Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 15 tháng 8, 2015

Con người suy thoái?

Nhà văn Vương Trí Nhàn


Trời sinh vua để làm vua 
Và thi sĩ để làm thơ ru đời 
Một ông vua trái luật trời 
Việc vua thì nhác, lại đòi… làm thơ.

Trên đây là đoạn mở đầu của bài thơ “Nhà vua và nhà thơ” của Tú Mỡ, in trên báo Ngày nay ở Hà Nội năm 1939, tức hơn bảy chục năm trước.
Câu chuyện tiếp tục như sau: Làm thơ xong, vua lại thích đưa cho các cận thần đọc để kiếm lời khen. Một vị quan kiêm thi sĩ – quan ngày xưa người nào cũng làm thơ và thạo thơ – mới nói toẹt ra rằng thứ thơ đó chả ra gì.
Thế là vua cho ông ta vào nhà pha (tiếng ngày xưa chỉ nhà tù).
Sau vua có ý hối, cho người đến nói với nhà thi sĩ chân chính nọ là sẽ thả ông ta ra, miễn ông ta nói rằng thơ vua hay. Tức là tiếp tục buộc ông ta nói dối. Trong cảnh tù đày, ông này phải nghĩ một lúc.
Tú Mỡ viết:
Phân vân bên tội bên tình 
Nhà thơ tỏ vẻ bực mình băn khoăn 
Cắn môi mắt nhíu mày nhăn 
Trong đầu như nổi mấy lần phong ba
Ngập ngừng lời chẳng nói ra 
Nói hư? nói thực? biết là làm sao?

Bài thơ kết lại bằng hai câu bất ngờ:
Khổ tâm thi sĩ cúi chào 
Muôn tâu thần lại trở vào nhà pha

Tôi thường nhớ tới bài thơ này (đúng hơn là một thứ vè vui vui) để nhắc mình một sự thực: là con người ngày xưa tốt quá.
Tôi tin không phải ở đây Tú Mỡ chỉ muốn nêu một tấm gương cốt dạy dỗ thiên hạ (kiểu các đồng nghiệp của tôi đương thời).
Mà ông đã miêu tả một sự việc có thực, hơn nữa một sự việc điển hình.
Tức là người xưa phần lớn cư xử như viên quan kiêm nhà thi sĩ ở đây đã làm.
Thế thì sao lại bảo bài thơ có cái kết bất ngờ?
Đó là đặt vào tâm lý của người hôm nay.
Vào những trường hợp tương tự, tôi ngờ phần lớn con người hôm nay sẽ cư xử kiểu khác. Để khỏi vào nhà pha thì bảo làm gì cũng làm. Mà chẳng đợi đến cuộc mặc cả cuối cùng; trước đó, bởi thừa biết rằng nếu khen vung cả lên sẽ thủ lợi, người ta tranh nhau khen từ đầu cả rồi.
Nói tốt quá còn chung chung. Cái chính là người xưa, hơn bù kém, tốt hơn so với con người hôm nay. Vả chăng nhìn rộng ra thì thấy con người hồi ấy, cả giàu lẫn nghèo, cả ông to lẫn ông nhỏ, chẳng những không nói dối nịnh bợ mà còn giữ được nhiều phẩm chất cao đẹp.
Tôi nhớ tới nhiều trường hợp khác. Các nhân vật của Thạch Lam như mẹ Lê nghèo khổ, như cô hàng xén đảm đang đều đồng thời là người tự trọng và cứng cỏi. Lão Hạc của Nam Cao thì “trên cả tuyệt vời“, thà chết chứ không ăn vào vốn của con cái. Cũng liên quan đến Nam Cao là trường hợp của Chí Phèo. Trong một cuộc hội thảo, một nhà nghiên cứu đã nhận định: “Chí Phèo tỉnh, Chí Phèo không say”.
Bởi chỉ một người sáng suốt trong giây phút hệ trọng của đời mình mới biết hỏi “nhưng ai cho tao lương thiện?”.
Xuân tóc đỏ thường được xếp vào loại nhân vật loại xấu xa bạc nhất trong văn học tiền chiến. Nhưng đọc kỹ thì thấy chính ra Xuân khá thông minh, lại chịu học hỏi để thích ứng với thời đại. Và biết điều và tự trọng nữa: Lúc được Văn Minh hứa gả cô Tuyết, Xuân nói thẳng cái nguồn gốc xuất thân hèn hạ của mình. Ở chỗ này Xuân biết mình biết người, và sòng phẳng nữa!
Trở lên chỉ là một vài phẩm chất mà con người ngày nay đánh mất.
Không khó khăn gì lắm để tìm ra lý do khiến chúng ta có nhiều thói xấu như vậy. Đây tôi chỉ nói nguyên nhân rõ nhất – cuộc chiến tranh kéo quá dài.
Trong “Câu chuyện triết học”, phần viết về H. Spencer, W. Durant cho rằng “xã hội chiến tranh thường ca ngợi một vài đức tính [nguyên tắc ứng xử – VTN chú] và dung túng những việc mà các dân tộc khác xem là có tội”.
Nếu nơi không chiến tranh, con người quảng đại và nhân đạo, thì nơi chiến tranh kéo dài, người ta quen với cướp bóc phản bội.
Đây là luật phổ biến song ta thường quên và tự cho mình là một ngoại lệ.
Con người Việt Nam hôm nay lao vào cuộc làm ăn kinh tế, mà thói quen sống kiểu chiến tranh còn nguyên vẹn.
Kinh tế thị trường rút lại được hiểu là thói cạnh tranh không lành mạnh, nói nôm na là chúa đã chết, ai muốn làm gì thì làm.
Thành thử có xảy ra lộn xộn hỗn hào thì cũng là điều dễ hiểu.
Từ chỗ chăm chăm chửi bới kẻ giàu cho rằng kẻ giàu là xấu, nay người ta lao vào làm giàu để rồi lãnh đủ những xấu xa bỉ ổi đó, và đưa cái ác lên một trình độ hiện đại đáng sợ!
Trong một cuốn sách mang tên “Miền đất huyền ảo”, có phụ đề “Các dân tộc miền núi nam Đông Dương” (tác giả Jacques Dournes, Nguyên Ngọc dịch, NXB Hội nhà văn in năm 2003), ở trang 13, tôi đọc được một lời cảnh cáo:
“Định mệnh của con người là vươn tới tiến bộ; nhưng mọi sự tìm tòi sẽ là vô nghĩa và kết quả sẽ là tai họa nếu vận động đó lại dẫn đến sự suy thoái về nhân cách. Có nghĩa gì một sự tiến bộ kỹ thuật nếu nó giết chết tinh thần?”.
 ( Nguồn: FB Vương Trí Nhàn)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

BÀI VIẾT VỀ TIỂU THUYẾT "TRẪM VÀ MƯỜI NÀNG TRINH NỮ" CỦA NHÀ VĂN PHẠM THUẬN THÀNH


CẢM HỨNG THỜI ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT QUANG ĐẠI
(Đọc “Trẫm và 10 nàng trinh nữ” của Quang Đại, NXB Hội nhà văn 2015)

