thì chẳng có tội gì mà ngại, nhưng càng đọc càng cứ... tức anh ách. Tại sao thế nhỉ? Ở những cuốn tiểu thuyết mang màu sắc phản kháng khác (Những thiên đường mù, Thời xa vắng, Ly thân...) các tác giả còn muốn tranh cãi, muốn triết luận với chủ nghĩa xã hội quanh các vấn đề cải cách ruộng đất, hợp tác hóa nông nghiệp, hòa bình và chiến tranh....Đi về nơi hoang dã thì không - nó không đối diện, không hội luận, không trao đổi gì hết, nó cũng chẳng buồn nhắc tới cái chủ nghĩa ấy tới một lời - nó chỉ mô tả cuộc đời của những con người tiêu biểu ở trong đó, mô tả, miệt mài mô tả mà thôi. Hại thay, khi mô tả con người với với tấm lòng yêu thương thì tác giả lại tỏ ra khinh miệt, quay lưng không muốn tranh cãi, không đáng để nói tới những thế lực đã gây nên sự đày ải con người một cách kinh khiếp đến như thế.
Năm con nguời bị đẩy vào miền hoang dã với nhiệm vụ chính trị cao nhất là tìm một con đường trên núi cao được vạch sẵn do Ban chỉ huy nằm ở mãi dưới đồng bằng và truyền lệnh hàng ngày qua cái máy vô tuyến điện. Cho dù ngay trên đường đi, vấp phải vách đá dài dằng dặc, con đường trên núi ngày càng tỏ ra được thiết kế sai tóet tòe loe, nhưng mọi ngưòi vẫn phải: tuyệt đối tin tưởng ở cấp trên, thực địa có thể khác với bản thiết kế con đường, nhưng Ban chỉ huy không bao giờ sai.... Vậy nhưng rồi tới cái ngày ngay cả ông tóan trưởng là nguời lãnh đạo cái đòan người đi trên núi này rồi cũng đã trắng mắt, cay đắng nhận ra rằng Ban chỉ huy đã sai trong chỉ đường vạch lối, vậy nhưng ông vẫn phải nhắm mắt tuân theo mệnh lệnh là mệnh lệnh, tuyệt đối phải chấp hành, nhiệm vụ chính trị cao nhất của chúng ta trong lúc này là đi tới, đi tới...., nhưng mà đi tới... đâu, đi tới cái đỉnh Hua Ca chỉ có trong tưởng tượng bằng bất cứ giá nào. Vậy là đã thành một chân lý Ban chỉ huy không bao giờ sai, đừng có tranh cãi, triết luận, hội thảo hội thiếc gì với cấp trên hết, nếu không thì sẽ thành thằng phản động Anh dám nói cấp trên là mù quáng hả? Anh quên mất phải tin tưởng tuyệt đối ở ban chỉ huy hả? Anh đứng trên lập trường giai cấp nào mà phát biểu vô tổ chức, vô kỷ luật vậy? Một khi vấn đề đã được đặt ra theo kiểu vậy thì thua rồi, cho dù có tuyên ngôn, hội thảo, hiến chương, kết nối gì cũng vô ích. Cả 5 con người đi trong đòan người thôi không còn tranh cãi, không còn dùng ngôn từ để nghị luận với cấp trên nữa, họ im lặng, im lặng nhưng không buông xuôi, họ triết luận với các lý thuyết gia của con đường, với ban chỉ huy bằng chính... cuộc đời thê thiết của họ.
Trước hết là ông tóan trưởng, suốt ngày câm nín như một con cóc cụ buồn rầu, khổ hạnh hơn nhà tu, cứng nhắc như nhà giáo điều, khiến lính của ông phải kháo nhau: Tao nghi lão ấy không có cặc quá, chỉ không có cái đó mới sống được như lão. Niềm vui duy nhất trong ngày của ông là đến tối đánh điện về Ban chỉ huy báo thành tích công tác trong ngày: đi thêm được mấy ngàn mét, bao nhiêu người tập thể dục, bao nhiêu người phát biểu trong các cuộc họp. Miệng ông luôn luôn nhắc nhở mình vì mọi nguời nhưng lại dấu diếm mỳ chính, thịt hộp trong ba lô để lén lút ăn riêng. Ông luôn đề cao đạo đức nhưng lại hủ hoá với bà Trưởng phòng, rồi bỏ mặc bà với đứa con nơi công trường lạnh lẽo. Loại người như ông toán trưởng nhan nhản một thời làm nên cái gọi là...văn minh cán bộ trong thời kỳ kinh tế bao cấp ở miền Bắc, một thời đã gây nên bao phiền tạp trong đời sống người dân. Vậy nhưng đừng tưởng tác giả sẽ mạt sát, khinh ghét, bôi xấu loại nhân vật đó, ngược hẳn lại, ông toán trưởng vẫn đuợc khắc hoạ với nét bút cảm thông và cái phần tình người của ông vẫn còn lặn vào sâu và bột phát ra mạnh mẽ khi ông đối diện với cái chết.
Người theo sau ông toán trưởng, nối tiếp được thế hệ cha anh chính là thằng học giả. Thằng này vốn là con nhà tư sản, trước cách mạng là một thanh niên có hoài bão, mong muốn xây dựng sự nghiệp mà chưa biết đó là cái sự nghiệp gì. Khi Đảng, chính phủ giải phóng HàNội thì nó biết rồi, và nó bắt đầu xây dựng cái sự nghiệp ấy bằng cách tố cáo bố nó với đội cải tạo để đến nỗi ông phải thắt cổ tự tử. Không sao cả, mang mặc cảm giết cha và đẩy mẹ tới chỗ đi tu, thằng học giả vẫn còn tự tin, vẫn còn đứng vững được ở trong cuộc đời bởi lẽ nó còn có tình yêu của nàng búp bê, trụ đỡ tinh thần cho nó trong cuộc sống dưới cấp con người này. Ấy thế rồi đùng cái, nàng búp bê bỏ nó đi lấy chồng sau khi gửi cho nó mấy câu thơ riễu cợt lý tưởng của nó:
