Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 15 tháng 8, 2015

Có một ông họ Đỗ nào đó phản bác nhận định của HVT, người ta đòi chứng cớ KH, chả khác nào thách đấu với ông HVT trên mái nhà tranh vốn đã nghèo nàn, lạc hậu và đang dần vụn nát.. Chỉ riêng dụng ý của ông này, người ta ngầm hiểu là điều ông ấy muốn là gì?

Tường trình về con đường mười năm đi tìm nguồn gốc dân tộc Việt .

  •   HÀ VĂN THÙY
  • Thứ hai, 03 Tháng 11 2014 20:27
  • font size giảm kích thước chữ tăng kích thước chữ
Bốn mươi năm trước, khi bỏ cái nghề côn trùng học được đào tạo bài bản để cầm bút viết văn, tôi tâm niệm một điều: Muốn làm nhà văn đich thực, phải hiểu tới tận cùng lịch sử dân tộc!
Tài liệu chính thống cũng như không chính thống dạy rằng, năm 333 TCN, nước Sở diệt nước Việt, người của Việt vương Câu Tiễn chạy xuống miền Bắc Việt Nam, chiếm chỗ của người bản địa Nguyên Đông Dương, trở thành tổ tiên của dân tộc Việt. Như vậy, người Việt không chỉ là đám Tàu lai mà còn mắc tội tổ tông diệt chủng sắc tộc tiền nhiệm! Tuy không muốn và không tin một cội nguồn như thế nhưng tôi không có chứng lý để phản bác.
Rồi một ngày đẹp trời của năm 2004, tình cờ đọc được thông tin:  “Loài người có quê hương duy nhất là Đông Phi. Người tiền sử từ châu Phi theo ven biển Nam Á tới Việt Nam từ 70.000 năm trước.” Giống như ánh chớp lóe giữa đêm dầy, óc tôi bừng sáng rồi bụng bảo dạ: nếu chính xác thì phát hiện này không chỉ làm đảo lộn lịch sử phương Đông mà còn thay đổi thân phận dân tộc! Bằng mọi mối liên hệ trong thời đại internet, tôi xác minh thông tin trên. Khi thấy đó là điều khả tín, tôi quyết định dừng cuốn tiểu thuyết đang viết, tập trung toàn bộ thời gian và tâm trí vào công cuộc tìm nguồn gốc dân tộc.
Trong vòng 10 năm, tôi công bố năm cuốn sách Tìm Lại Cội Nguồn Văn Hóa Việt (NXB Văn Học 2007), Hành Trình Tìm Lại Cội Nguồn (Văn Học, 2008), Tìm Cội Nguồn Qua Di Truyền Học (Văn Học, 2011), Viết Lại Lịch Sử Trung Hoa (Amazon - 2014) và Tiến Trình Lịch Sử Văn Hóa Việt (Amazon - 2014).
Bằng những cuốn sách và hàng trăm bài viết đăng tải trên các phương tiện truyền thông đại chúng, nhiều ý tưởng mà tôi đề xuất được bạn đọc chấp nhận. Tuy nhiên do vấn đề đặt ra quá mới, đảo ngược phần lớn những tín điều in sâu trong tâm trí nên không dễ gì các học giả tiếp thu. Còn khối đông bạn đọc do không được các bậc thầy uy tín dẫn dắt nên nửa tin nửa ngờ...
Hôm nay để cảm ơn những người từng tin mến, động viên tôi và cả những ai còn nghi hoặc, xin tường trình về con đường mười năm tôi đi tìm nguồn gốc dân tộc.
Cửa ải trước mặt là bốn câu hỏi:
  1. Con người đầu tiên có mặt trên đất nước ta là ai?
  2. Vào thời gian nào?
  3. Từ đâu tới?
  4. Quá trình tiến hóa, chuyển dịch ra sao đề trở thành người Việt chủng Mongoloid phương Nam hôm nay?
  Sau đây là hành trình tư duy của tôi tìm lời giải cho những câu hỏi đó. 

I. Từ tri thức đã có

Ở thế kỷ trước, khảo sát 70 sọ cổ phát hiện ở Việt Nam, cùng nhiều di cốt người cổ Đông Nam Á, nhân chủng học kết luận:

      a- Vào thời Ðá mới, cư dân Ðông Nam Á thuộc hai đại chủng Australoid và Mongoloid, cùng với các loại hình hỗn chủng giữa chúng cộng cư với nhau, trong đó Indonesien và Melanésien là hai thành phần chủ yếu.

      b- Sang thời Ðồng-sắt, trên toàn Ðông Nam Á diễn ra việc chuyển hóa mạnh từ loại hình Indonesien sang loại hình Nam Á (Mongoloid phương Nam). Thành phần Australoid thu hẹp đến tối đa trong khu vực. (1)
Kết luận trên cho thấy, đến cuối thế kỷ trước, chúng ta biết rằng, thoạt kỳ thủy, hai đại chủng Australoid và Mongoloid có mặt trên đất nước ta. Từ khoảng 30.000 đến 4500 năm trước, duy nhất người Australoid tồn tại. Nhưng từ 4500 năm cách nay, người Mongoloid xuất hiện trở lại và chiếm đa số dân cư, trong khi đó, người Australoid dần biến mất. Như vậy, qua khảo cổ và cổ nhân chủng học, ta chỉ biết thực trạng dân cư Đông Nam Á cũng như Việt Nam từ khoảng 30.000 năm trước tới nay.
Những câu hỏi quan trọng khác: Họ từ đâu tới? Vào thời điểm nào? Vì sao một thời gian dài người Mongoloid biến mất? Từ đâu và lý do gì khiến người Mongoloid trở lại vào Thời Kim khí để trở thành dân cư Đông Nam Á hôm nay… chưa có lời đáp!
Lịch sử, văn hóa là hoạt động xã hội của cộng đồng người. Một khi chưa hiểu cặn kẽ về cộng đồng người sở hữu lịch sử văn hóa đó thì mọi phát biểu về nó là thiếu cơ sở. Chính vì chưa trả lời được những câu hỏi thiết cốt đó mà từ thập niên 1970 thế kỷ trước, khoa học nhân văn Việt Nam lâm vào khủng hoảng.
II. Những phát hiện mới
May mắn là những năm cuối thế kỷ, công nghệ di truyền được sử dụng đề tìm nguồn gốc loài người cùng sự hình thành các tộc người trên Trái đất, đã đưa ra những khám phá quan trọng.
Có ba nghiên cứu chính được công bố:
1.Công trình Quan hệ di truyền của dân cư Trung Quốc (Genetic Relationship of Generations in China) của nhóm Y. J. Chu công bố cuối năm 1998, cho biết:
  • Mọi con người hiện nay có tổ tiên duy nhất ở Đông Phi, ra đời khoảng 160 – 180.000 năm trước.
  • Người từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ tới Việt Nam 70.000 năm trước. Tại đây họ gặp gỡ, lai giống và 50.000 năm trước di cư ra các đảo Đông Nam Á, sang Ấn Độ. 40.000 năm trước, nhờ khí hậu được cải thiện, người từ Việt Nam đi lên Trung Hoa. 30.000 năm trước, người từ Đông Á qua eo Bering chiếm lĩnh châu Mỹ.
2.Công trình thứ hai: Cuộc hành trình của loài người - một Ođyxê gen (The Journey of Man: A Genetic Odyssey)của Spencer Wells. Tác giả cho rằng, các luồng di dân bắt đầu giữa 60.000 và 50.000 năm trước. Các du khách sớm theo bờ biển phía Nam của châu Á, tới Úc khoảng 50.000 năm trước. Thổ dân Úc, là hậu duệ của làn sóng di cư đầu tiên ra khỏi châu Phi.                                                                                                          - Làn sóng thứ hai rời châu Phi 45.000 năm trước, sinh sôi nhanh chóng và định cư ở Trung Đông. Khoảng 40.000 năm trước, băng hà bớt cứng rắn, nhiệt độ ấm lên, con người di chuyển vào Trung Á. Trong quá trình thảo nguyên hình thành, họ tăng nhân số một cách nhanh chóng. "Nếu châu Phi là cái nôi của loài người, thì Trung Á là vườn trẻ của nhân loại”
3. Công trình của Stephen Oppenheimer: Rời khỏi địa đàng chiếm lĩnh Trái đất Out of Eden Peopling of the World(http://www.bradshawfoundation.com) và Cuộc hành trình của con người chiếm lĩnh Trái đất Journey of Mankind the Peopling of the World (http://www.bradshawfoundation.com/journey/):
-160.000 năm trước, người hiện đại Homo sapiens đã sinh sống ở châu Phi.
- Khoảng 85.000 năm trước, một nhóm băng qua mũi của Biển Đỏ - the Gates of Grief - rồi men theo bờ phía Nam bán đảo Ả rập tới Ấn Độ. Tất cả những người sống ngoài châu Phi đều thuộc nhóm này.                                 - Từ 85.000 tới 75.000 năm trước: Từ Sri Lanka họ tiếp tục men bờ Ấn Độ Dương tới phía Tây Indonesia, sau đó tiến vào châu Á. Những người còn ở lại thì đi vòng Borneo tới Nam Trung Hoa.                                              - -- Từ 45.000 tới 40.000 năm trước: nhóm từ Đông Á di cư vế phía Tây qua Trung Á rồi lên Bắc Á. Từ Pakistan họ đi tới Trung Á và từ Đông Dương qua vùng Tebet tiến tới cao nguyên Qinh-hai                                                - Từ 40.000 tới 25.000 năm trước, người từ Trung Á đi về hướng tây tới Đông Âu, phía bắc tới Vòng Bắc Cực và sang Đông Á để bắt đầu tiến về đông bắc lục địa Á – Âu.
Ba công bố trên cùng công nhận con người xuất hiện đầu tiên ở Đông Phi khoảng 160.000 – 180.000 năm trước. Nhưng trong khi công trình 1 và 3 cho rằng, cuộc di cư rời châu Phi diễn ra sớm hơn để con người tới Đông Nam Á 70.000 năm trước và làm nên đại bộ phận nhân loại sống ngoài châu Phi; thì công trình 2 nói, có hai lần rời khỏi châu Phi, vào 60.000 và 45.000 năm trước. Đợt di cư thứ hai mới làm nên phần chủ thể của nhân loại.
Do tài liệu tham khảo mâu thuẫn nên buộc phải kiểm định lại. Nhờ khảo cổ học phát hiện sọ người Australoid 68.000 năm trước tại sa mạc Mungo (2) châu Úc và bộ xương người Mongoloid tại Lưu Giang Quảng Tây 68.000 (3) tuổi nên có thể khẳng định, cuộc di cư khỏi châu Phi phải diễn ra trước 60.000 năm cách nay. Mặt khác, những chứng tích khảo cổ học không ủng hộ ý tưởng Trung Á là vườn trẻ của nhân loại như S. Wells nói. Cuộc hội thảo về cuốn sách của S. Wells (4) cho thấy khá nhiều ý kiến phản biện chống lại tác giả. Điều này chứng tỏ công bố của Spencer Wells không phù hợp thực tế. Tôi đã loại công trình này khỏi tài liệu tham khảo.
Kết hợp nghiên cứu của nhóm Y.J. Chu, Stephen Oppenheimer và nhiều nguồn tư liệu khác, tôi đề xuất:
 - 70.000 năm trước, hai đại chủng Australoid và Mongoloid từ châu Phi theo ven biển Nam Á tới thềm Biển Đông của Việt Nam. Tại đây họ gặp gỡ, hòa huyết sinh ra bốn chủng người Việt cổ Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid, do người Lạc Việt Indonesian lãnh đạo về ngôn ngữ và xã hội. Khoảng 50.000 năm trước, người từ Việt Nam di cư ra các đảo Đông Nam Á, sang Ấn Độ, Miến Điện. Khoảng 40.000 năm trước, người Việt đi lên chiếm lĩnh Trung Quốc và 30.000 năm trước vượt eo Beringa chinh phục châu Mỹ.
Như vậy ba câu hỏi đầu đã có lời đáp.
Về câu hỏi thứ tư:Người trên đất Việt trải quá trình tiến hóa, chuyển dịch ra sao đề trở thành người Việt chủng Mongoloid phương Nam hôm nay?
Để trả lời câu hỏi này, cần giải quyết những vấn đề sau:
1. Tình hình của đại chủng Mongoloid sau hành trình về phương Đông.
Di truyền và khảo cổ học xác nhận, phần lớn họ tập trung tại đồng bằng Hải Nam (thềm Biển Đông hiện nay) để hòa huyết với người Australoid sinh ra người Việt cổ. Do số lượng quá ít nên trong dân cư, gene Mongoloid lặn, còn gene Australoid vượt trội. Kết quả là về hình thái học, người Mongoloid biến mất khỏi địa bàn Đông Nam Á. 
Tuy nhiên, từ khảo cứu của S. W. Ballinger (5) phát hiện người Mông Cổ phương Bắc đang sống trên đất Mông Cổ cũng từ Việt Nam đi lên, tôi đưa ra giả định: khoảng 70.000- 60.000 năm trước, có những nhóm nhỏ Mongoloid đi riêng rẽ tới Tây Bắc Đông Dương rồi dừng lại đây trước bức thành băng hà vững chắc. 40.000 năm trước, khi khí hậu tốt hơn, họ theo hành lang phía Tây đi lên Tây Bắc Trung Quốc rồi chiếm lĩnh Tây Tạng, Mông Cổ. Bộ xương người Mongoloid Lưu Giang Quảng Tây 68000 năm và những phát hiện di cốt người Mongoloid 40.000 năm trước trên đất Mông Cổ ủng hộ nhận định này. Tại đây họ tiếp tục săn bắt hái lượm. Sau thời Băng hà, họ chuyển sang phương thức du mục. Do giữ được nguồn gen thuần nên khoa học xếp họ thành chủng Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid).
Khảo cổ học kết hợp với tư liệu của S. Oppenheimer cho thấy, cũng có những nhóm người Mongoloid theo ven biển Hoa lục đi lên Đông Bắc Trung Quốc. Trên đường đi, có những nhóm nhỏ dừng lại ở vùng cửa sông Chiết Giang, sống bằng săn hái và đánh cá.

