Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 16 tháng 6, 2015


Tuần qua, thế giới xôn xao vì Bắc Kinh công bố Bạch Thư về Chiến Lược Quốc Phòng làm thiên hạ tốn giấy mực và nước miếng để luận bàn. Xong rồi thôi, vì tuần này thời sự đã chạy qua hướng khác. Người viết này thì ôm một bình ga lặn rất sâu để… đi tìm thủy quái. Thiệt ra, lãnh đạo Bắc Kinh mất hai chục năm, mới từ vùng biển xanh lục ở khu vực cận duyên xuống tới biển xanh dương của khu vực viễn duyên để bơi ra ngoài và đòi tranh tài với thế giới. Sau khi ngù ngờ bây giờ thiên hạ mới tri hô báo động. Chúng ta nên ngó lại xem cái giống thủy quái đó sẽ bơi tới đâu?
oOo
Trong mấy ngàn năm lịch sử, ưu tiên về an ninh của Trung Quốc thường tập trung vào bên trong là nơi xuất phát nội loạn và sáu kiểu ngoại xâm của các dị tộc cứ bị Thiên triều coi thường như Hung Nô, Liêu, Kim, Mông, Mãn, Tạng. Đến thể kỷ 19 thì mới bị liệt cường Âu Châu và Nhật Bản bợp tai đá đít liên hồi.
Thế rồi sau khi cải cách kinh tế từ hơn ba chục năm trước, Thiên triều đỏ mới quan tâm nhiều hơn đến thế giới bên ngoài vì cần nhập cảng nguyên nhiên vật liệu và tìm thị trường xuất cảng hàng hóa. Với tiến trình công nghiệp hóa và nhu cầu rất lớn về nhiều mặt vì là một xứ đói ăn, khát dầu và thiếu nước, Trung Quốc phải nhập cảng rất nhiều và việc bảo vệ nguồn cung cấp trở thành một ưu tiên chưa từng có trong lịch sử.
Khi thấy vùng biển cận duyên lại có tiềm năng về dầu khí, lãnh đạo Bắc Kinh nghĩ đến việc chiếm đoạt và xây dựng thành một vùng trái độn quân sự tương tự các khu vực biên trấn họ đã thôn tính ở bên trong như Tây Tạng, Tân Cương và Nội Mông. Việc bành trướng ấy tất nhiên gây mâu thuẫn với lân bang và có thể dẫn tới xung đột ngoài biển. Trong số lân bang, Nhật Bản là một cường quốc đã có truyền thống hải dương từ lâu, còn các quốc gia Đông Nam Á thì yếu thế hơn.
Đấy là chuyện hôm nay.
Chuyện hôm qua là mùng 10 Tháng Ba, 2013, Bắc Kinh công bố kế hoạch tái phối trí hệ thống kiểm soát và bảo vệ quyền lợi ngoài biển qua việc thống nhất bốn cơ quan hữu trách làm một. Quyết định hành chánh ấy là mũi kim mềm yểm vào quần chúng lờ đờ: âm mưu bành trướng khéo che dưới vỏ bọc dân sự.
Khách có kẻ ngồi bên đang chàng hảng lật ra tấm bản đồ.
Chàng đo đếm xem từ Bộ Chỉ huy Hạm đội Nam Hải ở huyện Tam Sa mà xuống tới Đông hải của Việt Nam, thì Hải quân và Không quân của Bắc Kinh phải bơi bao nhiêu hải lý và bay bao nhiêu cây số? Rồi tiếp liệu ra sao để sẵn sàng nghênh chiến với đủ loại đối thủ? Thấy người viết bỗng dưng nói chuyện xa lắc, khách bèn hỏi: “Chuyện xưa ăn nhập gì tới chuyện nay? Nhà bác lại có ý đố gì vậy?”
Dĩ nhiên là có chớ!
Sau mấy ngàn năm chỉ ngó vô trỏng, Bắc Kinh cần bơi ra ngoài. Nhưng ngoài nớ, hạm đội Thái Bình dương của đệ nhất siêu cường Hoa Kỳ lại là rào cản chưa thể vượt qua được, ít nhất là trong vài thập niên.
Kế hoạch trước mắt của lãnh đạo Bắc Kinh là phải khống chế và bảo vệ được quyền lợi đã giành được ở vùng biển cận duyên. May ra sau này mới tiến tới vùng biển xanh dương với hạm đội được ráo riết xây dựng. Kế hoạch trước mắt ấy gây rủi ro tranh chấp với các nước Đông Á vây quanh. Làm sao thắng được các nước này mà không gặp phản ứng của Hoa Kỳ là bài toán chiến lược.
Đấy là về bối cảnh. Đây là về hiện trường
oOo
Lãnh thổ Trung Quốc có bờ biển dài nhất thế giới, từ cửa sông Áp Lục bên bán đảo Triều Tiên đến Vịnh Bắc Bộ của ta là hơn 22 ngàn cây số. Nhưng vì là một cường quốc lục địa mới lò mò ra ngoài nên họ không có hệ thống duyên phòng hay hải cảnh (bảo vệ duyên hải) thống nhất. Chi tiết ấy đáng chú ý vì Bắc Kinh có năm bộ phận với cấp số khoảng bốn vạn người cùng chia sẻ trách nhiệm về hải dương - mà lại không phối hợp.
Năm bộ phận ấy là Hải Sự, Hải Cảnh, Hải Quan, Ngư Chính và Hải Giám.
Trong năm cơ chế, lớn nhất là Cục Hải Sự MSA (Maritime Safety Administration) có hai vạn nhân viên phụ trách việc thi hành luật lệ liên quan đến hải dương, như an ninh hay an toàn hàng hải, cứu hộ, kiểm tra tầu bè, quản lý các hải cảng. Cơ quan hành chánh này mới chỉ thành hình từ năm 1998 sau khi sát nhập hai bộ phận thanh tra tầu bè và kiểm tra hải cảng nằm trong Bộ Giao Thông.
Tới đây thì coi bộ người viết đã gây được mối quan tâm của khách ngồi bên! Vì chàng nín thinh.
Cơ quan thứ hai của Bắc Kinh là lực lượng cảnh sát ngoài biển tên là Hải Cảnh (Coast Guard), thuộc bộ Công An, tức là bộ Nội vụ của các xứ khác. Về hình thức, Hải Cảnh là cơ quan duy nhất được võ trang và về thực tế thì đấy là cánh tay bạo lực cho các cơ quan hành chánh kia.
Cơ quan thứ ba là Hải Quan Tổng Thự (General Administration of Customs), phụ trách về quan thuế, bài trừ buôn lậu và quản lý các thương cảng từ Bắc chí Nam. Cơ quan thứ tư là Ngư Chính (Fisheries Law Enforcement Command) thuộc Bộ Nông Nghiệp, với trách nhiệm bành trướng và bảo vệ quyền lợi đánh bắt thủy sản cho một quốc gia tiêu thụ nhiều cá nhất thế giới.
Cơ quan thứ năm, nổi tiếng vì thẩm quyền và sức bành trướng rất mạnh trong nhiều năm qua là Hải Giám (Marine Surveillance), nằm trong Cục Hải Dương Quốc Gia của Bộ Tài Nguyên Quốc Thổ (quản lý đất đai và tài nguyên quốc gia). Với cấp số khoảng tám ngàn người, bộ phận Hải Giám có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của Trung Quốc trên một diện tích ngoài biển khoảng ba triệu cây số vuông, kể cả Đặc Khu Kinh Tế EEZ và là mũi nhọn trong những xung đột gần đây với Nhật Bản, Việt Nam và Phi Luật Tân nhờ phi cơ, trực thăng và cả tầu tuần duyên.
Thấy khách có vẻ chú ý hơn, người viết bèn thừa thắng xông lên.
Năm cơ quan hữu trách ấy của Bắc Kinh được thành lập trước sau với ngân sách riêng lẻ dưới quyền giám hộ các bộ Công An, Giao Thông, Nông Nghiệp, Tài Chánh và Tài Nguyên. Họ thiếu thông tin, khó phối hợp hành động, ưa kèm cựa với nhau để xin phương tiện. Khi hữu sự thì nhiều cơ quan lại thiếu khả năng cưỡng hành, như võ khí, trực thăng hay chiến hạm.
Một lý do rất lạ của tình trạng phòng thủ rời rạc ấy là nhu cầu... tạo ra việc làm, vì giới hữu trách coi đó là ưu tiên để đạt thành tích với cấp trên. Rồi qua một giai đoạn khá lâu, mỗi bộ phận lại phát triển và củng cố riêng về nghiệp vụ mà không muốn chia sẻ hay sát nhập.
Tình trạng ấy bắt đầu thay đổi....
oOo
Quyết định thống hợp công bố hai năm trước vẫn duy trì trách nhiệm riêng của từng bộ phận nhưng đặt bốn cơ quan Hải Cảnh, Hải Quan, Ngư Chính và Hải Giám dưới quyền chỉ đạo của Quốc Gia Hải Dương Cục thuộc bộ Tài Nguyên, là bộ giám hộ đang chỉ huy lực lượng Hải Giám. Còn lực lượng Hải Sự vẫn được duy trì dưới quyền giám hộ của Bộ Giao Thông.
Khách ngồi bên lẩm nhẩm đọc lại chuyện này:
Một cơ quan được nâng thẩm quyền chỉ huy bốn bộ phận bảo vệ quyền lợi và thi hành luật lệ ngoài biển của Trung Quốc, đó là Hải Dương Cục, nằm trong Bộ Tài Nguyên và Quốc Thổ. Trên nguyên tắc, cục Hải Dương cũng chỉ huy lực lượng cảnh sát ngoài biển (Hải Cảnh, đến nay thuộc bộ Công An). Đó là nguyên tắc. Trong thực tế, Hải Dương Cục có thẩm quyền chỉ đạo, chứ về khả năng động thủ của các bộ phận dù sao vẫn được duy trì thì đấy là trách nhiệm của bộ Công An.
Việc cải tổ sâu rộng ấy là chiến lược bọc nhung một mũi nhọn có thế lực võ trang để lừa thế giới. Có chuyện gì thì với dư luận đấy chỉ là quyết định của Bộ Tài Nguyên hiền khô thôi. Bắc Kinh tăng cường khả năng can thiệp võ trang ở vùng biển cận duyên nên tái phối trí trách nhiệm của bốn bộ phận riêng biệt, nhưng trình bày với thế giới như một biện pháp hành chánh thuộc phạm vi trách nhiệm của bộ Tài Nguyên. Đấy mà một quyết định có tính chất ngoại giao. Để tránh xuất hiện như một lực lượng quân sự và trực tiếp đối đầu với siêu cường toàn cầu là Hoa Kỳ.
Hải quân Trung Quốc có quân số 250 ngàn và nhiều phương tiện võ trang đáng kể của ba hạm đội Bắc Hải, Đông Hải và Nam Hải. Nếu đưa lực lượng quân sự đó vào cuộc tranh chấp về chủ quyền ngoài biển với các nước khác thì đấy là việc mang ý nghĩa tuyên chiến, bị thế giới lên án và gây phản ứng từ phía Hoa Kỳ cùng các cường quốc khác trong khu vực. Vì vậy, Bắc Kinh dùng phương tiện bán quân sự mà gọi là phi quân sự, như cho tầu Ngư Chính đi cắt dây cáp của thiên hạ khi có tranh chấp về ngư nghiệp ở ngoài biển.
“Thế thì vì sao ngày nay Thiên triều lại giương cờ gióng trống?” Khách bật hỏi. Vì âm mưu ấy không qua mặt được một cường quốc hải dương trong khu vực là Nhật Bản.
Tokyo hiểu rõ chiến lược của Bắc Kinh sau khi mâu thuẫn gia tăng từ năm 2010 về chủ quyền trên quần đảo Senkaku và bùng nổ vào năm 2012. Nhật cũng tăng cường phương tiện cho lực lượng duyên phòng và lập ra 600 đơn vị với 11 tầu biên phòng có nhiệm vụ bảo vệ các quần đảo đang tranh chấp với Thiên triều. Từ hơn 30 năm, đấy là lần đầu tiên mà Tokyo nâng cấp số duyên phòng. Khi ấy, Tổng trưởng Quốc phòng Itsunori Onodera còn cho biết là sẽ tu bổ và cải tiến các chiến hạm cũ của lực lượng phòng vệ hải dương (Hải quân) thành tầu tuần tra của duyên phòng.
Trên nguyên tắc, lực lượng duyên phòng của cả Tầu lẫn Nhật đều không có phương tiện võ trang như binh chủng Hải quân mà chỉ có tầu tuần duyên nhỏ. Khi Bắc Kinh lấy lý do thi hành luật lệ hải dương bằng các bộ phận "phi quân sự" thì Tokyo cũng đáp lễ với bài bản đó để bảo vệ chủ quyền của mình mà không gây rủi ro leo thang chiến tranh.
Kẻ cắp gặp bà già! Mà là thứ bà già đã cho Trung Quốc ăn bã trầu từ năm 1894. Cho nên Bạch thư về Quốc phòng vừa được công bố gián tiếp xác nhận rằng vì thấy khó làm ăn trên vùng Đông Bắc, con thủy quái mới lòn xuống Đông Nam Á cào đá làm đảo và cào mặt ăn vạ.
Có khi lại ăn bã trầu nữa!