Nếu hoài trên đỉnh Phăng xi păng...
Anh chỉ hát trong mây mù huyền diệu...
Vâng, nếu như thế thì em xin bye bye, em đi lấy chồng. Cái cú sét giữa trời quang này làm thằng học giả bừng tỉnh cơn mơ mộng hão huyền, nó ngộ ngay ra một chân lý bốc mùi cơ hội là muốn vượt lên để mà tồn tại trong xã hội này nó buộc phải đểu cáng, phải giả dối, phải lưu manh, phải dẫm lên đồng đội, giành giật quyền lợi về mình, và thế là từ đó vĩnh biệt cái thân phận:
ngó tới tương lai trào nước mắt
ngoảnh nhìn quá khứ toát mồ hôi...
thằng học giả tự biến thành con nguời khác, tách khỏi đồng đội, bám theo đít ông toán truởng, hầu hạ nịnh nọt một cách đê hèn để được ông bàn giao cho quyền lực và đi xa hơn thế nữa, hắn bắt đầu nói năng, suy nghĩ, hành động y như cung cách của Ban chỉ huy vậy. Qua hình tượng thằng học giả, nhà văn đã dự báo sự ra đời của chủ nghĩa cơ hội ngay trong lòng chủ nghĩa xã hội như gan tiết ra mật vậy. Và từ nhận định chính thằng học giả mới là đệ tử chân truyền của ông toán truởng, tác giả lại đưa ra một dự đoán: cuộc chuyển giao thế hệ rồi sẽ diễn ra theo chiều hướng là thế hệ sau táo tợn, tham lam, lưu manh hơn thế hệ truớc. Quả nhiên hình ảnh sa hoa, tham lam, vô trách nhiệm của đám con ông cháu cha hiện nay đang làm người ta lo ngại rằng cứ cái đà sống và vơ vét như thế này, mai tới lúc chúng cầm cân nảy mực xã hội thay thế cha ông chúng thì sẽ ra làm sao?
Đó là nói về những nguời chỉ huy, thế còn bọn cùng đinh, phó thường dân thì thế nào? Thằng hộ pháp lúc nào cũng hùng hục như trâu lăn, trong đầu chả có tý ý niệm gì về những câu khẩu hiệu thi đua lấy sương làm màn, lấy lá làm chiếumà ông toán trưởng vẫn nhồi nhét vào đầu, nó chỉ mơ ước cướp được vợ thằng xã đội để đưa đi thật xa khỏi xã hội có tem phiếu, có hộ khẩu, có mọi sự quản lý. Vậy nhưng khi vỡ mộng, vợ thằng xã đội đã có thai 3 tháng chẳng thể nào theo nó đi tới miền hoang dã để xây dựng hạnh phúc được, thì nó không sa đoạ như thằng học giả, ngược lại nó trưởng thành hẳn lên, một ý thức trách nhiệm mới nảy nở và khi lại bỏ làng ra đi về miền hoang dã, thằng hộ pháp đã tự nhủ: Không, rồi thế nào nó cũng trở về, nhất định là thế, đất làng càng đói nghèo càng không thể dứt bỏ mà đi.
Thằng cấp dưỡng, cậu con cầu tự thì lại là một dạng khác. Nó là thằng sớm nhận ra ông toán truởng giả vờ đi ỉa để ăn lén cái bánh trưng, sớm nhận ra mặt trời cũng có vết đen, bởi thế nó mặc sự đời, mặc ông toán trưởng loay hoay với ý nghĩa quan trọng của con đường, mặc thằng học giả giở đủ trò thối tha để đuợc kế cận ông toán truởng, mặc thằng hộ pháp suốt ngày: ối giời ơi, tao nhớ con vợ thằng xã đội quá, nó mặc cha hết để tập trung mỗi một mục tiêu: làm thật nhiều tiền để về xây nhà cho mẹ. Còn cái thằng nhân vật tôi vốn là đứa trẻ mồ côi vô thừa nhận, chẳng có gì mà nhớ tới, chẳng có gì mà nhằm tới, thôi thì cứ sống theo kiểu bấc đến đâu dầu đến đấy vậy thôi. Cái tính bản thiện trong con người khiến nó kính nhi viễn chi ông toán truởng, chẳng thể nào nghe theo ông rủ rê làm thế hệ kế tiếp cho ông. Và rồi dường như phận số đã mỉm cười với nó khi đưa đến cho nó mối tình thuần khiết của nàng Sao miền rừng núi.
Cái kết cục của Đi về nơi hoang dã không chỉ cho ta cái kết cục tất yếu ảo tưởng về một con đuờng đi tới được đỉnh Hua Ca. Hơn thế nữa, cái đỉnh Hua Ca kia chỉ có trong huyền thoại và một khi huyền thoại đã không còn nữa, thì tình yêu thương giữa con người với con người sẽ thay thế cái đẹp mà cứu chuộc thế gian này. Sự tồn tại và trưởng thành của dân tộc ta qua biết bao thăng trầm của lịch sử, biết bao bão táp của chiến tranh và cách mạng, phải chăng đã minh chứng điều đó.
Và với thông điệp như vậy hẳn là Đi về nơi hoang dã sẽ còn được các thế hệ mai sau đón đọc...
Nhà xuất bản huyền trân
California tháng 1/2001