3.Về chủng người Mongoloid phương Nam.

Chủng Mongoloid phương Nam hiện nay là thành phần chủ thể của dân cư phương Đông. Câu hỏi cần được trả lời: họ ra đời như thế nào? Chưa có tài liệu nào lý giải việc này. Tôi đưa ra giả định sau.

Khảo cố học phát hiện, khoảng 7.000 năm trước, người Mongoloid phương Nam xuất hiện tại văn hóa Ngưỡng Thiều Nam Hoàng Hà và văn hóa Hà Mẫu Độ vùng cửa sông Chiết Giang. Tôi cho rằng, bên sông Hoàng Hà từ lâu đã có sự tiếp xúc giữa người Việt Australoid trồng kê ở phía nam và người Mongoloid du mục ở bờ Bắc. Từ đó, trong cộng đồng người Việt, những lớp con lai Mông-Việt ra đời, có mã di truyền Mongoloid phương Nam, do hòa trộn nguồn gene. Dần dà số lượng người lai Mongoloid phương Nam tăng lên. Khoảng 7000 năm trước, họ trở thành chủ thể của văn hóa trồng kê Ngưỡng Thiều rộng lớn gồm Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Nam, Hà Bắc…
Tại vùng cửa sông Chiết Giang tình hình như sau: Khoảng 7000 năm trước, nước biển rút dần, người Việt Australoid trồng lúa nước tiến ra phía biển. Tại đây họ gặp người Mongoloid nguyên chủng sống bằng săn hái và đánh cá. Hai dòng người hòa huyết, cho ra người Mongoloid phương Nam, chủ nhân văn hóa lúa nước Hà Mẫu Độ.
Cũng thời điểm này, theo truyền thuyết, những nhà nước cổ đại của người Việt ra đời với Phục Hy, Thần Nông, Đế Minh, Đế Nghi, Kinh Dương Vương, Đế Lai, Lạc Long Quân…
Về việc người Mongolid phương Nam xuất hiện ở Việt Nam.
Như nói ở trên, suốt thời Đồ Đá, dân cư Việt Nam và Đông Nam Á thuần túy là chủng Australoid. Nhưng từ thời Phùng Nguyên 4500 năm trước, người Mongoloid phương Nam xuất hiện. Họ từ đâu tới? Nhiều tác giả đoán rằng họ từ phương Bắc xuống nhưng không xác định được thời gian di cư và càng không hiểu gốc gác của họ.
  Từ khảo cứu của mình, tôi cho rằng, khoảng 3000 năm TCN, những cuộc xâm lăng của người du mục xuống nam Hoàng Hà xảy ra nhiều hơn. Cùng với nhu cầu trị thủy, việc chống ngoại xâm thúc đẩy người Việt thành lập nhà nước. Các nhà nước thượng cổ của người Việt ra đời, trong đó có Xích Quỷ của Kinh Dương Vương ở lưu vực Dương Tử và nhà nước của Đế Nghi ở lưu vực Hoàng Hà. Trong tình thế lâm nguy, Đế Lai và Lạc Long Quân liên minh chống giặc. Năm 2698 TCN, thất bại ở trận Trác Lộc bờ Nam Hoàng Hà, Đế Lai tử trận. Lạc Long Quân dẫn đoàn quân dân vùng Núi Thái - Trong Nguồn xuôi Hoàng Hà ra biển, đổ bộ vào Rào Rum-Ngàn Hống xứ Nghệ (Ngọc phả Hùng Vương ghi nhận sự kiện này). Tại đây, theo truyền thuyết, Hùng Vương được tôn làm vua, lập nước Văn Lang. Người Mongoloid trong đoàn di tản hòa huyết với người tại chỗ, sinh ra người Mongoloid phương Nam Văn Lang. Đó chính là tổ tiên của người Việt hiện nay. Sau đó, do quân Mông Cổ mở rộng vùng chiếm đóng, người Mongoloid phương Nam lưu vực Hoàng Hà di tản tiếp xuống Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á, chuyển hóa đại bộ phận dân cư khu vực sang chủng Mongoloid phương Nam. Sự kiện này được nhân chủng học gọi là quá trình Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á, diễn ra ở nửa sau thiên niên kỷ III TCN.
Về người Hoa Hạ
Người Trung Hoa cho rằng tổ tiên họ là người Hoa Hạ. Nhưng người Hoa Hạ là ai, được hình thành như thế nào vẫn là câu hỏi chưa lời đáp.
Từ khảo cứu của mình, tôi cho rằng, sau cuộc xâm lăng Nam Hoàng Hà lập nhà nước Hoàng Đế, người Mông Cổ hòa huyết với dân bản địa Mongoloid phương Nam, sinh ra lớp người tự gọi là Hoa Hạ. Nhận được hai nền văn minh, Hoa Hạ trở thành tầng lớp ưu tú lãnh đạo xã hội, làm nên thời kỳ Hoàng Kim trong lịch sử Trung Hoa từ Nghiêu,Thuấn đến Thương, Chu. Trong quá trình này, do số lượng ít lại sống chung với người Việt đông đảo, người Hoa Hạ ngày càng Việt hóa cả về máu huyết lẫn văn hóa. Trong hơn 2000 năm tồn tại, các vương triều Hoa Hạ chỉ chiếm vùng đất nhỏ ở lưu vực Hoàng Hà và bị bao vây bởi các bộ lạc hay quốc gia Việt: người Tây Nhung ở phía tây, Ba Thục ở Tây Nam, các tiểu quốc Đông Di vùng Hà Nam, Sơn Đông, nhà nước Văn Lang ở nam Dương Tử… Khi nước Văn Lang tan rã, các nước Việt, Ngô, Sở hình thành, đối đầu với các triều đại Thương, Chu… Cuối thời Chiến Quốc, các bộ lạc Tây Nhung người Việt lập nhà Tần, diệt lục quốc dựng vương triều Tần. Khi nhà Chu bị diệt, tầng lớp Hoa Hạ mất vai trò lãnh đạo, hòa tan trong cộng đồng Việt đông đảo của vương triều Tần. Diệt nhà Tần, lãnh tụ người Việt nước Sở là Lưu Bang lập vương triều Hán. Trên thực tế, từ thời Tần - Hán, đại đa số dân Trung Hoa là người Việt. Dù không có liên hệ máu huyết với Hoàng Đế nhưng do vinh quang của Hoa Hạ trong quá khứ, các vương triều Trung Hoa về sau vẫn tự nhận là Hoa Hạ.

