Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Chủ Nhật, 16 tháng 8, 2015

Trung Quốc tổ chức Đại lễ Duyệt binh VÌ CÁI GÌ?


Tranh chấp Trung-Nhật tại quần đảo Senkakư của Nhật Bản mà TQ gọi là Điếu Ngư
* NGUYỄN THÁI NGUYÊN
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang chào mời lãnh đạo các nước đến Bắc Kinh để “xem” Trung Quốc duyệt binh quy mô lớn vào ngày 3 tháng 9 năm 2015, gọi là nhân dịp kết thúc chiến tranh thế giới thứ II. Ông Phạm Trường Long, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương TQ còn có lời mời ông Sergei Shoigu, Bộ trưởng Quốc phòng Nga rằng: “Trung Quốc nhiệt liệt chào đón các lãnh đạo và đội hình quân đội Nga tham gia sự kiện tháng 9 ở Bắc Kinh”. Ông Putin hay lãnh đạo Việt Nam thì đương nhiên rồi, còn ông Obama cũng được mời và nhiều người khác nữa. Chỉ riêng ông Thủ tướng Nhật Bản thì không biết Trung Quốc có “nhã ý” mời hay không?
Nhiều người biết Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (Hồng quân trước đây) không hề là đội quân góp phần đáng kể gì trong việc đánh thắng Phát xít Nhật trong thế chiến II ngay trên đất nước Trung Quốc của họ, mà nay Tập Cận Bình long trọng làm lễ duyệt binh kỷ niệm chiến thắng Phát xit? Chuyện đại sự quốc gia mà nghe ra, cứ như chuyện của “những người thích đùa”. Vậy Bắc Kinh tổ chức duyệt binh quy mô lớn rất tốn kém nhằm mục đích gì? Để trả lời câu hỏi này, xin điểm qua một số sự kiện lớn xẩy ra trước và trong thế chiến thứ II liên quan đến chủ đề này.
Năm 1921, dưới sự giúp sức của Liên Xô, đảng Cộng sản Trung Quốc ra đời với 300 đảng viên ban đầu. Thực tế lúc đó, vì lực lượng của đảng CSTQ rất non trẻ và yếu ớt nên Liên Xô ủng hộ cả lực lượng của Cộng sản và lực lượng của Quốc Dân đảng bởi vì tại thời điểm đó, lực lượng của Quốc Dân đảng đã có 150.000 thành viên. (Sau này, trong thành phần của đảng Cộng sản thì số đảng viên xuất thân từ Quốc dân đảng khá nhiều. Nếu chúng ta chú ý sẽ thấy một số bài báo gần đây bắt đầu nhắc tới “lý lịch khó hiểu” của ông Giang Trạch Dân là từ những hoàn cảnh lịch sử thời bấy giờ, nhưng vì mục đích chính trị, người ta có thể đưa ông này lên Tổng Bí thư và cũng vì mục đích ấy, người ta có thể đấu tố và bỏ tù ông vì những khuất tất như thế).
                  >> Vì sao TQ tổ chức duyệt binh lớn ?  
                       >> Trung Quốc “không khó chịu”….?!  
Chính Liên Xô đã giúp Quốc dân đảng thành lập Học viện Chính trị để đào tạo nguồn nhân lực cho Quốc dân đảng. Bản thân Tưởng Giới Thạch lúc đó được đưa sang Liên Xô đào tạo về quân sự và năm 1923, Tưởng Giới Thạch về nước thành lập trường Võ bị Hoàng Phố. Dù vậy, Tưởng Giới Thạch không hề nể mặt “thầy” Liên Xô mà luôn coi Cộng sản là thù địch.
Máy bay Trung Quốc thám sát quần đảo Senkaku của Nhật Bản
Trong các năm 1926-1928, Quốc dân đảng đã tiến hành cuộc chiến tranh “Bắc phạt” quy mô lớn nhằm quét sạch các thế lực quân phiệt ở các địa phương phía Bắc Trung Quốc, kết thúc “Chính phủ Bắc Dương” và các lực lượng còn lại của Viên Thế Khải,  hoàn toàn thống nhất Trung Quốc vào cuối năm 1928. Trên thực tế thì vào thời kỳ đó, lực lượng của Cộng sản hết sức nhỏ yếu, về quân sự chủ yếu là lực lượng du kích chỉ được trang bị vũ khí thô sơ và hoạt động phân tán.
Năm 1932, người Nhật xâm chiếm và thành lập “Mãn Châu quốc” với ý định thôn tính Trung Quốc lâu dài. Cũng từ đây, Quốc dân đảng cùng lúc tiến hành hai cuộc chiến: cuộc chiến tranh chống người Nhật và cuộc chiến với cộng sản. Tưởng Giới Thạch đã từng tuyên bố trước các tướng lĩnh rằng: “Nhật Bản chỉ là bệnh ngoài da. Cộng sản mới là Tâm bệnh”! Và do đó, trong một chừng mức nhất định, Tưởng Giới Thạch tìm cách kiềm chế không để người Nhật mở rộng vùng chiếm đóng đồng thời ưu tiên giệt “giặc trong”. Vị thế của Trung Hoa Dân Quốc lúc đó đã được coi như một cường quốc quân sự và so sánh lực lượng giữa Quốc Dân và Cộng Sản là hết sức chênh lệch. Nguy cơ lực lượng cộng sản non trẻ bị tiêu diệt là hết sức rõ ràng.
Trong bối cảnh ấy, ngày 12 tháng 12 năm 1936 đã xy ra “Sự biến Tây An”. Tưởng Giới Thạch bị thuộc tướng của mình là Trương Học Lương bắt cóc. Họ Trương nguyên là Thống soái phụ trách Mãn Châu, nhưng được Tưởng Giới Thạch giao toàn quyền cho Trương chỉ huy Tập đoàn quân Đông Bắc đánh dẹp lực lượng Hồng quân của đảng CSTQ tại Thiểm Tây sau cuộc “Vạn lý trường chinh”. Vạn lý trường chinh thực chất là một cuộc rút quân quy mô khoảng 10 vạn người khỏi sự truy diệt của Quốc dân đảng đi lên vùng núi cao hiểm trở của tỉnh Thiểm Tây. Khi đến Thiểm Tây, lực lượng chỉ còn lại khoảng 8-9 ngàn người và đương nhiên là riêng lực lượng Hồng quân cũng bị tổn thất nặng nề. Người ta dự đoán rằng trước tình thế bị bao vây và nguy cơ bị tiêu diệt như vậy, thông qua công tác tình báo, phía đảng CSTQ và các cố vấn Liên Xô đã tìm mọi cách mua chuộc và mua chuộc được tướng Trương Học Lương nên Trương đã bắt tay với cộng sản, bắt cóc Tưởng Giới Thạch, ép Tưởng và Quốc Dân đảng ký thỏa thuận “không chống lại quân cộng sản” vào ngày 24/12/1936 để “cùng chống Nhật”. Cái gọi là “Quốc Cộng hợp tác” ra đời như thế và kéo dài chỉ được 2 năm trên danh nghĩa, kết thúc vào năm 1938. Dù sao thì thỏa thuận này cũng đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho phía Cộng sản vừa tránh được hiểm họa diệt vong khi phải tiếp tục giao tranh với quân Quốc dân đảng vừa có thời gian xây dựng cơ sở, phát triển lực lượng. Ngoài lực lượng du kích tham chiến tại các địa bàn do người Nhật chiếm đóng thì suốt thời gian “hợp tác”, quân Cộng sản cũng hầu như tránh né mọi cuộc đối đầu trực tiếp với quân Nhật mà chú tâm xây dựng cơ sở của họ ở nông thôn gắn với “Cải cách ruộng đất” nên càng được nông dân ủng hộ. Ngược lại, Trung Hoa Dân quốc từ chỗ xuất hiện như một cường quốc quân sự thì ngày càng kiệt quệ do chiến tranh với quân đội Nhật, do thiên tai, do nội chiến và cả do chia rẽ nội bộ.
Cho đến tháng 11/1937, Quốc dân đảng đã tiến hành 22 trận đánh quy mô lớn nhằm vào lực lượng chiếm đóng Nhật Bản, trong đó trận lớn nhất là “trận chiến Thượng Hải” từ tháng 8-11/1937 với 70 vạn quân của Tưởng Giới Thạch và hơn 20 vạn quân của Nhật Bản tham chiến. Ngoài ra còn có sự tham gia của cả Hải, Lục, Không quân (Riêng phía Trung Quốc của Tưởng lúc đó chưa có lực lượng Hải quân). Nhưng cuối cùng thất bại vẫn thuộc về phía quân Quốc dân đảng. Trong số 32 vạn người thương vong chủ yếu là dân thường và quân đội của Quốc dân đảng. Cũng vào năm 1937, nhờ “thượng sơn quan hổ đấu” là chủ yếu nên thế và lực của Cộng sản tăng lên một cách nhanh chóng: Chỉ sau 15 năm, quân đội chính quy của CSTQ đã đạt con số 1,2 triệu người gắn với gần 2 triệu dân quân du kích địa phương. Chính quyền Cộng sản đã kiểm soát 1/4 lãnh thổ và 1/3 dân số.
Năm 1937, Nhật không những đã chiếm được Thượng Hải trong trận chiến Thượng Hải nói trên mà còn tấn công vào Vũ Hán, trung tâm chính trị, kinh tế và quân sự của Quốc dân đảng và chiếm được Vũ Hán vào 10/1938 buộc Quốc dân đảng phải rút về Trùng Khánh lập “Thủ đô lâm thời”. Dù chiến thắng nhưng Nhật cũng bị tổn thất khá nặng nề và gặp rất nhiều khó khăn trong việc quản lý các vùng đất chiếm đóng nên Nhật đề nghị đàm phán với chính phủ Tưởng Giới Thạch, nhưng Tưởng Giới Thạch từ chối vì ông đòi hỏi người Nhật “hãy rút về giới tuyến trước năm 1937” mới đàm phán. Nhật lại tiếp tục tấn công vào Trùng Khánh gây tổn thất lớn cho Quốc dân đảng. Đến năm 1939, quân Nhật bắt đầu bị thất bại nặng nề ở Trường Sa (Thủ phủ tỉnh Hồ Nam) và Quảng Tây, tạo ra thế phản công có lợi cho Quốc dân đảng. Nhưng do phạm phải những sai lầm về chiến lược, do phải đương đầu cùng lúc với hai trận tuyến (ngay trong năm 1939, quân của Hạ Long đã xóa sổ cả lữ đoàn quân Tưởng Giới Thạch) và những khó khăn trong chính nội bộ đảng Quốc dân, nên Tưởng Giới Thạch không những không giữ được vị thế của “cường quốc quân sự”  ban đầu mà dần dần suy yếu cả về thế và lực.
Năm 1941, Ngoài các địa bàn đã chiếm được những năm trước, Nhật đã chiếm hầu hết vùng duyên hải phía Đông Trung Quốc và Việt Nam. Sau vụ Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) vào năm 1941, Chính phủ của Tưởng Giới Thạch chính thức tuyên chiến với Nhật Bản, cuộc chiến Trung Nhật (lần thứ 2) trở thành một phần của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II. Hoa Kỳ, Anh và Liên Xô tiếp tục giúp đỡ quân Tưởng trong cuộc chiến này. Nhưng phần do đã kiệt sức trong những năm trước bởi cuộc chiến với Nhật, với phiến quân của Bắc Dương, một phần lại còn phải tiếp tục đánh nhau với  quân của Cộng sản nên khả năng tác chiến của quân của Chính phủ Tưởng giới Thach bị nhiều hạn chế. Trước tình hình này, tại hội nghị quân Đồng minh họp ở Yalta (Crimea) từ 04-11 tháng 2 năm 1945, gồm Tổng thống Mỹ Franklin D Roosevelt, Thủ tướng Anh Winston Churchill và Tổng Bí thư kiêm Tổng Tư lệnh Hồng Quân Liên Xô Joseph Stalin, không có đại diện của Trung Quốc tham dự đã quyết định cho phép quân đội Liên Xô tiến vào Mãn Châu tiêu diệt quân Nhật Bản. (Trên thực tế thì nghị trình của hội nghi Yalta chủ yếu là bàn việc thỏa thuận phân chia ảnh hưởng của “hai phe” sau khi cuộc chiến kết thúc, chủ yếu là ở châu Âu. Riêng châu Á, Liên Xô đồng ý nhận lãnh tuyên chiến với Nhật, nhưng với điều kiện trước hết Hội Quốc liên (LHQ sau này) phải cho tách Mông Cổ (Ngoại Mông) khỏi Trung Quốc và công nhận nền độc lập của Mông Cổ). Sau khi đập tan đạo quân Nhật ở Mãn Châu, toàn bộ kho vũ khí, khí tài quân sự, kể cả vũ khí hạng nặng như xe tăng, đại bác và các phương tiện chiến tranh cũng như khối lượng rất lớn lương thực thực phẩm thu được của Nhật, Liên Xô đã quyết định “viện trợ tại chỗ” cho người anh em đồng chí là quân đội của đảng CSTQ, tạo ra bước đột biến về sức mạnh quân sự cho quân đội của CSTQ chứ không phải từ thiên tài nào của Mao Trạch Đông cả.
Không những thế, Liên Xô mà đại diện là tướng Malinovsky không bàn giao lại vùng đất Mãn Châu cho Chính phủ hợp pháp của Trung Quốc lúc đó là Chính phủ Quốc dân đảng mà đã trì hoãn việc chuyển giao và ngầm tạo điều kiện cho Hồng quân Trung Quốc tiến vào tiếp quản, càng tạo điều kiện và thanh thế cho phe Cộng sản sau khi Đồng minh rút đi.
Sau khi Nhật buộc đầu hàng quân Đồng minh vô điều kiện ngày 2/9/1945, kết thúc chiến tranh thế giới thứ II trên toàn vùng châu Á thì bên trong nước Trung Hoa, cuộc chiến giữa Quốc dân đảng và Cộng sản vẫn tiếp tục khi so sánh lực lượng thay đổi nhanh chóng như đã nói ở trên. Kết cục là Chính phủ Tưởng Giới Thạch phải chạy ra đảo Đài Loan như chúng ta đã biết.
Hai tàu tuần tra của Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Nhật Bản
ngày 15-8-2012 “khóa” tàu chở các nhà hoạt động Trung Quốc đổ bộ
đảo Uotsuri thuộc Senkaku/Điếu Ngư.  Ảnh: Yomiuri Shimbun.
Như vậy thì chúng ta đã rõ ông Tập Cận Bình bày ra cuộc Duyệt binh quy mô lớn và mời khách khắp cả năm Châu đến dự lễ Duyệt binh ngày 3/9 này là để làm gì rồi. Nói như một số phóng viên phương Tây, chắc chắn ông ta muốn nhân dịp này khoe với thiên hạ nhiều loại vũ khí mới như xe tăng Type 99 A2, tên lửa HQ-101, thậm chí có thể có cả tên lửa đạn đạo liên lục địa DF-31 hay tên lửa JL-2 mới tinh phóng từ tàu ngầm cùng nhiều loại tàu bay và vũ khí xâm lược khác ... Cũng là dịp để “rung cây” dọa những kẻ yếu bóng vía, trong đó có chủ đích nhằm mục tiêu vào chủ quyền biển-đảo của Nhật Bản chăng? Mời các anh chị em theo dõi những diễn biến trước và sau cuộc duyệt binh này để xem Trung Quốc định làm gì và sẽ làm được gì.
Đây là lễ kỷ niệm chiến thắng Phát xít, kỷ niệm ngày kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ II hay là để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh mới với tham vọng độc chiếm Biển Đông của Tập Cận Bình?
Vào năm 1955, với cuồng vọng vô hạn độ của mình về mọi phương diện, Mao đã hơn một lần muốn dựng lại chủ thuyết “Biển lịch sử” bằng cách nêu lại “đường lưỡi bò” (lưỡi Rồng) mà Tưởng Giới Thạch bịa ra vào năm 1947. Ngày nay, các nhà lãnh đạo Trung Quốc một lần nữa khẳng định lại “đường lưỡi bò”, chiếm khoảng 75-80% diện tích biển Đông là “biển lịch sử” của Trung Quốc, là việc “bất khả tranh nghị”! Thái độ ngạo mạn này làm chúng ta nhớ lại lịch sử 2 ngàn năm trước khi Đế quốc La Mã (Đế quốc Roma) không chỉ thiết lập ra một đường biên giới trên bộ dài tới 56.000 dặm (trên dưới 100.000 km) bao trùm lên lãnh thổ khoảng 40 quốc gia ngày nay, mà còn tuyên bố chủ quyền trên toàn bộ biển Địa Trung hải chạy từ Tây Ban Nha qua Pháp, Ý, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ đến Trung Đông, Vịnh Ba Tư cho tới Bắc Phi. Thủa đó, các nhà độc tài La Mã cũng gọi Địa Trung hải là “Biển của chúng ta” hoặc “Biển lịch sử của chúng tôi (!?).
Giọng lưỡi của các nhà lãnh đạo Trung Quốc ngày nay đối với biển Đông nghe ra cũng na ná với những gì mà những kẻ xâm lược cổ đại đã nói, đã làm và đã thất bại thảm hại. Với cách chiếm biển, xây đảo nổi và lập các căn cứ quân sự trên vùng biển không hề là chủ quyền của mình, tập đoàn lãnh đạo Trung Nam Hải đang quyết liệt xây dựng Trung Quốc thành một “Đế chế biển”. Và với tham vọng và hành động như đã từng xẩy ra trong những năm gần đây, không dẫn đến chiến tranh trên quy mô lớn mới là chuyện lạ. Không ngẫu nhiên, trong chuyến thăm Nhật Bản gần đây, ông Thủ tướng Úc đã ví thái độ và hành động vô trách nhiệm của Tập Cận Bình ở biển Đông giống với cách mà Hitler đã làm ngay trước khi cuộc chiến tranh thế giới thứ II nổ ra.
NTNg (Tác giả gửi BVB)
Phần nhận xét hiển thị trên trang