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cứ phái Hạm đội, không cần nói nhiều với TQ


Hải Võ | 14/06/2015 19:45
 (Ảnh minh họa)

Cựu Ngoại trưởng Mỹ đã lên tiếng cảnh cáo Trung Quốc về sức mạnh quân sự của Mỹ, trước lo ngại Bắc Kinh ngày càng lấn tới ở cả vấn đề Biển Đông và an ninh mạng.
 Diễn biến mới nhất ở Biển Đông
Trang Đa Chiều hôm 12/6 đưa tin, cựu Ngoại trưởng Mỹ Condoleezza Rice mới đây đã có bài diễn thuyết tại một hội nghị về khoa học công nghệ tại Miami được cho là "chĩa mũi giáo" vào các doanh nghiệp Trung Quốc đang bước ra thị trường thế giới.
Theo đó, bà Rice đã hình dung Mỹ là quốc gia đứng ra bảo đảm và duy trì thị trường cởi mở, tự do trên toàn thế giới. Washington có đủ khả năng ngăn cản Trung Quốc "xâm lược thị trường quốc tế cũng như thế giới thực".
Bà Rice cho rằng Trung Quốc đang "chơi không đẹp" và đang lợi dụng các doanh nghiệp khổng lồ của mình như những quân bài để thực hiện hoạt động gián điệp đối với Mỹ.
"(Mỹ) chỉ cần hạ lệnh điều động Hạm đội Thái Bình Dương thì bọn họ (Trung Quốc) sẽ 'nếm mùi' ngay. Chúng ta hoàn toàn không cần phí thời gian to tiếng qua lại với Bắc Kinh về vấn đề Biển Đông" - bà Condoleeza Rice cho biết.

Cựu Ngoại trưởng Condoleezza Rice tin rằng Mỹ chỉ cần cho Trung Quốc thấy được sức mạnh quân sự thực là có thể trấn áp được Bắc Kinh.
Cựu Ngoại trưởng Condoleezza Rice tin rằng Mỹ chỉ cần cho Trung Quốc thấy được sức mạnh quân sự thực là có thể trấn áp được Bắc Kinh.
Tuy vậy, cũng theo cựu Ngoại trưởng Rice, sự căng thẳng giữa Trung Quốc và Mỹ không ảnh hưởng đến việc song phương thảo luận các vấn đề hợp tác và tìm kiếm cơ hội để đôi bên cùng có lợi.
"Trung Quốc nhận được tiền đầu tư bởi họ là một thị trường khổng lồ. Nhưng Bắc Kinh nên nhớ quy tắc của trò chơi: Không được tấn công mạng" - bà Rice cảnh cáo.
Washington hôm 4/6 xác nhận dữ liệu cá nhân của ít nhất 4 triệu công chức đã và đang là nhân viên liên bang bị tin tặc xâm nhập.
Một số quan chức nước này tiết lộ những kẻ tấn công "ở Trung Quốc", nhưng chưa rõ vụ việc có dấu hiệu của chính phủ Trung Quốc đứng sau hay không. Bắc Kinh cũng đã lên tiếng bác bỏ cáo buộc của phía Mỹ.
Trung Quốc đem ông Tập Cận Bình ra “dọa” Mỹ
Cũng trong ngày 12, Thiếu tướng Hải quân Quan Hữu Phi - chủ nhiệm Văn phòng ngoại vụ Bộ quốc phòng Trung Quốc – đã tổ chức họp báo tại Washington công bố kết quả chuyến thăm Mỹ của phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc Phạm Trường Long.
Chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh căng thẳng Trung-Mỹ leo thang vì vấn đề Biển Đông, trong đó ông Phạm đã nhiều lần “cảnh cáo phủ đầu” Washington rằng “đừng làm gì để phá hoại chuyến thăm Mỹ của ông Tập Cận Bình”.
Tại Mỹ, Phạm Trường Long vẫn lớn tiếng rêu rao những luận điệu trắng trợn, phi lý và phi pháp của Trung Quốc đối với chủ quyền khu vực Biển Đông.
Tại Mỹ, Phạm Trường Long (trái) vẫn lớn tiếng rêu rao những luận điệu trắng trợn, phi lý và phi pháp của Trung Quốc đối với chủ quyền khu vực Biển Đông.
Phạm Trường Long cũng lớn tiếng “dọa” Mỹ rằng việc ông Tập thăm Mỹ là “đại sự hàng đầu trong quan hệ 2 nước” và yêu cầu Washington “củng cố cơ sở chứ không phải 'ném đá' phá hoại sự kiện này".
Mặc dù phía Trung Quốc vẫn báo cáo rằng "kết quả chuyến thăm của Phạm Trường Long là thành công", song thực tế là ông Phạm vẫn ngang ngược tuyên bố luận điểm xằng bậy của Bắc Kinh về vấn đề Biển Đông.
Ông này trắng trợn nói "các đảo và vùng cận hải thuộc Biển Đông thuộc chủ quyền cố hữu của Bắc Kinh từ thời xưa (mà thực tế là các đảo đá mà nước này chiếm đoạt hoàn toàn phi pháp - PV)".
Nguy hiểm hơn, Phạm Trường Long đã không che giấu "dã tâm quân sự" trên các đảo nhân tạo mà Trung Quốc xây dựng trái phép khi ngang ngược tuyên bố "việc Trung Quốc thiết lập khí tài, thiết bị quân sự trên các đảo đá (phi pháp-PV) không có gì phải bàn cãi".
Đáp trả lại phát ngôn vô lý này, ông Ashton Carter cũng liên tiếp chỉ trích Trung Quốc về các công trình mở rộng, bồi đắp các đảo thuộc quần đảo Trường Sa và tái khẳng định lập trường kiên quyết của Washington, yêu cầu Bắc Kinh "ngừng ngay hoạt động xây đảo trái phép".
Nguồn: Soha/ theo Đại Lộ