III  Kết luận

Năm 2005, với vốn liếng ban đầu, tôi viết cuốn Tìm Lại Cội Nguồn Văn Hóa Việt. Do trục trặc về giấy phép xuất bản, năm 2007 mới in được. Tới lúc này, dấn vốn dầy thêm, tôi viết và cho in cuốn Hành Trình Tìm Lại Cội Nguồn năm 2008. Sau đó tôi chợt nhận ra, vì hào hứng phục dựng lâu đài nguy nga kỳ vĩ của lịch sử văn hóa dân tộc, đã quên làm đường lên nên có người chưa thể tới chiêm ngưỡng, coi đó là lâu đài cất bằng hơi nước. Vì vậy tôi viết cuốn thứ ba: Tìm Cội Nguồn Qua Di Truyền Học cung cấp chứng lý vững chắc cho luận thuyết của mình. Sau cuốn này, tôi ngỡ là công việc khảo cứu đã xong, có thể trở lại với văn chương. Nhưng rồi chợt ngộ ra, một khi đi sâu vào lịch sử Việt thì nhiều bí mật của lịch sử Trung Hoa  cũng hé lộ. Cần phải viết điều gì đó. Nhưng khi vào cuộc mới biết mình đuối sức. Tôi dừng lại và với vốn chữ Anh, chữ Nho ít ỏi, tôi cần mẫn mò tay tới cận cùng kho trí tuệ nhân loại, lôi ra những điều cón ẩn giấu về quá khứ vùng đất bí hiểm này. Để gọi đúng tên sự vật, tôi đặt cho cuốn sách nhan đềViết Lại Lịch Sử Trung Hoa. Đúng là phải viết lại. Vì dù cho có tới 24 bộ quốc sử thì người Trung Hoa cũng chưa biết tổ tiên họ là ai, tiếng nói, chữ viết, nền văn hóa vĩ đại của họ từ đâu mà có! Cuốn sách này lần đầu tiên nói với họ những điều như vậy.

Như sự an bài của số phận, khi đi sâu vào lịch sử Trung Hoa thì những vấn đề còn mù mờ của sử Việt cũng rõ dần trong tâm tưởng. Vì vậy, tôi viết tiếp cuốn Tiến Trình Lịch Sử Văn Hóa Việt. Đây là Lời tựa cuốn sách:
“Bạn thân mến,
Trong tay bạn là cuốn sử chưa từng có của tộc Việt. Không phải 5000 mà nó được bắt đầu từ 70.000 năm trước, khi những nhóm người Homo sapiens từ châu Phi theo ven biển Nam Á đặt chân tới Việt Nam. Rồi từ địa đàng phương Đông này, người Việt lan tỏa ra Đông Nam Á, sang đất Ấn Độ, đi lên khai phá vùng đất nay có tên là Trung Hoa và tạo dựng trên đó nền văn hóa nông nghiệp kỳ vĩ. Tiếng Việt là chủ thể tạo nên tiếng Trung Hoa. Chữ tượng hình của người Việt là chủ thể làm nên Giáp cốt văn. Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Nhạc, Kinh Lễ… là của người Việt. Những gì tốt đẹp nhất của văn minh Trung Hoa đều được khởi đầu từ văn hóa Việt! Đấy là phát kiến vĩ đại nhất của lịch sử nhân loại vào đầu kỷ nguyên này.
   Vì vậy, cuốn sách trong tay bạn không chỉ thay đổi lịch sử phương Đông mà còn góp phần làm thay đổi số phận dân tộc Việt. Nó là vũ khí vô địch giúp dân tộc Việt tự giải phóng khỏi cái bóng Trung Hoa không chỉ vể lịch sử, văn hóa!”
                     
                                                                                  HVT
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. (NXB ĐH&THCN, 1983)
2.The Lake Mungo remains are three prominent sets of bodies: Lake Mungo 1 (also called Mungo LadyLM1, and ANU-618), Lake Mungo 3 (also called Mungo ManLake Mungo III, and LM3), and Lake Mungo 2 (LM2). Lake Mungo is in New South WalesAustralia, specifically theWorld Heritage listed Willandra Lakes Region.[1][2]
LM1 was discovered in 1969 and is one of the world's oldest knowncremations.[1][3] LM3, discovered in 1974, was an early humaninhabitant of the continent of Australia, who is believed to have lived between 40,000 and 68,000 years ago, during the Pleistocene epoch. The remains are the oldest anatomically modern human remains found in Australia to date. His exact age is a matter of ongoing dispute. Đọc đoạn trích trên, chắc bạn đọc cũng hiểu như tôi: có 3 bộ xương được tìm thấy nơi hồ Mungo: M1, M2 và M3 với tuổi của chúng từ 40 tới 68.000 năm. Có nghĩa là, bộ xương xưa nhất lên tới 68.000 năm tuổi, còn bộ xương muộn nhất 40000 năm. Tất cả đều là người Úc bản địa!
 3. Liujiang-Mensch (柳江人,  Liǔjiāngrénenglisch Liujiang Man) bezeichnet man hominine Fossilien, die 1958 in einer Höhle bei der Ortschaft Tongtianyan inLiujiang im Autonomen Gebiet Guangxi der Zhuang entdeckt und ins späte Mittelpleistozän / frühe Jungpleistozän datiert wurden.[1] Bei diesen Fossilien handelt es sich um einen vollständigen Schädel sowie um einige Knochen aus der Region unterhalb des Kopfes.
Die chinesischen Bearbeiter des Fossils ordneten es dem frühen modernen Menschen (Homo sapiens) zu und verwiesen darauf, dass es Merkmale eines frühen Vertreters der Mongoliden (yuánshǐ Měnggǔ rénzhǒng) aufweise.[2]
Der Schädel gilt als möglicher Kandidat für das älteste Fossil des modernen Menschen, das in Ostasien gefunden wurde, da eine Uran-Thorium-Datierung ein Alter von 67.000 ± 6000 Jahren ergab.[3]
4. Hillary Mayell. Tài liệu tái thẩm về cây phả hệ loài người
5. S.W. Ballinger et al:Human mitochondrial DNAs (mtDNAs) from 153 independent samples encompassing seven Asian populations were surveyed for sequence variation. The greatest mtDNA diversity and the highest frequency of mtDNAs with HpaI/HincII morph 1 were observed in the Vietnamese suggesting a Southern Mongoloid origin of Asians. (Southeast Asian mitochondrial DNA Analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration. Genetic 1992 số 130 Tr.139-45)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thủ tướng Campuchia: Tôi không phải là con rối của Việt Nam


Thủ tướng Campuchia đã tuyên bố như vậy đầu tuần này trong khi tham dự lễ khánh thành Cầu Hữu nghị Trung Quốc - Campuchia, hay còn gọi là cầu Takhmao, ở tỉnh Kandal.
Thủ tướng Campuchia đã tuyên bố như vậy đầu tuần này trong khi tham dự lễ khánh thành Cầu Hữu nghị Trung Quốc – Campuchia, hay còn gọi là cầu Takhmao, ở tỉnh Kandal.
Ông Hun Sen nói ông không sợ bất kỳ ai, kể cả Việt Nam, đồng thời cho biết thêm rằng Phnom Penh sẽ đưa chính quyền Hà Nội ra Tòa Công lý Quốc tế cũng như Hội đồng Bảo an nếu vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia.
Thủ tướng Campuchia đã tuyên bố như vậy đầu tuần này trong khi tham dự lễ khánh thành cầu Hữu nghị Trung Quốc – Campuchia, hay còn gọi là cầu Takhmao ở tỉnh Kandal, sau khi bị chỉ trích rằng ông không dám kiện Việt Nam về vấn đề biên giới, và rằng Việt Nam là “chủ” của ông.
Ông Hun Sen cho biết ông bị cáo buộc là con rối của Việt Nam, nhưng ông nhấn mạnh rằng ông không sợ Hà Nội.
Căng thẳng giữa Campuchia và Việt Nam bùng lên gần đây sau khi các dân biểu đối lập dẫn đầu hàng trăm người từ Phnom Penh tới vùng biên giới giáp với tỉnh Long An của Việt Nam, dẫn tới xô xát làm nhiều người bị thương.
Lâu nay phe đối lập ở Campuchia vẫn dùng “con bài” biên giới để làm suy yếu vị thế của Thủ tướng Hun Sen. Nhưng người đứng đầu chính phủ luôn bác bỏ cáo buộc đó.
‘Phản quốc’
Trong một diễn biến mới nhất liên quan tới vấn đề biên giới Việt Nam – Campuchia, Thủ tướng Hun Sen mới ra lệnh bắt giữ một Thượng nghị sĩ phe đối lập vì tội “phản quốc” sau khi cáo buộc ông đăng tải một tài liệu giả mạo về đường biên giới với Việt Nam trên mạng xã hội.
Lệnh bắt giữ Thượng nghị sĩ Hong Sok Hour, thuộc phe đối lập Sam Rainsy (SRP), được đưa ra giữa lúc phe đối lập Đảng Cứu nguy Dân tộc Campuchia (CNRP) gia tăng các chiến dịch nhằm ngăn chặn việc xâm lấn mà họ cho là Việt Nam đang thực hiện.
SRP là một trong số ít các đảng phái không có đại diện trong Hạ viện Campuchia, cơ quan đã hậu thuẫn đảng CNRP trong các cuộc phản đối chống lại việc cắm mốc 1.270 km đường biên giới với Việt Nam.
Thủ tướng Hun Sen cho biết ông đã yêu cầu cảnh sát bắt giam ông thượng nghị sĩ sau khi ông Hong Sok Hour đăng một tài liệu giả mạo và đã bị chỉnh sửa của một hiệp ước cũ về đường biên giới lên trang Facebook của mình.
Thủ tướng Campuchia nói: “Hành động phản bội này không thể tha thứ”. Tuy nhiên, hiện có các thông tin trái ngược về việc ông Hong Sok Hour đã bị bắt.
Theo VDC, Daily Star, Phnom Penh Post

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Làm phim thảm sát Bình Phước: Muốn nổi tiếng bằng mọi giá kể cả ăn theo cái ác!