“một con kiến lửa đầu đàn” biết đặt lợi ích quốc gia cao hơn tất cả.

Báo lớn Trung Quốc “tổng công kích” Thủ tướng Việt Nam

Báo Trung Quốc: Thủ tướng Việt Nam đội mũ cối là muốn thể hiện “hình tượng cứng rắn”
Trung Quốc tưởng rằng Thủ tướng Việt Nam đang thân cô thế cô, tưởng chỉ có Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đủ bản lĩnh dám đương đầu với Trung Quốc. Nên họ ra sức sử dụng truyền thông để “tổng công kích” cá nhân Thủ tướng Việt Nam.
Khi nhà cầm quyền Trung Quốc tự lột cái mặt nạ “4 tốt” và “16 chữ vàng” trên Biển Đông bằng hành động kéo cái giàn khoan Hải Dương-981 (Haiyang Shiyou 981) vào vùng biển Việt Nam, thì Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là người lãnh đạo đầu tiên lên tiếng phản đối. Và trên khắp các diễn đàn quốc tế lớn nhỏ mà Thủ tướng tham dự, ông đều lên án mạnh mẽ hành động xâm lược của nhà cầm quyền Trung Quốc. Cụ thể, tại Hội nghị cấp cao ASEAN (Myanmar ngày 11/5), Thủ tướng đã lên án mạnh mẽ hành vi xâm lược của phía Trung Quốc. Còn tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới về Đông Á (Philippines ngày 21/5), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã mạnh mẽ tuyên bố trước báo chí quốc tế: “Chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng, nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó… Có lẽ như tất cả các nước, Việt Nam chúng tôi đang cân nhắc các phương án để bảo vệ mình, kể cả phương án đấu tranh pháp lý, theo luật pháp quốc tế”…
Mặc những lời đe dọa thách thức từ phía Trung Quốc, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vẫn không hề tỏ ra nao núng, thể hiện một ý chí quyết tâm cao độ, không chùn bước trước Trung Quốc. Hành động quyết liệt nhưng tỉnh táo, buộc Trung Quốc phải rút giàn khoan. Có lẽ chính vì vậy mà Thủ tướng trở thành cái gai trong mắt nhà cầm quyền Trung Quốc.
                         >>  Không đánh đổi chủ quyền lấy ‘hữu nghị viễn vông’...   
Thế nên, mới đây, khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến nhà máy đóng tàu Hạ Long, thị sát tàu kiểm ngư KN 781, liền được báo chí Trung Quốc tập trung chú ý theo dõi. Trang mạng quân sự sina của Trung Quốc hôm 5/6 lập tức xuyên tạc, bình luận rằng, điều đáng chú ý là, khi thị sát Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đội mũ cối quân dụng màu xanh truyền thống của Việt Nam như đang gửi thông điệp “cứng rắn” trên Biển Đông trước hành vi (xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của phía Trung Quốc).
Tờ Tuần báo Bắc Kinh ngày 9/6 tiếp tục có bài kích động, tạo hiểu nhầm trong dư luận về cái gọi là “sự chia rẽ trong ban lãnh đạo Việt Nam” trong quan hệ với Trung Quốc, bất chấp thực tế các nhà lãnh đạo cấp cao Việt Nam đã lên tiếng phản đối các hành vi gây hấn của Trung Quốc với Việt Nam trên Biển Đông.
“Những gì làm phức tạp vấn đề là quan điểm về quan hệ Việt – Trung khác nhau rất nhiều giữa các nhà lãnh đạo Việt Nam”, Tuần báo Bắc Kinh kích động. Với luận điệu xuyên tạc, đâm bị thóc chọc bị gạo hòng chia rẽ người Việt, tờ báo Trung Quốc vu cáo trắng trợn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: “Trong khi những người ủng hộ Trung Quốc nhấn mạnh tầm quan trọng của quan hệ hữu nghị Việt – Trung thì một số lãnh đạo cấp cao mà đại diện là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bám vào giáo điều, đặt lợi ích quốc gia lên trên tất cả mọi thứ khác, một quan điểm kích thích chủ nghĩa dân tộc và những người trẻ tuổi”?!
Đúng! Lợi ích quốc gia, dân tộc là trên hết, quan trọng hơn rất nhiều một thứ “quan hệ hữu nghị viển vông” nào đó. Đây là bài học người Việt đã rút ra sau rất nhiều biến cố, mà trong số đó có phần “đóng góp không nhỏ” của gã láng giềng lớn xác nhưng chơi bẩn, thường tìm cách đâm sau lưng đồng chí, bạn bè.
Và không chỉ Việt Nam, trong quan hệ quốc tế ngày nay, quốc gia nào cũng đặt lợi ích quốc gia, dân tộc mình lên trên. Điều khác nhau ở chỗ, những nước văn minh thì bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp, trong khi những kẻ ngụy quân tử thì chỉ thích vơ vào, biến của người khác thành của mình và bất chấp mọi thủ đoạn, kể cả đâm bạn sau lưng.
Chưa hết, bất chấp thực tế những nỗ lực không ngừng của chính phủ Việt Nam và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng để ổn định tình hình, hỗ trợ doanh nghiệp, đồng thời tiếp tục chỉ đạo các lực lượng chức năng cuả Việt Nam đối phó với dã tâm, thủ đoạn bành trướng của Bắc Kinh trên Biển Đông. Tuần báo Bắc Kinh tiếp tục vu cáo Thủ tướng Việt Nam “chỉ đạo, xử lý không hiệu quả” cái gọi là “bạo loạn chống Trung Quốc”?!. Tờ báo này lật lọng rằng, việc chính phủ Việt Nam nhanh chóng xử lý một số đối tượng gây rối, ổn định tình hình là do “áp lực từ Trung Quốc”…
Người Việt Nam đủ tỉnh táo để hiểu rằng, hoạt động gây rối của một số đối tượng lợi dụng các cuộc tuần hành yêu nước, phản đối Trung Quốc bành trướng Biển Đông, xâm phạm vùng biển chủ quyền Việt Nam để gây tổn hại cho một số doanh nghiệp nước ngoài đã bị nhà nước Việt Nam nghiêm trị, đồng thời động viên và giúp đỡ kịp thời các doanh nghiệp ổn định sản xuất. Đây đâu phải chỗ để tờ báo Trung Quốc nói lời ly gián, chia rẽ người Việt.
Tuần báo Bắc Kinh còn lo sợ Việt Nam sẽ làm gương cho Philippines chống lại tham vọng bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc trên Biển Đông và việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố sẽ dùng mọi biện pháp hòa bình để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, trong đó bao gồm biện pháp pháp lý đã khiến tờ báo này lo sợ sẽ “ảnh hưởng đến quan hệ hữu nghị Việt – Trung”, thật nực cười!
Một thái độ trịch thượng của kẻ cả muốn đồng hóa cả các nước láng giềng thành “chư hầu” của Trung Quốc. Nhưng điều này sẽ không bao giờ xảy ra.
Trung Quốc đã quá đà, dồn Việt Nam đến chân tường mà quên mất câu: “con giun xéo lắm cũng quằn”. Người Việt Nam có câu: “Giàu thì phải Sang – Nghèo nhưng không hèn”. Và đúng như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã dõng dạc tuyên bố: “Chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng, nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó”. Phải chăng, chính những tuyên bố đanh thép của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khiến Trung Quốc phải “đứng ngồi không yên”, phải lo lắng, suy nghĩ để rồi bày mưu tính kế để loại trừ?
Nếu Trung Quốc nghĩ rằng Thủ tướng Việt Nam đang đơn độc thì Trung Quốc đã nhầm to. Thủ tướng Việt Nam không hề đơn độc mà tất cả các lãnh đạo Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân Việt Nam đều kề vai sát cánh, đồng lòng cùng Thủ tướng trong công cuộc bảo vệ chủ quyền Tổ quốc.
Dân tộc Việt Nam, bất luận thời nào đều có quan điểm rõ ràng nhất quán như một lời thề của hồn thiêng sông núi là, cho dù kẻ thù có mạnh đến đâu, hung hãn đến đâu cũng chẳng bao giờ sợ, nếu xâm phạm vào chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc thì đều bị đánh đuổi, nghĩa là sẵn sàng chấp nhận chiến tranh, dù rất yêu chuộng hòa bình. Không ai, đặc biệt là Trung Quốc, nghi ngờ về điều này vì lịch sử đã chứng minh.
Không rõ tinh thần yêu nước của dân tộc Trung Hoa như thế nào, bởi vì từ xưa Trung Quốc chỉ đi xâm lược, mở rộng lãnh thổ, cai trị các láng giềng nhưng khi bị các quốc gia khác tới xâm lược như Nguyên Mông, Anh, Nhật Bản thì họ đều thúc thủ và sự hèn nhát của họ thể hiện trong “Vạn lý trường thành”… thì chỉ có họ mới hiểu, đánh giá được thực chất, sức mạnh kết nối lòng yêu nước của dân tộc họ.
Dân tộc Việt, lòng yêu nước được biểu hiện theo cách như vua Quang Trung từng nói: “Đánh cho để răng đen / Đánh cho để tóc dài / Đánh cho nó nhất chích luân bất phản / Đánh cho nó nhất phiến giáp bất hoàn / Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ“. Về ý chí thì Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm 20 năm hoặc lâu hơn nhưng “dù có đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải dành độc lập”…khác với ý chí xây một “Vạn lý trường thành” của dân tộc Trung Hoa.
Chưa biết chừng, “giấc mơ Trung hoa” sẽ bị tan vỡ bởi bắt đầu bằng “một con kiến lửa đầu đàn” biết đặt lợi ích quốc gia cao hơn tất cả.
Bạch Dương/(Trần Đại Quang's web)/TTHN
 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nhà văn Nguyễn Khắc Phục không bỏ cuộc