Tiểu thuyết này lấy cảm hứng từ sự kiện các cung nữ lên giàn thiêu chết theo Hoàng đế Lý Nhân Tông mà sách “Đại Việt sử ký toàn thư” đã chép. Từ một chi tiết lịch sử ngắn ngủi, khô khan của sử liệu, tác giả đã hư cấu, dựng lên cả một câu chuyện ly kỳ, hấp dẫn, cuốn hút người đọc từ đầu đến cuối với ngồn ngộn chất sử thi.
Chúng ta đã biết đến tiểu thuyết “Giàn thiêu” của Võ Thị Hảo cũng lấy cảm hứng từ sự kiện này. Tuy nhiên, khi xây dựng thành tác phẩm văn học thì hai tiểu thuyết của hai tác giả lại khác biệt rất xa nhau cả về cốt truyện, văn phong và cách nhìn riêng biệt của mình với cùng với một sự kiện. Âu cũng là điều đương nhiên của hai sáng tạo khác biệt.
Nhân vật trung tâm của “Trẫm và 10 nàng trinh nữ” là Hoàng đế Lý Nhân Tông. Đây là câu chuyện về cuộc đời làm vua của Lý Nhân Tông suốt từ năm lên ngôi mới 7 tuổi, ”chim bằng quả ớt” đến lúc băng hà; cùng những kỳ tích nổi trội và nhiều bi kịch cũng rất lớn ở triều đại này.
Trong lịch sử dân tộc, vương triều Lý có một dấu ấn đặc biệt với vai trò xác lập dân tộc độc lập, quốc gia độc lập hoàn chỉnh đối với nước láng giềng phương Bắc rộng lớn. Vương triều này trải dài hơn 200 năm (1010-1025) thì đỉnh cao thịnh trị là thời vua Lý Nhân Tông trị vì (1072-1028) với sức mạnh quân sự đánh Bắc dẹp Nam, với sức mạnh văn hóa hoàn thiện thiết chế đình chùa đền miếu làng quê Việt và đặc biệt là xây nền giáo dục qua công trình Văn Miếu-Quốc Tử Giám ở cấp Trung ương.
Cảm hứng thời đại đã được nhà văn Quang Đại thể hiện trong tiểu thuyết “Trẫm và 10 nàng trinh nữ” với cảm xúc mạnh mẽ từ đầu đến cuối. Tác phẩm gồm 3 phần: THĂNG LONG,- NA NGẠN - XÁ LY. với 24 chương và đoạn kết có chủ đề tôn vinh cái đẹp thông qua câu chuyện tình yêu cái đẹp của vua Lý Nhân Tông, vị vua ở ngôi lâu nhất trong tất cả các Hoàng đế ở Việt Nam nhưng lại bi kịch không con nối dõi.
Kết cấu tiểu thuyết khá mới và lạ so với tiểu thuyết ở Việt Nam hiện nay. Đó là những phán xét của Lý Nhân Tông với thời thời hiện đại và những chi tiết thuộc lĩnh vực khoa học viễn tưởng khiến câu chuyện thêm kỳ lạ. Người dẫn chuyện lại chính là linh hồn của vua Lý Nhân Tông trong thời hiện đại vừa là một sáng tạo, vừa đưa bạn đọc vào cảm giác thật của câu chuyện. Bằng cách kể lại lịch sử thông qua các câu chuyện dân gian ở vùng quê bán sơn địa với nhiều dã sử và truyền thuyết ở ven sông Lục làm cho câu chuyện mềm mại và dễ đọc trải mấy trăm trang sách mà không sợ dài. Dù kể lại, nhưng chỉ cần điểm xuyết một chi tiết thường được nhắc đến trong sử sách, đó là các hiện tượng “mưa lạ” để dựng nên bộ khung cuốn sách là sự khéo léo và sáng tạo lạ lùng của tác giả. Kết thúc truyện lấy chi tiết các cung nữ chết theo vua trong sử làm cho câu chuyện càng gần sự thật hơn.
Đọc tiểu thuyết “Trẫm và 10 nàng trinh nữ” ta có thể thấy ngay cảm giác: tác giả đã khéo léo “kéo” tất cả cái tinh túy, cái đẹp cái văn minh kinh thành Thăng Long lên vùng rừng quê ven sông Lục vốn là quê hương mình. Điều này càng có lý khi gần đây, các cuộc khai quật khảo cổ ở Đền Từ (Lục Ngạn), chùa Đám Trì (Lục Nam) đều thuộc miền đất Na Ngạn thời Lý -Trần đã phát hiện nhiều hiện vật quý hiếm thời Lý, đặc biệt là những viên gạch có dòng chữ “Lý triều đệ tam” ở Đền Từ và những viên ngói đất nung có hình rồng Lý với ngôi tháp bảy tầng tinh xảo ở chùa Đám Trì vốn là những vật liệu chỉ tìm thấy ở một vài cung điện lớn tại kinh thành Thăng Long. Trong tiểu thuyết, ta thấy tác giả luôn lấy quê hương sông Lục núi Huyền của mình để làm nền cuốn sách với tình yêu thiết tha và sự tri ân sâu nặng.
Việc ca ngợi triều Lý và ca ngợi cái đẹp trinh trắng, tinh khiết qua hình tượng 10 cung nữ áo chàm như một đại sứ thiện chí đến mọi vùng đất nước và các nước khác trong vùng Đông Nam Á, Đông Á và Trung Hoa là một cách đề cao văn hóa của đất nước Việt nam. Qua đó, lại một lần nữa nâng cao vị thế vùng quê sông Lục núi Huyền, một vùng quê giàu đẹp, mến khách hoàn toàn có thể đại diện cho một quốc gia với thế giới bên ngoài.
Những câu thơ được lấy làm đề từ cho các chương hoặc minh hoạ khi hát cũng rất thơ, qua đó đủ thấy tài thơ của người viết tiểu thuyết này.
Trong tiểu thuyết, chương viết về Nguyễn Bông lợi dụng tâm lí muốn có con của vợ vua để “hiếp mắt” suốt lượt 78 vị hoàng hậu, quý phi, cung tần mĩ nữ của vua thật là tài tình. Ở chương mười cung nữ không hát cho Thái hậu nghe cũng viết quá giỏi. Những đoạn viết về Giác Hoàng, hoàng hậu Thiên Ngân cũng thật hay và cảm động.
Tuy nhiên, người đọc có cảm giác như những đoạn viết về Thái Hậu Ỷ Lan hay thái sư Trần Thủ Độ có điều gì đó như thiếu thiện cảm, có phần như là ác ý. Song hãy ở cương vị của Hoàng đế Lý Nhân Tông mà phán xét và đem so với các sử liệu chính thức thì lại thấy rất trung thực và có lý.
Việc tác giả chọn sự kiện đi tìm hậu duệ nhà Lý ở thời hiện đại để mở đầu cho câu chuyện là một sáng tạo của nghệ thuật “phục bút”. Kết thúc chuyện là việc mười nàng trinh nữ gảy đàn hát đưa linh cho vua rồi tự nhảy vào giàn thiêu chết theo vua thực sự là một khúc tráng ca bằng tình yêu. Khúc tráng ca tình yêu đó thật lãng mạn khi kết thành viên xá lỵ hình tim rồi… lăn lóc hàng ngàn năm dưới đáy dòng sông Lục, là nơi nương náu ngàn năm của linh hồn Hoàng đế Lý Nhân Tông cùng mười nàng trinh nữ.
Tiểu thuyết “Trẫm và 10 nàng trinh nữ” tác giả đã viết xong đã gần chục năm nay giờ mới được công bố có lẽ vì tác giả muốn tu chỉnh thật kĩ lưỡng, hoàn thiện hơn. Với cách thể hiện mang tính sáng tạo riêng của mình rồi, nhưng cái ý cầu toàn của tác giả vẫn luôn nóng hổi. Ngay tên cuốn sách ban đầu là “Xá lị hình tim” với dụng ý lấy chi tiết có tính dư ba của sách làm tên sách nhưng cuối cùng tác giả đã chọn cái tên hiện nay đã là một sự cọ sát mạnh mẽ trong tâm trí.
Sự cẩn trọng của tác giả đã làm cho cuốn sách thêm phần hấp dẫn và thành công, đưa đến bạn đọc một tiểu thuyết hay.
Phạm Thuận Thành
02413.782.355 - 0168.5300.803
Thường Vũ - An Bình - Thuận Thành - Bắc Ninh

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Việt Nam trong vòng xoáy tiền tệ Trung Quốc


Báo chí trong nước đồng loạt đưa tin thị trường ngoại hối Việt Nam lên cơn sốt chiều 13/8/2015, sau khi Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ 3 ngày liên tiếp. Tính chung từ 11 đến hết ngày 13/8  Trung Quốc đã hạ giá đồng tiền của họ tới 4,6%.
VnExpress đưa tin, giá đô la niêm yết tại các ngân hàng hầu như tăng gần hết biên độ vào trưa ngày thứ năm  với mức cao nhất được phép là 22.106 đồng đổi 1 USD. Ở thị trường chợ đen muốn mua đô la phải chịu giá 22.300 đồng.
Thị trường phản ứng nhanh với biện pháp kỹ thuật hôm 12/8 của Ngân hàng Nhà nước tăng gấp đôi biên độ tỷ giá từ 1% lên 2%. Phá giá tiền đồng là nhóm từ nhạy cảm nếu không muốn nói là cấm kỵ. Ngay những khi chính thức phá giá thì báo chí cũng chỉ sử dụng từ kỹ thuật là điều chỉnh tỷ giá. Nới rộng biên độ tỷ giá thì nghe lại càng mơ hồ hơn đối với người dân thường.
TS Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế ở Hà Nội giải thích: “Không phải là chính thức phá giá, một biện pháp để mở rộng biên độ trao đổi tiền tệ và cho phép các ngân hàng thương mại có thể phản ứng một cách linh hoạt hơn. Về mặt thực tế thì nó cũng tương đương như việc phá giá đồng bạc thêm 1% nữa, nhưng mà đấy là biện pháp có tính chất linh hoạt và kịp thời của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.”
Tại sao Việt Nam gần như hốt hoảng vì Trung Quốc phá giá nhân dân tệ, mà Trung Quốc còn phá giá ba ngày liên tiếp với mức hạ giá tổng cộng 4,6%. Bởi vì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Trung Quốc lên tới 50 tỷ USD trong năm 2014, chiếm 20% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam và Việt Nam lún sâu vào nhập siêu. Năm 2014 xuất khẩu của Việt Nam vào Trung Quốc đạt 14,9 tỷ USD, nhưng nhập khẩu từ Trung Quốc lên tới 43,8 tỷ USD, chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam. Dự báo năm 2015 mức nhập siêu này có thể lên tới gần 40 tỷ USD.
Khi Bắc Kinh chưa có việc liên tiếp phá giá tiền thì cán cân thương mại của Việt Nam với Trung Quốc đã bị chênh lệch lớn như vậy. Cho nên sự âu lo là hoàn toàn dễ hiểu. TS Lê Đăng Doanh nhận định: “Chắc chắn việc phá giá đồng bạc Trung Quốc sẽ tác động khá mạnh đến cán cân thương mại của Việt Nam. Việc xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc sẽ trở nên khó khăn hơn, bởi vì hàng hóa của Việt Nam sẽ đắt lên 4% và điều này sẽ có tác động đối với doanh nghiệp Việt Nam. Doanh nghiệp Việt Nam phải giảm giá thành mới có thể xuất khẩu được, bởi vì phía nhập khẩu Trung Quốc sẽ không sẵn sàng để nâng giá bán lên theo mức độ như vậy. Còn về hàng nhập khẩu thì Việt Nam phải tăng cường chống buôn lậu mới có thể đối phó với làn sóng hàng hóa rẻ của Trung Quốc tràn vào Việt Nam.”.
Diễn biến không thuận lợi cho VN
Việt Nam có vẻ bắt đầu bị cuốn hút vào vòng xoáy tiền tệ sau khi Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc phá giá lần thứ ba liên tiếp. Có nhiều thông tin cho rằng việc nới biên độ tỷ giá thêm 1% hôm 12/8 của Ngân hàng Nhà nước là chưa đủ và có thể sẽ phải điều chỉnh tiếp. Trả lời Nam Nguyên vào tối 13/8/2015 Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngô Trí Long chuyên gia kinh tế ở Hà Nội nhắc lại là tính đến tháng 5/2015 thì Ngân hàng Nhà nước đã phá giá 2% và Thống đốc Nguyễn Văn Bình hứa hẹn là sẽ không tiếp tục điều chỉnh tỷ giá cho đến hết năm 2015. Tuy nhiên tình hình diễn biến không thuận lợi đòi hỏi phải có những quyết định linh hoạt và đã có việc tăng gấp đôi biên độ tỷ giá ngoại hối. Phó Giáo sư Ngô Trí Long tiếp lời: “Đồng nhân dân tệ phá giá lần thứ ba liên tiếp, biên độ phá giá lên tới 4,6%  mà trong bối cảnh tình hình ở Việt Nam mới phá giá 1%. Nói như vậy không phải họ phá giá bao nhiêu mình phải phá giá bấy nhiêu. Biên độ phá giá tiền Trung Quốc lớn hơn Việt Nam thì chắc chắn sẽ gây bất lợi cho Việt Nam rất nhiều. Việt Nam là nền kinh tế lệ thuộc nhiều vào Trung Quốc. Thực tế khi chưa phá giá, với tỷ giá ổn định của Trung Quốc cũng như Việt Nam thì hàng hóa Trung Quốc đã tràn ngập Việt Nam rất nhiều. Trên thị trường, sự cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam thì gần tương đồng với hàng hóa Trung Quốc. Bây giờ Trung Quốc phá giá lớn thì cảnh báo vô cùng quan trọng là nhập siêu với Trung Quốc sẽ tăng lên mà nhập siêu với Trung Quốc đã rất lớn. Đây là một bài toán, nếu tư duy điều hành tỷ giá theo tín hiệu thị trường mà không điều chỉnh cho nó tương xứng đến một mức độ nào đó, không phải nhất thiết họ 4,6% mình cũng phải 4,6%. Nhưng nếu với biên độ quá hẹp thì cũng không có tác dụng lớn lắm và cái đó sẽ gây hệ lụy đặc biệt cho khả năng cạnh tranh cũng như ảnh hưởng xuất khẩu và vấn đề nhập siêu của Việt Nam.”
Theo Thời báo Kinh tế Saigon Online, giới ngân hàng cho rằng mức điều chỉnh biên độ tỷ giá 1% là khá hẹp so với kỳ vọng của họ. Từ đầu năm 2015 đến nay Ngân hàng Nhà nước xem như đã phá giá tiền đồng 3%. Tuy nhiên giới ngân hàng cho rằng mức điều chỉnh tỷ giá 5%, thực chất là phá giá tiền đồng 5% trọn năm 2015 cũng không phải là quá đáng. Vẫn theo tờ báo, một giới chức cao cấp ngân hàng thương mại không nêu tên nhận định rằng, các ngân hàng đang rất khó khăn sau động thái nới biên độ tỷ giá giao dịch USD/VND cộng thêm việc tăng lãi suất khiến các ngân hàng muốn khóc.
Được biết nếu đồng nội tệ của Việt Nam được định giá theo tín hiệu thị trường thì sẽ có thể làm giảm áp lực về cầu ngoại tệ. Các ông chủ ngân hàng thương mại lập luận rằng, thời thế đã đổi thay, Việt nam không còn là nền kinh tế kế hoạch như thời trước, điều hành tỷ giá cần kịp thời căn cứ theo hơi thở thị trường.
Bên cạnh câu chuyện vòng xoáy tiền tệ do Trung Quốc tạo ra, TS Trương Văn Phước, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia được báo điện tử Thanh Niên trích lời đã nói, Việt Nam cần xem lại một cách kỹ lưỡng, xác lập một tỷ giá như thế nào để cho tình trạng nhập siêu của Trung Quốc không lớn hơn nữa.
Bài toán tỷ giá mà Phó Giáo sư Ngô Trí Long đặt ra chắc hẳn sẽ gây nhức đầu cho Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình. Trên báo chí Việt Nam hầu hết các chuyên gia trong ngoài chính phủ đều tán dương quyết định ngày 12/8/2105 của Ngân hàng Nhà nước về việc nới biên độ tỷ giá từ 1%  lên 2%.
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương cũng đồng thuận về phản ứng kịp thời, năng động của Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước có sự điều chỉnh biên độ tỷ giá ngay trong ngày 12/8/2015 là ngày Trung Quốc phá giá lần thứ hai. Tuy vậy có lẽ TS Lê Đăng Doanh là người đầu tiên cảnh báo sớm về tác động tiêu cực từ việc hạ giá tiền đồng. Ông nói: “Tôi cũng xin lưu ý rằng biện pháp này chắc chắn sẽ làm cho tăng thêm chi phí để trả nợ công vì nợ công của Việt Nam được trả bằng đồng Đô-la và nếu như điều chỉnh tỷ giá và nới biên độ như thế này thì nợ công sẽ tăng thêm nữa.”
Hồi cuối tháng 7/2015, Ngân hàng Thế giới cảnh báo nợ công của Việt Nam lên tới 110 tỉ USD và chỉ riêng khoản chi lãi vay đã lên tới 7,2% tổng chi ngân sách nhà nước. Số nợ công này không bao gồm nợ của khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Nếu Việt Nam phá giá tiền với tỷ lệ lớn chừng nào thì nợ công sẽ tăng theo chừng ấy. Phó Giáo sư Ngô Trí Long nói rằng, đây là bài toán hết sức đơn giản: “Đồng tiền phá giá 3% thì có nghĩa là nợ công tăng lên 3% phải dùng 3% để bù vào phần đó, một bài toán hết sức cụ thể.”
Trên báo chí nước ngoài, nhóm từ chiến tranh tiền tệ đã bắt đầu phổ biến sau khi Trung Quốc bất ngờ phá giá đồng nhân dân tệ trong ba ngày liên tiếp. Trong cuộc phỏng vấn của chúng tôi hôm 12/8 TS lê Đăng Doanh nhận định:
“Rõ ràng là Trung Quốc đã bắt đầu khởi động một cuộc chiến tranh tiền tệ và tôi nghĩ rằng đây là bắt đầu của vòng xoáy, còn vòng xoáy ấy sẽ đi đến đâu và Trung Quốc sẽ được gì, sẽ mất gì thì điều đó còn phải có thời gian để tính toán xem xét.”
Việt Nam là quốc gia có vị trí ở sát cạnh Trung Quốc, vốn chịu nhiều ảnh hưởng của nước khổng lồ này. Trước tham vọng lãnh thổ của Bắc Kinh, người dân Việt Nam lên tiếng đặt vấn đề thoát Trung cả về chính trị lẫn kinh tế. Tuy vậy trong hai năm vừa qua, tình hình vẫn chưa cải thiện được gì.
Một vòng xoáy mới của cuộc chiến tiền tệ mà thực chất là để Bắc Kinh giải quyết các bất ổn kinh tế nội tại. Nhưng cũng có thể cuốn hút Việt Nam vào đó và tạo cho nền kinh tế ViệtNam những hậu quả khó lường.
Nam Nguyên