'Phim' vụ thảm sát tại Bình Phước trên YouTube: 'Vi phạm Luật nhân thân'

13/08/2015 - Thể thao văn hóa
Phim vụ thảm sát tại Bình Phước trên YouTube: Vi phạm Luật nhân thân . Chiều 12/8, clip có tiêu đề: Phim ngắn Vụ thảm sát số 6 (Theo câu chuyện có thật vụ thảm sát 6 người ở Bình Phước) đã xóa, khóa hoặc bị chặn trên tất cả các kênh YouTube. Các website đăng tải video khác cũng đồng loạt gỡ nội dung này.

‘Phim’ về vụ thảm sát Bình Phước trên YouTube: Công an Bình Phước đề nghị cơ quan chức năng vào cuộc - hôm qua - Thể thao văn hóa
Phim ngắn về vụ thảm sát tại Bình Phước bị khóa, chặn trên YouTube - 13/08/2015 - Tiin
Chiều 12/8, clip có tiêu đề: Phim ngắn Vụ thảm sát số 6 (Theo câu chuyện có thật vụ thảm sát 6 người ở Bình Phước)” đã xóa, khóa hoặc bị chặn trên tất cả các kênh YouTube. Các website đăng tải video khác cũng đồng loạt gỡ nội dung này. 
Các kênh YouTube đăng tải lại “phim” về vụ thảm sát Bình Phước đều đã bị chặn

Tuy nhiên, đến chiều 12/8, khi bài viết thứ 2 được đăng tải trên Thể thao & Văn hóa, tất cả các kênhYouTube đều đã xóa, khóa hoặc bị chặn. YouTube giải thích về lý do chặn clip “phim” về vụ thảm sát Bình Phước: “Đoạn video này chứa nội dung từ Mạng METUB (METUB Network), đơn vị này đã chặn nội dung vì lý do vi phạm bản quyền”. 

Theo mô tả của METUB Network trên Website của đơn vị này, đây là một mạng lưới  hỗ trợ các nhà sản xuất Video. Đơn vị này cũng giới thiệu trên trang của mình rằng METUB Network là đối tác của YouTube tại Việt Nam.
Đặc biệt, trên trang web của đơn vị này ghi rõ lợi ích khi tham gia mạng lưới, sản xuất clip, phát hành trên YouTube là được bảo hộ bản quyền và được nhận doanh thu.
Thể thao & Văn hóa đã liên hệ với METUB để làm rõ các thông tin: “Phim” có tiêu đề “Phim ngắn Vụ thảm sát số 6 (Theo câu chuyện có thật vụ thảm sát 6 người ở Bình Phước)” đăng trên NhacPro Tube có thuộc mạng lưới của METUB không? Việc đăng “phim” trên NhacPro Tube có thỏa thuận thu lợi nhuận không?
Người trực đường dây nóng đơn vị này hẹn sẽ chuyển tới các bộ phận liên quan để xác nhận và trả lời sau.
Cần xử nghiêm kiểu “lách luật” phát tán phim
Nhà biên kịch Trịnh Thanh Nhã bày tỏ quan điểm: “Vụ thảm sát tại Bình Phước vừa mới xảy ra gần đây, nỗi đau và sự kinh hoàng trong xã hội vẫn còn quá lớn, khai thác làm clip hay “phim” như người ta nói để câu view thì thật vô cảm.
Poster trong clip Vụ thảm sát số 6
Theo tôi, nếu những người làm phim lấy tên nhân vật trong phim trùng với tên hung thủ và nạn nhân trong vụ án Bình Phước, mà không xin phép gia đình nạn nhân sẽ là phạm luật về nhân thân”.
Cũng theo bà Nhã, luật hiện hành quy định, một bộ phim phải được cấp phép thì mới được phát hành. Nhưng cái cách “lách luật” để phát tán phim trên mạng, có view và thu được tiền cũng cần phải bị xử lý nghiêm.
Bà Nhã cũng nêu ví dụ gần đây có một số phim đã khai thác các vụ án có thật, như Mất xác, Scandal - Hào quang trở lại dựa theo vụ án thẩm mỹ Cát Tường. Tuy nhiên các phim này không khai thác chi tiết, trong phim không có những cảnh mô tả cái ác man rợ, không vi phạm Luật Điện ảnh nên đều được duyệt.
“Luật Điện ảnh không cấm những bộ phim khai thác các vụ án có thật. Nhưng Luật có quy định, cấm khai thác những hình ảnh man rợ, bạo lực” - bà Nhã nói thêm.
Phim Việt lấy chất liệu từ các vụ án có thật
Năm ngoái, Mất xác trước khi ra rạp đã quảng cáo rầm rộ là phim dựa theo vụ án thẩm mỹ Cát Tường, khi vụ án này vẫn còn khiến xã hội chưa hết bàng hoàng. Ngoài ra có Scandal - Hào quang trở lạicũng đề cập đến vụ án này.
Tuy nhiên cả hai phim đều không hề dựa quá nhiều vào vụ án,mà chỉ lấy vụ án làm cái tứ. Đơn cử như Scandal kể câu chuyện một nữ nghệ sĩ đi phẫu thẩm mĩ bị đột tử, đã bị bác sĩ thủ tiêu xác.
Năm ngoái, còn có phim Hương Ga, với nhân vật chính Hương Ga được xây dựng theo nguyên mẫu bà trùm đất Cảng Dung Hà.
Hầu hết các series phim truyền hình đề tài tội phạm, hình sự phát sóng hiện nay đều khai thác chất liệu từ hồ sơ các vụ án có thật, như loạt phim Cảnh sát hình sự trong đó phần phim Cổ cồn trắng khai thác chất liệt từ vụ án Năm Cam; Lãnh địa trắng khai thác từ vụ án Khánh “Trắng”, Chạy án (phần 1) khai thác vụ án Mai Văn Dâu...
Linh Lan

Phạm Mỹ - Ngọc Diệp
http://news.go.vn/dien-anh/tin-2162158/phim-vu-tham-sat-tai-binh-phuoc-tren-youtube-vi-pham-luat-nhan-than.htm 


Đèn vàng: Ăn theo cái ác 
14/08/2015
TTO - Đúng một tháng sau vụ thảm sát 6 người ở Bình Phước gây phẫn nộ, bàng hoàng, một phim ngắn "ăn theo" được tung lên mạng. Nhưng gọi là phim ngắn có lẽ hơi quá lời...
Thảm sát số 6, ngày 7-7 Bình Phước là nhan đề của phim ngắn dài 22 phút này, một sản phẩm phim ngắn của T.P. cũng là lời đề tựa trên video.
Bộ phim trước khi gỡ bỏ đã có 700 ngàn lượt xem - Ảnh chụp từ Youtube.
Bộ phim trước khi gỡ bỏ đã có 700 ngàn lượt xem - Ảnh chụp từ Youtube.
T.P. (sinh năm 1994, quê Bình Định vào TP.HCM lập nghiệp bằng nghề ca sĩ) cũng là người đóng vai chính -  vai Dương trong phim này. Phim khá "trung thành" với câu chuyện đau lòng của vụ thảm sát khi mà xưởng gỗ, cô con gái tên Linh cùng gia đình ông chủ xưởng và tất nhiên cả vụ thảm sát lần lượt 6 người cũng được "phục dựng" lại nguyên trạng, hời hợt và thô thiển.