Những ngày này, nhà văn Nguyễn Khắc Phục - “Vua kịch bản” lễ hội văn hóa - đang chống chọi với căn bệnh ung thư quái ác.

Nhà văn Nguyễn Khắc Phục không bỏ cuộcVợ chồng nhà văn Nguyễn Khắc Phục -  Ảnh: Nguyễn Việt Chiến
Dường như Nguyễn Khắc Phục đang cố gồng mình lên để bạn bè khỏi ái ngại: “Tớ không chịu thua cuộc đâu các cậu nhé, sau một tháng rưỡi xạ trị, nếu tốt cũng cầm cự được vài năm nữa, hoàn thành nốt mấy cuốn sách đang viết dở!”. Ông bảo tôi: “Xạ trị được mười mấy buổi rồi. Bệnh viện Quân y 103 tốt lắm, biết mình trước đây có thời gian dài ở chiến trường phía nam, cùng cánh lính với nhau cả, họ miễn viện phí và tìm thuốc tốt để điều trị. Xạ trị đợt đầu một tháng rưỡi, nếu chuyển biến tốt sẽ làm tiếp đợt sau. Còn nếu dở thì đành cho về nhà… lúc ấy thì chào các bác!”. Ông nhoẻn miệng cười, nụ cười thật khó khăn. Ông kể, năm ngoái đi khám sức khỏe chẳng thấy u nào. Nhưng tháng 6 năm nay, ông bị khản tiếng, mất giọng, đi khám, phát hiện một khối u như trứng gà trên đỉnh phổi, sinh thiết cho thấy tế bào ác tính không được mổ.
Lắng nghe vợ hát thơ
Tôi lặng người đi khi thấy vợ ông (nhà báo, nhà thơ Trang Thanh) lên giường ngồi cạnh chồng, bảo hát cho ông và tôi nghe bài thơ Đừng đi xa anh nhé! chị mới sáng tác và tự phổ nhạc. Trang Thanh khe khẽ hát, Khắc Phục chớp mắt rồi chìm đắm vào giai điệu thiết tha, sâu lắng, da diết: “Anh đừng xa em nhé anh/Ngoài kia đang đêm bão giông/Đường mơ ta chưa đi hết… Anh đừng đi đâu nhé anh/Ở bên em đây yên lắng/Về bên sông mây trắng/Chiều tương tư mắt cay… Đừng đi đâu nhé anh/Đừng quên anh đã sống yêu em/Như dòng sông ấp ôm mây triền miên/Một dòng sông mây trắng say/Về bên anh như hát ru/Như gối êm ru mắt ta trong nhau… Anh đừng đi xa nhé anh/Vì con, anh hãy gắng lên/Chờ mai khi con lớn khôn, như dòng sông vạm vỡ, sóng cồn mây đại dương…”.
Tôi cũng ngỡ ngàng khi Nguyễn Khắc Phục vùng ra khỏi giường, dẫn tôi đi xem cả chục bức tranh sơn mài khổ lớn, treo khắp mấy gian phòng mà ông đã vẽ cách đây gần chục năm. Ông không hề được học gì về hội họa, chỉ mua vài cuốn sách dạy vẽ tranh sơn mài, mang về đọc rồi mày mò, tìm hiểu và vẽ. Nhà văn cười, chỉ các bức tranh sơn mài: “Tớ mà chết đi thì bán được nhiều tiền đấy!”. Có lẽ ông không nói đùa khi trước đây đã từng bán một vài bức sơn mài với giá vài ngàn đô la Mỹ.
Khi 20 tuổi Nguyễn Khắc Phục đã nổi danh là người viết truyện ngắn hay (như Hoa cúc biển, Ngã ba vô tình) và kịch bản sân khấu Người từ giã cuối cùng sau đó được đạo diễn Đặng Nhật Minh chuyển thể thành kịch bản phim đầu tay Những ngôi sao biển. Ông là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa như: Chiến trường chia nửa vầng trăng, Sơn ca trong thành phố, Tự thú trước bình minh, Nhiệm vụ hoa hồng, Học trò thủy thần, Lạc cầm thứ mười ba và đặc biệt là phim Bọn trẻ đã được trao huy chương vàng cho kịch bản văn học trong Liên hoan phim quốc tế Á - Phi năm 1994.
Ngày Nguyễn Khắc Phục tới bệnh viện xạ trị, tối về chơi với con trai ba tuổi, lúc nó ngủ là ông ngồi vào bàn viết. Ông bảo tạm dừng viết kịch bản sân khấu, lễ hội để dồn sức viết cho xong cuốn sách Những bài học giữ nước. Cuốn này đã viết được 300 trang, còn 200 trang ông cố gắng viết nốt. Nhà văn trầm ngâm: “Đây là công trình lớn, trình bày những kinh nghiệm chống ngoại xâm của dân tộc ta qua các triều đại trong suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước cho đến hôm nay. Cuốn sách này viết dưới dạng bút ký lịch sử nhưng tập hợp đầy đủ các tài liệu của mỗi giai đoạn lịch sử với cách diễn đạt mềm mại. Thực ra có thể gọi đây là công trình khảo cứu lịch sử nhưng không viết theo kiểu hàn lâm để cho các độc giả trẻ tuổi có thể cảm nhận được”.
Truyền cảm hứng yêu nước và văn hóa cho giới trẻ
Nguyễn Khắc Phục cho tôi xem bản thảo cuốn tiểu thuyết Hỗn độn đang viết dở của ông. Trong số 12 cuốn tiểu thuyết của mình, ông tâm đắc nhất là 3 bộ tiểu thuyết: Thăng Long ký, Bay qua cõi chết và Hỗn độn. Ông nói với tôi: “Cậu có biết Thăng Long tồn tại và đứng vững qua ngàn năm bằng cái gì không? Chắc chắn không phải bằng vũ khí, không phải bằng lợi thế về người và đất đai. Theo tôi, Thăng Long đứng vững được qua ngàn năm là do thái độ anh hùng và văn hóa. Thăng Long đứng vững được là còn do các triều đại biết tập hợp tinh thần yêu nước của trăm họ. Đây không phải là câu chuyện của ngày hôm qua và cũng không phải là câu chuyện của riêng ngày mai khi hùng khí Thăng Long vẫn là sức mạnh muôn thuở. Và mình chỉ tận dụng mọi cơ hội, tìm mọi cách để tham gia vào việc truyền cảm hứng anh hùng, cảm hứng yêu nước và cảm hứng văn hóa cho các bạn trẻ”.
Khi tôi hỏi ông lấy sức đâu mà viết tới cả trăm kịch bản sân khấu, điện ảnh, kịch bản lễ hội và năm, sáu ngàn trang tiểu thuyết trong những năm qua thì Nguyễn Khắc Phục nhìn tôi một cách rất hóm hỉnh và đầy ý nhị: “Tôi chỉ là một kẻ ham chơi và ham sống, còn viết thì đã có một đấng nào đó trong con người mình viết ra đấy, tôi có làm gì đâu!”. Nguyễn Khắc Phục là như vậy, dù nho nhã, hiểu biết nhiều nhưng vẫn cứ rất mực khiêm tốn: “Mình chả là cái quái gì trong cuộc đời này, cuộc đời này quan trọng, chứ còn các thứ khác cũng chả là đinh gỉ gì khiến mình phải quan tâm, cứ rong chơi vậy thôi…”. Tuy hồn nhiên bộc bạch như thế, nhưng tôi vẫn thấy sau ánh mắt đăm chiêu, u uẩn của ông, một nguồn mạch sục sôi của sự sáng tạo không bao giờ chịu lụi tắt.
Nguyễn Việt Chiến
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Phá giá tiền và ‘tử huyệt’ khó hồi phục của TQ