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trung Quốc dùng kế ‘không đánh mà thắng’ của Tôn Tử trên Biển Đông


(TNO) “Trung Quốc đang theo đuổi một chiến lược dựa trên những nguyên tắc rất khác biệt so với suy nghĩ truyền thống của phương Tây. Triết lý cơ bản đằng sau chiến lược này có thể được tìm thấy trong Binh pháp Tôn Tử . Đó là ý tưởng “không đánh mà thắng”, tiến sĩ Alexander Vuving phân tích.
Tiến sĩ Alexander Vuving, chuyên gia nổi tiếng chuyên nghiên cứu các lãnh vực về an ninh châu Á, Đông Nam Á, Trung Quốc, Việt Nam và Biển Đông, ông hiện là Phó Giáo sư tại trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương tại Honolulu, Mỹ.

Thanh Niên Online xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc bài phỏng vấn tiến sĩ Alexander Vuving được Patrick Renz và Frauke Heidemann của chuyên trang IR.asia thực hiện. Cuộc phỏng vấn xoay quanh vấn đề Biển Đông, từ các hoạt động lấn biển xây đảo mà Trung Quốc đang tiến hành đến các vụ kiện được đưa ra, các cội nguồn lịch sử của các tranh chấp lãnh thổ này, và quan hệ Mỹ – Trung Quốc. 


Bài trả lời phỏng vấn đã được TS. Alexander Vuving hiệu đính để dành cho độc giả Việt Nam.