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Khám phá đàn tế trời bí ẩn của nhà Hồ


Đất Việt 
Đàn tế Nam Giao nhà Hồ có thể sẽ là một chìa khóa quan trọng để giải mã nghi lễ tế trời đất ở Việt Nam và trên thế giới.>> Chùm ảnh: Khám phá tòa thành cổ kỳ vĩ nhất Việt Nam

Được khai quật từ năm 2004 tại xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá, cách thành nhà Hồkhoảng 2,5 km về phía Đông Nam, Đàn tế Nam Giao của nhà Hồ (đàn Nam Giao Tây Đô) là một công trình có giá trị lịch vử và kiến trúc đặc biệt của thời nhà Hồ.
 Đàn tế Nam Giao có diện tích khoảng hơn 2 ha, lưng tựa Đốn Sơn (núi Đún), tiền án là "cánh đồng Nam Giao". Cấu trúc của đàn gồm nhiều cấp nền bao (nền Thượng, nền Trung, nền Hạ) thu hẹp dần từ thấp đến cao. Vật liệu kiến trúc chính để xây dựng đàn là đá xanh và nhóm vật liệu bằng đất nung (gạch, ngói…).
 Dẫn vào trung tâm của đàn tế là con đường linh đạo được lát bằng những phiến đá xanh mài nhẵn, dành cho vua quan đi vào để tiến hành lễ tế trời, cầu cho quốc thái, dân an hoặc lễ tế vào những dịp đại xá thiên hạ.
 Trong lòng nền đàn cao nhất có dấu tích đàn tế hình tròn (Viên đàn), đường kính 4,75m.
 Một công trình được bảo tồn khá nguyên vẹn ở đây là giếng Vua, còn gọi là Ngự Dục, Ngự Duyên. Giếng có hình vuông, được kè đá theo các cấp bậc nhỏ dần vào lòng, nằm thấp hơn khoảng 10m so với nền đàn trung tâm.
 Trong khu vực đàn tế còn tìm thấy dấu tích của hàng chục nền móng của các kiến trúc phụ, 5 cửa, dấu tích đường đi và dấu tích của 10 cống nước được xây dựng và bố trí hết sức khoa học nhằm bảo đảm cho việc tiêu thoát nước cho một công trình kiến trúc có diện tích rộng hàng chục nghìn m2.
 Các đợt khai quật tại đây đã phát lộ một lượng gạch ngói khổng lồ cùng hàng ngàn di vật gồm có đồ gốm men, họa tiết trang trí kiến trúc, đồ kim loại.
 Giới nghiên cứu nhận định, đàn tế Nam Giao nhà Hồ là một di tích kiến trúc quý hiếm, không chỉ đối với lịch sử triều Hồ mà còn là một mắt xích quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử đàn tế và nghi lễ tế trời đất ở Việt Nam và trên thế giới.
Theo KIẾN THỨC

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Sáu, 14 tháng 8, 2015

HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000

 (Thời biến đổi gien)