Alan Phan: 

Yuan and Dollar
Yuan and Dollar. Ảnh: internet
Một hậu quả nghiêm trọng mà lãnh đạo Trung Quốc chịu hy sinh là niềm tin của nhà đầu tư, đối tác nước ngoài… về dài hạn. Đây sẽ là một “tử huyệt”, khó hồi phục.
Đầu năm nay, một người bạn cũ từ Thượng Hải ghé qua California thăm. Anh là đại gia có tiếng, liên quan đến nhiều dự án rầm rộ,  từ công nghệ cao, sản xuất hàng gia công đến bất động sản, chứng khoán. Dĩ nhiên, sự thành công theo kiểu của anh dựa vào một mạng lưới quan hệ rất chặt chẽ với chính quyền địa phương. Trong khi đó, chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” của Tập Cận Bình đang lan rộng khắp nước, nhất là từ khi Bạc Hy Lai và Chu Vĩnh Khang bị bắt.
Trong bữa ăn, hai vợ chồng tỏ vẻ lo âu, thiếu thần sắc. Dù tôi cũng đang bị cái bệnh suy thận hành hạ, nhưng ngoài việc sụt cân, tôi vẫn nghĩ mình may mắn hơn khi so với cặp tỷ phú đô la này. Sau những cập nhật về tin tức, bạn bè, cùng thời sự nóng bỏng của Trung Quốc, anh đi thẳng vào vấn đề… Anh đã chuyển ra khỏi Trung Quốc gần 40 triệu USD nhưng các tài sản khác còn kẹt lại trong nước vẫn lên đến cả chục tỷ. Anh hỏi có cách gì để “internationalize” (quốc tế hóa) các tài sản này để đặt chúng ngoài tầm tay của chính quyền. Niêm yết sàn chứng khoán Âu, Mỹ… có khả thi?
Tôi không thể tiết lộ chi tiết những chiến lược và chiến thuật tái cấu trúc của một khách hàng; nhưng nói về vĩ mô, tôi nói với anh là “time is running out” (sắp hết thời gian) cho anh, trong một bối cảnh Trung Quốc sẽ còn đối mặt nhiều biến động trong vài năm tới.
Tôi nói đây chỉ là cảm nhận (perception) của một doanh nhân; không phải là một dự đoán (prediction) chính xác về bất cứ kịch bản nào. Nhưng chắc “thánh nhân đãi kẻ khù khờ” nên cái miệng ăn mắm muối, nói bậy bạ của tôi, lại thể hiện một tiên tri “chó ngáp phải ruồi”, khá hiện thực, nhất là trong vài tháng qua, với sự sụp đổ của sàn chứng khoán Trung Quốc và sự phá giá của đồng nhân dân tệ.
Trước hết, xin nói rõ hơn về khác biệt giữa “dự đoán” và “cảm nhận”. Dự đoán từ các chuyên gia, giới hàn lâm… thường dựa vào số liệu, sự kiện, phân tích rồi dự phóng theo nguyên lý khoa học (định lượng hay định phẩm- quantitative or qualitative). Cảm nhận cũng dựa trên vài yếu tố đó, nhưng pha trộn khá nhiều cái trực giác mà người làm ăn gọi là “gut feeling”, một rủi ro có thể đẩy bạn lên cao hay chôn bạn xuống bùn.
Thứ nhất, tôi nghĩ rằng cái gọi là “cuộc chiến tiền tệ” chỉ là một thủ thuật mà các lãnh đạo kinh tế thế giới vẫn dùng hàng ngày, dưới nhiều hình thức khác nhau. Âu Mỹ Nhật… thường kết tội Trung Quốc là cố tình giữ tỷ giá nhân dân tệ quá thấp, rối quá cao… để thu lợi cho cán cân thương mại. Nhưng chính các quốc gia này cũng đã hành xử tương tự khi cần. Và tôi giải thích với người bạn Thượng Hải của tôi những nguyên nhân tôi cho rằng “time is running out” cho anh ta và có lẽ cho khá nhiều nền kinh tế trên thế giới. Hôm nay, cập nhật thêm tình hình kinh tế Trung Quốc hiện nay, tôi có thể kết luận hơi “gây sốc” với cảm nhận của mình.
Sự phá giá của tiền Trung Quốc trong tuần qua chỉ là một cú đánh bắt buộc của chính quyền để cứu những công ty xuất khẩu và tạo thế cạnh tranh về giá cả. Tuy vậy, tôi nghĩ là chính sách này sẽ bị giới hạn nhiều về hiệu quả vì các nước có mặt hàng xuất khẩu tương tự cũng biết phá giá bản tệ của mình để giữ thị phần.
Sự can thiệp của chính quyền Trung Quốc trong tỷ giá cũng giống như những can thiệp vào thị trường chứng khoán… nó có thể giúp ổn định trong một thời gian ngắn, không thể áp dụng lâu dài. Một hậu quả nghiêm trọng mà lãnh đạo Trung Quốc chịu hy sinh là niềm tin của nhà đầu tư, đối tác nước ngoài… về dài hạn. Đây sẽ là một “tử huyệt” , khó hồi phục, khi so với bong bóng tài sản (chứng khoán, bất động sản, hàng tồn kho…) hay so với nợ công địa phương, nợ xấu, tín dụng đen…
Thứ 2, ảnh hưởng lớn hơn có thể làm phần lớn dân số trên thế giới “nghèo” đi một chút là đồng USD sẽ tăng giá mà cơ quan Fed không cần phải hạ lãi suất. Một vài chỉ dấu khiến tôi dự đoán tỷ giá nhân dân tệ với USD sẽ “xuống” thêm khoảng 12% cho đến cuối 2016. Các bản tệ khác của Châu Á cũng sẽ mất khoảng 7% giá trị trong thời gian này (so với USD). Riêng Việt Nam, tình huống này có thể khiến những số nợ thanh toán bằng USD sẽ chịu thêm phí tổn và ảnh hưởng đến doanh nghiệp.
Thứ 3, có thể nói lần này Trung Quốc sẽ xuất khẩu “giảm phát” toàn cầu. Nhu cầu tiêu dùng hàng hóa sẽ không tăng trưởng dù giá có rẻ hơn chút đỉnh, vì người dân đã bị giảm thu nhập và nạn thất nghiệp sẽ gia tăng. Kỳ vọng vào đầu tàu Mỹ cũng sẽ không hiện thực vì hiện nay, kinh tế Mỹ đã có nhiều dấu hiệu mệt mỏi. Dow Jones và chỉ số S&P đang chờ một điều chỉnh mạnh, có thể đến với việc “nổ bong bóng IT” của Silicon Valley.
Tuy không tệ hại và sâu đậm như cuộc khủng hoảng kinh tế của Châu Á năm 1997 hay thế giới năm 2007, kinh tế toàn cầu sẽ chuyển qua một chu kỳ suy thoái, rất khác biệt với những năm go-go của thập niên vừa rồi. Giống như các cuộc khủng khoảng trước đây, các dự án FDI và dòng tiền IDI sẽ ngưng chảy về các kinh tế mới nổi; mà tìm chỗ trú ẩn an toàn ở Âu, Mỹ, Nhật.
Thứ 4, khó tiên đoán hơn là những biến động có thể xảy ra ở Trung Quốc. Trước đây, chỉ những vụ cướp đất, ô nhiễm, thực phẩm độc hại, khoảng cách giàu nghèo… đã tạo nên những cuộc phản kháng khắp nơi, thì giờ chuyện mưu sinh đủ ăn đủ chơi… có thể còn tác động lớn đến mức nào?
***
Bữa ăn tối đó, tôi và người bạn Thượng Hải tình cờ gặp một quản lý quỹ đầu tư Mỹ khi chúng tôi ra về. Sau phần giới thiệu, ông Mỹ hỏi tôi, “anh thấy các khoản đầu tư ở Trung Quốc của tôi có an toàn không?” Tôi cười, nửa đùa nửa thật, “Stay out of China” (Đừng dính vào)…
Alan Phan
Bài trên VNN
Tham khảo thêm
VN đã nâng biên độ giao dịch lên +/- 2%. Theo KT gia Miệt vườn: Biên độ giao dịch là gì: là khoảng cách SBV cho phép các ngân hàng thương mại công bố tỷ giá giao dịch ngoại tệ với đồng Việt nam. Với biên độ +/-2% (áp dụng kể từ 12/8/2015) thì các ngân hàng thương mại được phép công bố giá mua/bán trong khoảng từ 21,240 – 22016 đông/ một đô la Mỹ.
Biên độ giao dịch kể từ 12-8. Nguồn ĐTV
Biên độ giao dịch kể từ 12-8. Nguồn ĐTV
Tương tự, kể từ đầu tuần, đồng Rupiah Indonesia, Baht Thailand, Ringit Malaysia và Peso Philippines đồng loạt hạ giá cùng với Yuan của Trung Quốc. Đây là bước đi nhằm đối phó với Yuan để giữ cho xuất khẩu của các quốc gia này.
Tư liệu: Economist.com
Tư liệu: Economist.com

Phần nhận xét hiển thị trên trang

TÔ HOÀNG cũng là một chuyện lạ khác



Năm, sáu năm trước tôi có dịp tham gia trại viết của ngành Công an. Sắp kết thúc trại, chúng tôi được  đưa đi “ thực tế “tại một trại giam rộng đến cả ngàn héc ta, nằm gọn trong một thung lũng lọt giữa bốn bề núi đá vây quanh, có cả xe ô tô búyt bán vé chở người nhà tới từng khu vực thăm nuôi tù nhân… Nhiều điều quả là đáng sửng sốt, ngạc nhiên vì cái quy mô bề thế, khang trang của trại giam này. Đồng nghiệp văn chương của tôi giở sổ sòan sọat, ghi chép lia lịa lời kể của những anh thiếu úy, trung úy coi các đội tù nhân, của các giám thị, đương nhiên là cả của tù nhân. Tôi không ghi chép được một dòng nào, vì không hiểu sao lòng dạ bỗng lây lan nỗi buồn từ những ánh mắt, những nụ cười không thể nói nên lời của các phạm nhân.

   
                      
CŨNG LÀ MỘT CHUYỆN LẠ KHÁC

                     TÔ HOÀNG  

Lời tác giả : Tối qua, ngày 9 tháng 10 năm 2015 Bản tin Thời sự VTV đưa tin nhân ngày Kỷ niệm lần thứ 70 CMT8 và Quốc khánh 2/9 Chính phủ quyết định ân xá 18.000 phạm nhân.  Xin đăng lại 1 bài báo viết cách đây đã 5 năm.              
           