PV Tuổi Trẻ tìm được FB cá nhân của T.P. và trò chuyện với cậu. Cảm nhận đầu tiên, P. khá ngây thơ khi nhìn nhận mọi chuyện. T.P. bảo: "Sao người ta nói em câu view là sao? Có ai xem phim em đâu mà câu? Hơn 700 ngàn lượt là ít hay nhiều hả chị? Mà em gỡ phim xuống rồi mà?"
Hỏi T.P. có ý thức được việc mình làm là thiếu đạo đức khi "ăn theo" một vụ án đau lòng đang gây phẫn nộ dư luận không? T.P. ngạc nhiên: "Làm gì phải lên án thế ạ? Mặc dù em diễn dở thật nhưng cũng là công sức em bỏ ra. Và răn dạy với đời sống đừng ai lạc vào con đường tội lỗi đó nữa. Nếu mà em làm quá về phim em thì đã khác. Đằng này phim em còn bỏ rất nhiều chi tiết cơ mà?"
Nhắc T.P. về luật điện ảnh (Chương V, điều 36 về việc phổ biến phim trên internet cũng phải tuân theo luật điện ảnh nghĩa là phải có giấy phép phổ biến phim), T.P. càng "hồn nhiên" hơn: "Em thấy mấy phim ngắn kia có giấy phép gì không? Em hỏi hết rồi em mới làm. Phim em cũng như bao phim khác thôi mà..."
Còn nhớ khi sát thủ Lê Văn Luyện gây ra những cái chết thương tâm của ba người trong gia đình chủ một tiệm vàng ở Bắc Giang, trên mạng xã hội cũng tràn ngập các fanpage và FB cá nhân mới lập ăn theo hoặc dùng đích danh tên Luyện với hình ảnh đại diện là hình Luyện, hoặc nhận là "em anh Luyện"! Cụm từ "em anh Luyện" thậm chí còn trở thành câu "đùa" cửa miệng của nhiều người khi trò chuyện trên mạng.
Người ta có lẽ không còn nhớ ra Luyện là kẻ đã giết 3 người!
Trở lại vụ thảm sát ở Bình Phước, ngay khi nghi can Nguyễn Hải Dương bị bắt, chỉ vài giờ sau đó hàng loạt các trang FB mang tên Nguyễn Hải Dương với hình ảnh là ảnh thật lấy từ FB của Dương hoặc trên báo chí là hình ảnh đại diện. Khó mà đánh giá đầy đủ động cơ của những kẻ làm việc này. Đạo đức hay luật pháp sẽ phán xét?
Trường hợp của T.P. - không khó để nhận ra cậu đã vi phạm luật điện ảnh khi phổ biến phim trên internet mà chưa có giấy phép. T.P. đã gỡ phim bởi áp lực của những comment. Như comment từ bạn Pafchom: "Chí ít các bạn cũng phải thay đổi tên nhân vật, đó là đạo đức tối thiểu mà người diễn viên, người làm phim phải có. Bộ phim này hoàn toàn không có ý nghĩa gì ngoài việc khơi lại nỗi đau cả, tốt nhất là các bạn nên xóa ngay đi, tôi là người ngoài xem còn thấy đau thì thân nhân của người đã khuất sẽ thế nào."
T.P. chia sẻ rằng cậu muốn trở thành một nghệ sĩ. Nhưng cái cách bắt đầu con đường dài của T.P. (dù vô tình) thật đáng tiếc. Nhưng ngay cả khi coi tuổi 21 của T.P. là còn nhiều ngờ nghệch khi mô phỏng ngớ ngẩn một vụ án đang chấn động nhân tâm thì khó mà tin sự có mặt của một số người lớn trên phim lại là vô tình!
Phải chăng đó cũng là mặt trái của mạng xã hội khi ăn theo cái ác dễ thành một trào lưu?
Nghệ thuật đừng sống sượng thế...
Còn nhớ khi vụ án bác sĩ thẩm mỹ viện Cát Tường gây chết một phụ nữ rồi vứt xác xuống sông, bộ phim Mất xác của đạo diễn Đỗ Thành An đã lập lờ quảng bá rằng phim này được làm từ "cảm hứng" vụ Cát Tường kia.
Thậm chí Đỗ Thành An đã từng trả lời báo chí rằng: “Nội dung phim cũng được hé lộ là có liên quan đến một vụ án mạng chấn động trong dư luận gần đây? Có phải sự thật là như vậy? - Đúng vậy, vụ án “Cát Tường” là một trong những vụ án nổi tiếng được mọi người quan tâm, một cái xác bị mất không vớt được nó vỡ ra quá nhiều vấn đề đau lòng và nhức nhối. Tôi lấy “cảm hứng” từ vụ án đó để cài đặt trong “cấu trúc” chính của mạch phim”...
Nhưng hóa ra đó chỉ là sự mượn câu chuyện đời thực đang xôn xao để PR cho phim mình. Mất xáccủa Đỗ Thành An không liên quan đến câu chuyện ấy.
Nhìn ra thế giới, có rất nhiều phim nổi tiếng được lấy "cảm hứng" hoặc thậm chí là phục dựng lại các vụ án kinh hoàng. Tiêu biểu có thể kể đến Psycho (Kẻ tâm thần) của đạo diễn phim kinh dị hàng đầu thế giới Alfred Hitchcock.
Hitchcock đã "phục dựng" nhân vật Norman trong phim ông từ nguyên mẫu El Gein ở đời thực. El Gein luôn giết các cô nhân tình của hắn trong phòng tắm rồi mặc quần áo của họ thì phim của Hitchcock, nhân vật Norman giết nhân tình rồi mặc quần áo của mẹ hắn cho họ...
Một vụ án chấn động nước Mỹ khác là vụ bắt cóc đứa con 20 tháng tuổi của viên phi công Charles Lindbergh năm 1932, đứa bé đã được tìm thấy hai tháng sau đó và đã chết.
Hai năm sau, kẻ sát nhân là Bruno Richard Hauptmann đã bị bắt và phải lên ghế điện sau phiên tòa. Nhưng, đã có rất nhiều tác phẩm nghệ thuật lấy "cảm hứng" từ vụ án này từ âm nhạc, tiểu thuyết đến phim ảnh.
Trong suốt hơn 80 năm qua, đã có 4 bản nhạc, 6 tiểu thuyết, một vở nhạc kịch và 10 bộ phim cả truyền hình lẫn điện ảnh được sáng tác dựa trên vụ án rung động nước Mỹ này.
CÁT KHUÊ
 http://tuoitre.vn/tin/van-hoa-giai-tri/20150814/den-vang-an-theo-cai-ac/949047.html

Phần nhận xét hiển thị trên trang

4 năm đối phó với CIA và 11 năm đấu tranh với Đồng chí

Đại tá TB Nguyễn Tài: .

"Đại tá" an ninh Nguyễn Tài và cuộc đối mặt với CIA

Thứ tư , 28 / 5 / 2008

Giữa năm 2002, ông Nguyễn Tài được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Trước kia, tôi đã nghe nói nhiều về ông. Và thật sự những câu chuyện ấy phảng phất tính huyền thoại...


Ảnh đồng chí Nguyễn Tài tại hồ sơ nhà tù Mỹ - Ngụy
Giờ ông nghỉ hưu trong một ngôi nhà trên đường Đặng Văn Ngữ. Khi tôi bày tỏ ý định sẽ viết một bài báo về ông, ông băn khoăn hỏi: Anh sẽ viết gì về tôi? Các nhà báo đã viết cả rồi. Lúc đó, quả thực tôi cũng không biết sẽ viết về ông như thế nào. Và có lẽ tôi cứ ghi lại những gì tôi nghe, tôi biết về ông mà cũng không theo một thứ tự nào cả.
Năm 1958, khi mới 32 tuổi, ông đã giữ một chức vụ vô cùng quan trọng trong ngành Công an Việt Nam: Cục trưởng Cục bảo vệ chính trị. Cái tên này đối với người dân thật mơ hồ, nhưng công việc của những con người ở cơ quan này, cũng theo sự hiểu biết mơ hồ của tôi, là đập tan mọi hoạt động mang tính bí mật của các thế lực nhằm chống lại Nhà nước xã hội chủ nghĩa. 32 tuổi mà ông đã được giao một trọng trách lớn lao như vậy. Ngẫm lại, tôi thấy xấu hổ cho thế hệ chúng tôi bây giờ đã lấp lửng 50 vẫn bị coi như một đám con nít. Năm 1964, ông xung phong vào chiến trường miền Nam. Việc đi chiến trường của ông được người ta kể lại như một huyền thoại rằng chính Bác Hồ đã gặp ông trước khi đi và Bác Hồ gửi một bức điện vào chiến trường miền Nam với nội dung: Chú Nguyễn Tài là tài sản quí của Đảng, mọi người phải bảo vệ chú ấy. Khi nghe chuyện này, ông cười vẻ ngượng ngùng và bảo đấy là chuyện người ta thêu dệt. Chỉ có đồng chí Lê Duẩn gặp ông tại nhà riêng vào một buổi tối và nói với ông về cách mạng miền Nam và sẽ làm gì khi ta giải phóng. Ông nhắc lại là việc đi chiến trường là do ông xung phong. Hồi đó, ông là cán bộ miền Bắc có chức cao nhất trong ngành Công an đi chiến trường.

Ông Nguyễn Tài là con trai nhà văn nổi tiếng Nguyễn Công Hoan. Nhưng ông không theo nghiệp người cha. Có người bảo ông là một cán bộ an ninh bẩm sinh. Ông hoàn toàn không đồng ý nhận xét này. Ông bảo chẳng ai sinh ra lại được trời phú cho nghề an ninh. Hồi Cách mạng tháng Tám, ông được Đại tướng Võ Nguyên Giáp giao cho làm báo Nước Nam mới. Nhưng hình như ông chẳng mặn mà với nghề chữ nghĩa này cho lắm. Sau Cách mạng tháng Tám, cấp trên phân công ông làm công tác trong ngành Công an, ông đã lưỡng lự. Ông nói ông không thích nghề này vì nhiều người trong gia đình ông trước đó bị mật thám Pháp bắt bớ. Nhưng cấp trên nói với ông là công an cách mạng chỉ vì dân vì nước. Và thế là ông chấp thuận. Khi tiếp xúc với ông tôi thấy nghề văn có lẽ không hợp với ông thật. Ông là một người rất nguyên tắc, rất chính xác và kìm giữ được cảm xúc. Trong lúc trò chuyện với ông, mặc dù có những điều tôi hỏi và những cách tôi hỏi rất dễ đưa người khác vào trạng thái cảm hứng hưng phấn để có thể nói ào ào mọi chuyện rồi sau đó thần người ra: Ồ, mình có nói thế à? Nhưng với ông thì khác. Ông nói chuyện với một giọng đều đều, không dễ dãi cũng không khắt khe, không hồ hởi cũng không dửng dưng. Có lẽ phẩm chất này đã giúp ông đi qua được những cuộc hỏi cung triền miên hơn bốn năm trong phòng biệt giam của Trung ương tình báo Ngụy ở Số 3 Bạch Đằng.
Ông Nguyễn Tài bị bắt ngày 23 tháng 12 năm 1970 trên đường đi công tác. Nhiều người sau đó nghi ông Bảy Sết, người lái chiếc ghe chở ông Nguyễn Tài đi công tác, đã phản bội, chỉ điểm cho địch bắt ông. Sau giải phóng, ông đã tìm gặp Bảy Sết, minh oan cho Bảy Sết và đề nghị chính quyền làm chế độ hưu cho Bảy Sết. Khi bị bắt, ông đã khai mình là Nguyễn Văn Hợp, đại uý thuộc Cục nghiên cứu miền Bắc. Ông được đưa vào miền Nam để xã hội hoá và chờ khi chiến tranh kết thúc sẽ đi Pháp để hoạt động lâu dài.
Nhưng rồi CIA Mỹ đã lần ra lý lịch thật của ông. CIA đã phát hiện ra ông là con trai nhà văn Nguyễn Công Hoan, biết ông làm Cục trưởng Cục bảo vệ chính trị (có thể nói đó là Cục quan trọng nhất của Bộ Công an). Biết ông đã từng đi công tác nước ngoài với Bác Hồ. Chúng đã đưa cho ông xem một bức ảnh chụp Bác Hồ đi thăm đền Borubodour ở Indonesia. Đứng sau Bác Hồ có một người trẻ đeo kính đen, đó là ông Nguyễn Tài. Và chúng biết những chức vụ ông nắm giữ trong thời gian Sài Gòn Gia Định. Chúng biết cả ông Lê Văn Lương (tên thật là Nguyễn Công Miều) là chú ruột ông. Việc CIA biết khá rõ về ông là vì công tác hồ sơ của CIA rất khoa học và một số cán bộ cấp dưới của ông đã đầu hàng và phản bội cách mạng. Lúc đầu chúng hỏi ông có thích đọc tiểu thuyết tiền chiến không? Rồi hỏi ông có đọc văn Nguyễn Công Hoan không, và đưa cho ông mượn cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đạicủa Vũ Ngọc Phan trong đó có in ảnh cha ông để thăm dò phản ứng của ông. Nhưng là một cán bộ an ninh nhà nghề, những trò chơi nghiệp vụ như vậy đối với Cục trưởng Nguyễn Tài quả là một trò chơi xoàng.
Trong bài phỏng vấn Frank Snepp, nhân viên CIA đã từng hỏi cung ông, đăng trên báo L" Express sau ngày miền Nam giải phóng, Frank Snepp nói: "Vì ông ta (Nguyễn Tài) không chịu nổi sự lạnh lùng cho nên người ta đã tống ông ta vào một xà lim của bộ máy của những người có thế lực để thổi một luồng không khí lạnh vào trong đó, nhưng ông ta không chịu khuất phục. Tôi đã phát hiện ra một điểm yếu khác trong ông. Trong những năm 50, ông đã muốn chứng tỏ lòng trung thành của mình với cấp trên bằng cách từ bỏ cha đẻ của ông, một nhà văn Việt Nam tên tuổi không tin vào chủ nghĩa Cộng sản. Khi mà ta hiểu rõ sự tôn kính gia đình trong con người Việt Nam, ta mới mường tượng ra vết thương lòng đau đớn này… có thể nói rằng ông ta đã không làm trọn đạo lý. Và vết thương này có thể đã làm thay đổi con người ông ta".