    Kỳ 26
    Bùi Ngọc Tấn
  Tôi càng trở thành một tên phản động chính hiệu khi được giải thưởng của Hội Quan Sát Nhân Quyền Hellman – Hammett. Có biết bao tin đồn về giải thưởng ở nước ngoài người ta dành cho tôi. Nhưng chỉ có hai giải thưởng là đúng sự thật.
Mùa Xuân năm 2001, tôi nhận được một cú điện thoại từ Mỹ báo tin tôi được tặng giải thưởng cho tập tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000. Người bạn từ Mỹ nhấn mạnh đây là một giải thưởng thuần tuý văn chương. Tôi hỏi tổ chức nào trao giải. Người bạn tôi không biết mặt, cười: Điều ấy không quan trọng anh ơi. Đây là một giải văn chương sẽ được trao tháng sau tại Úc. Phần thưởng là một tháp pha lê ba mặt, khắc ba chữ Chân, Thiện, Mỹ, kèm theo ba nghìn đô la tiền mặt. Khi tôi nói tôi không thể nhận giải thưởng nếu không biết ai tặng giải, người đối thoại mới nói tổ chức đứng ra tặng giải là Việt Nam Phục quốc. Cẩn thận, tôi ghi cả số fax, số phôn bên Mỹ và hứa sẽ trả lời trong một ngày gần nhất. Tất nhiên một giải thưởng Chân Thiện Mỹcho bộ tiểu thuyết của tôi là đáng trân trọng. Ba ngàn đô là rất to đối với tôi, người có lương hưu mười sáu đô la một tháng. Nhưng lại là của tổ chức có tên gọi Việt Nam Phục quốc. Tôi không biết tôn chỉ mục đích của tổ chức này nhưng chỉ nghe tên cũng đã thấy quá hận thù. Có mùi đao kiếm, mùi súng đạn. Chẳng lẽ đất nước này vẫn còn phải nghe súng nổ, nhìn máu chảy? Không. Không thể nào như thế. Đó là đại bất hạnh cho toàn dân tộc. Hãy thử tưởng tượng nếu Bùi Ngọc Tấn nhận giải thưởng Chân Thiện Mỹ của Việt Nam Phục quốc. Tôi có còn là tôi nữa không.
Tôi viết mấy dòng fax sang Mỹ, lời lẽ lịch sự và chung chung: Vì những lý do tế nhị, tôi tuyên bố không nhận giải thưởng Chân Thiện Mỹ. Để người bạn bên kia có văn bản chính thức. Để các vị bên này đừng có mà xuyên tạc. Đem lên bưu điện Hồng Bàng. Cô bưu điện đã định fax, nhưng sau khi đọc, cô từ chối, trả lại tôi tờ giấy:
– Bác mang lên bưu điện chính đi.
Mới chỉ đọc dòng fax thôi, cô bưu điện đã cảm thấy chuyện không bình thường và không nên dây vào. Sống ở Việt Nam, ai cũng trở nên nhậy cảm với chính trị. Bưu điện thành phố cũng từ chối thì làm sao nhỉ. May. Cháu gái nhân viên chỗ bàn fax bưu điện chính đưa tờ giấy viết tay của tôi vào máy. Chỉ lát sau, máy báo văn bản đã được chuyển đi, bên kia đã nhận được. Tôi phải trả hơn tám mươi nghìn, đúng một nửa tháng lương hưu. Có lẽ chưa đến hai phút, những dòng chữ tôi viết đã tới Mỹ. Mới lắm các đồng chí ạ! Tôi kêu thầm trong lòng câu nói các thủ trưởng hay vung tay chém gió hét lên khai hoá cho chúng tôi ngồi trong hội trường lắng nghe im phăng phắc.
Thế rồi sau đó ít lâu, một cú điện thoại từ Paris báo tin tôi được tặng giải thưởng Nhân Quyền Hellman – Hammett. Người gọi điện chừng như hiểu hết sự tình của giải thưởng Chân Thiện Mỹ, nói như reo vui:
– Giải thưởng do hai đảng viên đảng Cộng sản Mỹ góp tài sản sáng lập. Anh yên tâm nhé. Giải thưởng kèm theo bẩy ngàn đô la Mỹ. Chúc mừng anh. Nhưng trước hết anh cho ý kiến về giải thưởng đã. Nhận hay không nhận.
Ngay lập tức tôi tuyên bố nhận giải thưởng.
Không biết bao nhiêu cuộc điện chúc mừng tôi.
Từ Hà Nội về. Từ thành phố Hồ Chí Minh ra. Và từ nước ngoài. Trong dịp này tôi được tiếp chuyện nữ bác sĩ Lâm Thu Vân, một người đã hoạt động không mệt mỏi cho dân chủ. Đúng là chị đang ở Canada, đất nước vùng cực Bắc, chỉ nghe cũng thấy giọng chị hun hút xa lắm.
– Không ai tiến cử anh cả. Tập sách của anh được trích đoạn đưa lên tập san của Hội Văn Bút Quốc Tế và Internet bằng tiếng Anh, tiếng Pháp. Người ta đọc và người ta đưa anh vào danh sách. Chúc mừng anh. Anh khoẻ không? Tôi đã định scan về cho anh tấm bằng hội viên danh dự Hội Văn Bút Quốc Tế của anh nhưng sợ phiền cho anh. Với lại cũng là phù phiếm cả thôi. Cái chính là công việc mình làm anh nhỉ…
Rồi chị xuýt xoa như nói một mình:
– Hôm nay được nói chuyện với anh, nghe giọng nói của anh. Cảm động quá…
Tôi cũng cảm động không kém chị. Được nói chuyện với chị, nghe tiếng nói của chị, một việc chị chưa bao giờ làm vì không muốn tôi bị phiền hà.
Không biết đại tá Phạm Quế Dương, người cùng được giải thưởng Nhân Quyền với tôi gặp những khó khăn gì trong việc nhận giải, còn với tôi là cả một cuộc tổng tấn công.
Một chiều mưa ngập lụt đường phố, Đình Kính gọi điện cho tôi nói chiều tối nay Hữu Thỉnh sẽ có mặt ở Hải Phòng để gặp tôi về chuyện giải thưởng Nhân Quyền, xe đang trên đường 5. Kính khuyên tôi nên suy nghĩ kỹ trước khi nhận giải. Tôi hét lên trong máy:
– Nhưng mình tuyên bố nhận giải thưởng cách đây mấy tháng rồi.
Biết Kính đang trên xe với Thỉnh và đã được Thỉnh giao nhiệm vụ, ([1]) tôi nói tiếp với Kính:
– Kính đừng dính vào chuyện này. Cứ kệ mình.
Tôi vừa bất ngờ, vừa tức giận. Tôi không ghét gì Thỉnh. Những lần tiếp xúc trước đây, Thỉnh luôn tỏ ra biết điều, luôn tỏ ra biết mình đang đối thoại với ai. Là người ăn lương, hơn thế, một cán bộ đầu ngành, Thỉnh phải thực hiện những mệnh lệnh cho dù lố bịch đến đâu.
Trời mưa tầm tã cả ngày. Hữu Thỉnh, Đình Kính đến tôi vào lúc xâm xẩm tối. Thỉnh kéo tôi lên ô tô đi ngay. Đến một quán cà phê nào đó, anh em mình vừa ăn vừa chuyện. Bẩy giờ tối nay em đã hẹn gặp Tô Huy Rứa bí thư thành uỷ. Mỗi người một cái bánh mì, chúng tôi ngồi nhai trong một quán cà phê giải khát hẹp phố Trần Bình Trọng mà bên kia đường là trụ sở PA25. Thỉnh quay hẳn người lại nhìn thẳng vào tôi:
– Anh quyết tâm nhận giải thưởng Nhân Quyền à?
Tôi cười:
– Mình nhận rất thoải mái. Có gì đâu mà phải quyết tâm với không quyết tâm.
Rồi tôi nói quan niệm của tôi về tự do dân chủ, một mục tiêu phấn đấu của đảng, và chốt lại bằng một lý lẽ đầy thuyết phục:
– Hơn nữa, quỹ giải thưởng do hai đảng viên Đảng Cộng Sản Mỹ góp tài sản sáng lập.
Thỉnh nhăn mặt:
– Đảng viên Đảng Cộng Sản Mỹ cũng phức tạp lắm anh ơi.
Tôi bật cười vì sự gièm pha của Thỉnh:
– Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng phức tạp nữa là Đảng Cộng Sản Mỹ. Có đảng nào không phức tạp.
– Anh đã nhận được tiền chưa?
– Chưa.
Cặp mắt Thỉnh sáng lên:
– Thật không?
– Thật. Mình nói dối Thỉnh làm gì.
Niềm vui lộ rõ trên mặt ông bí thư đảng đoàn, phó tổng thư ký Hội Nhà Văn Việt Nam:
 – Theo một nguồn tin chính thức, có trách nhiệm, tiền thưởng là của CIA, trong quỹ “Tìm kiếm người mất tích.”
Thỉnh nói đầy vẻ nghiêm trọng. Tôi cười:
– Người ta nói với tôi rằng quỹ thưởng là của hai đảng viên cộng sản Mỹ góp tài sản.
– Anh tin họ à?
– Tôi tin họ chứ. Họ phải nói chính xác. Bởi nếu họ nói dối, tôi từ chối nhận giải thì sẽ rất gay cho họ. Tôi có quyền từ chối giải bất kỳ lúc nào!
– Giải thưởng bao nhiêu tiền anh nhỉ?
– Bẩy ngàn đô la.
Thỉnh lẩm nhẩm: Hơn trăm triệu. Sẽ phải có cách bù cho anh. Hội đầu tư sáng tác hai suất là mười triệu. Giải quyết một chuyến anh đi Trung Quốc trị giá mười lăm triệu. Còn đâu hội, thành phố sẽ giúp anh khoảng dăm chục triệu. Thế là mình cũng có bẩy nhăm triệu. Cũng gần bằng của chúng nó rồi.
Tôi quá ngán cách tính toán đặt vấn đề của Thỉnh. Tiền kèm theo giải thưởng bẩy ngàn đô là hoàn toàn vô tư, không kèm theo một điều kiện nào. Một lời cám ơn cũng không, nếu anh không muốn nói. Đó là sự ghi công anh đối với Nhân Quyền, Dân Chủ. Còn món tiền Thỉnh tính toán đây là phải có điều kiện: Bán rẻ danh dự. Mà tôi có gì ngoài danh dự?
Thỉnh tiếp tục thuyết phục tôi:
– Anh in tập sách bao nhiêu người đồng cảm với anh, quý mến anh. Nếu anh nhận giải thưởng, em sợ là tình cảm ấy của mọi người sẽ mất đi, không còn nữa…
Tôi thừa biết sự việc sẽ ngược lại những điều Thỉnh nói. Chuyện kể năm 2000 ra đời, người ta yêu quý tác giả không chỉ vì hắn đã viết ra một quyển sách đọc được mà còn vì chính những điều hắn đã phải chịu đựng trong cuộc đời và thái độ của hắn đối với bạo lực, đối với cuộc sống. Đó là tài sản cực kỳ quý giá mà hắn đã có được. Hắn có gì đâu ngoài lòng yêu quý ấy của bạn đọc, của những người tâm huyết? Hắn tự biết hắn rất nghèo nhưng cũng rất giầu. Hơn nhiều người làm nghệ thuật khác cũng như hơn rất, rất nhiều chức sắc quyền cao chức trọng với không biết bao người vây quanh, không biết bao của nổi của chìm.
– Không phải thế đâu Thỉnh ơi.
Tôi chỉ mỉm cười bảo Thỉnh vì không thể tranh luận về những điều trừu tượng, tế nhị như vậy. Khuyên bảo tôi một lúc, Hữu Thỉnh đi gặp bí thư thành uỷ Tô Huy Rứa. Ông Rứa nghe nói cũng đang bị bao vây cô lập. Người ta nói rằng khi mới được ông Lê Khả Phiêu cử về Hải Phòng ít ngày, trong cái Tết đầu tiên ở Hải Phòng ông đã được mừng tuổi một tỷ tư — 1.400 triệu đồng — và ông đã đem nộp cho tài chính tất cả số tiền Chúc mừng năm mới đó. Vì vậy các đồng chí của ông chống lại ông, căm thù ông, cười mỉa ông, coi ông là thằng ngốc, cản trở việc làm ăn của họ. Ông phải ngủ trong doanh trại quân đội. Ông bị mất cắp. Không mất tiền bạc, đài đóm, đồng hồ nhẫn vàng, đô la mà mất cắp sổ tay, ghi những điều chỉ mình ông biết.
Trước khi đi gặp Rứa, Thỉnh dặn tôi:
– Anh nghe em. Việc này là trên yêu cầu nhưng cũng chính là quyền lợi của anh nữa. Sáng mai em đến đón anh đi ăn sáng rồi anh em mình trao đổi thêm.
