Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 10 tháng 6, 2015

Nhật ký văn nghệ 1989

Vương Trí Nhàn


Trong hai năm qua, tôi đã trình ra với bạn đọc những trang ghi chép về đời sống văn nghệ 1987 - 1989. các bạn có thể tìm lạitrên blog này 
   http://vuongtrinhan.blogspot.com/2014/09/buoc-re-ngoat-cua-oi-moi-van-nghe-hai_22.html
         Dưới đây tôi chỉ mạn phép giới thiệu lại những trang ghi chép 1989, có liên quan đến Đại hội nhà văn VN lần thứ tư. 
         Đời sống văn nghệ thì phức tạp bản thân tôi chỉ nghe được một ít chuyện, từ nghe đến ghi còn nhiều rơi vãi. 
        Mặc dù vậy, tôi cứ trình ra ở đây với hy vọng là thúc đẩy một tinh thần hồi cố thật tỉ mỉ thật rộng rãi. Xét ở góc độ lịch sử, những người cầm bút thế hệ tôi trở về trước còn nợ các bạn trẻ hôm nay rất nhiều, chúng ta cần phải trở đi trở lại với quá khứ thì mới giúp nhau có được cái nhìn sáng rõ về các sự kiện trước mắt.

 Moskva đầu 1989
   
20/1
Ph, một nghiên cứu sinh ở “Đôm 5” bảo báo Văn nghệ sở dĩ bây giờ vẫn còn đọc được, đó là do sự mở ra của Nguyên Ngọc. Nên việc cách chức ông ta vẫn đánh mạnh vào xu thế dân chủ.
Ph. vẫn không thích những người hăng hái hôm qua, bây giờ lập tức cộng tác với báo Văn nghệ .
Ví dụ ngay lúc này Nguyễn Đăng Mạnh đã cho in ngay bài về Xuân Diệu là không nên.
Cố nhiên, vẫn Ph. nói, báo Văn nghệ cũng còn đọc được. Có ông Duật làm báo, thì nó mềm mại hơn ông Phạm Đình Ân hồi trước. Nhưng đúng là phần phê bình đang trở lại tình hình vớ vẩn, cũ kỹ, bài ông Trần Bạch Đằng, ông Mai Liên chẳng hạn.
 Báo Văn nghệ chán đi nhiều. Nhất là phần phê bình. Nhưng bài báo  của Lê Đình Kỵ Trần Thanh Đạm không ra sao. Phạm Tiến Duật khống chế hậu trường.
 Vậy mà Ban phụ trách mới vẫn có bài tự khen, tuyên bố báo vẫn chiếm được cảm tình của đông đảo bạn đọc.
Nghe nói một tờ báo Sài Gòn điểm lại tình hình năm vừa qua, kể rằng  đây là năm một số người sống, một số người chết; và có một người dở sống dở chết, đó là Nguyên Ngọc.
Nguyễn Khải, hai năm qua (từ Cái thời lãng mạn), không viết được gì. Lại chưa bao giờ bị chửi bới như lúc này.
 Cuộc sống ở trong dạng cũ. Người nọ trị người kia. Cánh bảo thủ thắng cánh muốn thay đổi.
Nhiều người ra sức bảo vệ ngày hôm qua, vì cho rằng văn học là chuyện riêng của họ, không ai được ngó tới.
Nguyễn Duy kêu lên: ối nước Nga ơi!
Nhân đây nghĩ về đổi mới ở Việt Nam và ở Liên xô. Bên kia còn có những trí thức nổi lên, và người ta nghĩ đến các tầng lớp trí thức như một chỗ dựa chắc chắn. Còn ở Việt Nam, chưa có báo chí, và cũng chưa có trí thức.