Vợ chồng nhà văn Nguyễn Công Hoan cùng các con cháu (Trong ảnh: Người ngoài cùng là đồng chí Nguyễn Tài)
Tôi hỏi ông vì lý do gì mà Frank Snepp lại nói như vậy khi nhà văn Nguyễn Công Hoan là nhà văn cách mạng nổi tiếng, người đã chiến đấu không mệt mỏi bằng ngòi bút của mình cho những người lao động. Ông trả lời đó là sự xuyên tạc. Ông nói sự thật cha ông như thế nào thì mọi người đều biết. Trong một số cuộc hỏi cung ở Số 3 Bạch Đằng, Frank có đề cập đến cuốn Đống rác cũ và nói tại sao ông Tố Hữu lại phê phán cuốn ấy ghê thế để kích động và phân hoá ông. Những Frank nói riêng và CIA nói chung đã thất bại.
Những cuối cùng chúng nói thẳng với ông rằng ông là đại tá Nguyễn Tài, biệt danh Tư Trọng, Cục trưởng Cục bảo vệ chính trị Bộ Công an Bắc Việt. Khi nói chuyện với tôi, ông Nguyễn Tài nói chuyện ông mang hàm đại tá là do CIA gán ghép cho ông vì hồi đó lực lượng an ninh chưa có hàm mà chỉ có lực lượng cảnh sát thôi. Thời gian đó, CIA hứa với ông nếu ông xác nhận đầy đủ về bản thân mình thì chúng sẽ cấp cho ông 20 triệu và một biệt thự ở Thụy Sỹ để ông sang đó sinh sống nếu ông không muốn trở về miền Bắc.
Sau này vì một số lý do, ông đã thừa nhận mình là đại tá Tư Trọng, phục vụ trong Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Tháng 11 năm 1971, ông Trần Bạch Đằng thừa lệnh cấp trên viêt một lá thư nhân danh Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đặt vấn đề với phía Mỹ trong việc trao đổi ông Nguyễn Tài với một tù binh là sỹ quan tình báo Mỹ trước khi ký kết Hiệp định Paris. Bức thư này được giao cho một Trung sỹ Mỹ bị ta bắt, được phóng thích mang về Sài Gòn.
Trong cuốn Hồi ký nhan đề Decent interval của Frank Snepp thì giữa Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và CIA đã bí mật dàn xếp một cuộc trao đổi tù binh đặc biệt vào cuối năm 1971. Frank viết: "Nguyễn Tài, người mà họ đã từng coi là quá quan trọng để đáng đổi lấy Ramsey năm 1971, nay phải thấy là cái tài sản hấp dẫn nhất nằm trong tay Sài Gòn, như họ đã từng rêu rao như thế… để không ai còn có thể chống lại cái quyết định trước đây tức là không đem người này (Nguyễn Tài) ra đổi lấy một sỹ quan ngoại vụ". Sau này, cố Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn nói với ông làm thế là một hình thức ngăn cản Mỹ Ngụy có thể thủ tiêu ông. Vì lúc đó, việc trao đổi tù binh khó có thể thực hiện được. Và sau hơn bốn năm trong phòng biệt giam chịu đủ đòn tra tấn thể xác cũng như tinh thần, tình báo Ngụy và CIA đã không thể nào khuất phục được ông.
Trong cuốn hồi ký nhan đề Decent interval của Frank Snepp có đoạn: "Ngay trước khi xe tăng Bắc Việt Nam tràn vào Sài Gòn, một quan chức cao cấp của CIA đã gợi ý với nhà chức trách Sài Gòn là tiện nhất là y biến mất. Bởi vì Tài là một tay khủng bố có kinh nghiệm, nên khó có thể mong đợi y là một người thắng trận rộng lượng. Người Nam Việt Nam đồng ý. Tài bị đưa lên một máy bay và ném xuống biển Nam Hải từ độ cao mười ngàn bộ. Đến đây, thì ông ta đã trải qua hơn bốn năm bị biệt giam trong một phòng sơn trắng toát, và cũng chưa khi nào xác nhận một cách đầy đủ mình là ai cả". Đấy là kế hoạch thủ tiêu ông mà CIA đã bàn với chính quyền Sài Gòn. Frank nghĩ ông đã chết mất tích trên biển. Nhưng kế hoạch thủ tiêu ông đã không thực hiện được vì lúc đó Sài Gòn đã hoàn toàn rối loạn trước sự tấn công như vũ bão của quân đội ta. Lúc đó Sài Gòn không đủ bình tĩnh và thời gian để đưa ông lên một chiếc trực thăng bay ra biển Đông để thủ tiêu ông. Sau này khi biết được kế hoạch CIA nhằm thủ tiêu ông thì ông nhớ lại bữa cơm ngày 26 tháng 4 năm 1975. Khi ông bưng bát canh dưa lên, thấy có mùi lạ, ông đã bỏ bữa cơm vì sợ bệnh đường ruột. Có lẽ do tình cờ vậy mà ông đã thoát chết chăng?
image: http://s3.60s.com.vn/image/52008/28/VIETTIMES_121414804.jpg
Đồng chí Nguyễn Tài và vợ chụp ảnh kỷ niệm trước phòng giam ở số 3 đường Bạch Đằng

Nhớ lại những câu chuyện đó, ông bảo có lẽ số ông không dễ chết. Ông kể năm 1948, khi ông đang nghe điện thoại thì bị sét đánh. Mọi người nhìn thấy người ông sáng xanh. Vậy mà ông vẫn nguyên lành. Kể xong ông cười mỉm và nói vì có cái dây dẫn chôn xuống đất nên sét không đánh chết ông.
Sau khi ra khỏi tù, ông trở về tiếp tục công tác tại Bộ Công an với chức vụ Thứ trưởng. Và rồi ông bị đình chỉ công tác vì có một tài liệu nào đó nói ông đã bị CIA sử dụng cùng với những đoạn lập lờ thiếu lôgíc trong cuốn Hồi ký của Frank Snepp. Đứng về nguyên tắc tổ chức thì việc ông không được công tác ở Bộ Công an là đúng. Nhiệm vụ của tổ chức là phải xác minh nguồn tin này. Tổ chức không thể để một Thứ trưởng Bộ Công an đang có nghi vấn bị CIA sử dụng làm việc. Sau đó ông được điều về công tác tại Ủy ban Pháp luật Nhà nước, rồi làm Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan… và về hưu năm 1992.
Sau chiến tranh, trường hợp hư hư thực thực của một số cán bộ bị địch bắt như ông không phải hiếm. Nhưng với ông, tôi nghĩ là một trường hợp đặc biệt vì chức vụ cực kỳ quan trọng mà ông đang giữ lúc bấy giờ. CIA cũng như nhiều cơ quan tình báo nào đó cũng có những trò chơi nghiệp vụ của họ. Nếu họ không sử dụng được một nhân vật quan trọng nào đó thì họ tìm cách vô hiệu hoá nhân vật đó.
Nhưng ông đã không hề khủng hoảng tinh thần, vẫn với tính cách và bản lĩnh của mình, ông bình tĩnh và bền bỉ bảo vệ nhân cách trong sáng và sự trung thành với dân tộc của ông trong những năm tháng biệt giam. Chính vì thế mà năm 2002, cố vấn Võ Văn Kiệt đã đề nghị với Nhà nước phong tặng ông danh hiệu Anh hùng LLVTND với hai lý do: Trung kiên bảo vệ Cách mạng trong nhà tù Mỹ - Ngụy và dũng cảm bảo vệ nhân cách trong sáng của một đảng viên trước nhân dân.
Tôi hỏi ông rằng ông đã hoàn toàn thanh thản khi được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng chưa? Giọng ông vẫn đều đều, nhưng phảng phất buồn: Tôi thấy còn nhiều người xứng đáng hơn tôi nhiều, nhưng chưa được phong tặng danh hiệu Anh hùng vì thủ tục của chúng ta rườm rà quá./.