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Khi có nhà văn phải đi đóng gạch, nung vôi thì Thạc sĩ bán xôi là chuyện phình phường à nha!

‘Thưa đồng nghiệp, vợ chồng tôi thạc sĩ lương không đủ sống’
Thưa các vị đồng nghiệp, thưa các bạn sinh viên! Xin nán lại một phút nghe tôi nói về cái nghề thứ hai của tôi: Lương của vợ chồng tôi không đủ sống cho một gia đình 2 con, cả chồng và vợ là thạc sĩ, giảng viên đại học. Rằng tôi làm thêm nghề bán xôi vì được mọi người góp ý rằng thời ta nghề nào cũng vinh quang. Tôi xin khẳng định, tôi bán xôi vào thời gian mà lẽ ra tôi được nghỉ ngơi, không lấy giờ nhà nước. Tôi đem theo đây cả một nồi xôi nóng, đảm bảo vệ sinh, ngon và rẻ. Ai cần ăn xôi, xin cứ ra cổng trường, sẽ nhận ra chồng tôi (cũng là thầy các bạn) đang đứng bán xôi ở đó.
Ảnh minh họa
Nên có chính sách để những người được đào tạo công phu, làm đúng nghề, hễ càng tận tâm, tận lực, càng được đãi ngộ cao; hay là hùa nhau "góp ý" làm thêm nghề khác, để đủ sống?