– Các hoạt động cải tạo các bãi đá mà Trung Quốc đang tiến hành không phải là một hiện tượng mới khi các nước láng giềng khác cũng đã xây dựng các công trình kiến trúc khác tại đây. Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng mặc dù các hoạt động cải tạo của Trung Quốc đang diễn ra trên một quy mô khác, chúng vẫn không cộng thêm giá trị chiến lược nào vào một kịch bản xung đột vốn dĩ bao gồm cả Mỹ.
Hơn nữa, từ góc độ pháp lý, Trung Quốc không thể đưa ra yêu sách trong một phiên toà rằng những tảng đá hoặc rạn san hô đó nay đã có tư cách như một hòn đảo dựa theo UNCLOS. Ông có cho rằng có một lý do khác đằng sau hay đó chỉ là một trò chơi quyền lực của Trung Quốc?
– TS. Alexander Vuving: Chúng ta cần phải nhìn vào việc lấn biển xây đảo mà Trung Quốc đang tiến hành trên Biển Đông từ một góc độ khác hơn so với cách tiếp cận thông thường vốn dĩ tập trung vào các hệ quả về mặt quân sự và pháp lý của các hoạt động này. Trung Quốc đang theo đuổi một chiến lược dựa trên những nguyên tắc rất khác biệt so với suy nghĩ truyền thống của phương Tây. Triết lý cơ bản đằng sau chiến lược này có thể được tìm thấy trong Binh pháp Tôn Tử . Đó là ý tưởng “không đánh mà thắng”.
Vì vậy, trong khi Trung Quốc rõ ràng là muốn giành chiến thắng trong cuộc chơi, họ muốn đạt được mục tiêu của mình mà không hề phải dùng đến các hành động quân sự. Các hoạt động của Trung Quốc trên Biển Đông, từ việc lấn biển xây đảo cho đến việc sử dụng Quân Giải phóng Nhân dân cũng như các lực lượng phi quân sự và chiến tranh pháp lý, là các yếu tố của chiến lược “không đánh mà thắng” này.
Bạn sẽ lạc hướng nếu nhìn vào những gì Trung Quốc đang làm ở Biển Đông và tìm xem chúng có ý nghĩa gì trong một cuộc chiến. Bạn cũng sẽ lạc hướng nếu cứ chăm chăm vào việc tìm hiểu ý nghĩa pháp lý của công việc này. Bởi vì những hòn đá Trung Quốc đang xây dựng thực tế là đá chìm dưới nước và không phải là đảo nên do đó không thể tạo ra một khu vực đặc quyền kinh tế (EEZ).
Những gì Trung Quốc đang làm hiện nay là thiết lập nhiều vị trí khác nhau trên Biển Đông và xây dựng chúng thành  những điểm kiểm soát vững chắc. Trung Quốc muốn tạo ra một tình huống mà khi mọi người nhìn vào thiên hướng của nó, họ sẽ phải nghĩ rằng Trung Quốc cuối cùng sẽ là kẻ chiến thắng. Từ đó, các quốc gia khác sẽ thấy tốt nhất là không nên khiêu khích Trung Quốc, nên từ bỏ cuộc chơi để tránh đụng độ với kẻ cuối cùng sẽ chiến thắng. Đây chính là triết lý cơ bản của Trung Quốc.
Trung Quốc đang lấn biển tạo đảo và xây dựng các phương tiện lưỡng dụng, phục vụ cho cả mục đích quân sự và dân sự. Bến cảng có thể được ngư dân sử dụng, nhưng cũng có thể là phương tiện cho các lực lượng cảnh sát biển và quân sự. Trung Quốc biện luận rằng các đường băng là cần thiết để hỗ trợ người dân trên đảo nhưng với độ dài khoảng 3.000 m thì đường băng trên đá Chữ Thập đủ dài cho các máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư của họ sử dụng.
Một số luận điểm mà ta thường nghe, cho rằng nếu Trung Quốc đặt các cơ sở quân sự trên những hòn đảo nhỏ này, chúng sẽ trở nên dễ bị tổn hại nếu chiến tranh xảy ra. Nhưng Trung Quốc không chuẩn bị cho chiến tranh. Họ đang chuẩn bị cho hòa bình, họ đang chuẩn bị cho chiến thắng mà không cần chiến đấu. Không ai muốn chiến tranh với Trung Quốc và Trung Quốc không chuẩn bị cho thời điểm có chiến tranh thật sự trên biển giữa các hòn đảo này với đất liền của Việt Nam, Philippines hay Malaysia.
Nhìn từ các quốc gia như Việt Nam, Malaysia hay Philippines, các căn cứ quân sự và các trung tâm hậu cần của Trung Quốc sẽ ở ngay  trước mũi họ, ngay phía bên kia biển. Điều này làm tăng đáng kể khả năng Trung Quốc kiểm soát Biển Đông ngay cả khi họ không đụng độ quân sự. Bởi vì chúng khiến thay đổi tính toán của các bên yêu sách khác khi ưu thế của Trung Quốc ngày càng tăng. Bằng cách này, Trung Quốc đang thiết lập một đấu trường mà nó sẽ làm thay đổi từ trong tâm lý các tính toán chiến lược của các quốc gia trong khu vực.
Nếu mọi người nhìn vào Biển Đông trong mười năm tới, họ sẽ nhìn thấy một khu vực đầy các căn cứ, các trung tâm hậu cần và các điểm kiểm soát hùng mạnh, và họ có thể kết luận rằng Trung Quốc đã là thế lực thống trị tại Biển Đông rồi. Trong khi đó, Mỹ lại ở xa, không có bất kỳ căn cứ nào tại đây, nên khi xảy ra đụng độ thực sự, Trung Quốc sẽ đủ sức áp đảo các bên tranh chấp khác.
Một khía cạnh khác là những hệ quả pháp lý của việc xây đảo. Rõ ràng, điều 121 của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển nói rằng một hòn đảo là một vùng đất tự nhiên nổi trên mặt nước khi triều cao . Nếu quốc gia nào muốn có một vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý từ một thực thể địa lý trên biển, thực thể này phải được phân loại là một hòn đảo. Hơn thế nữa hòn đảo này còn phải có khả năng duy trì cuộc sống của con người ở đó và có đời sống kinh tế của riêng nó.
Bây giờ, những gì Trung Quốc đang làm là biến những bãi đá, chủ yếu là chìm dưới nước từ hàng thập kỷ trước, thành các hòn đảo. Mặc dù một tòa án có thể lập luận rằng những hòn đảo này không phải là đảo được hình thành tự nhiên bởi trước đó chúng đã từng ngập trong nước, việc khiếu kiện sẽ là một quá trình rất phức tạp và kéo dài. Trung Quốc không chuẩn bị cho điều này, họ ngay từ đầu đã từ chối đi đến tòa án.
Thay vào đó, họ [Trung Quốc – BTV] đang sáng tạo ra những thực tế mới để có thể yêu sách rằng đây là những hòn đảo và tạo ra một vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý.
Trước đây đã từng có những vụ việc tương tự. Việc Nhật xây dựng ở  Okinotori-shima là tiền đề cho việc biến các đá này thành đảo và đưa ra yêu sách vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý xung quanh các thực thể đó, mặc dù Trung Quốc và Hàn Quốc chỉ nhìn nhận nó là đá.
Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu trong vài năm tới Trung Quốc sẽ đưa ra yêu sách các thực thể mà họ chiếm đóng ở Trường Sa là những hòn đảo và chúng có vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý. Điều này là không hợp pháp và các nước khác sẽ phản đối yêu sách đó.
Tuy nhiên, trước khi anh ra toà thì anh không có một phán quyết cuối cùng về việc thực thể đó là đá hay đảo và liệu thực thể đó có đủ tư cách để có vùng đặc quyền kinh tế hay không. Và khi đó chủ thể mạnh nhất trong khu vực sẽ làm chủ tình hình và có thể thực thi các yêu sách đơn phương của họ. Trung Quốc là quốc gia mạnh nhất và về mặt lý thuyết họ có thể làm điều này.
Điều này cũng tương tự như với đường lưỡi bò . Đường lưỡi bò có lẽ là điều vô lý nhất trong các vấn đề pháp lý quốc tế. Nhưng Trung Quốc nói rằng đường lưỡi bò này tồn tại trên biển Đông, và họ thực thi nó.
Bộ Ngoại giao Mỹ vừa công bố một nghiên cứu về đường lưỡi bò này. Một lý do mà họ [Mỹ – BTV] làm như vậy theo tôi là nhằm phơi bày sự thiếu nhất quán trong yêu sách đường lưỡi bò của Trung Quốc khi có nhiều phiên bản khác nhau của yêu sách này.
Việc so sánh các phiên bản khác nhau này chỉ ra cho cả thế giới thấy điều này thậm chí còn vô lý hơn. Nhưng một lần nữa hành động này của người Mỹ phản ánh một cách nhìn quá ư “pháp lý chủ nghĩa”. Những gì Trung Quốc đang làm là khác hẳn. Chúng mang nhiều ý nghĩa thực tế và lịch sử hơn là ý nghĩa pháp lý. Điều này cũng liên quan đến lập luận của Trung Quốc về các quyền lịch sử và các vùng nước lịch sử của họ tại Biển Đông.
– Trong bối cảnh này, từ góc độ một người ngoài cuộc sẽ luôn cảm thấy thú vị khi quan sát vai trò thực tế thật nhỏ bé của các nước ASEAN so với tiềm năng mà lẽ ra nó có thể đảm nhận. Ông có thấy bất kỳ cơ hội nào cho việc thay đổi vai trò lãnh đạo trong nội khối ASEAN và phải chăng các hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông sẽ đưa đến một ASEAN năng động hơn không?
– TS. Alexander Vuving: ASEAN đang chia rẽ sâu sắc trong vấn đề Biển Đông. Gần đây Campuchia chấp nhận quan điểm của Trung Quốc trên Biển Đông rằng tranh chấp này là một vấn đề song phương giữa các bên yêu sách, không liên quan đến ASEAN .
Nếu bạn biết rằng các nước thành viên như Campuchia, Lào và Brunei đang chịu ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc, thì ASEAN, vốn là một tổ chức hoạt động trên nguyên tắc đồng thuận, không thể có bất kì tiến triển nào trong vấn đề này. Với ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc, vai trò của ASEAN về vấn đề Biển Đông sẽ ngày càng suy giảm.
Tôi có thể tưởng tượng một vài “tiểu ASEAN” được dàn xếp giữa một số các thành viên của ASEAN như Việt Nam, Philippines và có lẽ trong tương lai xa là Malaysia, Indonesia và Singapore, và điều này có thể tạo ra một số tác động lên tranh chấp ở Biển Đông. Nhưng ASEAN với tư cách là một tổ chức sẽ ngày càng trở nên kém thích hợp chính vì sự chia rẽ này.
– Vì vậy, các quốc gia có hai lựa chọn: chờ đợi cho các sách lược của Trung Quốc trở thành hiện thực hoặc buộc phải đến gần hơn với Mỹ?
– TS. Alexander Vuving: Các quốc gia đang phải đối mặt với những thách thức của Trung Quốc ở Biển Đông không ngồi yên. Song song với chiến lược “lát cắt xúc xích” của Trung Quốc ở Biển Đông, chúng ta cũng đang chứng kiến một sự gia tăng từng bước tương tự của việc thắt chặt quan hệ và xây dựng liên minh giữa các quốc gia đang phải đối mặt với cùng một thách thức từ Trung Quốc: đó là Việt Nam, Philippines ở bên trong khu vực Đông Nam Á và Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ ở bên ngoài khu vực.
Cùng với cả các nước như Indonesia, Singapore và Úc, các nước vốn chia sẻ một số lợi ích đối với các nhóm các quốc gia nòng cốt trong việc chống lại sự bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông và Biển Hoa Đông, các nước này đang đến gần nhau hơn. Có một tiến trình chung đó là việc thắt chặt quan hệ giữa các quốc gia này, đặc biệt là Philippines, Việt Nam, Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ.
– Ông có cho rằng có hy vọng nào cho các yêu sách pháp lý của các nước đang có cùng tranh chấp trên Biển Đông chống lại Trung Quốc để có thể gây ra ảnh hưởng hay nó chỉ là một sự phản đối mang tính biểu tượng nhiều hơn khi Trung Quốc đang phản đối việc phân xử của toà án trong vấn đề này?
– TS. Alexander Vuving: Điều này sẽ có một số tác động. Bất kỳ thách thức pháp lý nào chống lại quan điểm của Trung Quốc ở Biển Đông đều sẽ có tác động, mặc dù chúng ta không chắc chắn về mức độ và thời gian của nó. Đây không chỉ là một cử chỉ tượng trưng vì nó sẽ ảnh hưởng đến quan điểm của dòng chính trên thế giới.
Việc thu hút dư luận thế giới, tức là các quan điểm chủ đạo của đa số mọi người trên các phương tiện truyền thông quốc tế, là rất quan trọng. Nếu Trung Quốc phải đối mặt với một quan điểm rất bất lợi, điều này sẽ đặt áp lực lên Trung Quốc buộc họ phản ứng.
Ví dụ như trong vụ kiện mà Philippines đã khởi xướng, tòa án sẽ quyết định về việc có nên đưa ra bản án hay không. Mặc dù bản án mà tòa có thể đưa ra sẽ không được Trung Quốc thi hành trong thực tế, nó vẫn sẽ tác động đến dư luận thế giới.
Bất cứ điều gì mà tòa án đưa ra sẽ được xem là sự thật hoặc ít nhất cũng được xem là phán quyết có thẩm quyền nhất trong tranh chấp này. Nếu tòa án nói rằng đường lưỡi bò là bất hợp pháp, Trung Quốc sẽ phải đối mặt với áp lực tăng cao từ dư luận thế giới.
Vì vậy, mặc dù Trung Quốc không chấp nhận phán quyết của tòa án và chỉ trích phiên tòa này thì đối với phần còn lại của thế giới, Trung Quốc là phía làm sai. Điều tương tự cũng sẽ diễn ra với bất kỳ hành động pháp lý nào mà các quốc gia khác có thể tiến hành chống Trung Quốc tại Biển Đông.
(còn tiếp..)
Thiên Hương
(Dự án Đại sự ký Biển Đông)
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ai đang nắm giữ “nỏ thần” của Việt Nam?


Nhân Tâm - 
Với truyền thống một dân tộc bất khuất, anh hùng. Nắm giữ vị trí trọng yếu của khu vực và là một quốc gia có nhiều ảnh hưởng nhất trong thế kỷ 20… Vì sao chúng ta vẫn chỉ là một nước nhỏ?

Việt Nam là một quốc gia sở hữu nhiều thế mạnh về địa chính trị, tài nguyên và đặc biệt là con người, người Việt chúng ta luôn được bạn bè năm châu nhận định là có nhiều đặc tính mà các dân tộc khác hiếm thấy như sự thông minh, tính cần cù và đặc biệt là sự quyết tâm vượt bậc để vươn lên trên mọi hoàn cảnh… Thế nhưng, đất nước chúng ta lại chỉ là một quốc gia bé nhỏ, vừa đưa mình khỏi lằn ranh thu nhập thấp và còn rất xa để tự hào một đất nước văn minh hiện đại. Phải chăng một lý do vô hình nào đó đã cản bước tiến của một dân tộc vĩ đại vẫn đang hiện hữu mà ngay chúng ta và cả những người lãnh đạo nắm vận mệnh của đất nước mãi vẫn chưa nhận ra?