Sáng nay, ngày 2 tháng Chín năm 2010, các trang báo “Tuổi trẻ” tràn ngập bài, ảnh ngợi ca truyền thống cách mạng hào hùng của quá khứ dựng nước, giữ nước; biểu dương những thành tựu của thời kỳ Đổi mới nhân Đại lễ kỷ niệm 65 năm ngày lập nước. Có một bài nhỏ thôi, e ấp , thẹn thùng nấp ở những trang cuối chứa một dòng tin khiến người quan tâm thế sự đâm ra ngẫm ngợi: Tại Hội nghị chuyên đề về công tác truy nã tội phạm do Bộ Công an tổ chức ở TP Hồ Chí Minh sáng hôm qua, ngày 1 tháng 9, Tổng cục Cảnh sát chống tội phạm cho biết, TÍNH ĐẾN THÁNG 5 NĂM 2010  TRÊN PHẠM VI CẢ NƯỚC CÒN GẦN 18.000 ĐỐI TƯỢNG TRUY NÃ CHƯA BẮT ĐƯỢC, TRONG ĐÓ CÓ GẦN 5.000 ĐỐI TƯỢNG NGUY HIỂM VÀ ĐẶC BIỆT NGUY HIỂM CÒN LẨN TRỐN NGÒAI XÃ HỘI.
Con số 18.000 này là nhiều hay.. hơi nhiều đây? 
            Chợt nhớ, mới mấy ngày vừa qua, báo chí đưa tin, đăng bài về nỗi hoan hỉ, sung sướng của những tù nhân được về đòan tụ với gia đình, về quyết tâm làm lại cuộc đời của anh chị em vào dịp Chính phủ ban lệnh đặc xá nhân những ngày lễ lớn năm nay. Xúc động vì những cháu bé sinh ra trong tù, mẹ dắt cháu ra khỏi trại mà cháu ngơ ngác không hiểu mẹ sẽ dắt cháu về đâu. Mừng vui vì có những cô gái con nhà lành, nghe sui dại cầm một bánh heroin, bị phạt tới 18 năm, nay được ra khỏi trại chỉ sau vài năm thụ án …CÓ TỚI GẦN 17.000 PHẠM NHÂN được phóng thích trong đợt đặc xá này?  Vậy số tù nhân còn tại trại là bao nhiêu ?
Con số gần 17.000 này là nhiều hay… hơi nhiều đây?
Hồi chiến tranh, một Sư đòan ( từ quân sự thường gọi tắt là F.) quân số đủ cũng chòm trèm 5000 quân. Lo nuôi được từng ấy miệng ăn qua một mùa mưa, tìm được cánh rừng nào để cho từng ấy con người ẩn náu tránh sự dòm ngó của các lọai máy bay, các công cụ trinh sát của Mỹ đâu là chuyện đơn giản? Và trong suốt  gần 10 năm đánh Mỹ, trừ đợt Tổng Tấn công Mậu thân 1968  và cuộc Tổng Tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 ra, hình như chưa có trận đánh nào các vị tướng lĩnh của chúng ta cần (hoặc dám) huy động đến 3 sư đòan vào trận!
Ấy thế mà số phạm nhân được đặc xá dịp này là trên 3 Sư đòan ! Và số đối tượng bị truy nã đang lẩn quất ngòai vòng lao lý cũng gần 3 Sư đòan ! Ghê khiếp chứ đâu phải chuyện đùa ?
Tội ác ngày một gia tăng, tội phạm ngày một nhiều là do nhiều nguồn cớ, căn nguyên. Ghen tuông đến mù quáng tạt axít vào mặt nhau, cứa cổ nhau; buôn bán bạc giả, heroin;  tham giàu nhanh, vác tiểu liên A.K nhẩy vào cướp tiền ở nhà băng, xuyến nhẫn ở tiệm vàng…- còng số 8, lao tù là việc đương nhiên. Ít lâu nay, đọc báo gặp nhiều trường hợp thọc dao vào ngực, vào bụng nhau vì những lý do không chủ mưu từ trước, xẩy ra như một sự tình cờ, ngẫu nhiên: va quệt xe trên đường, nặng lời với nhau trên xe búyt, lời qua tiếng lại trên bãi nhậu hoặc trong quán karaokê…Trong những giây phút xử sự như vậy, chắc chắn hệ thần kinh của kẻ phạm tội không bình thường. Vì sao nên nông nỗi ấy? Do cha mẹ không chăm nom, dạy bảo con cái đến nơi đến chốn, do nhà trường không dạy đạo lý làm người cho học sinh, do ảnh hưởng yếu tố bạo lực trong phim ảnh và trò chơi Game, do kỷ cương, phép tắc xã hội lơi lỏng, xuống cấp hay còn do những nguyên nhân sâu sa nào khác nữa đây? Khi điều nghiên từng trường hợp cụ thể chắc chắn không thể bỏ qua được yếu tố tâm lý bị bức xúc. Mà vì sao tâm lý bức xúc ? Vì thất nghiệp dài ngày, phóng xe  ngang dọc phố phường cả tháng trời mà không tìm ra nơi nào nhận vào làm. Vì chưa xoay nổi khỏan tiền trả học phí cho con đến nỗi thằng con học rất giỏi mà đang bị nhà trường đe đuổi học. Vì bà mẹ già mắc bệnh hiểm nghèo mà không có sổ bảo hiểm, tiền viện phí, thuốc thang có thể lên tới vài trăm triệu. Vì tình cờ gặp lại người bạn cũ, nể lời rẽ vào nhà bạn chơi để sửng sốt, ngạc nhiên mới 6, 7 năm không gặp nhau, thằng bạn cũ làm cách gì mà bước vào cuộc sống đế vương xe hơi nhà lầu nhanh đến thế, còn vợ con mình vẫn vặt mũi đút miệng, rúc ráy trong căn nhà cấp bốn hơn chục mét vuông…Với nhiều thứ “ vì” như vậy, phóng xe trên đường duới cái nắng gay gắt và sức nóng như hun đốt lại gặp vài chiếc ụ sửa đường, hai ba đọan phố kẹt xe. Từ đó văng ra một câu chửi tục, một cái bạt tai không kìm nén, để rồi mất hết lý trí mà rút dao ra…Ai hiểu rõ những tâm trạng bức xúc có tên và không tên để giảm bớt mức độ phạm tội cho kẻ gặp phận hẩm hiu đây?             
Năm, sáu năm trước tôi có dịp tham gia trại viết của ngành Công an. Sắp kết thúc trại, chúng tôi được  đưa đi “ thực tế “tại một trại giam rộng đến cả ngàn héc ta, nằm gọn trong một thung lũng lọt giữa bốn bề núi đá vây quanh, có cả xe ô tô búyt bán vé chở người nhà tới từng khu vực thăm nuôi tù nhân… Nhiều điều quả là đáng sửng sốt, ngạc nhiên vì cái quy mô bề thế, khang trang của trại giam này. Đồng nghiệp văn chương của tôi giở sổ sòan sọat, ghi chép lia lịa lời kể của những anh thiếu úy, trung úy coi các đội tù nhân, của các giám thị, đương nhiên là cả của tù nhân. Tôi không ghi chép được một dòng nào, vì không hiểu sao lòng dạ bỗng lây lan nỗi buồn từ những ánh mắt, những nụ cười không thể nói nên lời của các phạm nhân. Một buổi sáng giám thị trại đưa đi thăm khu Chùa Một cột, khu Đền Hùng, khu tưởng niệm các danh nhân … được xây cất trong trại. Những tưởng tất cả chắc nhỉnh hơn mô hình chun chút thôi . Điều hiển hiện trước mắt thật không ngờ . Chùa Một cột y như ngôi chùa  thật ở Hà nội. Khu tưởng niệm các vua Hùng cũng có đền thượng, đền hạ , cũng phải leo lên, lần xuống vài trăm bậc đá đến vãi mồ hôi hột . Khu tưởng niệm các danh nhân gồm ba khối tượng của ông Khổng Tử, ông Victo Huy gô, ông Lỗ Tấn. Mỗi ông đều được đúc bằng bê tông cốt thép, đều lừng lững to, lừng lững cao đến 5, 6 mét, trầm tư ngồi nhìn nhau . Anh Giám thị hướng dẫn đi tham quan rỉ tai tôi, thỉnh thỏang phạm nhân ở các đội được đưa đến đây để ngắm ngợi các cụ mà suy nghĩ về bổn phận và đạo lý làm người lương thiện! Nghe vậy, biết vậy và gật gù vầy vậy. Ngắm những đường nét uốn lượn tuyệt vời trên mặt, theo nếp áo và hình hài cân đối, hài hòa của ba bức tượng, một ý nghĩ hay hay chợt lóe trong đầu tôi:  Anh nghệ sỹ tù nhân – tác giả của ba bức tượng kia gắng gỏi, dồn hết tài năng làm cho ba bức tượng thập đẹp, thật sinh động cốt mong được giảm bớt số năm tháng “ ngồi bóc lịch”? Hay biết đâu đấy, trong hòan cảnh lao lý, giữa sự cô đơn vây bủa xung quanh, kéo dài triền miên hết ngày này qua tháng khác, bỗng dưng tình yêu, cảm hứng nghệ thuật đích thực, những giây phút thăng hoa bỗng tìm đến với anh ta chăng ?
Gần xế trưa  chúng tôi được đưa tới thăm khu hành chính mới đang xây cất của trại giam. Tôi chú ý tới một căn nhà  xây sắp xong, với hàng trăm tù nhân đang làm việc, đứng ngay gần cổng ra vào.Tòa nhà khá đồ sộ, xây theo phong cách Pháp với những hàng bậc tam cấp lát đá, với bốn chiếc cột to, cao, đỡ lấy mái vòm có hình đắp nổi gương mặt các nữ thần, với lối ra vào rộng thênh ở cửa chính và lối ra vào ở các cửa phụ. Các ô cửa đã lắp kính màu nâu nhạt, khá hài hòa với mầu vôi nâu ngả vàng sơn quết cả tòa nhà, tạo nên một vẻ trang nghiêm mà cổ kính. Quái , nom tòa nhà cứ hao hao giống tòa nhà ở đâu đó mình đã từng gặp? Ồ, thì ra mô phỏng theo tòa nhà của Ủy ban nhân dân T.P Hồ Chí Minh. Thấy tôi chăm chú ngắm nhìn tòa nhà, anh Giám thị mau miệng giới thiệu ngay với tôi:
-Chưa gắn hàng chữ dắp nổi trước tiền sảnh nên anh không rõ đó thôi. Đấy sẽ là Nhà truyền thống của trại giam này. Tù phạm trước khi được về với đời thường cũng cần ghi nhớ những trang sử vẻ vang cùng thành tích mấy chục năm của trại chúng tôi; còn đối với tù phạm mới thì Nhà truyền thống này sẽ hệt như những bài học của buổi khai trường!
            Nhà truyền thống của một trại giam? Nó sẽ tồn tại mãi mãi, từ năm này qua năm khác, từ đời này qua đời sau sao đây ?
Cầu cho quốc thái, dân an, Nghiêu Thuấn trị vì…Để mọi người được sống sung túc trong tình thương yêu đùm bọc nhau. Để không còn tội ác, không còn phạm nhân. Để các khu trại giam biến thành bãi sắn, nương dâu, hoặc xây những khách sạn 5 sao, các khu resort. Để các bác công an đỡ vất vả, nhọc mệt  tạo nên công tích trong việc cai quản, răn dạy phạm nhân.
Bởi lẽ công việc giữ gìn lề thói “đói cho sạch, rách cho thơm” của ông bà, lập lại kỷ cương, trật tự xã hội, làm thui chột các mầm đọt tội ác đâu chỉ chất riêng lên đôi vai các bác công an ? 



( từ Tập tản văn “ Nỗi buồn lâu quên” NXB Hội Nhà văn 2014 )

Phần nhận xét hiển thị trên trang

NGUYỄN KHẮC PHỤC điên từ bao giờ ?