Chuyện muôn thuở, giảng viên đại học bán xôi hay không bán xôi, nói rộng ra là có nên làm nghề tay trái không liên quan chuyên môn, gần đây lại được đem ra tranh cãi. Ngồi xem dư luận, không thiếu những ý kiến, kiểu, nghề nào cũng đáng quý như nhau; rằng, lương không đủ sống thì giữ sĩ diện làm chi. Tất thấy một số điều không thể không bàn.


Có nghề, ta mới có bề vẻ vang

Trước năm 1945, dưới thời thuộc Pháp, học sinh tiểu học đã được học bài Yêu Nghề, dịch từ văn học Pháp, mà sau 70 năm, tôi vẫn thuộc:

Mỗi người chăm sóc một nghề
Có nghề ta mới có bề vẻ vang.
Nghề nào càng lợi dân bang
Lại càng đáng trọng, lại càng đáng yêu

...
Thầy bảo: Người dịch là cụ Nguyễn Văn Vĩnh và giảng kỹ: Đã chọn nghề để hành nghề cả đời thì phải "chăm sóc" nghề của mình. Thầy giáo tiếp: Đó là trau dồi nghề cho tinh thông, tận tâm với nghề, và truyền nghề để nghề khỏi mai một đi...

Bài thơ trên cũng khẳng định: Không phải các nghề đều đáng trọng như nhau. Mà, nghề nào càng làm lợi cho dân, cho nước (bang)... càng đáng trọng. Thầy giảng rất kỹ 3 cái chữ "càng" trong câu thơ.

Sĩ diện và kẻ sĩ

“Sĩ diện”, danh từ này, cách nay hàng trăm hoặc ngàn năm, đã nhảy vào nằm trong kho từ vựng của ta rồi. Nghĩa ban đầu của sĩ diện chỉ đơn giản là thể diện của kẻ sĩ. Xin nói ngay để tránh những ý kiến lạc đề: Ai cũng có thể diện; bất cứ ai cũng cần giữ thể diện của mình. Sĩ diện là danh từ, ví dụ trong câu: Giảng viên đại học có nên gạt sĩ diện để đi bán xôi? Nhưng nhiều khi nó được dùng như động từ, để mỉa mai những người quá tự tôn (ví dụ, câu: Cái bà giảng viên đại học kia chỉ sĩ diện hão).

Bàn tiếp: Thời xưa (cổ hủ) trong xã hội có một tầng lớp gọi là "kẻ sĩ" - nếu đúng nghĩa, đó là tầng lớp tinh hoa của xã hội; thật sự được xã hội kính trọng. Dường như, họ càng phải giữ thể diện hơn người khác. Không cứ nước ta, nước Nga trước 1917 cũng có một từ tương ứng "giới kẻ sĩ". Vấn đề là thời nay có còn "kẻ sĩ" nữa hay không? Có lẽ không còn nữa.

Trời xếp loại: Các nền văn minh

Bác nông dân đào mương bằng xẻng, miệt mài, mồ hôi tuôn ra như tắm, sức lao động bỏ ra tương đương 6000 Calo. Cả ngày, bác đào-đắp được 20 m3 đất.

Bác công nhân dùng máy xúc, chăm chỉ, mồ hôi ướt lưng, sức lao động bỏ ra tương đương 4000 Calo, năng suất là 200 m3/ngày (gấp 10 bác nông dân).