Không quá khó để tìm ra câu trả lời. Nếu đem câu “Vì sao Việt Nam mãi chưa phát triển?” hỏi khắp nơi, chúng ta sẽ có được một số ít câu trả lời nhất định. Chú xe ôm, cô hàng chợ sẽ cho biết rằng lý do vì tham nhũng quá nhiều, tiền ngân sách nhà nước lọt vào túi riêng của không ít người có quyền, có chức. Một doanh nhân sẽ cho biết tình trạng nhũng nhiễu, chính sách bất cập mà doanh nghiệp không thể đẩy mạnh phát triển. Một lãnh đạo địa phương sẽ tiết lộ đó là do cơ chế, có nhiều điều muốn làm mà không được…

Vậy phải chăng những người lãnh đạo đất nước, những con người nắm quyền trong việc hoạch định và giám sát đất nước như Đại biểu Quốc hội, Ủy viên Trung ương Đảng hay thậm chí là tối cao quyền lực như các vị Ủy viên Bộ Chính trị không nhận ra? Cá nhân tôi thì cho rằng chắc chắn là họ, những người ở thượng tầng lãnh đạo, không những biết rõ mà còn rất sớm đã nhận ra sự cấp bách của vấn đề. Thế thì tại sao khi đã biết quá rõ chúng ta lại chưa thể có cách khắc phục một cách triệt để?

Chúng ta đã có nhiều chính sách, nhiều kế hoạch, nghị quyết được đưa ra, thảo luận mãi từ diễn đàn Quốc hội cho đến các cuộc họp Hội nghị Trung ương. Giải pháp thì đã có, thế nhưng, thực hiện được nó hay không lại là một việc khác.

Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị năm 2013 về Hội nhập quốc tế thực chất là một nghị quyết rõ nét nhất về phương hướng phát triển kinh tế, giảm lệ thuộc về kinh tế, thoát khỏi vòng kìm kẹp về kinh tế bằng cách hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới với các định chế khu vực như ASEAN hay thế giới như TPP mà sắp tới chúng ta sẽ tham gia. Đây được xem là nghị quyết mở đường cho việc ta đã ký kết được rất nhiều Hiệp định FTA gần đây với Nhật Bản, Hàn Quốc và cả Liên minh kinh tế Á-Âu.

Thế nhưng, bên cạnh những nỗ lực không ngừng của một số lãnh đạo trong việc định hướng kinh tế, xây dựng và phát triển đất nước theo hướng độc lập, tự chủ thì cũng không thiếu những dự án thấp thoáng hình bóng thao túng của người láng giềng. Chính sự “bạc nhược” này đã kiềm hãm sự phát triển của đất nước, vô hình chung cứ mãi dẫn dắt đất nước đi theo lối mòn cũ – mặc dù tư duy của chúng ta đã đổi mới gần được 30 năm nay.

Gần đây nhất có thể kể đến Dự án Đường sắt đô thị tuyến Cát Linh – Hà Đông của TP Hà Nội với đơn vị Tổng thầu đã gây ra nhiều bức xúc cho người dân từ việc thi công xảy ra nhiều tai nạn chết người cho đến chi phí khổng lồ của việc đặt mua 13 đoàn tàu. Nói về vấn đề này, ngay cả Bộ trưởng Bộ GTVT Đinh La Thăng cũng phải đau đớn giải bày: “Nhà thầu Trung Quốc rất yếu kém, nhiều lần tôi muốn thay thế song không thể vì ràng buộc các điều kiện hiệp định vay vốn. Do đó, rất mong mọi người chia sẻ”.

Từ câu nói của Bộ trưởng Thăng, có thể thấy được sự ảnh hưởng của láng giềng đến nền kinh tế chúng ta đã, đang và sẽ còn tồn tại rất lớn, không chỉ từ những thương lái đang ngày đêm tàn phá nông thôn mà thậm chí cả thượng tầng kinh tế nước nhà.

Bài toán khó này một lần nữa lại phải chuyển về những người đứng đầu Đảng, những người đã được pháp điển vào Điều 4 Hiến pháp năm 2013 mang trọng trách lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Những người mà Khoản 2, Điều 9 Điều Lệ Đảng đã nêu rõ là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng.

Phải chăng tư duy chúng ta đã có, “nỏ thần” chúng ta cũng đang cầm, thế nhưng chúng ta chưa đủ can đảm để trao “nỏ thần” này mà cứ khư khư giữ lấy với nguyên tắc “tập thể lãnh đạo” nên mới khiến nước nhà lâm vào “vòng vây” như hiện nay.

Và tôi, một người Đảng viên với hơn 30 năm theo Đảng, xin gửi bài toán này đến với những vị Ủy viên Ban Chấp hành Trung Ương Đảng hiện nay cũng như những vị Ủy viên Ban Chấp hành Trung Ương Đảng khóa XII sắp tới. Tôi kỳ vọng chúng ta sẽ có đủ bản lĩnh chính trị với tư duy mới, sẽ can đảm trao “nỏ thần” này cho vị tướng tài cũng như thần Kim Quy trong truyền thuyết đã từng trao móng-một phần cơ thể của mình-cho vị vua An Dương Vương để làm ra chiếc nỏ liên châu hùng bá một thời, đánh bại giặc xâm lược phương Bắc.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

VỀ MẤY SỰ KIỆN LIÊN QUAN ĐẾN MẠC ĐĂNG DUNG

Mạc Văn Trang


Chân dung Mạc Thái tổ (Mạc Đăng Dung) qua nét vẽ nét khắc đời sau. Tranh do Tễu Blog tìm trên mạng và đưa vào trình bày với bài viết.

TRAO ĐỔI VỀ MẤY SỰ KIỆN LIÊN QUAN 
ĐẾN MẠC ĐĂNG DUNG

Mạc Văn Trang

Lời dẫn của tác giả: Đây là bài viết trao đổi với tác giả LM từ năm 2011. Nay nhân việc UBND TP Hà Nội hỏi dân về vấn đề đặt tên đường Mạc Thái tổ, đành đưa lại để bà con tham khảo. Thực lòng chẳng muốn nói về tổ tiên mình làm gì, để các cụ được an nghỉ!.

1.  Cần thoát khỏi định kiến để nhìn nhận khách quan, công minh hơn
  
Về điểm này, Nhà sử học LÊ VĂN HÒE đã đề cập từ lâu: “… Cái khuyết điểm lớn nhất của cuốn “Việt Nam sử lược” (của Trần Trọng Kim) là ở chỗ đã nặng lời biếm nhục Mạc Đăng Dung - vua Thái Tổ nhà Mạc… Sự thật khác hẳn. Mạc Đăng Dung bị hiểu lầm. Mạc Đăng Dung là một người anh hùng lập thân trong thời loạn. Mạc Đăng Dung là người yêu nước thương dân. Mạc Đăng Dung là người có tài ngoại giao” (Hồ Quý Ly-Mạc Đăng Dung, Quốc học thư xã, Hà Nội-1959, tr. 25).

GS PHAN HUY LÊ - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam trong  Báo cáo Tổng kết Hội thảo về Vương triều Mạc tại Hải Phòng ngày 18/7/1994 đã viết: “…Đã đến lúc chúng ta phải thay đổi về cách đánh giá các chính sách đối nội và đối ngoại của nhà Mạc. Không nên đánh giá nặng nề về nhà Mạc như trước đây do nhận thức của một số người nghiên cứu còn hạn chế”…. (Trích tổng kết Hội thảo về Vương triều Mạc tại Hải Phòng ngày 18/7/1994).

2. MẠC ĐĂNG DUNG lên ngôi thay nhà Lê 
là tất yếu khách quan và sự tiến bộ của lịch sử. 
  
Đọc Đại Việt Sử ký toàn thư (trọn bộ -  NXB Thời Đại, 2011)) từ trang 761 đến trang 823, mô tả từ khi vua UY MỤC lên ngôi (1505) đến khi Mạc Đăng Dung lên ngôi (1527), trong vòng 20 năm, tình hình nước Đại Việt vô cùng bê bối.  Tầng lớp thống trị nhà Lê lúc này sống cực kỳ xa hoa truỵ lạc, nay xây cung điện, mai dựng lâu đài hàng trăm nóc, hao tài tốn của, hại sức dân. Vua Uy Mục vừa lên ngôi (1505-1509) đã giết bà nội là Thái Hoàng Thái Hậu và 2 quan đại thần là Đàm Văn Lễ, Nguyễn Quang Bật vì những người này không chịu lập mình làm vua. Tàn ác đến như vậy mà lại còn đắm say tửu sắc… Vua Tương Dực tự lập làm vua (1510-1516) cũng lại giết vua Uy Mục và hoàng hậu Trần Thị, và rồi cũng miệt mài trong những cuộc truy hoan xa xỉ. Nhân dân gọi mỉa mai đó là Vua Quỷ, Vua Lợn. Tiếp đến Trịnh Duy Sản giết vua Tương Dực, lập Mục Ý Vương mới 8 tuổi lên làm vua được 3 ngày thì Quang Trị bị Trịnh Duy Đại là anh của Trịnh Duy Sản bắt vào Tây đô (Thanh Hoá) rồi mấy ngày sau bị giết. Trịnh Duy Sản lập Cẩm Giang Vương tên là Ý, tức vua Chiêu Tông (1516-1522). Vua mới còn non trẻ chưa quyết đoán được việc nước. Triều thần cậy công lao, mỗi người đóng quân một nơi chống cự nhau, vua bất lực. Vua không ra vua, quan lại thì tham nhũng, chiếm đoạt ruộng đất của dân, tô cao thuế nặng, lao dịch đè nặng, trong khi nạn lụt, mất mùa, đói kém xảy ra năm liền năm. Đời sống nhân dân ngày càng tối tắm cơ cực. Lương Đắc Bằng đã có hịch kể tội như sau: “Tước đã hết, mà lạm thưởng không hết. Dân đã cùng, mà lạm thu không cùng. Thu thuế đến tơ tóc, mà dùng của như bùn đất. Bạo ngược như Tần Chính, đãi công thần như chó ngựa, coi dân chúng như cỏ rác…” (Đại Việt Sử ký toàn thư (trọn bộ), NXB Thời Đại, 2011, tr. 769).