Giống như tất cả anh chị em cùng thế hệ, Nguyễn Khắc Phục trong kiệt cùng những chịu đựng, những cố gắng và sự tự hòan thiện mình như thế  chỉ để mong được kết bện máu thịt với xứ sở của mình, dân tộc mình, để hiểu ra rằng nhân dân là khái niệm có thật chứ không phải là những bích trương, những tem mác lòe lọet ai đó cố tình trương ra nhằm che đậy những mục đích vụ lợi bẩn thỉu. Sang Nga, Nguyễn Khắc Phục quá sửng sốt khi nhận ra người mình sao chép vội vã, không chọn lọc, chưa kịp tiêu hóa những mô hình của Nga; dù quê hương còn lạc hậu, đói nghèo anh phản ứng quyết liệt thái độ kể công hoặc ban ơn của siêu cường… Vốn tính nhậy cảm kết hợp với một bộ óc thông minh, cặp mắt quan sát nhanh nhậy hiếm có, Nguyễn Khắc Phục dị ứng rất nhanh với cái đơn điệu, tẻ nhạt, với thứ trì trệ, ngưng đọng, với bệnh công thức, giáo điều của xã hội Nga- những gì mà sau này trong thời kỳ Đổi mới chính người Nga đã lên án gay gắt...


GÃ PHỤC ĐIÊN  TỪ BAO GIỜ ?

TÔ HOÀNG

1-
Tôi viết những dòng này  không nhắm “rủa” ông bạn vàng của tôi- nhà văn Nguyễn Khắc Phục. Cũng không nhắm biện minh cho những gì anh đã và đang nói; đã và đang làm hôm nay. Tôi kể lại câu chuyện xẩy ra với anh cách đây đã 30 chục năm mà tôi là một chứng nhân.Trước hết  bởi một nỗi day dứt lâu nay thường ám ảnh tôi: Mình biết một sự thật về Phục mà khỏang chục năm trước không thể kể, không thể viết, bây giờ được “tháo cũi sổ lồng“, sao mình không kể đi ? Nếu bỗng dưng một ngày nào đó ông bạn nhiều bệnh họan, hay nghĩ ngợi, thích dâng hiến đến kiệt cùng sức lực này bỗng nhiên đốc chứng muốn đi  theo đám bạn bè Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Nguyễn Lâm, Nghiêm Đa Văn, Tường Vân, Phạm Tiến Duật, Lý Biên Cương…? Tôi viết còn vì một thôi thúc nữa: Sao thiên hạ bây giờ nhiều người mắc phải căn bệnh “quay quắt” khốn khổ đến như vậy? Họ đang cố thanh minh thanh nga rằng họ sáng suốt, họ rạch ròi đã từ rất  lâu ; họ đã biết xua tay không hề tham dự vào công việc này, sự kiện nọ; họ bị bắt buộc, bị thúc ép, họ không mù quáng, cuồng tín đâu, nhưng họ đơn chiếc, lẻ loi,  mà đã là số ít họ “đành “ phải theo số đông ..
Tôi sẽ kể lại chuyến đi Liên Xô học đạo diễn điện ảnh VGIK của Phục vào mùa hè năm 1980.
 Có người nói, anh sang Moskva không học nổi nghề này nên “bị đuổi” về nước. Có người nói anh ở nước Nga đâu đó một năm rồi mới về Việt Nam. Lại có người khẳng đinh anh chỉ ở Moskva chừng 2 tháng. Lại có người vắn gọn: Gã ấy làm sao sống nổi ở nơi ấy thì bỏ về thôi...
Tôi là người bạn đồng hành lớn tuổi duy nhất cùng sang Moskva với Phục chuyến ấy, tôi cũng không rõ nguyên do nếp tẻ ra sao. Thành thử nghe gì, thấy gì cứ kể lại để bạn hữu, đồng nghiệp của anh biết cho vui thôi... 
Phục lưu lại Moskva chừng  hơn tháng.
Nhớ trước hôm ra sân bay về nước đâu đó hai, ba ngày, Phục mở toang cái vali và gọi bạn bè tới:  “Các cậu muốn gửi cho bố mẹ, vợ con phim ảnh, đồng hồ báo thức, sâm nước…( những mặt hàng dạo đó về Việt Nam bán chạy, lời lãi khá cao) cứ ném ráo vào đây, tớ sẽ chuyển giùm cho. Nhưng làm chứng giúp tớ một điều: Tớ sang Nga và quay về ngay như thế này không phải để đánh quả đâu nhé!”
Ngược thời gian, cách đó chừng ba tuần, tôi theo Phục lên Sứ quán Việt Nam tại Liên Xô. Một gã quan chức mặt bự thịt, mắt ti hí gian giảo vừa nhìn thấy Phục đã cao giọng phủ đầu: “Anh thừa biết, bao nhiêu người mơ ước mà không được sang đây. Còn Nhà nước bỏ tiền mua vé máy bay, chi tiền cho anh ăn học ở đây 5 năm nữa, bỗng dưng anh nằng nặc đòi về lại VN là sao? Anh dám phung phí từng ấy tiền bạc của Nhà nước a?”.
Gã quan “Sứ” thao thao, hùng hổ đến tóat cả mồ hôi  trán. Phục im lặng, cười cười. Chờ cho gã kia đã thấm mệt, Phục hỏi: “Thưa, ông đã nói hết chưa? “. Gã  kia chán: “Hết rồi!”. Phục: “Bây giờ tôi xin phép được hỏi lại ông. Đúng là Nhà nước đã tốn từng ấy tiền mua vé máy bay cho tôi . Nhưng sang tới đây tôi tự thấy mình sẽ không học tiếp nổi. Vậy xin hỏi ông,  Nhà nước có nên tiếp tục tốn tiền để cho một thằng như tôi ở lại đây thêm 5 năm nữa, hay nên cho tôi về nước để giảm bớt chi phí ăn học của tôi 5 năm tới?”. Lẽ đương nhiên quan “Sứ” đuối lý đành ký xọet  vào tờ đơn để Phục “hồi hương”!

Trước khi kể tiếp chuyện du ký ngắn ngày của Phục tại nước Nga, người kể chuyện xin được lược ghi tiểu sử trích ngang sáng tác của Phục –tính đến thời điểm đó:
Bạn văn chương cùng lứa tuổi chúng tôi hẳn còn nhớ, khỏang những năm 1966, .1967,1968 những truyện ngắn của Đỗ Chu hầu như thống lĩnh văn đàn văn xuôi của những cây bút trẻ mới xuất hiện trong những năm đầu chiến tranh chống Mỹ. Bất ngờ, trên tạp chí “ Văn nghệ quân đội” in truyện ngắn “ Hoa cúc biển “ và ngay sau đó là “ Ngã ba Vô Tình” của Phục. Vẫn là chất trong sáng, nhân hậu, đầy chất thơ  như văn chương của Đỗ Chu, mà khác hẳn Đỗ Chu, mà tài năng ngang ngửa Đỗ Chu. Một cú mở đầu ngọan mục khiến thiên hạ lao xao ngơ ngác. Và Phục nhanh chóng gia nhập hàng ngũ cùng những Thi Hòang, Hòang Hưng, Vũ Quần Phương, Lưu Quang Vũ, Bằng Việt… Rồi Phục lên đường vào Chiến trường Khu V để không bao lâu sau có ngay trường ca “Ăn cốm giữa sân”, kịch “ Vườn thày Năm”. Vào năm 1977,1978, anh có kịch bản văn học “ Thành phố không bị chiếm” ( Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới – Hội nhà văn đã in vở kịch này thành sách), đạo diễn Phạm Kỳ Nam dựng thành một bộ phim truyện nhựa dài 9 cuốn với tên mới “ Tự thú trước bình minh”. Từ chiến tranh bước ra, 30 tuổi, gia tài văn chương như vậy đâu có phải là mỏng ?

Chín tháng học tiếng Nga ở Thanh Xuân, Phục vui vẻ, hào hứng. Và thấy rõ, Phục cũng hào hứng với chuyến ra nước ngòai lần đầu. Sau tháng 4 năm 1975, Phục lang thang ở Sài gòn, vùi đầu đọc đủ các lọai sách, tiếp xúc với đủ lọai người, làm quen và hưởng thụ nền văn minh Akai, Honda chừng hai năm. Anh tỏ ra “ sành điệu “để “ tân trang” cho tôi nào giày mũi quả táo, quần ống loe , áo chim cò thắt ngang lưng...những mốt thời thượng thuở ấy của Sài Gòn.  Nhưng tôi đoan chắc rằng, Phục vẫn rất yêu, thậm chí sủng mộ Liên xô và nền văn hóa Nga và Xô viết, như tất cả anh em thế hệ tôi. Chả thế mà, khi con trai tôi chào đời, nhờ Phục đặt tên giúp, anh đặt tên cháu là Tô Đòai Minh. Phục giải thích cho vợ chồng tôi hiểu “Đòai Minh tức Phương Tây sáng”. Cái Phương Tây ấy, ở thời điểm ấy, tôi đoan chắc đối với Phục tuyệt nhiên không phải, chưa phải là Pháp, là Nhật, là Mỹ như sự ngưỡng mộ của các bạn trẻ bây giờ .
Vậy sao Phục lưu lại ở Moskva chỉ hơn một tháng và nằng nặc đòi về?

2-
Máy bay rời sân bay Nội Bài (hồi đó những bác thợ cày quanh vùng vẫn có thể ngang nhiên khóac áo tơi lá, thung thăng dắt trâu cắt qua đường băng) vào một chiều mùa hè mây giăng mù mịt, mưa rơi tầm tã. Mù mịt, tầm tã như thế qua đất Lào, Miyama . Và máy bay hạ thấp dộ cao, nghỉ tiếp dầu ở hai sân bay  Can quýt ta(Ấn độ), Ca ra chi ( Pakistan). Vào tới phòng đợi sân bay là chìm ngập trong những quầy hàng đủ lọai quần Jeal, áo Pul, rượu mạnh ;  là lần đầu nhìn thất tivi mầu với các chương trình quảng cáo của Nhật, của Mỹ . Cái gì cũng mới, cũng lạ đến hoa cả mắt, chóng cả mặt. Phục tỏ ra sành sỏi gỉai thích cho chúng tôimọi thứ . Thiếp ngủ chừng 7,8 tiếng đồng hồ nữa, 3 giờ sáng xe chở chúng tôi vào thành phố Moskva. Ấn tượng đầu tiên -thành phố chỉ một màu điện đỏ vừa đủ soi tầm nhìn ( sau này chúng tôi biết rằng, người Nga không khuyến khích vui chơi về đêm, cần ngủ sớm để tái sản xuất sức lao động, vì thế khỏang 9, 10 giờ tối nhà máy đèn được lệnh giảm công xuất). Tuyệt nhiên không hề có những tấm biển nhấp nháy đèn đủ màu để quảng cáo hàng. Thỉnh thỏang lướt qua cửa xe là những khẩu hiệu thắp bằng bóng điện to đùng: “Liên xô -trụ cột hòa bình” , “Vinh quang thay Đảng cộng sản Liên xô”, “Nguyên tử dùng vào mục đích hòa bình”, “ Lao động là vinh quang”…Chỉ những tấm biển khẩu hiệu ấy, Phục nói bên tai tôi: “Y hệt bên nước mình!”