Câu hỏi tiếp: Ai sáng tạo cái máy xúc để bác công nhân có công cụ làm việc?

Quy luật tiến hóa nhân loại là: Thoạt đầu từ chỗ "mông muội" nhờ tích lũy tri thức, loài người kiến tạo nên nền văn minh nông nghiệp. Bước tiếp, cũng do tích lũy tri thức, máy móc thay dần các công cụ cầm tay, nhiên liệu thay cho sức kéo của súc vật..., loài người bước vào văn minh công nghiệp. Đến nay, nền văn minh tri thức đã ló dạng - khi ở nước Mỹ tỷ lệ công nhân (áo) cổ trắng đã cao hơn tỷ lệ công nhân mặc áo cổ xanh.

Đãi ngộ thế nào là công bằng?

Mọi nghề đều đáng quý, nhưng có nghề cần học nhiều (đầu tư thời gian, công sức, chi phí...), có nghề chỉ cần đủ sức khỏe tối thiểu và chỉ cần học... lỏm. Có nghề ngày xưa bị coi thường, nay ngược lại. Ví dụ diễn viên hề. Vậy, đãi ngộ nghề nghiệp thế nào là công bằng? Tất nhiên, công bằng không phải là bình quân đãi ngộ; thậm chí "văn hay, chữ tốt không bằng học dốt nhiều tiền" (câu tục ngữ của một thời chưa xa).

Đáng bàn là chuyện "ngày xưa". Từ xưa, các cụ ta cho rằng... có những nghề, xã hội phải đãi ngộ để người ta "đủ sống". Nếu không, hậu quả sẽ không nhỏ đối với xã hội.

Đó cũng chính là những nghề mà xã hội đòi hỏi người hành nghề phải toàn tâm trau dồi cho tinh thông, tận tâm vì nghề và giữ lương tâm nghề nghiệp. Không phải bỗng dưng mà có quy định những nghề phải có lời thề nghề nghiệp.

Bởi vậy những người làm nghề này tuy không có cơ hội giàu "nứt đố, đổ vách"; nhưng để bù lại, họ phải được sung túc và được xã hội kính trọng. Ví dụ, nghề quân nhân, nghề thầy thuốc, nghề xử án... Ông thày dạy võ bắt môn sinh phải thề "chỉ sử dụng võ để bảo về kẻ yếu". Ngành y thì có lời thề thầy thuốc.

Giờ cứ thử hỏi vui: Một vị chánh án, nếu không đủ ăn, liệu có thể làm thêm bất cứ nghề nào lương thiện (ví dụ, nghề diễn vai hề; nghề bưng bê trong nhà hàng)?.

Còn câu hỏi nghiêm túc là: Nghề thầy giáo - dưới cơ chế hiện hành coi Giáo dục là quốc sách hàng đầu - có thuộc loại trên hay không? Hay nói cách khác, nên có chính sách để những người được đào tạo công phu, làm đúng nghề, hễ càng tận tâm, tận lực, càng được đãi ngộ cao; hay là hùa nhau "góp ý" làm thêm nghề khác, để đủ sống?

Hay là vứt bỏ sĩ diện, tới mức dám tuyên bố khắp...

Cứ mỗi lần kết thúc bài giảng (hoặc mỗi khi bế mạc Hội Đồng chấm luận văn tốt nghiệp), giảng viên đại học dám đứng lên, mời mọi người nán lại vài phút để nói thêm câu sau đây (đại ý):

Thưa các vị đồng nghiệp, thưa các bạn sinh viên! Lẽ ra các vị, các bạn có thể ra về, nhưng xin nán lại một phút nghe tôi nói về cái nghề thứ hai của tôi: Lương của vợ chồng tôi không đủ sống cho một gia đình 2 con, cả chồng và vợ là thạc sĩ, giảng viên đại học.