Suốt buổi tôi và Thỉnh nói chuyện, Kính chỉ ngồi yên lặng. Sớm hôm sau, Thỉnh cùng Đình Kính lại nhà tôi. Thấy vợ tôi đang thắp hương trên gác lửng, Thỉnh rút ra một trăm nghìn:
– Chị cầm mua hoa quả thắp hương các cụ hộ em.
Không thể từ chối một khoản tiền như thế. Xe ô tô đưa chúng tôi đến Phở Cánh. Một hiệu phở ngon trên đường Trần Phú, nhìn ra vườn hoa Nhà Kèn. Tôi nói thêm với Thỉnh là tôi không thể từ chối giải được còn vì một lý do nữa: Tôi đã tuyên bố nhận giải cách đây đến mấy tháng. Mà điện thoại nhà tôi chắc chắn được theo dõi chặt chẽ. Trên chắc chắn biết. Nhưng không hề có ý kiến gì. Đến bây giờ mới đặt lại vấn đề thì đã muộn. Tôi là một trí thức. Tôi không thể tự phủ nhận mình. Có lẽ Hữu Thỉnh hiểu được rằng khó có thể làm tôi thay đổi quyết định, anh chuyển sang chuyện khác, chuyện nhà tôi luôn bị bao vây theo dõi:
– Chỉ cần anh không nhận giải thưởng, em đảm bảo với anh nhà anh sẽ không còn bất cứ sự theo dõi nào, kể cả điện thoại.
Tôi cười thầm. Hình như Thỉnh nói cho vui, cho xong chuyện thôi. Làm sao Thỉnh có thể bảo đảm được chuyện ấy? Họ còn theo dõi nhau nữa đấy, ngay cả trong nội bộ các đồng chí trung ương, bộ chính trị cùng sát cánh bên nhau vì lý tưởng, vì chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân.
Sau khi Thỉnh về Hà Nội, Kính mới có thời gian thuật lại cho tôi buổi tối hôm ấy, tối hôm Thỉnh gặp bí thư Tô Huy Rứa. Kính bảo: Em ngồi chờ hai người gặp nhau xong để đưa Thỉnh về nhà khách thành phố. Khuya Thỉnh mới bước ra. Cả Tô Huy Rứa. Hai người còn bàn với nhau một lúc — có cả em ở đấy — là thành phố sẽ trích quỹ để một hôm nào đó Tô Huy Rứa đến thăm anh thì đưa cho anh năm mươi triệu. Em bảo không nên làm như vậy mà đồng chí bí thư thành uỷ nên đến thăm cả bốn nhà văn cao tuổi nhất là Nguyễn Viết Lãm, Mai Vui, Nguyễn Dậu, Bùi Ngọc Tấn. Đến nhà văn nào thì tặng nhà văn ấy một cái phong bì. Người nào biết của người ấy. Phong bì của các nhà văn kia năm ba triệu gì đó thì tuỳ. Còn phong bì của anh Tấn nhiều hơn. Làm như vậy tế nhị mà không gây dư luận, chưa kể có thể sẽ còn bị xuyên tạc, không có lợi. Các ông ấy đều thấy đúng.
Kính rất thích thú sáng kiến của mình, một sáng kiến được cả người cho tiền lẫn người nhận tiền chấp nhận. Với anh, nhà văn nào cũng đói. Tôi lại càng đói. Kều được ít tiền công quỹ cho các nhà văn là điều rất nên làm. Đang vui, anh không để ý tới cái nhíu mày của tôi. Không. Phải bằng cách nào gạt bỏ ngay ý định tặng tôi năm mươi triệu của các vị đi. Trước tiên đây không phải là do lòng tốt. Giá không có chuyện giải thưởng kèm theo bẩy ngàn đô la mà họ đang ép tôi không nhận thì có chuyện cho tôi năm mươi triệu không? Mọi việc người ta làm cho tôi đâu phải vì tôi, vì người ta tốt với tôi. Tất cả đều vì một tình thế nào đó. Tôi lúc nào cũng là đối tượng. Đối xử với tôi thế nào cho có lợi nhất. Vậy thôi.
Tôi bảo Kính:
– Làm sao mình có thể nhận được năm mươi triệu ấy. Đấy là tiền thuế của dân.
Mấy ngày sau tôi thấy cần phải có sự trả lời bằng văn bản để chính thức hoá, tránh những sự xuyên tạc, mà xuyên tạc là đặc điểm nổi bật nhất của xã hội ta từ chính quyền tới các giới thượng hạ lưu. Tôi viết tay mấy dòng để kết thúc đề tài này. Cũng chẳng cần lý giải nhiều mà chủ yếu là tỏ thái độ:
Hải Phòng ngày 19 tháng 7 năm 2001
Kính gửi anh Hữu Thỉnh
– Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà Văn Việt Nam
– Tổng Thư ký Hội Nhà Văn Việt Nam
Trước hết tôi xin chân thành cám ơn anh về những lời khuyên của anh đối với tôi trong chuyện tôi nhận giải thưởng của Hội Quan Sát Nhân Quyền (HRW) 2001.
Sau khi suy nghĩ, tôi xin nói lời cuối cùng của tôi như sau:
1–Tôi đã tuyên bố nhận giải thưởng của HRW cách đây khoảng hơn hai tháng, khi người ta từ nước ngoài báo tin cho tôi.
2– Như tôi đã trình bầy với anh, tôi nhận giải thưởng vì:
– a) Nhân quyền là vấn đề có mặt ở mọi nơi, mọi chỗ, mãi mãi song hành cùng với nhân loại.
– b) Đó cũng là một muc tiêu mà Đảng, Quốc Hội, Chính Phủ nước ta đang quan tâm lãnh đạo để thực hiện ngày một tốt hơn, hoàn thiện hơn.
– c) Giải thưởng là do những đảng viên Đảng Cộng Sản Mỹ sáng lập.
3–  Tôi đã tuyên bố nhận giải thưởng. Giờ đây tôi không thể phủ nhận.
Một lần nữa xin chân thành cám ơn anh về những quan tâm của anh đối với tôi và gia đình tôi.
Kính
Nhà văn Bùi Ngọc Tấn
Thư viết xong, tôi đưa sang cho Đình Kính, để Đình Kính trao tay cho chánh văn phòng Hội Nhà Văn Tô Đức Chiêu đang công tác ở Đồ Sơn lát nữa sẽ ghé qua Kính trước khi về Hà Nội.
Đưa thư cho Kính, tôi nói thêm:
– Còn chuyện tiền năm mươi triệu của thành phố chưa có gì chính thức nên mình không viết vào đây. Nhờ Kính nói hộ với Thỉnh là số tiền năm mươi triệu với tôi là rất to nhưng tôi không thể nhận. Vì nếu là tiền cứu trợ thì quá nhiều. Còn nếu là tiền đền bù sửa sai thì quá ít.
Kính cười:
– Kể cũng hơi tiếc, nhưng thôi, không phải cứ thấy tiền là nhận.
Để bảo đảm “vụ năm mươi triệu” không xẩy ra, bên cạnh việc nói với Đình Kính, tôi còn gọi điện thoại lên Hà Nội cho Lê Bầu, Mạc Lân, Dương Tường biết, mà tôi luôn tin rằng câu chuyện giữa chúng tôi được ghi âm cẩn thận và chắc chắn sẽ đến tai những người cần thiết.
Tưởng chuyện như thế là minh bạch rõ ràng là không còn gì để nói cho cả đôi bên, ấy thế mà sau đó không biết bao người tới nhà tôi vận động tôi không nhận giải. Đầu tiên là nhà thơ Nguyễn Viết Lãm. Chưa bao giờ ông đến nhà tôi. Kể từ khi tôi từ báo Tiền Phong về đây cuối năm 1959. Kể cả những ngày tôi còn là một trong những cây bút chủ lực của báo Hải Phòng, còn là chuyên gia trong “văn chương tổ đội” toàn quốc. Kể cả những ngày tôi bị bắt và năm năm sau được tha, cũng như những ngày tôi lại được đi làm và viết văn trở lại. Giữa hai chúng tôi là một sự lạnh nhạt vong niên và kinh niên.
Thế nhưng trong “dịp giải thưởng” ấy, ông đến tôi, phân tích cho tôi điều hơn lẽ thiệt. Với tất cả nhiệt tình. Vì tôi. Vì uy tín của tôi, sự mến mộ của bạn đọc mà tôi đã có được. Ông nói ông không biết tôi được giải thưởng Nhân Quyền, ông không biết Hữu Thỉnh đã về gặp tôi khuyên tôi đừng nhận. Không ai giao nhiệm vụ cho ông tới gặp tôi cả. Một hôm ông ngồi ở Hội Văn Nghệ, nghe anh Mai Vui nói chuyện ông mới biết. Ông thấy cần phải gặp tôi. Vì tình bạn giữa chúng tôi. Vì chúng tôi quen nhau từ giữa thế kỷ trước, lúc nào ông cũng quý tôi. Vì giải thưởng này lúc đầu là tốt nhưng bây giờ đã bị CIA lũng đoạn, thao túng và thực chất là một tổ chức chiến tranh tâm lý…
Sao những lời khuyên giống nhau thế nhỉ? Tôi nghe. Cố gắng giữ bình tĩnh và đã giữ được bình tĩnh:
– Cám ơn anh có lời khuyên tôi. Nhưng giải thưởng không như anh nói đâu. Khác đấy. Với lại tôi đã nhận rồi. Không thể nói lại. Tuy kém tuổi anh nhưng tôi cũng già rồi. Điều tôi lo là giữ gìn cái tiếng của mình cho đến lúc chết. Nói thật với anh như thế. Anh hãy tin tôi biết xử sự.
Một buổi sớm chúng tôi vừa ăn sáng xong, hai người khách đã hiện ra ở khung cửa. Từ Hà Nội xuống. Nguyễn Trí Huân, phó tổng thư ký Hội Nhà Văn và Đỗ Kim Cuông, vụ phó vụ Văn Nghệ Ban Tư Tưởng Văn Hoá Trung Ương. Nhấp chén nước trà tôi pha, Nguyễn Trí Huân, Đỗ Kim Cuông vào chuyện ngay. Vẫn là chuyện giải thưởng của tôi. Đó là hai thuyết khách tuyệt vời. Các anh nói và các anh nghe tôi nói. Nghe và không nói lại, không tranh luận, không áp đặt. Có lẽ các anh cũng biết đây là một việc không nên làm, nhưng vẫn phải thực hiện lệnh trên. Lúc đó hình ảnh Nguyễn Khoa Điềm hiện lên không mấy đẹp đẽ trong tôi. Ngồi trên ghế quyền lực người ta có thể làm những việc kỳ khu đến thế. Và để bào chữa cho Điềm, tôi nghĩ tới một ông kẹ nào đó trong đội ngũ cố vấn tối cao rụng răng cũng thể kễnh,đông đảo và rách việc đang dùng quyền uy Thái Thượng hoàng và chút lực tàn của mình “bảo vệ cách mạng”.
Hai anh đến tôi chỉ để báo cáo với Nguyễn Khoa Điềm, cấp trên trực tiếp rằng các anh đã gặp tôi, đã thuyết phục tôi nhưng không kết quả. Chuyện vui vẻ một lúc, sau khi trao quà một ki lô chè móc câu cho tôi, các anh ra đi. Tôi tiễn các anh đến ô tô — ngày ấy chân chưa bị đau, còn đi lại tốt — một chiếc ô tô quân sự biển đỏ. Chắc là xe của đại tá Nguyễn Trí Huân.
Những thuyết khách sau các anh lại khác hẳn. Thật là muôn hình vạn trạng. Đó là Vũ Loan và Hồ Anh Tuấn, chủ tịch và phó chủ tịch Hội Văn Nghệ Hải Phòng. Vũ Loan là một nhạc công, lên đến chức giám đốc sở văn hoá thì về hưu sau khi đã đi nhiều nước Á Âu ([2]). Khi về hưu, ông Vũ Loan vẫn có một công việc oách: Chủ tịch Hội Văn Nghệ Hải Phòng. Ông rất ngại khi phải họp hành giao tiếp với cánh viết văn dù ông là chủ tịch hội. Ông chê trung tướng Trần Độ là ngu những khi chuyện trò thế sự. Sung sướng lại không biết đường hưởng. Chưa ai thuyết phục tôi một cách chân thành, nôm na và thẳng thắn như ông. Ông vạch ra cái sức ép tôi sẽ phải chịu, con cái tôi chắc chắn sẽ phải chịu nếu tôi kiên quyết nhận giải, mà bây giờ ai cũng sống vì con cái… Ông khẳng định tổ chức Quan Sát Nhân Quyền là do bọn phản động lập ra để chống phá cách mạng.  Tiền của nó là của CIA. Toàn những điều ông tin chắc như đinh đóng cột. Ông tượng trưng cho sự thẳng thắn của cách mạng báo trước cho tôi những điều tôi sẽ gánh chịu nếu cứ ngoan cố nhận giải. Mà có thể như thế thật. Những điều ông nói đâu phải ông nghĩ ra. Nhất là những biện pháp xử lý đối với tôi. Cấp trên nói với ông đấy chứ. Thần kinh tôi quá căng thẳng vì những cuộc viếng thăm thế này. Tôi bị bắt tù oan ức cả đời sao không ai để ý, không ai có một ý kiến gì. Lương hưu tôi thấp đến như vậy, bất công vô lý đến như vậy, không ai có ý kiến gì. Sao bỗng nhiên người ta quan tâm đến tôi, người ta vì tôi đến thế. Vợ tôi ngồi im lặng nghe ông nói, mặt tái đi trước những lời khủng bố. Đây là ngón đòn hiểm. Đe dọa tôi không được, họ đe dọa vợ con tôi. Tôi cố nén tức giận, giữ một thái độ hòa nhã để nói những lời thẳng thắn nhất. Giơ tay khẳng định một cách không cho bàn cãi, tôi chậm rãi:
– Tôi yêu nước không kém bất kỳ một người Việt Nam nào, kể cả tổng bí thư! Còn ai định dùng chính sách sức ép đối với tôi là sai đấy! Không có một chút tác dụng nào đâu. Tôi còn gì nữa để ép? Tôi không còn gì cả. Tôi thành bã từ lâu rồi. Tôi cũng không ngồi bệt dưới đất như người ta vẫn nói mà là ngã sóng xoài dưới đất cả đời rồi.
Hình như hôm ấy Vũ Loan có mang ghi âm. Tôi thấy ông ta để cái túi vải nhỏ bên trong có một vật gì tròn nặng như chiếc micro lên nóc tủ ly chỗ chúng tôi ngồi nói chuyện. Chà! Cứ ghi âm đi. Xem có ai tra khảo tôi về tội yêu nước không kém tổng bí thư không. Không kém là cái chắc. Nếu không nói là hơn. Bởi vì ngoài gia đình vợ con mà ai cũng có, tổng bí thư còn có đảng của ông, cái ghế của ông, vương triều của ông, bổng lộc của ông để ông yêu, để ông trìu mến. Còn tôi ngoài gia đình vợ con, chỉ có đất nước, nhân dân để mà xót thương, để mà yêu dấu. Cứ ghi âm đi. Tôi không sợ đâu.
Cũng may hai ông khách thì chỉ có ông Vũ Loan là diễn giả chính thôi. Có lẽ Vũ Loan là người trực tiếp nhận nhiệm vụ. Hồ Anh Tuấn là người đi cùng cho có đoàn nên chỉ ngồi nghe. Thỉnh thoảng Tuấn mới nói mà lại là những câu đại loại như: Tập sách của anh, thằng em tôi — ý nói Hồ Anh Thái — mua hàng chục bộ để tặng… Tôi rất cám ơn Hồ Anh Tuấn về sự tế nhị đó. Có lẽ anh xuất thân từ một nền văn hóa ứng xử khác, không bao giờ quá tự tin khi đối thoại, để nói như một cấp trên ra lệnh, hoặc như khẳng định chân lý. Tuấn biết có những giá trị khác, những giá trị hiện nay còn chưa được công nhận nhưng rất đáng kính trọng.
 Cuộc vận động tôi không nhận giải Nhân Quyền hẳn là được chỉ đạo rất chặt chẽ. Từ Hà Nội, Nguyễn Trọng Tạo gọi điện về cho tôi thuật lại công an A25 trên Bộ nói với anh rằng tôi nhận sẽ có đối sách, tôi không nhận sẽ cóchính sách. “Tạo cười Tạo bảo anh Tấn rất nghèo rất cần tiền nhưng lúc này tiền cũng không cần. Tiền không quan trọng bằng danh dự.” Đúng như Tạo nói. Ghi âm câu nói của tôi người ta sẽ thấy Tạo nói đúng như tôi nghĩ. Chính sách gì? Đối sách gì? Cái gậy và củ cà rốt! Nhưng tôi đâu phải là con thỏ. Tôi đã chịu đựng những đòn roi khủng khiếp. Và đã lì đòn.
Suốt thời gian những nhà thuyết khách, những nhà hăm doạ đến nhà, vợ tôi im lặng nghe, dành cho tôi toàn quyền phát ngôn. Tôi rất thương vợ tôi. Đã vì tôi mà vợ tôi phải chịu đựng căng thẳng như thế này và hơn thế này cả nửa thế kỷ rồi. “Lục trong đáy cuộc đời đâu chỉ có mấy ngày sung sướng mà thôi” như Maiakovski viết.
Hai chúng tôi đều không coi tiền tài là quan trọng hơn tất cả dù cực kỳ túng thiếu và bằng lòng với sự tối thiểu nhất trong cuộc sống. Chúng tôi chỉ mong được là người bình thường. Chúng tôi chỉ mong sự bình yên. Bình yên cho mỗi ngày. Đất nước hoà bình đã hơn 25 năm nhưng chúng tôi vẫn không có sự bình yên.
 Khi Vũ Thư Hiên từ nước ngoài gọi điện báo cho tôi là người ta đã gửi tiền cho tôi lần thứ hai nhưng không được và đã lại rút tiền về bên ấy rồi, tôi đón nhận tin ấy như một sự tất yếu, không thế mới lạ.
Còn nghe cả tiếng Hiên chuyện với mấy người chắc là ngồi gần đó về nguyên tắc ngân hàng, người kia nói: Ngân hàng làm dịch vụ chuyển tiền, phải chuyển chứ, làm gì có chuyện không chuyển, và tiếng Hiên: Đây này. Gửi về cho ông Tấn mà ông ấy không nhận được, lại chuyển trả lại đây này.
Tôi bảo Hiên: “Hãy tạm hoãn việc chuyển tiền, Hiên ạ.” Trong điện thoại tôi chỉ nói được như vậy.
Thế rồi bỗng nhiên tôi nhận được một phong bì do Hội Văn Nghệ Hải Phòng chuyển, bên trong có ba công văn của Hội Nhà Văn. Công văn thứ nhất, gửi lãnh đạo thành phố Hải Phòng thông báo: Thực hiện kế hoạch hợp tác đã ký giữa Việt Nam và Trung Quốc, một đoàn đại biểu Hội Nhà Văn Việt Nam sẽ sang thăm và làm việc tại Trung Quốc, thời gian 10 ngày trong tháng 9 năm 2001, đề nghị Thành Uỷ, Uỷ Ban Nhân Dân và Hội Văn Nghệ thành phố Hải Phòng cho phép, tạo mọi điều kiện thuận lợi làm mọi thủ tục xuất cảnh cho nhà văn Bùi Ngọc Tấn đi Trung Quốc.
Công văn thứ hai là quyết định cử đoàn đại biểu cấp cao 5 người đi thăm và làm việc tại Trung Quốc, trong đó có tôi. Và cuối cùng, một công văn gửi cho tôi: Xin anh vui lòng và gấp rút chuẩn bị các thủ tục sau:
1–Quyết định nhân sự của cấp có thẩm quyền. (Hội Văn Nghệ làm tờ trình, Uỷ Ban thành phố ra quyết định.)
2– Tờ khai xin cấp hộ chiếu phổ thông (xin tại Sở Công An) xác nhận của Hội Văn Nghệ và 4 ảnh cỡ 4×6 để làm hộ chiếu.
Mong anh nhiệt tình tham gia để đoàn lên đường đúng dự định (ngày 10-9-2001)
Tổng thư ký Hội Nhà Văn Hữu Thỉnh
Giá như tự nhiên tôi được mời tham gia chuyến đi này. Một điều tuyệt vời không chỉ đối với cá nhân tôi mà còn đối với cái chung nữa, bởi như vậy chính sách đã có những thay đổi. Nhưng đây là một kế hoạch đối phó với tôi, ứng trước sự đền bù để tôi không nhận giải thưởng Nhân Quyền. Chắc chắn việc tôi đi đã được thông qua Bộ Chính trị, thông qua Nguyễn Khoa Điềm. Những người ấy không thể tốt với tôi. Cái bẫy gì đây? Nước cờ dụ tốt sang sông, tiếp theo là những bước gì? Không ai có thể buộc tôi từ chối nhận giải thưởng Nhân Quyền. Điều chắc chắn là sẽ có rất nhiều tin đồn, sự xuyên tạc được tung ra. Đó vốn dĩ là ngón nghề của họ.
Phải nói rằng tôi không muốn đi chút nào nhưng tình thế là khó thoái thác. Hơn nữa tôi rất muốn có cái hộ chiếu, điều bình thường không thể có được. Để dùng vào những việc sau này. Cuộc đời rồi sẽ cần có nó.
Nhưng tôi không khởi động gì về việc nhiều người thèm muốn ấy. Thúc giục Hội Văn Nghệ Hải Phòng làm đề nghị lên Uỷ Ban, Thành Ủy cũng không. Làm thủ tục lấy hộ chiếu cũng không. Trường hợp tôi là vậy. Không phải xin hộ chiếu. Mà là lấy hộ chiếu. Bởi vì họ cần tôi đi nước ngoài chứ không phải tôi. Chẳng bao giờ người ta lại cho không tôi một món hời như thế. Cân nhắc mọi nhẽ vẫn là cái việc họ sẽ tung tin, xuyên tạc, bôi nhọ tôi. Điều này không ngại. Chỉ cần lòng dạ mình trong sáng. Với lại mình không đi họ vẫn xuyên tạc cơ mà!
Hữu Thỉnh không trực tiếp nói với tôi một câu nào trong suốt quá trình chuẩn bị đi. Anh nắm tình hình qua Đình Kính. Cũng là đúng nguyên tắc. Vì Kính là chi hội trưởng chi hội nhà văn Việt Nam tại Hải Phòng. Hơn nữa nhà Kính lại gần nhà tôi, ngay bên kia đường.
Chính Kính giục tôi lên ngoại vụ làm thủ tục nhận hộ chiếu. Nhưng Kính cũng không nắm vững chuyện này. Khi tôi đã nộp thủ tục ở Hải Phòng([3]), Kính bảo không phải nộp ở Hải Phòng mà đem lên Hà Nội. Lại rút hồ sơ đã được xác nhận ra làm lại để chuyển lên Hà Nội. Ngoại vụ Hải Phòng huỷ hồ sơ, phát tờ khai, khai lại. Nhưng phòng ngoại vụ không xác nhận mà phải đem về phường. Phường nói phường chưa bao giờ xác nhận như vậy mà là ngoại vụ. Lại lên ngoại vụ. Ngoại vụ kiên quyết không xác nhận vào hồ sơ. Tôi không lo mà lại mừng. Thế là có cơ không phải đi. Khỏi phải điên lên vì những lời xuyên tạc bẩn thỉu. Còn một việc nữa: Uỷ Ban, Thành Uỷ chưa có quyết định để tôi đi, dù tôi chẳng ở biên chế nào của nhà nước và cũng chẳng phải đảng viên. Ngày 20-8-2001 Hội Văn Nghệ Hải Phòng làm văn bản đề nghị thành phố, và mãi tới ngày 5-9-2001 phó chủ tịch Uỷ Ban Bùi Thị Sinh mới ra quyết định. Có sự chậm trễ này hình như do mấy ông bà thư ký uỷ ban muốn kéo dằng dai để kiếm chút mồi như thông lệ. Mãi sau các ông bà mới biết cái tên Bùi Ngọc Tấn chẳng thèm đến chạy chọt, cái tên Bùi Ngọc Tấn ấy là một trường hợp đặc biệt, rất khó nhằn, nó nằm trong một thế cờ, “ngâm cứu” lâu là bể mánh. Tôi đoán thế — Cầu mong tôi đoán sai và được các vị lượng thứ.
Cái sự làm hộ chiếu cuối cùng có chỉ thị từ Hà Nội xuống là ngoại vụ cứ làm hồ sơ, sở công an Hải Phòng cứ ký rồi đưa lên cho Hội Nhà Văn làm ở Hà Nội. Đình Kính nắm tình hình rất chắc. Anh biết chiều hôm ấy người trực ngoại vụ là ai, và sáng hôm sau Bão Vũ lên Hà Nội tôi sẽ gửi Bão Vũ cầm lên. Công việc đúng như Kính nói. Những người có trách nhiệm sở công an đã ở lại quá giờ để làm cho tôi. Trong việc làm hộ chiếu, Kính rất nhiệt tình, tôi cảm ơn anh, hơn thế còn nhiều lúc cảm thấy mình là người có lỗi.
Thế là thủ tục đi Trung Quốc của tôi đã được hoàn tất mà không phải mất một giọt mồ hôi, một câu “báo cáo anh, nhờ anh giúp đỡ.”
Ngày 11 tháng 9 năm 2001, đúng ngày Bill Laden đánh tháp đôi New York, tôi bay đi Trung Quốc.
B.N.T
([1]) Kính là trưởng chi hội nhà văn Việt Nam tại Hải Phòng.
(2) Người ta nói thời gian ông Trần Hoàn làm bộ trưởng Bộ Văn Hoá, nhiều nhạc công, ca sĩ được cất nhắc lắm.
(3) Lần đầu tiên trong khi khai lý lịch tôi viết điều bị bắt tù 5 năm mà thấy bình chân như vại, không chút lo lắng hồi hộp sợ hỏng việc.