Cũng vì vậy, các cuộc bạo động của nông dân đã nổ ra từ năm 1511 đến năm 1522 trên một địa bàn rộng lớn: Hưng Hoá và Sơn Tây (Hà Tây, Vĩnh Phú) nghĩa quân của Trần Tuân đông hàng vạn người đã từng uy hiếp kinh thành Thăng Long. Nghệ An có Lê Hy, Trịnh Hưng, Lê Minh Triệt tấn công ra Thanh Hoá. Thanh Hoá có Đặng Hân, Lê Cật. Vĩnh Phú có Trần Công Ninh – Đông Triều (Quảng Ninh ) có Trần Cao, 3 lần tiến công Thăng Long, khiến vua quan nhà Lê phải bỏ kinh thành chạy vào Thanh Hoá. Nguyễn Hoằng Dụ và Trịnh Tuy cậy công dẹp được Trần Cảo sinh ra mâu thuẫn, Trần Chân bênh Trịnh Tuy, vua ngờ Trần Chân mưu phản loạn, sai đóng cửa thành bắt giết đi, Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng, là tướng của Trần Chân nghe tin đem quân về đánh kinh thành. Vua phải lánh mình sang Gia Lâm rồi sai người vào Thanh Hoá vời Nguyễn Hoằng Dụ ba lần không được… Triều đình ruỗng nát, có nguy cơ đứng trên bờ vực thẳm của sự diệt vong. Ai là người đứng ra gánh chịu trọng trách ổn định triều chính, an dân đây? 

Trong bối cảnh đó MẠC ĐĂNG DUNG đã trung thành, tận tâm, tân lực suốt 16 năm chèo chống, cố giữ triều Lê nhưng không sao dựng lên được. Cuối cùng ông phải nhận “sứ mệnh của lịch sử” để lên ngôi gây dựng lại triều chính, yên dân trăm họ. Mặc dù một số cưu thần nhà Lê vẫn phản ứng gay gắt, nhưng đa số đã hợp tác với nhà Mạc. Và quan trọng là “Bấy giờ thần dân trong nước đều theo Mạc Đăng dung, đều đón vào kinh sư”. (Đại Việt SKTT, đã dẫn, tr. 822). Và những thành tựu về kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục, an ninh xã hội, chấn hưng Phật giáo… đã được các nhà nghiên cứu khẳng định. “Dương Văn An viết trong Lời nói đầu sách Ô châu cận lục: “Với triều Mạc, sự thông thái đã được lập lại, Trời và Đất đã hoà hợp, thực sự đây là thời kỳ của phồn vinh, Thượng đế đã quay về” ( K. W.  Tailor và John K. Whitmore: Tiểu luận về quá khứ của Việt Nam, Trường Đaị học Cornell, USA, 1995, tr. 123 - Trích theo Phan Đăng Nhật – 6/2011)

3. Nhà Lê hay nhà Mạc cầu viện nhà Minh, nhà Thanh? 
  
GS TSKH PHAN ĐĂNG NHẬT đã phân tích: … “Rất nhiều lần phái đoàn vua Lê hoặc bề tôi cũ của nhà Lê đi sang Trung Quốc để tố cáo nhà Mac, kích động chiến tranh của nhà Minh. Riêng năm 1537 liên tiếp có 3 lần (kể cả trường hợp Vũ Văn Uyên):

- “Năm 1529, Trịnh Ngung, bề tôi cũ của nhà Lê đã sang Trung quốc để tố cáo việc cướp ngôi của Mạc Đăng Dung”5

- “Ngay sau khi trung hưng triều Lê, năm 1533, Trịnh Duy Liêu liền được cử đi Trung Quốc để tiếp tục tố cáo việc cướp ngôi của Mạc Đăng  Dung” 

- “Ngày 3 tháng 2 năm Gia Tĩnh thứ 16 (13-3-1537 ), cháu dòng đích của vua An Nam tên là Lê Ninh (Trang Tông) sai người trong nước là bọn Trịnh Duy Liêu gồm 10 người đến kinh đô ….xin hưng binh hỏi tội để cứu nguy nạn nước”   

- “Tháng 6 năm 1537, phái bộ của Trịnh Duy Liêu do triều đình Lê phái sang Yên Kinh”.    
  
- “Ngày 6 tháng 9 năm Gia Tĩnh thứ 16 (9-10-1537). Trước đó người Giao Chỉ Vũ Văn Uyên mang đồng đảng đến hàng… Văn Uyên có 10.000 quân, đợi thiên binh xuống phía Nam, sai cháu là Vũ Tử Lăng đóng tại cửa ải Thạch Lang để nhập theo” 
   
“Tóm lại, âm mưu của phong kiến nhà Lê “cõng rắn”, “rước voi” rất dai dẳng, quyết liệt. Hơn nữa, không những chỉ van xin, mà còn ra sức tạo điều kiện vật chất, cụ thể để quân Minh nhanh chóng và thuận lợi kéo sang đánh ta”… “Nhờ đâu mà đập tan được âm mưu nhà Lê cầu xin  Minh, đẩy lùi được quyết tâm xâm lược sắt đá của nhà Minh?”

- “Trước hết là ý chí của nhà Mạc, bằng mọi giá không cho giặc đặt chân vào đất nước ta, như Mạc Ngọc Liễn là Đô uý thái phó Đà Quốc công, đồng thời là phò mã, khi lâm chung có di chúc lại: “....Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”18  Mạc Ngọc Liễn không phát ngôn ý kiến cá nhân mà tuyên bố tư tưởng lớn của nhà Mạc. Đinh Khắc Thuân nhận định đúng như vậy: “Lời trăng trối   này của Mạc Ngọc Liễn cũng chính là ý nguyện của nhà Mạc nhằm tránh một cuộc chiến tranh với ngoại bang.”  

(Xem cuốn: “Nhà Mạc và Họ Mạc, ý chí và mục tiêu chiến lược, 
NXB Dân Trí, HN, 2011) 

4. Nhà Mạc có dâng đất cho nhà Minh không?
 
Đây là vấn đề nhiêu sử gia đã nói rõ. TS ĐINH KHẮC THUÂN khi làm luận án TS về nhà Mạc tại Pháp, đã nghiên cứu nguồn sử liệu của nhà Minh Trung Quốc và làm rõ nhiều điều: “…Cũng qua các sự kiện này, ta thấy Mạc Đăng Dung không hề cắt đất cho nhà Minh. Sự thực bốn động Tư Lẫm, Cổ Sâm, Liễu Cát, Kim Lặc thuộc hai đô (tức hai tổng Như Tích và Chiêm Lãng mà các động trưởng Hoàng Kim Quảng, Hoàng Khoan, Hoàng Tử Kiều và Hoàng Kiện từng về với nhà Lê sau chiến thắng chống ngoại xâm của Lê Lợi (1427) và sau đó con cháu họ đã nhập vào sổ quan nhà Minh sau khi nhà Mạc thay thế nhà Lê (1527). Có nghĩa là nhà Mạc chưa kịp nắm các động trưởng này thì họ đã bỏ theo nhà Minh rồi. Các nguồn sử liệu trên còn cho biết bốn động này vào năm Tuyên Đức 2 (1427) có 29 thôn, 292 hộ (Khâm Châu chí, quyển 9, tờ 10a-11b)”.

“Ngoài nguồn sử liệu liên quan đến một số sự kiện chính trị như vừa nêu ở trên, còn có một số tài liệu liên quan đến địa chí, tổ chức hành chính, chức quan sản vật… Đó là An Nam đồ thuyết và An Nam đồ chí. An Nam đồ thuyết do Trịnh Nhược Tăng biên soạn vào cuối thế kỷ XVI, được in lại trong Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu, năm Nhâm thân (1932), chương 69, tr 473-548” (Xem bài “SỬ LIỆU TRUNG QUỐC VỀ VIỆT NAM THỜI NHÀ MẠC Thông báo Hán Nôm học 2000, tr.501-507).
 