Chúng tôi phải theo học 9 tháng tiếng Nga nữa tại Khoa dự bị tiếng, Đại học Lomonosov. Người ta giải thích, học nghề đạo diễn, tiếng Nga phải giỏi cả nghe lẫn nói. Đã học một năm tiếng Nga tại Trường Ngọai ngữ Thanh Xuân. Lại thêm một năm ngọai  ngữ nữa. Sau chiến tranh Phục đang ấp ủ bao nhiêu dự định cho tiểu thuyết, trường ca, kịch bản điện ảnh và sân khấu (như ta biết, sau khi ở Nga về, Phục lần lượt cho ra đời bộ ba tiểu thuyết “ Học phí trả bằng máu” , “Đầu sóng”, “Thành phố đứng trước biển” và hàng chục vở kịch sân khấu…). Phải chăng, đây là lý do để Phục đòi trở về nước?

Phục theo học khóa tiếng Nga buổi đực buổi cái. Không cặp, không túi, cuốn vở tập nhét túi quần. Thời gian còn lại thường ngồi cà phê hút thuốc, đăm chiêu. Hoặc ra rạp xem phim để về riễu cợt, chê bai các phim công thức, giáo huấn của Điện ảnh Xô Viết. Ở lớp dự bị tiếng, dù học để tăng cường khả năng nghe và nói tiếng Nga nhưng cũng đủ các môn như địa lý, lịch sử, văn chương, chính trị. Giáo trình phát cho sinh viên, Phục lật xem rất nhanh và phát hiện cũng rất nhanh: “Địa lý, sử sách, văn chương ráo trọi đều nói về người Nga, nước Nga thôi. Không một dòng nào đả động đến văn hóa văn minh thế giới cả. Thế nghĩa là làm sao?” -Phục lưu ý chúng tôi. Ở Moskva đâu đó chừng ba tuần, Phục mua một  tấm bản đồ thành phố Moskva về mở rộng trước mặt chúng tôi để có  thêm một phát hiện nữa : “Người Nga tự hào coi  Moskva là trung tâm văn hóa của nhân lọai. Các cậu xem này, đến ông Paven Coorsaghin, bà Doia Cosmedienskaia còn được đặt tên cho đường phố. Thế mà đố tìm ra một bức tượng, một dãy phố nào mang tên Xervangtet, Xechspia, Dicken , Huy go hay ông bà Quyri?”.

Nhưng điều khiến Phục buồn bã, nghĩ ngợi nhiều hơn cả có lẽ là tình trạng “cứu đói khẩn cấp” – như mấy chữ Phục thích dùng dạo đó, của lưu học sinh, nghiên cứu sinh người mình ở Moskva. Sáng lên lớp, trưa ăn nguội ở búyphê, ngay sau đó túi nải khóac vai, như một đàn kiến tha mồi,  chúng tôi đã vội vã sục sạo các ngõ ngách Moskva để lùng hàng; hoặc tới các khách sạn có người quen từ Việt Nam sang để bán hộ hàng kiếm chút lời, nhờ vả để gửi hàng về cho người thân trong nước. Còn phải 3,4 năm nữa người Việt lao động xuất khẩu mới sang bên này, nhưng việc mua bán, nhận hàng sang gửi hàng về nhà đã trở nên họat động sôi sục, năng động và thiết thực nhất của sinh viên, nghiên cứu sinh Việt nam. Bởi một lẽ đơn giản: gửi về được tới Việt Nam cứ 5 cuốn phim “ Svetma” Nga bán đi đã bằng một tháng lương, một chiếc bàn là Nga bằng 4, 5 tháng lương của cha mẹ, vơ con mình. Mà ở quê hương thì đang đói, đang  thiếu đú mọi thứ. Từ mảnh vải hoa, chiếc soong nhôm, cái phích đựng nước đến sợi mayso, cái kim  khâu,  cục xà phòng đen, nắm bùi nhùi bằng thép để cọ bựa cơm trong nồi….Cái gì gửi  được về Việt nam cũng đều có giá , đều được cha mẹ, vợ con viết thư sang tỏ ý hỉ hả, mừng rỡ coi người chồng, đứa con như một người anh hùng, một bậc cứu tinh. Những chàng lính, những cô thanh niên xung phong chúng tôi, thóat chết vì chiến tranh, vội vã lấy vợ lấy chồng, vội vã sinh con để nối nghiệp tổ tông, phải lao vào cuộc mưu sinh này còn là điều hợp lẽ. Đám trẻ hơn, mới 16, 17 tuổi, vừa tốt nghiệp phổ thông , sang đến đây cũng đã biết bó mồm bó miệng, dành dụm từng đồng rúp học bổng để mua hàng Nga gửi về trợ giúp cha mẹ nuôi đàn em nhỏ. Mua chân gà, cẳng heo ( những thứ ở cửa hàng bán từng ký người Nga mua về cho chó ăn ) để nấu và đưa ra ngòai cửa sổ giá rét thành thịt đông ăn dần cả tuần với bắp cải luộc. Thay nhau nghỉ ở nhà, rắc gạo rủ chim bồ câu vào phòng, bắt chim để hầm để ninh, để bớt tiền mua thịt thà, bơ sữa. .. Chứng kiến các em các cháu như đàn kiến tụ vào, tỏa ra ở các cửa hàng cửa hiệu để kiếm một lọai kháng sinh, chiếc đồng hồ báo thức gửi về cho cha mẹ , nghĩ mà tội nghiệp. Đàn chú, đàn anh đã không biết tới tuổi thanh xuân vì bị cuốn vào cuộc chiến; chả lẽ đến lượt các em, các cháu cũng không được sống đúng tuổi hồn nhiên, vô tư của chúng vì miếng cơm manh áo sao đây? Loắt choắt, bé như viên kẹo cũng len lỏi, chen lấn giữa các bà phụ nữ Nga bụng to như cái thúng để giành giật mua cho được mươi mét vải láng đen, dăm ba chục mét vải màn .Giữa mùa đông giá rét, các em các cháu tóat mồ hôi, lôi kéo, khênh vác hàng chục thùng gỗ nặng chịch khỏi cửa hàng.Hỏi ra, mỗi thùng chứa khỏang 50 cục xà phòng đen..

Phục không đi “đánh hàng” nhưng dù ngồi ở ký túc xá, tối tối Phục vẫn phải chứng kiến cái không khí hỉ hả, mãn nguyện hoặc than van, ủ dột vì bị làm nhục sau một buổi chiều đi “đánh quả” trở về của đám đồng hương lớn bé. Những lúc như thế, anh thường im lặng, hít hết điếu thuốc này tới điếu thuốc khác và dù râu tóc chưa bạc phếch như bây giờ, nhưng tôi nhớ như in gương mặt anh nhăn nhúm, méo mó y như một quả táo khô.
Nhớ một lần, sang chơi bên Nhạc viện Chaikovsky về, Phục bỏ cơm, chăn trùm kím đầu, tôi đã ngỡ anh bị cảm lạnh. Nằm lâu lắm, Phục hất chăn ra. nhỏ giọng nói với tôi: “ Thằng K, thằng H bên ấy hôm nay nói thẳng vào mặt mình: Học hành, nghiên cứu làm gì. Hãy vứt ráo sách vở vào sọt rác mà đi buôn thôi! Đã tới thời buổi thằng nào nhiều tiền , thằng ấy là thống sóai! Có tiền thì bằng cấp, chức tước, tiếng tăm, thậm chí đến quyền lực cũng mua được tất. Có đúng là đã xuất hiện thời buổi ấy rồi không, ông?”.
         Có thể vì bức tranh ảm đạm của người Việt ở Moskva như vậy mà Phục nằng nặc xin về nước? …