Rằng tôi làm thêm nghề bán xôi vì được mọi người góp ý rằng thời ta nghề nào cũng vinh quang. Tôi xin khẳng định, tôi bán xôi vào thời gian mà lẽ ra tôi được nghỉ ngơi, không lấy giờ nhà nước. Tôi đem theo đây cả một nồi xôi nóng, đảm bảo vệ sinh, ngon và rẻ. Ai cần ăn xôi, xin cứ ra cổng trường, sẽ nhận ra chồng tôi (cũng là thầy các bạn) đang đứng bán xôi ở đó.

(Theo TuanVietNam)

 GS.NGND. Nguyễn Ngọc Lanh

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Một thế hệ lười biếng đang hình thành ở Việt Nam?


Hải Băng - “Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa. Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày”, đến bây giờ ngẫm lại vẫn thấy câu tục ngữ này đúng. Và có lẽ muôn đời đúng. Tuy nhiên, đáng buồn là những thành phần như vậy trong xã hội ngày càng nhiều, đặc biệt là giới trẻ, lớp người tưởng như “tuổi 17 bẻ gãy sừng trâu”.
Lười từ nhỏ…
So với học sinh bây giờ, phải nói rằng, thế hệ trước, chỉ cần như 7x, 8x, những thế hệ cận kề nhất với giới trẻ bây giờ vất vả hơn nhiều, gian khổ hơn nhiều. Có thể do bối cảnh của đất nước sau khi trải qua chiến tranh với những kẻ thù đều là “đế quốc” như Pháp, Mỹ, do cơ chế bao cấp của nền kinh tế thời bấy giờ buộc người dân sống trong thời đại đó phải vật lộn như vậy, trong đó có thế hệ học sinh, sinh viên. Nhưng mặt khác, chính hoàn cảnh ấy làm cho người ta phải chăm chỉ, phải cố gắng vươn lên với chí tiến thủ gần như tuyệt đối để thoát khỏi cảnh đói nghèo, thoát khỏi “áp bức” từ chính tâm lý của mình.

Hồi đó, trước khi đi học hoặc sau khi đi học về, dẫu cơ thể “cường tráng” như cái kẹo mút dở, nhưng học sinh phải tự lo bữa ăn của mình – có khi chỉ là cơm rang (may mà còn có để ăn như vậy), là mì sợi nấu với nước lã đun sôi cho chút cà chua hoặc vội vội vàng vàng nấu bữa cơm trưa hoặc chiều cho cả gia đình và bản thân mình ăn. Mà thời ấy, đâu phải nấu cơm bằng bếp ga, bếp từ như bây giờ, mặc dù ở thủ đô nhưng nhà nào có điều kiện mới nấu bằng bếp dầu nếu không, bằng bếp củi, lá khô nhặt ở ngoài đường về.

Nói chung, hoàn cảnh buộc học sinh phải “tự thân vận động” đủ mọi mặt, thậm chí cả kiếm tiền nuôi sống mình. Bởi không ít học sinh sau giờ tan trường về phải chăn nuôi lợn, gà, phải bán hàng rong nhặt nhạnh từng đồng bạc lẻ cùng với gia đình. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn phải bảo đảm việc học tập. Nhưng cũng cần nói thêm, học tập thời đó, không như bây giờ, học sinh được bố mẹ dạy dỗ, dìu dắt cùng với cô giáo từ bé mà chủ yếu là tự học, tự mày mò, nghiên cứu… Vì phụ huynh sống trong thời kỳ kinh tế bao cấp nói thật rằng chú tâm đến việc cơm ăn áo mặc nhiều hơn là con cái học hành do điều kiện sinh hoạt quá eo hẹp nếu như không muốn nói là không đủ.

Còn rất nhiều học sinh thành phố, đô thị hiện nay, sướng quá: chẳng phải làm gì, cũng chẳng thiếu thứ gì từ ăn uống đến sách vở, học hành… Lúc nào, cũng được bố mẹ chuẩn bị cho đến tận… “chân răng”, đương nhiên, tùy theo điều kiện của từng gia đình để chăm sóc con cái – nhà nào có điều kiện thì chăm theo kiểu có điều kiện, nhà nào điều kiện ít hơn thì chăm theo kiểu ít điều kiện hơn. Song ai cũng cố gắng hết sức để con cái được đầy đủ nhất, vẹn toàn nhất.