Cũng xin nói thêm: Trong Hội thảo Vương triều Mạc thời kỳ Cao Bằng (6/2011), nhiều người đã trao đổi, suốt hơn 90 năm tồn tại ở Cao Bằng, nhà Mạc đã không làm mất một tấc đất của Tổ quốc ta vào tay Trung Hoa, Ải Nam Quan, thác Bản Giốc vẫn nguyên vẹn; không có quan, quân Trung Quốc nào qua biên giới sang đóng Việt Nam…

 Các công trình nghiên cứu mới xuất bản về Nhà Mạc, triều Mạc 

5. Vấn đề chính sách đối ngoại của nhà Mạc và việc đầu hàng nhà Minh,
 
Năm 1994 Hội khoa học Lịch sử Việt Nam phối hợp với Viện Sử học, UBND Thành Phố Hải Phòng tổ chức hội thảo khoa học về vương triều Mạc. Trong bài tổng kết hội thảo giáo sư PHAN HUY LÊ khẳng định “Đã đến lúc chúng ta phải thay đổi về cách đánh giá các chính sách đối nội và đối ngoại của nhà Mạc”.  

Nhà nghiên cứu NGUYỄN MINH TƯỜNG đã khẳng định: “ Với hành động chịu nhẫn nhục của mình, Mạc Đăng Dung không chỉ tạo cho các tướng Cừu Loan, Mao Bá Ôn cái cớ để rút quân  mà còn làm nguội đi cái đầu bốc lửa của vị hoàng đế Trung Hoa lúc nào cũng sẵn sàng cử binh sát phạt các nước chư hầu”(6). (Quan hệ giữa nhà Mạc và nhà Minh thế kỉ XVI”,Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6, năm 1991) 

 GS TRẦN QUỐC VƯƠNG cũng phân tích: “Hành động “đầu hàng” của nhà Mạc do Minh sử chép là một sự phóng đại để khoe khoang, hành động ấy vua Lê sau này cũng lặp lại gần nguyên xi thì lại không bị sử gia nhà Lê nêu lên để phê phán. Đó (việc làm của vua Mạc) chẳng qua là một hành động “tượng trưng”, (quàng dây lụa vào cổ, không phải là tự trói), một sự “nhún mình” (cũng có thể nói là hơi quá đáng) của một nước nhỏ đối với nước lớn trong điều kiện tương quan chính trị ngày xưa (và nên nhớ lúc ấy Mạc Đăng Dung đã thôi ngôi được 10 năm rồi và là một ông già sắp chết (từ Nam quan trở về được mấy tháng thì ông qua đời), ông già này gánh nhục cho con, cho cháu và cho cả nước mà cứ bị mang tiếng mãi!). Tất cả ứng xử của Mạc với Minh cũng chỉ nằm trong một chiến lược ngoại giao hằng xuyên của Việt nhỏ Hoa lớn “ thần phục giả vờ, độc lập thực sự” (Vassalité fidive, Indépendance réelle). Mà thực sự ở thời Mạc không có bóng một tên xâm lược nào trên đất nước ta, quan bảo hộ, dù hình thức như chức “ Đạt lỗ hoa xích” ở Thăng Long triều Trần cũng không. Thế tại sao người này thì khen là khôn khéo, người khác lại chê là hèn hạ?” (Trích bài “Mấy vấn đề về nhà Mạc” Trong cuốn “Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử”, NXB Khoa học Xã hôi, HN, 1996).
   
TS ĐINH KHẮC THUÂN có một luận án Tiến Sĩ sử học với tên là “Contribution à l’histoire de la dynastie des Mạc (1527 - 1592) du Việt Nam” do bà Claudine Salmon, giám đốc nghiên cứu hướng dẫn đã bảo vệ thành công với kết quả tối ưu (très  honarable), tại trường Cao học khoa học xã hội Pháp vào tháng 3 – 2000.

Ông đã khảo cứu công phu sử dụng nhiều tư liệu có giá  trị và đi đến kết luận về nhà Mạc như sau: “Tóm lại có 3 sự kiện nổi bật liên quan đến việc đánh giá nhà Mạc . Một là lên ngôi của Mạc Đăng Dung thường được coi là thoán đoạt, nhưng là sự “thoán đoạt”, trong lúc triều đình nhà Lê hoàn toàn suy sụp. Vì vậy cũng không nên coi hành động này của Mạc Đăng Dung là cướp ngôi . Hai là để tránh thảm hoạ chiến tranh xâm lược, nhà Mạc đã chấp nhận giải pháp đầu hàng có tính nghi thức theo yêu sách của nhà Minh. Ba là bốn động biên giới nước ta đã bị nhà Minh lấy lại thành chuyện đã rồi đối với  nhà Mạc . Mạc Đăng Dung thực sự không hề mắc tội phản quốc, trái lại đã góp phần quan trọng trong việc ổn định tình hình chính trị – xã hội trong nước cũng như tái lập quan hệ bang giao với nhà Minh” (Lịch sử triều Mạc qua thư tịch và văn bia, NXB Khoa học Xã hội, HN, 2001).

GS TSKH PHAN ĐĂNG NHẬT (sách đã dẫn) viết: “Mạc Đăng Dung thực hiện một chiến lược vừa đánh vừa hoà: 

“- Chuẩn bị đánh: “Lê triều thông sử cũng cho biết Mạc Đăng Doanh đã tu sửa trại, sách, luyện tập thuỷ quân; trưng cầu hết thảy những cựu thần lão tướng để cùng bàn việc nước”.[i] Phục chức cho Thái bảo tĩnh quốc công Vũ Hộ, cử làm tả đô đốc Đông quân  Chưởng phụ sự.”

“Thù vực chu tư lục còn cho biết triều đình nhà Minh còn tranh cãi về việc đánh hay không đánh khá gay go. Khi Mao Bá Ôn đến Nam Ninh đã thấy quân dân Việt chuẩn bị chống lại quyết liệt, lấy thuốc độc, bã đậu (12) bỏ vào suối nước, đào hố chôn cọc tre để ngựa sa hố, lại phao ngôn sẽ theo đường biển tập kích Quảng Đông. Như vậy chứng tỏ khi ấy nhà Mạc chuẩn bị sẵn sàng hai kế sách chiến và hoà” (13)

“- Lập nhiều đồn luỹ ở biên giới mà trong “Vãng giao chỉ đồ”, in ở An Nam đồ chí, nhà Minh gọi là “tặc doanh”.

“- Cho người làm nhiệm vụ tình báo “dò la bám sát các hoạt động quân sự của nhà Minh, như trường hợp tri châu Nguyễn Cảnh, năm 1537, được nhà Mạc bí mật phái sang đất Minh để thu thập tin tức bị thổ quan của Vân Nam giữ lại”(14) (PĐN- sách đã dẫn).

Tôi nghĩ, hiểu như GS TRẦN QUỐC VƯỢNG là có lý, có tình: Trong thế bị kẹt giữa “thù trong,  giặc ngoài”, MẠC ĐĂNG DUNG đã làm mọi cách để tránh cuộc tàn sát, đổ vỡ, thảm họa cho dân, cho nước kể cả gánh chịu nỗi nhục vào mình, khi nói thẳng với vua Minh: …“Thần trộm nghĩ, riêng thần là kẻ có tội, (Tội theo sớ tâu trình cầu viện của nhà Lê- MVT) còn nhân dân thì có tội gì? Bệ hạ không nỡ lấy tội của một tôi hèn mà giết hại dân chúng!”… (Trong bài HOẠT ĐỘNG SÁCH PHONG VÀ TRIỀU CỐNG TRONG QUAN HỆ BANG GIAO GIỮA TRIỀU MẠC (VIỆT NAM) VÀ TRIỀU MINH (TRUNG QUỐC) - HỆ QUẢ VÀ THỰC CHẤT -  Nguyễn Thị Mỹ Hạnh). Tấm lòng vì dân của MẠC ĐĂNG DUNG, liệu chúng ta có thấu hiểu?