3-
Trở về với chuyện “ Tại sao họ lại giống mình thế ?”. (Sau này, khi tâm sự với một anh bạn Nga, anh ta sửng sốt hỏi lại chúng tôi: “Tại sao chúng tao giống chúng mày a?  Phải ngược lại chứ! Chúng mày giống chúng tao mới phải. Thi hào Puskin chẳng từng nói : Tất cả đều từ ống tay áo này mà bay ra là gì?).
Phục tìm đâu được quyển Điều lệ của Đòan Comxomon (Đòan Thanh niên Cộng sản) Liên Xô quăng cho chúng tôi. “Đọc ngay phần mở đầu thôi! Có phải trong ấy ghi Đòan thanh niên là cánh tay, đội hậu bị của Đảng không? Chả lẽ các bậc tiền bối của chúng ta chỉ là những người dịch tồi thôi à?”. 
            Thời gian đầu, sinh viên Việt Nam khoa dự bị tiếng Nga được bố trí ở tầng 3, tầng 4. Ít lâu sau bị dồn hết lên tầng 8-tầng cao nhất, cùng với sinh viên các nước châu Phi. Lý do đơn giản, vì hay mang nước mắm đi lại trong tháng máy, hay nướng chân gà, chân giò heo trong khu bếp chung - những mùi vị mà người Tây rất dị ứng. Ở đầu thang gác lối xuống tầng dưới có treo một tấm pano dán ngay ngắn  chừng trên 20 tấm bưu ảnh về đời sống và họat động cách mạng của ông Lê Nin. Một buổi sáng, trên tấm pano ấy  có ai bóc lấy đi 4tấm . Những ô trống quả là nom như những con mắt mù. Buổi chiều, ông phụ trách người nước ngòai - một sỹ quan Hồng quân cấp tá  thời chiến tranh- bỗng triệu tập tất cả sinh viên Việt Nam trong một cuộc họp. (Tôi xin nói ngay, tất cả những cựu sỹ quan Liên Xô đã từng tham gia Chiến tranh cứu nước năm 1941-1945 như ông phụ trách chúng tôi và những người chúng tôi có dịp làm quen sau này, đều rất nhân hậu, rất thương yêu, tôn trọng sinh viên, nghiên cứu sinh Việt Nam nói chung, cánh lính chúng tôi nói riêng. Đối với đám sinh viên là lính chúng tôi, điều đầu tiên các cựu binh Nga thường quan tâm là, vấn đề tiếp tục việc học hành và giải quyết công ăn việc làm cho các quân nhân Việt Nam sau chiến tranh ra sao? Bởi theo họ, đây từng là vấn đề đeo đẳng lâu dài và làm đau đầu xã hội Xô Viết nhất hàng chục năm sau khi chiến tranh kết thúc). Tôi còn nhớ rõ, sau khi ông già cựu binh người Nga giải thích lý do triệu tập cuộc gặp mặt, Phục là người giơ tay đầu tiên cật vấn, đại ý: Tại sao ở đầu bên kia tầng 8 có rất đông sinh viên châu Phi mà mất mấy tấm bưu ảnh Lê Nin, ông lại triệu tập riêng sinh viên Việt Nam? Đợi Phục nói dứt, ông già Nga mỉm cười hiền lành trả lời: “Nếu các sinh viên châu Phi mà yêu ông Lênin đến như vậy, chúng tôi thật mừng! Các bạn Việt Nam cứ bình tĩnh góp ý với nhau, làm như thế là không văn hóa đâu!”. Hôm sau, họp riêng Việt Nam với nhau, chúng tôi tìm ngay ra, thủ phạm là một em sinh viên quê Nghệ An đã bóc bốn bức bưu thiếp Lênin để gửi về quê cho cha mẹ. Còn lý do à? Đơn giản lắm. Để bớt được vài chục xu mua 4 tấm bưu ảnh-số tiền ấy có thể mua 2 cái bắp cải. Tối ấy Phục lục xục trong chăn mãi không ngủ, khói thuốc lá phun kín căn phòng , anh cười nói với chúng tôi: “Cái anh vô sản Việt Nam yêu lãnh tụ Lê Nin quả là theo đúng cách Việt Nam!”.
            Một chuyện khác. Gần ký túc xá của chúng tôi, có một khuôn viên nhỏ trồng cỏ xanh, xây mấy chòi ngồi nghỉ, mấy cái đu bập bềnh giành cho bọn trẻ nhỏ. Những buổi chiều tôi không đi dạo phố xá lùng hàng, Phục thường rủ tôi ra đấy ngồi. Ở nơi này chúng tôi đã kết bạn với một ông già, cựu binh Nga khác. Ông già Nga thường ra đây chơi với cậu cháu nội, tên Xêriogia, bẩy tuổi. Cậu bé ưa trò sưu tầm tem. Một lần, nhận thư vợ từ Hà Nội gửi sang, tôi bóc khéo con tem vẽ anh bộ dội Việt nam, tay cầm khẩu A.K đứng dưới lá cờ Tổ quốc mang tặng Xêriogia. Dĩ nhiên chú bé Nga rất thích con tem này . Ngắm nghía con tem một lúc, chú bé Nga thản nhiên nói với ông nội và hai chúng tôi: “Người là của các ông. Vũ khí là của chúng tôi!”. Tôi và Phục thật bất ngờ. Ông cựu sỹ quan Hồng quân lúng túng, ngượng ngùng  hồi lâu, mãi một lúc sau mới nói được: “Tôi xin lỗi hai anh. Ông bà nội ngọai nó, bố mẹ nó không bao giờ dạy nó như vậy cả. Nhưng còn ở nhà trường và xã hội…”. Trên đường trở về ký túc, Phục ngúc ngắc đầu rên rẩm: “Thật không thể nào hiểu nổi! Thật không thể nào …”. 
            Câu chuyện kể về Phục hình như đã quá dài. Trước khi kể nốt hai mẩu chuyện cuối, nên chăng lặp lại điều đã nói. Phục hiểu sâu sắc và đánh giá rất cao nền văn hóa Nga của Puskin, Lev Tolstoi, Repin, Levitan, Tuorgenev, Chekhov…Anh nhiều lần nói với tôi: Văn học hiện sinh Tây Âu được khởi nguồn bởi chính ông già điên họ Đốt. Với chế độ Xô Viết cũng thế. Phục nói, nước Nga hồi cuối thế kỷ 19 thường bị phương Tây coi thường như xứ sở của những gã nghiện rượu, suốt mùa đông ngủ li bì trên lò sưởi đắp đất. Công lao ông Lênin là ở chỗ, ông ta đã quất roi vào đít những gã mudic lúc nào  cũng say bí tỉ ấy, ép họ tới làm việc ở các công trường cộng sản. Do vậy nước Nga vượt qua được đói nghèo của những năm Tân kinh tế, thực hiện điện khí hóa tòan quốc để rồi lập nên hai kỳ tích Mỹ, Anh, Pháp phải cúi đầu bái phục: đánh thắng bọn phát xít Đức và phóng ông Gagarin lên vũ trụ .
Vốn tính nhậy cảm kết hợp với một bộ óc thông minh, cặp mắt quan sát nhanh nhậy hiếm có, Phục dị ứng rất nhanh với cái đơn điệu, tẻ nhạt, với thứ trì trệ, ngưng đọng, với bệnh công thức, giáo điều của xã hội Nga- những gì mà sau này trong thời kỳ Đổi mới chính người Nga đã lên án gay gắt. Phục từng áp tải xàlan chở gạo, đường, mì chính từ cảng Hải Phòng ra vào tiếp tế cho các tỉnh phía nam khu IV cũ trong những năm máy bay phản lực, hạm tầu Mỹ phong tỏa  gắt gao vùng biển miền Bắc. Anh từng  theo du kích Gia rai, Edê ra phục kích xe giặc trên đỉnh đèo Măng Giang, từng đạt kỷ lục vác bao gạo nặng nhất từ các làng ven biển miền Trung, len lỏi qua các đồn bốt, các chốt phục kích của bọn Mỹ lên chiến khu để cứu đói cho đồng chí dồng đội. Phục không từ nan hiểm nguy, gắn bó từng vui buồn, âu lo  với cuộc sống của bà con dân thường, bộ đội, du kích ở những vùng chiến sự ác liệt nhất . Không hút sách, không trai gái chơi bời, không thu vén bất cứ thứ tài sản gì cho bản thân khi sống ở các đô thị miền Nam sau ngày giải phóng. Giống như tất cả anh chị em cùng thế hệ mình, trong kiệt cùng những chịu đựng, những cố gắng và sự tự hòan thiện mình như thế  chỉ để mong được kết bện máu thịt với xứ sở của mình, dân tộc mình, để hiểu ra rằng nhân dân là khái niệm có thật chứ không phải là những bích trương, những tem mác lòe lọet ai đó cố tình trương ra nhằm che đậy những mục đích vụ lợi bẩn thỉu. Sang Nga, Phục quá sửng sốt khi nhận ra người mình sao chép vội vã, không chọn lọc , chưa kịp tiêu hóa những mô hình của Nga; dù quê hương còn lạc hậu, đói nghèo anh phản ứng quyết liệt thái độ kể công hoặc ban ơn của siêu cường; anh không co rúm người, khiếp hãi trước những gì của thế giới văn minh, hiện đại; sau hết anh đau đáu xót xa, phập phồng dõi theo thân phận dật dờ , truân chiên của đồng bao mình chưa kịp hồi phục sau cuộc chiến này đã phải bước vào một cuộc chiến khác…

                                      

HAI MẨU CHUYỆN CUỐI VỀ PHỤC
Cô giáo dạy tiếng Nga của bọn tôi tên là Galina Vaxilievna. Tóc màu hạt dẻ, mắt mơ màng , nụ cười dịu dàng, hệt như những nhân vật nữ trong “Chiến tranh và Hòa bình” , “ Suối mùa xuân”, “ Ba chị em”, “ Vườn anh đào”…mà chúng tôi thường tưởng tượng ra khi còn ở Việt Nam.Cô giáo Galina có lẽ còn ít tuổi hơn Phục. Phục tới lớp thất thường, chúng tôi vẫn nhận ra mối thiện cảm vượt mức bình thường cô giáo Galina dành cho Phục; dù ngồi trong lớp thỉnh thỏang Phục thường nhăn nhó như khỉ ăn gừng vì bị cơn đau bao tử hành hạ..
Vào một sáng Chủ nhật, cô Galina đưa lớp tôi tới Quảng trường Đỏ, viếng thăm ông Lênin. Mục đích để sáng hôm sau chúng tôi viết và đọc ngay tại lớp những gì đã nhìn, đã cảm nhận được.
Sáng thứ hai, một, hai, ba sinh viên đọc trước. Lẽ dĩ nhiên quan sát và ý nghĩ giống nhau. Cô giáo Galina hệt như đã chờ đợi từ lâu bài luận văn tiếng Nga của Phục. Cũng là trời xanh mây trắng. Cũng là những viên gạch Hồng trường đã in dấu chân bao người. Cũng là trong dòng người xếp hàng vào viếng Lênin có đủ các màu da, xôn xao đủ giọng nói của các châu lục. Nhà văn Việt Nam đã có tiếng tăm này cũng không thể hú gió gọi mưa hơn thế được vì vốn tiếng Nga cũng chỉ chừng ấy! Nhưng cứ sau từng dòng của Phục, cô giáo Galina lại súyt xoa: “ Tuyệt! Tuyệt!” Tiếp tục !”. Phục tả đến đọan dòng người tiến đến gần nơi ông Lênin nằm, Phục thấy ông như cựa quậy. Cô giáo Galina càng nức nở khen: “Anh từ một đất nước Việt Nam xa xôi, đến thăm lãnh tụ Lênin mà thấy Người sinh sắc, sống động như vậy, hay lắm”. Phục: “Và ông Lênin bỗng ngồi nhổm dạy, trỏ tay vào mặt chúng tôi thét lên: “Vô sản thế giới hãy buông nhau ra!”. Cô giáo Nga lặng ngắt, đôi mắt mở to hỏang hốt, chừng một phút sau như kịp trấn tĩnh, cô mới cất tiếng hỏi Phục: “Anh không chọn nhầm động từ đấy chứ! Lãnh tụ Lênin nói rằng vô sản thế giới liên hiệp lại cơ mà?”. Phục thủng thẳng: “Thưa cô giáo, tôi không hề chọn nhầm nếu cô biết rằng, vào giờ phút này ở biên giới phía Bắc nước tôi vô sản đói rách Việt Nam và vô sản đói rách Tàu vì không tìm ra việc gì để làm, đang lao vào cấu xé, đâm chém nhau.Thiết tưởng nếu ông Lênin sống lại, vén mây nhìn xuống hạ giới, ông sẽ thét lên như thế!”.
Khỏang một tuần sau tới ngày kỷ niệm Hiến pháp Liên Xô - một ngày lễ trọng chỉ sau lễ Cách mạng tháng Mười Nga. Mở đầu sáng hôm ấy, cô giáo Galina giảng giải về Hiến pháp Xô viết chừng hơn tiếng đồng hồ trên lớp. Sau đấy cô giáo Nga đưa chúng tôi ra hành lang, nơi đã kịp treo những tấm pano, vẽ các sơ đồ, dán những tấm ảnh màu cũng nói về uy tín của Liên xô, thành tích của đất nước Xô viết sau những năm thông qua hiến pháp. Cô giáo Galina đang thao thao giảng giải cho sinh viên nghe, bất ngờ cô nhận ra sinh viên Nguyễn Khắc Phục đứng quay lưng lại. Vẫn cái vẻ thảng thốt, bị bất ngờ hôm trước, cô Galina hỏi Phục: “Hôm nay là một ngày lễ trọng của Liên Bang Xô Viết. Sao anh đứng quay lưng lại không nghe tôi nói?”. Phục rành rẽ: “Thưa cô giáo, sáng nay ở trong lớp cô giới thiệu Hiến pháp Xô Viết hơn một tiếng đồng hồ, đối với tôi thế là quá đủ. Tôi thiết tưởng, bản Hiến Pháp ấy không liên quan, ảnh hưởng gì tới cuộc sống áo cơm của đồng bào tôi ở Việt Nam hiện nay!” .
Những chuyện tôi vừa kể để các bạn nghe xẩy ra vào những ngày cuối đông Moskva năm 1979. Xin nhắc lại: cuối mùa đông năm 1979. Còn mất 7 năm nữa ông Gorbachov mới khởi xướng công cuộc Perestroika ở xứ sở bạch dương này. Và muộn hơn nữa, Việt Nam mới bước vào thời kỳ Đổi mới.
Vài năm sau,  tình cờ tôi gặp lại cô giáo Galina Vasilievna. Cô tỏ vẻ rất vui sướng vì cuộc hội ngộ. Không kìm nén được tình cảm, cô hỏi tôi có thư từ thường xuyên với Phục không, sức khỏe của Phục ra sao, hiện Phục đang làm gì ?
Sau những lời thăm hỏi ấy, cô Galina tủm tỉm cười, hạ thấp giọng như hé lộ chuyện gì rất riêng tư:
- Thú thật, cách xử sự của ông Phục khiến tôi rất kính trọng. Nhưng ông ấy cũng làm tôi hồn xiêu phách lạc. Thử tượng tượng xem, nếu có ai mách lên đảng ủy nhà trường tôi có một học trò như ông Phục, thì sao? Hồi ấy tôi đang là đảng viên dự bị Đảng Cộng sản Liên xô mà!
Biết sao được, thưa cô giáo Nga khi “ tử vi” của cô buộc cô có một lần trong đời nhà giáo, phải “dậy” một gã điên...
                                                    

( Trích “ Nỗi buồn lâu quên”- NXB Hội NHà 2014 )    

Phần nhận xét hiển thị trên trang