Có thể nào hình dung nổi, hiện nhiều học sinh THPT cao lớn hơn cái… “sào” mỗi khi đến bữa ăn vẫn được bố mẹ “cơm bưng nước rót”, ăn sườn, cá vẫn được bố mẹ gỡ sẵn xương bỏ đi như cho trẻ lên 3. Vào năm học, thay vì phải tự chuẩn bị lấy sách vở thì đằng này, bố mẹ vẫn làm cho hết. Nhà không phải quét, áo quần không phải giặt. Giờ nấu ăn, có khi mẹ cứ quần quật trong bếp trong khi con tranh thủ ra quán… chơi game để chờ cơm chín…

Giải thích cho hoàn cảnh sống sung sướng, nhàn hạ ấy của lớp trẻ không gì dễ hơn là điều kiện kinh tế đã khác trước: sung túc hơn, đủ đầy hơn, tâm lý của những bậc làm cha mẹ muốn: “con hơn cha”… Thế nhưng, đó chỉ là biện minh cho việc chăm sóc thái quá, nuông chiều con cái của bố mẹ. Trong khi hệ lụy của sự nuông chiều ấy ít nhất là sẽ làm mất đi tính tự lập của trẻ, làm cho trẻ trở nên lười nhác, ỷ lại cho người khác những việc có thể thực hiện trong tầm tay…

Và không chỉ bố mẹ, ngay nhà trường cũng “tiếp tay” một cách gián tiếp cho tính lười nhác này khi một lao động nhẹ nhàng nhất, đơn giản nhất là quét lớp mà cũng không buộc học sinh phải làm. Mà tất cả đều một tay bác lao công làm cả. Học sinh chỉ mỗi việc xin tiền bố mẹ để đóng tiền vệ sinh.

Thực ra, việc trực nhật lớp không nặng nhọc, mất nhiều thời gian đến nỗi để giải thích: sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, thời gian học tập của các em. Nhưng phương thức chọn bác lao công trực nhật thay vì học sinh đã làm cho ý thức lao động của trẻ bị triệt tiêu, ý thức gìn giữ vệ sinh chung cũng không hình thành, tồn tại trong tư duy của trẻ và quan trọng hơn: trẻ không biết trân trọng, quý sức lao động của người khác, coi việc hưởng thụ trên sức lao động của người khác là nghiễm nhiên do không biết giá trị của sức lao động phải bỏ ra…

Ông Nguyễn Hiệp Thống, Phó giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội đã từng phát biểu: “Lênin từng nói: Lao động cũng là hình thức giáo dục nhân cách con người”, vậy mà việc không bắt học sinh lao động dưới hình thức trực nhật lớp là việc làm lợi bất cập hại, “thương nhau kiểu ấy bằng mười hại nhau”. Tới đây, quy định này sẽ phải xem xét lại và khôi phục để bên cạnh giáo dục ý thức lao động cho học sinh còn thông qua đó, giáo dục những kỹ năng sống khác cho các em”.

… Đến lớn

Không chỉ con trẻ mà người lớn cũng ngày một lười nhác hơn dưới mọi góc độ. Giờ tan tầm chỉ cần ra các quán nhậu nhẹt là thấy ngay cảnh tượng đã trở thành… chuyện “nhỏ như con thỏ”: người lớn, nhất là đám mày râu ngồi la liệt, kín đặc tới tận đêm hôm khuya khoắt mới về, phó mặc mọi việc ở nhà cho vợ con. Mà khi về đến nhà thì cũng chẳng khác gì những người đã lựa chọn về nhà hơn là đi chè chén sau khi kết thúc ngày làm việc: hoặc là nằm gác chân lên ghế chờ cơm bưng ra tận miệng hoặc là nằm khểnh xem tivi để mặc vợ muốn làm gì thì làm.