Chúng ta cần hiểu hoàn cảnh của ông cha, khi đó Đại Việt chỉ có vài triệu dân, trong nước rối ren, cô lập với thế giới, phải luôn đương đầu với Trung Hoa to lớn, lúc nào cũng kiếm cớ sẵn sàng xâm lược nước ta, để thỏa mãn tham vọng bá quyền của các hoàng đế đại Hán. Đừng miệt thị ông cha ta (dù là họ nào) theo định kiến cũ. Học bài học lịch sử không phải bằng cách đó! Cần thấu hiểu rằng, bao mồ hôi, xương máu, tâm lực, trí lực và biết bao đắng cay, cả tủi nhục … ông cha ta mới khai phá, gìn giữ để lại cho chúng ta một đất nước hình chữ S như ngày nay, trong đó có ải Nam Quan, thác Bản Giốc, Hoàng Sa, Trường Sa…
 
Mạc Văn Trang
7/8/2011

Phần nhận xét hiển thị trên trang

“Việt Nam cần kiểm soát chặt chẽ cây mắc ca, tránh lặp lại sai lầm như Trung Quốc"

“Việt Nam cần kiểm soát chặt chẽ cây mắc ca, tránh lặp lại sai lầm như Trung Quốc", ông Burnett, Chủ tịch Hiệp hội mắc ca Úc- nước xuất khẩu mắc ca lớn nhất trên thế giới đưa ra lời khuyên.
Việt Nam biết chọn đúng thời điểm?
Theo ông Jolyon Burnett, Chủ tịch Hiệp hội mắc ca Úc thì Việt Nam đã rất biết chọn thời điểm phù hợp để bước chân vào thị trường hạt. Ngành hàng hạt hiện nay đang tăng trưởng mạnh, đã có những mức kỷ lục về giá và sản lượng. Trong 10 năm qua, tổng sản lượng hạt hạnh nhân tăng gấp đôi, trong khi giá trị thị trường tăng gấp 3. Tổng giá trị bán buôn hạt óc chó đã tăng gần 400%... 
Nguyên nhân là do người dân nhận thức cao hơn về giá trị dinh dưỡng của các loại hạt. Mắc ca có thể nhân rộng, phát triển ở Việt Nam là hoàn toàn hợp lý.
Ông Jolyon Burnett, Chủ tịch Hiệp hội mắc ca Úc 
Nhu cầu mắc ca trên thế giới tăng mạnh. Sản lượng mắc-ca toàn thế giới tăng 12,5% trong năm 2014 đạt 152.663 tấn (chưa tách vỏ). Cuối năm 2014, khối lượng mắc ca tồn kho của thế giới ở mức thấp và hầu như không có dự trữ cho đến khi có vụ thu hoạch năm 2015.
Doanh thu từ mắc ca chưa tách vỏ của Úc tăng hơn gấp đôi và doanh thu của Nam Phi tăng 36%.
Theo Chủ tịch Hiệp hội mắc ca Úc, năm 2015 sản lượng mắc ca sẽ tăng lên hơn 160.000 tấn. Trong 5 năm tới nguồn cung mắc ca sẽ tăng nhanh khi Nam Phi tăng sản lượng lên 80.000 tấn, Trung Quốc 50.000 tấn, Úc dự kiến 55.000 tấn và Việt Nam khoảng 10.000 tấn.
“Hiện nay Nam Phi đang đứng đầu về cung cấp sản lượng Mắc ca, tuy nhiên biết đâu khoảng 15 năm nữa, Việt Nam sẽ chiếm luôn vị trí số một vô địch này”, Chủ tịch Hiệp hội mắc ca Úc lạc quan nói.
Thị trường tiêu thụ mắc ca hiện nay chủ yếu tại tại 5 thị trường: Mỹ, Đức, Australia, Nhật Bản và Brazil (Chiếm 70% khối lượng). Trung Quốc là nước tiêu thụ lớn nhất lượng mắc-ca chưa tách vỏ, ước tính trên 90%. Trong thời gian tới thị trường có thể mở rộng sang Nga và Ấn Độ, Hàn Quốc.
Các thị trường truyền thống như Mỹ, Đức và Nhật Bản đều có tăng trưởng mặc dù giá bán ra cao. Hiện nay các loại chế phẩm từ mắc ca như đồ ăn nhẹ, sữa, bột, dầu, mỹ phẩm cũng đang cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ. Với nhu cầu tiêu thụ mắc ca hiện nay của thế giới, ông Burnett cho rằng, trong 10 năm tới, thu nhập từ mắc ca vẫn sẽ rất tốt.
Trung Quốc cũng đang ồ ạt phát triển cây mắc ca nhưng bỏ qua chất lượng giống. Ảnh Internet
Bài học từ các nước
Đánh giá cao về cơ hội  trên nhưng Chủ tịch Hiệp hội mắc ca Úc cũng khuyến cáo: Việt Nam phải luôn luôn đảm bảo tăng trưởng một cách nhanh chóng sản lượng đi kèm với chất lượng. Không thỏa hiệp chất lượng để theo đuổi thị trường. Trung Quốc là một thị trường mới nổi, diện tích mắc ca ngày càng tăng nhanh. Tuy nhiên họ đang theo đuổi khối lượng mà bỏ qua chất lượng, trồng nhiều dòng không phù hợp, bỏ qua kiểm soát chất lượng cây con khiến năng suất cây trồng thấp.
“Việt Nam cần kiểm soát chặt chẽ cây mắc ca, tránh lặp lại sai lầm như Trung Quốc. Trước hết phải xây dựng những vườn ươm chuyên nghiệp. Chính phủ cần hỗ trợ để có những bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng, cung cấp hướng dẫn cho người nông dân biết thế nào là cây tốt, đảm bảo mỗi cây khi trồng phải cho chất lượng tốt nhất bởi cây mắc ca tồn tại trong vòng 40 năm. Hơn nữa chất lượng mắc ca phụ thuộc vào chất lượng giống đầu vào chứ không phải nhờ công nghệ chế biến”, ông Burnett đưa ra lời khuyên.
Ngoài ra ông cũng cho rằng, việc thu hoạch mắc ca tại Việt Nam hiện nay chủ yếu bằng tay, điều này sẽ đội lên chi phí lao động. Những người trồng mắc ca ở Việt Nam nên sang Úc để thăm quan các trang trại, cơ sở chế biến mắc ca tại Úc. Chủ tịch Hiệp hội mắc Úc hứa sẽ sẵn lòng chia sẻ kinh nghiệm với nông dân, doanh nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, sau lời chia sẻ của ông Burnett, đã có rất nhiều ý kiến băn khoăn, hoài nghi đã được gửi đến ông. Nổi bật nhất là: Vì sao Úc là nước đứng thứ hai về phát triển cây mắc ca nhưng trong 10 năm qua, Úc hầu như không mở rộng diện tích? Tại sao ở Úc năng suất, giá thành sản phẩm mắc ca ngày càng giảm?
Trả lời câu hỏi này ông Jolyon Burnett, Chủ tịch Hiệp hội mắc ca Úc cho biết, thời gian qua chỉ có khoảng 1.000 ha trang trại mới đươc phát triển. Nguyên nhân chủ yếu là do giá đất. Tại Úc giá thuê đất phù hợp để trồng mắc ca tốn kém khoảng 1.000 đô Úc/ha, tiền đầu tư cho 1ha mắc ca lên tới 30.000 USD nhưng phải đợi đến 30 năm mới thu lại lợi nhuận. Điều này khiến doanh nghiệp ở Úc không hứng thú để bỏ tiền đầu tư vào những trang trại mắc ca mới.
Nói về sản lượng và giá mắc ca đã có lúc biến động tại Úc, ông Jolyon Burnett cho hay: Năng suất trung bình ở Úc mỗi ha là 2,8 tấn hạt chưa tách vỏ. Nơi trồng tốt nhất có thể đạt 6 tấn/ha. Tuy nhiên, mắc ca cũng có lúc tăng trưởng không hợp lý vì bị ảnh hưởng bởi thời tiết, khí hậu. Một năm, mắc ca có thể đạt sản lượng 43.000 tấn nhưng nếu năm sau mưa, hạn hán không đúng thời điểm thì có thể chỉ 30.000 tấn. Tình trạng này bắt đầu xảy ra vào năm 2011.
Năm 2012, điều kiện thời tiết xấu tiếp tục khiến sản lượng giảm, năng suất giảm. Bên cạnh yếu tố môi trường, thời tiết thì việc Nam Phi tăng sản lượng một cách nhanh chóng, cung vượt cầu đã khiến giá mắc ca giảm mạnh.
Khi giá mắc ca giảm, nông dân ở Úc không có lợi nhuận. Họ bắt đầu tìm cách giảm mức tiêu thụ chi phí cho phân bón, khiến năng suất giảm, kéo theo lại giảm giá…và cứ thế một vòng luẩn quẩn.
“Chúng tôi rất vất vả khi lật ngược chiều xoắn trôn ốc đi xuống ấy bằng cách thúc đẩy ngành này ở Nam Phi, củng cố lại vị thế của sản phẩm này trên thị trường, thay vì để cho giá mặt hàng này giảm thì chúng tôi đã đẩy giá tăng lên. Trong 3 năm vừa qua, giá mắc ca đang tăng dần và sản lượng cũng tăng lên. Đó là  lý do vì sao chúng tôi nhấn mạnh, các quốc gia trồng mắc ca vì sao phải hợp tác, chung sức để đảm bảo mắc ca phát triển một cách quy củ”, Chủ tịch Hiệp hội mắc ca Úc nhấn mạnh.
Đánh giá cây mắc ca có nhiều lợi thế ở Việt Nam, song Thứ trưởng Bộ NN&PTNT cũng cho rằng cần hết sức thận trọng với cây mắc ca. Tránh vội vàng, hấp tấp gây thiệt hại cho DN và bà con. Cuối năm nay, Bộ NN&PTNT sẽ chính thức ban hành quy hoạch phát triển cây mắc ca tại Việt Nam. Theo tính toán của Bộ NN&PTNT, từ nay đến 2020, lượng giống mắc ca có chất lượng, nguồn gốc đã được công nhận chỉ đủ để trồng với diện tích 10.000 ha.
Diệu Thùy
Phần nhận xét hiển thị trên trang