(Xem tiếp kỳ sau)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

NHÂN NGÀY GIỖ TƯỚNG TRẬN ĐỘ …



Tướng Trần Độ

Đám tang tướng Trần Độ…

nhà báo Lưu Trọng Văn

QTXM: Bạn đọc kính mến. Hôm nay, 1-7 âm lịch là ngày giỗ Trung tướng Trần Độ . QTXM xin thắp nén nhang lên mộ ông với niềm kính trong và cảm phục sâu sắc đối với một vị tướng tài, một nhà văn, một nghệ sĩ nhiếp ảnh, một nhà văn hóa lớn của dân tộc. QTXM xin in lại hồi ức của nhà báo Lưu Trọng vĂn ( con trai cố nhà thơ Lưu Trọng Lư) về đám tang Tứơng Độ như một niềm chia sẻ.

***

 Nhà thơ Chế Lan Viên chê tướng Trần Độ khi làm thứ trưởng bộ Văn hóa (thực chất quyền như bộ trưởng) đã đem cách điều hành mệnh lệnh trong quân đội vào trong điều hành một cơ quan quản lý văn hóa. Tính của Chế Lan Viên thường châm trích cay nghiệt, ông bảo với gã, muốn gặp ông Độ phải báo cáo qua từ anh tiểu đội trưởng...
  Rồi nghe cha gã kể, một lần có việc cha gã đến bộ Văn hóa ở đường Ngô Quyền để nói với ông thứ trưởng về tình hình văn hóa nghệ thuật theo cha gã là đang bê bết. Gặp ông Độ ở cầu thang, cha gã đi lên, ông thứ trưởng đi xuống, ông Độ hỏi sẵng, việc gì ? Cha gã tức khí gắt lên, có việc với anh đấy.
  Gã rất hiểu tính cha gã. Có lần cha gã đã đập bàn với ông Trường Chinh vì ông phê phán Nguyễn Tuân khi Mỹ ném bom thảm sát Hà Nội lại chỉ viết chuyện về...phở.
  Khi ông Lê Duẩn như cụ Huỳnh Thúc Kháng xưa, bảo truyện Kiều của Nguyễn Du là dâm thư, cha gã đã gân cổ bảo vệ nàng Kiều. Khi trong cuộc họp bàn về  kỷ niệm 600 năm Nguyễn Trãi toàn các trí thức tên tuổi cả, ông Võ Nguyên Gíap chắp tay sau đít cứ đi đi lại lại, cha gã bảo ông Giáp, anh ngồi xuống như anh em đi.
  Thực ra tướng Trần Độ cùng trong một guồng máy quá lâu không thể không nhiễm cái thói quen của hầu hết các vị lãnh đạo tự cho mình có chức là đương nhiên ngồi trên đầu bất cứ ai.
  Gã không thích cái thói ấy. Đến bây giờ gã vẫn nói như Phùng Quán, không thích thì bảo là không thích.
  Nhưng rồi đám tang của ông, từ Sài Gòn chân ướt chân ráo ra, gã đã đến dự. Nắng gắt lắm. Cả cái sân Nhà Tang lễ như đổ lửa. Gã đến không hề vì tò mò, không hề vì muốn ta đây tỏ một thái độ chống đối này nọ mặc dù chống đối... đang là mốt thời thượng.
  Vậy mà đã 13 năm trôi qua rồi.
  Hôm nay 9.8 ngày ông Trần Độ mất.
  Gã xin thắp nén nhang tưởng nhớ ông. Và cái ngày nắng gắt ấy gã cũng đã khóc chia tay ông cùng một nén nhang.
  Không thích một việc, đó là cái thói đời, thương cho những người như ông cũng bị nhiễm. Nhưng lại có nhiều cái thích khác lớn hơn, đè khuất cái gờn gợn không thích kia.
***
Vòng hoa của đại tướng Võ Nguyên Giáp, và vòng hoa của gia đình đại tướng Lê Trọng Tấn, đại tướng Hoàng Văn Thái bị ách lại chưa được đưa vào viếng trung tướng Trần Độ. Tình hình rất căng thẳng, đại tá Huyên, trợ lý của đại tướng Võ Nguyên Giáp nói sẽ điện về xin ý kiến của đại tướng.
  Lý do là trên băng tang đề dòng chữ “vô cùng thướng tiếc” trung tướng Trần Độ. Chỉ thị từ cấp cao nhất, không để lọt bất cứ “vô cùng thương tiếc” nào mà chỉ được, “kính viếng” hoặc “viếng” thôi.
  Gã ngồi bệt vỉa hè dưới tán cây phượng với ông Nguyễn Kiến Giang, một người mà gã kính yêu. Khi ông Độ trên đỉnh cao quyền lực hoặc dẫn đầu đoàn quân xung trận thì ông Nguyễn Kiến Giang bị nhốt trong tù.
  Một lần cà fê với ông dưới gốc đa già công viên Lý Tự Trọng bên hông báo Lao Động, ông Giang kể gã nghe vì sao ông bị đích thân ông Lê Đức Thọ tống ông vào tù. Rồi trong tù hai ông đã tranh luận thế nào về con đường phát triển của đất nước.
  Gã thích ông Giang ở lòng nhân ái bao la của ông, ông không hề hằn học tức giận những người đã cho ông vào tù và ông tôn trọng quan điểm lập trường của những người chống ông. Sau này tìm hiểu về ông Mandela của Nam Phi gã thấy tấm lòng nhân ái của ông Giang chả khác ông Mandela.
  Chính vì yêu mến ông Kiến Giang mà gã có cái nhìn khác đi về tướng Độ. Một người như ông Giang sẵn sàng đứng dưới cờ của tướng Độ, thì chắc chắn phải có lí do. Và gã được biết ông Giang chính là nhà tư tưởng của nhóm tướng Độ, thế là gã cảm mến ông Độ vì không phải tự dưng lại chọn ông Giang. Thế đấy. Dắt dây. Sợi dây tình cảm. Suốt đời của gã, gã chỉ chấp nhận cho sợi dây tình cảm xỏ mũi mình.
  Nói thế, là, gã đến dự đám tang tướng Độ, người gã chưa hề gặp ngoài đời, hoàn toàn không vì ông là người chống chế độ.
  Gã cứ ngồi bệt thế trên vỉa hè với ông Nguyễn Kiến Giang. Thỉnh thoảng gã lấy tờ báo quạt quạt cho ông. Mồ hôi. Oi. Không khí tang. Buồn. Tức. Đủ chuyện.
  Khi thấy ông Giang, bất cứ ai quen biết, kính trọng ông khi đi qua đều đon đả tới chào ông. Dương Thu Hương, Hoàng Minh Chính... hầu hết là những nhân vật bất đồng chính kiến. Trong nhiều người đến chào ông Giang nhà tư tưởng của nhóm tướng Độ, gã biết một số người cơ hội. Gã nói thẳng với ông Giang, ông Giang khẽ cười, cậu nói số ít à, theo mình là không ít đâu. Giọng ông nhẹ tênh coi chuyện kẻ cơ hội trong một phe nhóm nào đó là...đương nhiên.
  Gã nhớ lại cũng lần dưới gốc đa ở Sài Gòn ấy, gã đã hỏi thẳng ông Giang rằng ông anh có cảm thấy có sự nhầm lẫn về ngọn cờ, về thủ lĩnh chưa xứng tầm không?
  Gã nghĩ mình hỏi câu hỏi có ý xúc phạm ấy sẽ làm ông Giang khó chịu. Nhưng thật không ngờ, ông chỉ cười, vẫn nụ cười rất chân thành, mộc mạc, mà hiếm có một nhà tư tưởng, một triết gia hàng đầu đất nước như ông có được.Ông nói, có những cái vì việc lớn mình phải chấp nhận thôi.
Gã thực sự xúc động và càng thương yêu ông vì cái nụ cười và câu nói ấy. Ông bảo, Văn ạ, cậu sướng hơn mình rất nhiều. Mọi quyết định thay đổi của cậu có thể chỉ trong ba mươi giây, còn mình phải mất ba mươi năm đấy.
  Gã đủ không ngốc lắm để hiểu thông điệp mang tính khoảng cách các thế hệ vô cùng tinh tế này. Ông Trần Độ cũng thế thôi, có khi để có quyết định thay đổi ông đã phải mất hơn cả cái thời gian dằng dặc ba mươi năm ấy nữa.
  Thế rồi ông Giang không phải tự dưng kể cho gã nghe câu chuyện khi ông bị bắt giam, mẹ ông một nữ anh hùng cuộc Khởi nghĩa Xô Viết Nghệ Tĩnh, một đảng viên cộng sản năm 1930 đã tuyên bố từ ông.
  Ông đau đớn lắm. Ông cảm giác cái nỗi đau của ông từ Đảng, Đảng mà cả tuổi trẻ của ông theo đuổi, phấn đấu hy sinh cũng không thể bằng nỗi đau của mẹ ông khi mẹ ông từ ông. Và càng không thể bằng nỗi đau của chính ông khi bị mẹ khước từ tình mẹ con.
  Gã nhận thêm thông điệp nữa, ông Trần Độ cũng có những quặn đau như thế.
  Dám từ bỏ một niềm tin, hơn thế nữa niềm tin ấy lại hun đúc bằng cả tuổi thanh xuân, bằng cả bao xương máu thành đức tin, thì chỉ chuyện ấy thôi cũng phải biết trân trọng những con người như ông Giang, như ông Độ rồi.
  Gã vỡ lẽ ra nhiều điều. Bây giờ gã mới hiểu hết nỗi đau của cha gã khi gã hoặc thằng Ninh em trai gã đem chuyện tiêu cực xã hội, những bất công xã hội, những tha hoá xã hội ra kể. Có lần cha gã quăng đũa, bỏ cơm. Cha ơi con xin lỗi cha. Ngàn lần xin lỗi.Vì con đã làm cho cha buồn.
  Thương quá một thế hệ chiến đấu vì lý tưởng cách mạng như ông Giang, như cha gã. Và từ tình thương này gã dắt dây thương những người như ông Trần Độ. Nhà cao cửa rộng. Gia đình êm ấm, con cái tử tế, bổng lộc không thiếu, uy danh có thừa, nhưng đã bỏ tất cả.
  Đúng sai không bàn.
  Dấn thân là trả giá.
  Ông Nguyễn Kiến Giang kể: Sau này, bà mẹ của mình từ quê ra tìm mình, bà ôm lấy mình, khóc, bà nói, con ơi, con đúng, mẹ xin lỗi con.
***
Đã tới giờ làm lễ tang tướng Trần Độ.
  Ông Giang đứng dậy, khẽ đọc cho gã nghe mấy câu thơ của ông Độ.
  Những mơ xóa ác ở trên đời
Ta phó thân ta với đất trời
Ngỡ ác xóa rồi thay cực thiện
Ai hay, biến đổi ác luân hồi.
  Gã và ông Giang bước vào hàng những người vào viếng lần cuối. Lúc này bên cạnh gã là nhà văn Xuân Cang, nữ đạo diễn sân khấu Phạm Thị Thành và rất nhiều tướng tá, sĩ quan quân đội, rất nhiều trí thức nổi tiếng, rất nhiều những khuôn mặt của lực lượng dân chủ.
  Gã hỏi ông Giang câu nói nào của ông Trần Độ mà ông nhớ nhất. Ông Giang nói: Có hai câu.
  Một. Văn hóa mà không có tự do là văn hóa chết.
  Hai. Mọi sự độc quyền, độc tôn đều đưa đến thoái hóa, ruỗng nát.
  Gã đã run run thắp nén nhang cho tướng Trần Độ, khói nhang như hai câu nói kia cứ quẩn quanh gã.