Còn ở công sở dễ bắt gặp cảnh lười nhác nhất là khi sếp đi vắng hoặc “ăn cắp” được chút thời gian của cơ quan. Những lúc đó, nếu trên màn hình máy tính không là các trò game online từ êm ái đến bạo lực thì cũng là những phim ướt át Hàn Quốc, là chít chát, lên facebook tán gẫu với bạn bè. Công khai nữa thì “lượn”, “đánh võng” ngoài đường phố rồi cà phê cà pháo… Ai hơi đâu “tự kỷ” ngồi một chỗ để làm việc, để nghiên cứu, tìm hiểu cập nhật kiến thức. Có mà “hâm” mới như thế!


Lớp choai choai thì còn lười nữa, một tuần có bảy ngày thì gần như cả bảy tối ra “chém gió” ngoài quán trà chanh, chẳng chịu mầy mò, đọc sách “nạp” kiến thức như biết bao thế hệ thanh niên thuở trước, cũng chẳng chịu lao động để rèn luyện ý thức, rèn luyện thể chất nhằm bảo vệ sức khỏe…

Chỉ vì an phận

Có một lý giải cho sự lười nhác của người Việt hiện nay rằng: chẳng qua kinh tế thị trường cùng với sự phát triển công nghệ, bên cạnh tạo điều kiện cho con người có cuộc sống, việc làm tốt hơn thì lại dễ khiến người ta trở nên nhác việc hơn do nhiều cám dỗ xung quanh dẫn dụ. Tuy nhiên, cách giải thích này cũng chỉ là một căn nguyên mà căn nguyên sâu xa nhất, chính xác nhất ấy là ý thức của con người. Bởi ý thức quyết định hành động. Ví thử so sánh với thế hệ trước như cha ông chúng ta về chuyện nhậu nhẹt chẳng hạn, thời trước hiếm hơn bây giờ không phải vì tiền bạc, kinh tế mà ngay cả trong những dịp lễ, tết, giỗ chạp… dịp có thể được coi là “nhậu”… một cách chính đáng, nhưng cũng không mấy ai “chén chú chén anh” đến nỗi “rượu vào lời ra”, chỉ chừng mực là đứng dậy.

Chuyện công sở cũng thế, cắm đầu cắm cổ làm đến lúc kẻng báo hiệu hết giờ, cán bộ, viên chức mới ngẩng đầu đứng dậy kết thúc công việc, không ai dám tự ý rời chỗ làm việc để trốn đi chỗ này chỗ khác “đánh bóng” mặt đường. Sở dĩ, được như vậy là do ý thức lao động của con người thời đó rất cao nhờ vào sự giáo dục cùng với hoàn cảnh khó khăn của đất nước bắt buộc họ phải phấn đấu, nỗ lực. Không đươc an phận. Nhưng bây giờ thì trớ trêu ở chỗ, đời sống kinh tế khá giả hơn, điều kiện phát triển tốt hơn thì con người lại dễ dàng bằng lòng với cuộc sống, “an phận thủ thường” với những gì đã có, không có trí tiến thủ! Từ “cơ sự” này mới dẫn đến sự lười nhác, thiếu năng động… của con người hiện nay.

Lỗ Tấn có câu: “Trên đường thành công không có vết chân của người lười biếng”. Kinh thánh cũng có câu: “Không làm việc, không có niềm vui” hay “Thiên đàng mới là chốn nghỉ ngơi”. Quả thật, sự lười nhác đã khiến cho nhiều người Việt trở nên trì trệ, thiếu sáng tạo, hăng say trong làm việc. Thế cho nên tỷ lệ người Việt mà có thể ghi dấu trên thế giới bằng sự nỗ lực, chăm chỉ cá nhân như GS Ngô Bảo Châu là quá ít. Trong khi đó, theo cơ quan công an, tội phạm đang trẻ hóa phần nhiều do “nhàn cư vi bất thiện”.

http://kenh13.info/mot-the-he-luoi-bieng-dang-hinh-thanh-o-viet-nam.html

Phần nhận xét hiển thị trên trang