Hà Hoàng (Vietimes)
Theo: Thethao60s

Nguyễn Tài - người thủ trưởng kiên trung của lực lượng An ninh Sài Gòn - Gia Định

Thứ năm, 02/04/2015 14:21

(CATP) Đồng chí Nguyễn Tài tên thật là Nguyễn Tài Đông, bí danh Tư Trọng, Tư Duy, Ba Sáng, sinh ngày 11-12-1926, quê làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Ông Nguyễn Tài (ảnh chụp cuối năm 1970)
Đồng chí sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước và cách mạng (cha là nhà văn Nguyễn Công Hoan, đảng viên; chú là Nguyễn Công Miều (tức Lê Văn Lương), ủy viên Bộ Chính trị; chú là Nguyễn Công Bông bị đày lên Sơn La; anh ruột là Nguyễn Tài Khoái hy sinh năm 1947...). “Trong kháng chiến chống Pháp, gia đình có 6 người hy sinh”(1). Do đó, ông Tài tham gia cách mạng khá sớm, gia nhập Đoàn thanh niên cứu quốc năm 18 tuổi, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 3-1945.

Tháng 9-1945, ông bắt đầu công tác trong ngành an ninh.

Trong kháng chiến chống Pháp, ông là Trưởng ty Công an Hà Nội, rồi Giám đốc Sở Công an đặc khu Hà Nội.

Tháng 9-1958, ông là Cục trưởng Cục bảo vệ chính trị (Bộ Công an).
Theo nguyện vọng của ông, ngày 21-3-1964 ông được Trung ương cử vào miền Nam trực tiếp chiến đấu, “là người có cấp cao nhất trong ngành công an từ trước đến lúc đó đi Nam”(1).

Tại miền Nam, ông trở thành ủy viên Ban An ninh của Trung ương cục miền Nam, trực tiếp làm phó (1965), rồi trưởng (1966) Ban An ninh khu Sài Gòn - Gia Định, ủy viên, rồi ủy viên thường vụ Thành ủy. Trong các cương vị đó, ông đã có công rất lớn trong việc xây dựng và phát triển Ban An ninh khu Sài Gòn - Gia Định thành một lực lượng vững mạnh, được Nhà nước khen thưởng danh hiệu Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Những cống hiến to lớn của ông cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam đã được nhiều sách báo đề cập đến, nhất là vào dịp ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong tham luận này, theo phân công của Ban tổ chức hội thảo, chúng tôi tập trung giới thiệu cuộc đấu tranh kiên trung của ông trong nhà tù Mỹ - Thiệu.

Ông Nguyễn Tài (bìa phải) với vợ con trước ngày lên đường vào Nam (1964)
TRONG CÁC TRUNG TÂM THẨM VẤN CỦA MỸ - THIỆU (12-1970 - 10-1971)

Ngày 23-12-1970, trên đường đi dự một cuộc họp của Thường vụ Thành ủy Sài Gòn - Gia Định, ông bị bắt trong địa phận tỉnh Bến Tre.
Địch hỏi: theo giấy căn cước, ông tên Nguyễn Văn Lắm, sinh ở Định Thủy, Mỏ Cày, Bến Tre, tại sao nói giọng Bắc? Ông giải thích: cha người Bắc, mẹ người Nam, sinh ở quê mẹ nhưng lớn lên ở quê cha, năm 1954 di cư vào Nam, sống ở Bến Tre.

Địch phát hiện giấy căn cước giả nên đưa ông đi thẩm vấn nhiều nơi: Ban quân báo của Tỉnh đoàn Bảo an Bến Tre, Cảnh sát vùng IV chiến thuật (ở Cần Thơ), Ban Quân báo của Quân đoàn IV (ở Cần Thơ), Ban Quân báo của Sư đoàn 7 (căn cứ Bình Đức, Mỹ Tho).

Về sau, để không ảnh hưởng tới tổ chức và nhân sự của Thành ủy (mà ông là ủy viên thường vụ) và Ban An ninh T4 (mà ông là trưởng ban), ông tạo ra một lý lịch giả, tự nhận là Nguyễn Văn Hợp, đại úy tình báo miền Bắc, mới vào Nam tháng 11-1970 (một tháng trước khi bị bắt), bị bắt trên đường đi Hồng Ngự để được Cục tình báo giao nhiệm vụ cụ thể.

Vì vậy, ngày 7-1-1971, ông bị “đưa lên Sài Gòn để các chuyên viên người Nam Việt Nam và Mỹ ở Trung tâm thẩm vấn quốc gia thuộc Phủ đặc ủy trung ương tình báo Nam Việt Nam thẩm vấn một cách chi tiết”(2). Nguyễn Tri Tông “làm việc ở Phủ đặc ủy trung ương tình báo, từng được CIA huấn luyện thành thẩm vấn viên (...) được lệnh sử dụng trực thăng riêng của đại sứ Bunker dẫn độ [ông] từ trại Đồng Tâm (Mỹ Tho) về Sài Gòn (...) trong một chuyến bay đêm, đem về giam ở Bến Bạch Đằng”(3).

Se Portland viết: “Người [của chính quyền] Nam Việt Nam tra tấn ông hàng tháng trời nhưng vẫn không tìm ra được điều gì thêm về lý lịch của ông”(4).
Merle L.Pribbenow, một chuyên viên CIA, cũng thừa nhận những lời khai của ông “chẳng tiết lộ bất cứ điều gì có thể làm hại đến sự nghiệp của ông ta”(2).
Frank Snepp, một chuyên viên CIA khác, người phụ trách thẩm vấn ông trong suốt 2 năm rưỡi, nhận xét: “Phần lớn những gì ông khai báo chỉ là những thông tin giả của một câu chuyện che giấu được ông dựng lên một cách khéo léo”(5).

Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn (người thứ hai từ trái qua) đến thăm ông Nguyễn Tài (thứ hai từ phải qua) đầu tháng 5-1975
Trong khi trong tù, ông đang thành công trong việc che giấu tung tích của mình thì bên ngoài các đồng chí của ông tìm cách giải thoát ông ra khỏi nhà lao Mỹ - Thiệu.

Lê Thanh Vân (bí danh Ba Tâm, Sáu Ngọc), Phó trưởng ban An ninh T4, gửi thư cho Hai Tân, cán bộ điệp báo trong nội thành Sài Gòn, yêu cầu tìm nơi ông đang bị giam giữ và dùng tiền để ông được tự do “mấy triệu đồng cũng đưa”. Không may, Hai Tân bị bắt cùng với bức thư.

Qua sự cố này, Mỹ - Thiệu rút ra hai nhận định: ông là người của ngành an ninh (chứ không phải của ngành tình báo), là cán bộ quan trọng nên tổ chức của ông sẵn sàng chi một số tiền lớn. Địch không còn tin ở lý lịch “Đại úy tình báo Nguyễn Văn Hợp” nữa. Chúng đưa ông sang trụ sở ban U trên đường Trần Bình Trọng để tra tấn. Pribbenow kể: “Chúng cho điện giật, dùng dùi cui đánh ông, đổ nước vào mũi trong khi nhét giẻ vào miệng (...), cho nước nhỏ từng giọt chầm chậm xuống mũi trong nhiều ngày liên tục, trói ông vào một ghế đẩu nhiều ngày không cho ăn uống, trong khi vẫn hỏi cung suốt ngày đêm(2). Song song với việc dùng nhục hình, chúng sử dụng các thủ đoạn khác để dụ dỗ, lừa phỉnh. Chúng nói với ông: chúng sẽ gửi ông sang Nhật Bản để chữa bệnh; nếu ông không muốn về lại miền Bắc thì chúng sẽ cấp cho ông 20 triệu đồng và một biệt thự ở Thụy Sĩ.

Nguy hiểm hơn, chúng chụp hình ông rồi đưa đến các nhà lao như Tân Hiệp (Biên Hòa), Côn Đảo, Phú Quốc... cho những người tù từng công tác trong ngành an ninh của ta. Một số tên chiêu hồi hay đầu hàng (có người từng làm việc dưới quyền của ông) xác nhận người trong hình là Nguyễn Tài, bí danh Tư Trọng, Trưởng ban An ninh T4, ủy viên thường vụ Thành ủy Sài Gòn - Gia Định. Bọn phản bội được đưa về Sài Gòn để nhận diện ông.

Nhưng theo Pribbenow, bất chấp mọi thủ đoạn của địch, “Tài vẫn giữ nguyên câu chuyện che giấu của ông”(2), chỉ nhận mình là Nguyễn Văn Hợp. Địch lại tiếp tục tra tấn ông.

Tháng 6-1971, chúng trưng thêm hai chứng cứ mới: thư do ông viết vào đầu năm 1970 gửi cho Lê Thanh Vân (mà chúng tịch thu được trong một trận càn vào xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre) và tấm hình ông đi trong phái đoàn của Bác Hồ thăm đền Borobudur (Indonesia).

Địch nói: chúng chỉ cần ông xác nhận lý lịch nhằm thực hiện việc trao đổi ông để nhận lại mấy đại tá tình báo của chúng bị ta bắt giữ.

Đến lúc đó, ông mới nhận những chi tiết mà địch đã biết: “Nguyễn Tài, bí danh Tư Trọng, cấp bậc đại tá, đang phục vụ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam”(1). Thật ra, vào thời điểm đó, cán bộ an ninh của ta chưa có quân hàm, cấp bậc đại tá là do địch gán cho ông, ông nhận một điều không đúng sự thật nhằm buộc địch công nhận ông là tù binh.

Vẫn theo Pribbenow, chúng đòi “ông cung cấp thêm chi tiết về tiểu sử và quá trình hoạt động của ông. Ông từ chối và chúng tiếp tục tra tấn”(2). Ngoài các biện pháp nhục hình cũ, chúng dùng nhiều thủ đoạn mới độc hại hơn nhằm làm ông kiệt sức, lả người, rơi vào trạng thái mê sảng. Lợi dụng lúc ông không còn làm chủ suy nghĩ, chúng bắt đầu hỏi cung, hy vọng ông có thể lỡ lời tiết lộ bí mật có hại cho tổ chức và đồng đội của ông. Michael Otterman kể: “Bất chấp tra tấn, Tài vẫn im lặng”(6). Về sau, ông nghĩ ra cách đối phó: trả lời tất cả các câu hỏi cung bằng một câu duy nhất: “Quên rồi”.