Gã lẩm bẩm như nói với tướng Độ, ở tuổi 27 tôi đã nhiều tháng ngày cùng trung đoàn Sông Lô mà ông từng làm chính ủy khi ông 27 tuổi, tiêu diệt bọn diệt chủng tàn ác Khmer đỏ.

Cái ác phải bị tiêu diệt.
  Bản nhạc Hồn tử sĩ vang lên. Hơn một ngàn con người đứng im mặc niệm tướng Trần Độ.
  Gã thấy vòng hoa của đại tướng Võ Nguyên Giáp không hiểu ai đã...lén đặt lên bên quan tài của tướng Trần Độ, dòng chữ “vô cùng thương tiếc” không bị bóc bỏ.
  Và rồi ông Vũ Mão, chánh văn phòng Quốc hội, nơi ông Trần Độ từng là phó chủ tịch, lên đọc điếu văn. Giọng ông hùng hồn ngợi ca công lao của ông Độ đối với đất nước, dân tộc. Nhưng đến kết thúc điếu văn giọng ông tự dưng tụt âm lượng, tiếc rằng, cuối đời đồng chí đã phạm những sai lầm...
  Cả khán phòng im lặng sững sờ vì “nghĩa tử là nghĩa tận” theo truyền thống dân tộc Việt xưa nay, vậy mà một ông đại diện cho Quốc hội lại cố tình bất chấp...

Gã cảm nhận như ông Vũ Mão biết cái gì sẽ xảy ra. Đọc xong điếu văn ông lặng lẽ đi xuống mà không nhìn vào mặt bất cứ ai. Ông đứng sát bên gã ở hàng đầu bên phải. Mồ hôi đầm đìa khuôn mặt vốn luôn khá cởi mở của ông.

Gã thú thật gã vốn có cảm tình với ông khi chứng kiến ông, bí thư thứ nhất trung ương Đoàn đã say sưa hát cho công nhân Công trình Thủy điện Sông Đà nghe bài hát mà chính ông sáng tác nói về tình yêu tuổi trẻ. Bây giờ thì ông chuẩn bị đón chờ bão tố đấy. Ông liên tục lấy khăn tay lau mồ hôi. Gã nghe được cả tiếng thở phập phồng của ông.

Và bão tố đã nổi khi Trần Thắng, con trai của tướng Trần Độ thay mặt gia đình: Chúng tôi không công nhận lời điếu văn của ông Vũ Mão. Những tiếng hò hét, những tiếng vỗ tay vang dội ủng hộ lời tuyên bố kia.
  Một người đàn bà mặc áo nâu sồng nét quê kệch gào lên: Ối anh ơi là anh ơi, anh chết rồi mà người ta vẫn không để anh yên.
  Gã thấy một loạt tướng tá, cựu chiến binh huân chương đầy ngực từng là đồng đội vào sinh ra tử khắp các chiến trường từ Điện Biên Phủ đến chiến trường Nam bộ, chiến trường Trị Thiên vây lấy ông Vũ Mão. Họ chỉ chỏ vào mặt ông Vũ Mão chửi thậm tệ. Trước khi chửi họ đều xưng họ tên cấp bậc từng chiến đấu ở chiến trường nào.
  Gã biết đa số trong họ có thể không tán đồng tư tưởng chọn lựa con đường khác như ông Trần Độ, nhưng họ hơn ai hết hiểu cái tấm lòng yêu nước xả thân của người từng là chỉ huy hoặc đồng đội của mình.

Gã ké một câu hỏi, ai buộc anh cho cái đoạn phê phán ông Trần Độ vậy?
Ông Vũ Mão lấy một ngón tay chỉ lên... trời.
***
Năm 2007, ông Vũ Mão có viết một bức thư rất chân thành, ông kể lại sự kiện ông bị phân công đọc điếu văn mà chính ông không muốn.

Ông nói rằng, ông rất khổ tâm về điều này vì có thể có các quan điểm khác nhau “nhưng nghĩa tử là nghĩa tận, đặc biệt trong tang lễ đọc cả điều thiếu sót là điều tối kỵ”.

Và ông thanh minh, là ông đã xúc động thật sự khi cố tình dõng dạc kể công lao của ông Trần Độ, và ông chủ động xuống giọng khi nói tới sai lầm, thiếu sót.

Gã ghi nhận điều ông nói là sự thật. Và hôm nay, sau 13 năm cái sự kiện lần đầu tiên trong một đám tang nhà nước có cuộc vỗ tay phản đối điếu tang, gã xin kể cho ông Vũ Mão, người mà bây giờ thích được gọi là nhà thơ, hay nhạc sĩ hơn bất cứ chức danh lãnh đạo nào mà ông từng nắm giữ, một sự thật mà chắc chắn ông không hề biết, đó là, khi ra khỏi Nhà Tang lễ, nhà cách mạng chân chính Nguyễn Kiến Giang đã đọc hai câu thơ của ông viết tặng tướng Trần Độ ngày 17.3.1993.

Vì dân vì nước anh hiến dâng cuộc đời
Anh là đóa hoa hồng đẹp tươi.

Rồi người đồng chí gần gũi thân thiết nhất của tướng Trần Độ ấy đã nói, đừng trách Vũ Mão.

Cuối cùng thì sự khác biệt của những nhà cách mạng thực sự vì dân vì nước với những ai khác cũng chỉ là cái tình và cái dám chiến đấu, dám tù đày, hy sinh vì cái tình ấy.

Lúc này, khi viết những dòng cuối cùng này, gã thú thật gã chẳng còn nhớ đến ông Trần Độ, thậm chí cả ông Nguyễn Kiến Giang nữa.

Mà gã nhớ đến hình ảnh bà mẹ của ông Giang sau nhiều năm vật vã đau đớn trăn trở đã ôm người con trai của mình mà vì niềm tin, đức tin của mình đã từ bỏ:

Mẹ xin lỗi con!

9.8.2015.

Viết thêm.
Tối 10.8 nhà văn Nguyễn Quang Thân có điện thoại cho gã nói, thời Mỹ ném bom Hà Nội, Nguyễn Tuân không viết về phở nữa mà viết về hoa. Những bút kí về phở lẫn về hoa của Nguyễn Tuân đều bị phê phán. Đó là thời mà Nguyễn Quang Thân biết rành hơn gã, còn gã chỉ nghe cha gã kể lại thôi.Để tôn trọng sự thật gã xin viết thêm đoạn này.
(Nguồn: FB Lưu Trọng Văn)
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nó muốn nhiều cái, nhưng nói ngắn lại như này cho nhanh: Nó muốn nuốt VN vào bụng và tiêu hóa thật nhanh đồng chế Châu ợ!


Nguyễn Hữu Hợp 
VA : Ngô Bảo Châu đã điểm rất đúng nỗi lo lắng của dân chúng. Cảm ơn Ngô Bảo Châu. Xin nói leo anh một câu thế này: Cái mà dân chúng xuống đường biểu tình ôn hòa chống Trung Quốc chưa chắc đã là dầu hoả, mà là sự căm giận TQ buộc VN thần phục vô điều kiện….Nếu các cuộc biểu tình bị cấm đoán… không biết chuyện gì sẽ xảy ra?


Phần nhận xét hiển thị trên trang