Chúng càng tra tấn dữ dội hơn, nhưng theo Alfred W.McCoy, “ngay cả như vậy, các thẩm vấn viên [của chính quyền] Nam Việt Nam đã thất bại”(7).
(Còn tiếp)

Tiến sĩ PHAN VĂN HOÀNG
(nguyên cán bộ trinh sát vũ trang An ninh T4)

(1) Nguyễn Tài, Về với cội nguồn, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1977.
(2) Nguyễn Tài, Đối diện với CIA Mỹ, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội, 1999.
(3) Phan Thanh Tâm, Người tù trong phòng giam tuyết trắng, www.gio-o.com/Tet/2014phanthanhtamnguyentai.htm.
(4) Se Portland, The White Cell, báo điện tử Daily Kos (dailykos.com), ngày 27-9-2006.
(5) Frank Snepp, Tortured by the Past, báo điện tử Los Angeles Times (latimes.com), ngày 27-4-2009.
(6) Alfred W. McCoy, Torture and Impunity: The U.S. Doctrine of Coercive Interrogation, University of Wisconsin Press, Madison, 2012.
(7) Alfred W. McCoy, A Question of Torture: CIA Interrogation from the Cold War to the War on Terror, Nxb. Owl Books, New York, 2006.

Tiến sĩ PHAN VĂN HOÀNG

 TỪ CÕI CHẾT, CHIẾN THẮNG TRỞ VỀ

Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris được ký. Một tuần lễ sau, ngày 3-2, Snepp mới báo cho ông Tài biết. “Ông ngồi một lát, run rẩy vì hơi lạnh của máy điều hòa không khí, rồi nói với Snepp bằng tiếng Pháp: “Nếu điều anh nói với tôi là thật thì đây là ngày hạnh phúc nhất của đời tôi”.

Theo Hiệp định Paris, hai bên trao trả cho nhau tù binh và tù dân sự. Nhưng Mỹ - Thiệu vi phạm trắng trợn hiệp định, tiếp tục giam giữ nhiều người (trong đó có ông Tài) đến tận 30-4-1975, tức thêm 2 năm 3 tháng nữa. Ông gọi đùa những năm tháng đó là thời gian “bị tù dư”.

Địch lấy cớ trao trả tù binh để tiếp tục hỏi cung. Ông kiên quyết phản đối: “Nếu trong việc làm thủ tục để trao trả tù binh, có gì cần làm thì tôi làm. Ngoài ra, thì không làm gì hết (...). Các ông không còn có quyền hỏi cung tôi nữa. Tôi cũng không chấp nhận việc hỏi cung và không trả lời hỏi cung nữa”.
Thấy địch không nói tới chuyện trao trả, ông viết thư gửi “nhà đương cục Hoa Kỳ chịu trách nhiệm trao trả tù binh theo Hiệp định Paris... đòi phải tuyên bố rõ việc trao trả... Trong khi chờ đợi trả lời thì tôi giảm ăn”. Ông tự giảm khẩu phần xuống còn ½, rồi ¼ trong suốt 70 ngày. Khi thấy cách đấu tranh này không hiệu quả, ông mới ăn uống trở lại bình thường.

Cuối năm 1974, ông gửi lá thư thứ hai cho “nhà đương cục Mỹ và Việt Nam Cộng hòa” yêu cầu trao trả theo đúng Hiệp định Paris.

Ngày 26-4-1975, khi 5 cánh quân của ta sắp tiến vào giải phóng Sài Gòn, “một viên chức cao cấp của CIA gợi ý cho nhà cầm quyền Nam Việt Nam cần làm cho Nguyễn Tài biến mất” để tránh việc “Tài được giải thoát bởi các đồng chí chiến thắng của ông ta”. Nguyễn Khắc Bình, tư lệnh Cảnh sát quốc gia kiêm đặc ủy trưởng Phủ đặc ủy trung ương tình báo, ra lệnh cho số cầm đầu Trung tâm thẩm vấn quốc gia thủ tiêu ông Tài theo lệnh của CIA. Tuy nhiên, theo Pribbenow, “lệnh đến quá trễ. Tất cả các viên chức cao cấp của Phủ đặc ủy trung ương tình báo đang tìm cách chạy trốn khỏi Nam Việt Nam”. Bản thân các viên chức CIA - trong đó có Frank Snepp - cũng lo tháo chạy thoát thân. Hai năm sau, 1977, trong lúc quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ đang gián đoạn, Snepp hoàn toàn không có tin tức gì về ông Tài, yên trí là Nguyễn Khắc Bình đã thi hành lệnh của CIA, nên anh ta viết trong cuốn Decent Interval (Khoảng cách thích đáng): “Tài bị đưa lên một máy bay và bị ném xuống biển Đông ở độ cao 1.000 feet”. Sự thật không phải vậy. Pribbenow cho biết: “Các nhân viên cấp dưới [của Trung tâm thẩm vấn quốc gia] sợ bị trừng phạt nếu những người Cộng sản chiến thắng biết họ đã giết Tài”, do đó họ “không dám thi hành [lệnh thủ tiêu] vì sợ mang thêm tội với Cách mạng”.

Đồng chí Nguyễn Tài (bìa phải), tại một buổi tọa đàm nhân kỷ niệm 49 năm ngày khám phá vụ án “Ôn Như Hầu”
Trưa 30-4-1975, một tiểu đoàn thuộc Quân đoàn IV tiến vào Sài Gòn, chiếm Phủ đặc ủy trung ương tình báo. Ông Tài được giải thoát khỏi xà-lim trắng toát sau 4 năm 4 tháng 10 ngày bị biệt giam.

Ngay sau đó, ông gặp thường vụ Thành ủy Sài Gòn - Gia Định, được công nhận đảng tịch liên tục, được phân công ủy viên thường vụ Thành ủy, phụ trách Trưởng ban An ninh của thành phố Sài Gòn - Gia Định mới giải phóng. Chỉ vài ngày sau, Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn (mới ở Hà Nội vào) đã đến thăm ông. Sau mấy tháng ra Bắc rồi sang Cộng hòa Dân chủ Đức để kiểm tra sức khỏe và chữa bệnh, ông về làm việc ở Bộ Công an (lúc đó gọi là Bộ Nội vụ). Đầu năm sau, được đề bạt chức Thứ trưởng.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, có hàng trăm vạn người Việt Nam yêu nước bị Mỹ - ngụy bắt giam, tù đày và tra tấn, nhưng có lẽ ông Tài là người được các tác giả Mỹ đề cập đến nhiều nhất. Họ gọi ông là “Người trong xà-lim trắng toát” (The Man in the Snow White Cell).

Đặc biệt, Frank Snepp - chuyên viên CIA thẩm vấn ông trong thời gian lâu nhất, được CIA thưởng Huân chương công trạng về tình báo (Intelligence Medal of Merit, ngày 16-12-1975) - giữ nhiều ấn tượng sâu đậm về ông.
Hugh D.S.Greenway kể: “Sau chiến tranh [ở Việt Nam], Snepp rời khỏi CIA, nhưng anh ta không thể đưa Tài ra khỏi tâm trí của mình. Anh ta sang Paris để nói với phái bộ Việt Nam [ở Pháp] rằng Tài đã xử sự một cách đáng kính trọng và đã chết một cách dũng cảm (Tai had comported himself honorably and died bravely)”.

Năm 1977, Snepp dành hẳn một chương trong cuốn hồi ký Decent Interval để kể chuyện ông Tài.

Gần tới ngày kỷ niệm lần thứ 34 chế độ Sài Gòn sụp đổ (27-4-2009), Snepp viết trên báo Los Angeles Times một bài nhan đề “Bị quá khứ tra tấn” (Tortured by the Past) thuật lại thời gian thẩm vấn ông Tài.

Những người Mỹ khác, tuy không chia xẻ lập trường chính trị của ông, họ vẫn dành cho ông nhiều từ tốt đẹp như “một cán bộ Cộng sản tận tâm” (a dedicated Communist cadre), “kiên quyết” (determined), “một người từng trải, thông minh, được đào tạo tốt” (sophisticated, intelligent, well-educated man), “một người cứng cỏi không dễ gì làm suy yếu” (a tough nut to crack)...
Ngày 23-12-1988, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra văn bản số 570 khẳng định: “Đồng chí Nguyễn Tài đã có tinh thần chịu đựng sự tra tấn dã man của địch, khôn khéo đối phó với địch, bảo vệ cơ sở và những bí mật của Đảng mà mình biết”.

Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, người từng có thời gian hoạt động chung với ông trên chiến trường miền Nam, nhận định: “Quá trình hoạt động cũng như quá trình đấu tranh kiên trung, mưu trí khi bị địch bắt trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ của đồng chí Nguyễn Tài cho thấy đồng chí thực sự xứng đáng là một anh hùng”.

Nhận định đó được đông đảo đồng bào, đồng chí tán thành.

Bộ trưởng Bộ Công an Mai Chí Thọ cùng các đồng chí khác chúc mừng ông Nguyễn Tài và phu nhân (người thứ hai và thứ ba từ trái sang) trong lễ phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Giữa năm 2002, ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và sau đó được thưởng Huân chương Hồ Chí Minh.Đó là những phần thưởng cao quý mà Tổ quốc dành cho người con trung hiếu.
Lực lượng An ninh Sài Gòn - Gia Định trước kia và Công an thành phố Hồ Chí Minh ngày nay vinh dự có người thủ trưởng kiên trung như vậy.
30-4-2015   

* Bài viết có trích dẫn một số tài liệu trong và ngoài nước.

Nguồn: Congan.com
Xem thêm:  

Phần nhận xét hiển thị trên trang