22/2
 Có những nỗi buồn cao đẹp, và những niềm vui đê tiện -- Ph. nhắc lại một câu của Nguyễn Đình Thi. Những người như Nguyễn Đình Thi và Chế Lan Viên, Anh Đức và Đào Vũ, Phan Cự Đệ và Hà Xuân Trường, Bằng Việt và Trần Ninh Hồ, Phạm Tiến Duật và Đỗ Chu… đang có những niềm vui của họ.  Loại niềm vui nào? Biết trông đợi vào cái gì bây giờ? Trông đợi có thể hóa giải ở họ chăng, không được.
11/3
  Ông Linh răn đe báo chí, nói là đang có việc lợi dụng báo chí để chống lại chủ nghĩa xã hội.
3/4
Bằng Việt ném ra một câu khinh bạc, ỡm ờ “Bây giờ chỉ ông Ngọc muốn đại hội thôi chứ chả ai thiết cả”.
        Nguyễn Đình Thi khinh người lắm, mới lấy Bùi Bình Thi làm thư ký toà soạn cho tờ Tác phẩm văn học.
15/4
Đọc một bài của Bùi Hiển thấy  ông già lẩm cẩm quá. Ngay đến bài của Đỗ Văn Khang cũng khen. Trong bài, nhiều câu sai ngữ pháp, nhiều chữ vốn là dành riêng cho chính trị, và khi cần định nghĩa về nghịch lý, thì định nghĩa cũng sai. Khi người ta phải viết những điều người ta không tin thì sinh ra thế chăng.
1/5
 Trong Giấc mộng đêm xuân của Mai Ngữ một khao khát chân thành như khao khát đổi mới bị mang ra xỉ vả, bôi nhọ. Tôi nghĩ đến tâm lý của Mai Ngữ.  Có lẽ là vì lão tiếc đời. Đời lão cũng khôn ngoan thế, mà vẫn chẳng nên cơm nên cháo gì, vẫn bị xã hội này cầm tù và làm hỏng, cho nên bây giờ lão tiếc, lão cay cú, lão muốn cho thối mãi đi, thối nữa đi, không ai ngóc đầu lên được.
Có thể có một lý do nữa là sau mấy chục năm đi với cách mạng, ở Mai Ngữ cũng lây lan cái cách nhìn của cách mạng hiện nay, vẫn có một chút tuyên huấn trong người cho nên, khi thấy cái đó là có lợi cho mình, thì con người cán bộ ấy lại xuất hiện.
      Sau hết, chắc chắn, ở Mai Ngữ, con người cơ hội vẫn còn, nên được dịp xổ ra. Đây đúng là một dịp tái sinh, một dịp cựa quậy cuối cùng, và sự thật là con người ta bản chất như thế nào thì cái lần cháy lên cuối cùng này hiện ra thành người như vậy.
Trong một bài chân dung văn học đăng ở VNQĐ, tôi đã từng nói tới khuôn mặt không hề thay đổi của Mai Ngữ.  Thời gian không làm cho khuôn mặt ấy già đi nhưng quả thật, nó đã già đã hỏng từ đầu, không thể hỏng hơn.
18/5
 Định xin phép sứ quán về Hà Nội dự Đại Hội nhà văn, rồi lại không xin nữa. Lúc đau quá, tôi nghĩ cái Hội nhà văn ấy, bây giờ gợi ra hình ảnh một đống đổ nát, ở đó, có những thứ người ta đáng còn dùng được mà đã vứt đi, và toàn bộ thì không ra hình thù gì nữa.
Đọc thư Nguyễn Khải gửi Ban chấp hành Hội nhà văn càng thấy như vậy. Khải nhìn mọi vấn đề chung từ góc độ quyền lợi riêng. Cái chất quan chức nó thấm vào tận xương tủy. Nũng nịu, điệu bộ đòi người khác phải đặc cách kính trọng mình, khỏi để mình bị tai vạ.
Khải không phải người sáng suốt, đến nay nhận định của Khải về Nhân văn Giai phẩm vẫn là hàm hồ. Và nhiều sự kiện lịch sử từ trước tới nay vẫn được Khải nhìn nhận dưới con mắt giai cấp. Có lẽ không bao giờ Nguyễn Khải trở nên một nhà văn có con mắt nhân bản chăng?
... Hình như xã hội đã làm hỏng các nhà văn, không chừa ai cả, và không một nhà văn nào hiểu cái cơ chế này đã nhào nặn họ như thế nào.
Có một số cây bút mới được kết nạp vào Hội. Người được kết nạp cố nhiên là ủng hộ, cái sự ngăn chặn đổi mới mà họ vu cho là đổ máu rồi. Khái niệm nhà văn trở nên rẻ rúng. Không bao giờ  lại hình dung những người như mấy ông như X. Y .Z. cũng là nhà văn.
Dương Thu Hương đưa ra một nhận định khái quát (trong một lá thư gửi một cậu Đặng Việt Bảo nào đó):
 - Đa số anh em ở nhà đều hoang mang
- Mong rằng thế hệ sau sẽ khá hơn thế hệ này.
Nghe tin Đại hội mỹ thuật mất một ngày bầu chủ tịch đoàn. Chỉ bầu được có 4  ủy viên chấp hành. Quân mất chức đâu chỉ vì cái câu chó cứ sủa đoàn người cứ tiến (ý muốn nói giữ nguyên cách điều khiển Hội như cũ ). Sau khi họp xong, Quân đi viện.
1/7
 Thanh Quế kể (Trần Đình Nam thuật lại):
-- Ở Hà Nội bây giờ đến Hội Nhà văn, thằng nào cũng sẵn sàng mời mình chén trà, chén cà phê, để nói xấu những thằng khác.
-- Làm báo như Hoàng Minh Châu thực khổ. Cái gì thằng Thỉnh nó cũng có ý kiến. Nó là Phái viên của Ban chấp hành cơ mà. Ông Thi đã khéo chọn được người của mình. Ấy, nó chỉ đạo mọi thứ thế, nhưng ký thì Hoàng Minh Châu phải ký, tức phải chịu trách nhiệm.
 Cả ông Thi, ông Chính Hữu phải lo làm báo. Chỉ có tờ báo là chỗ tranh luận.  Duật, Hồ đang là 2 con ngựa khỏe. Đâu NgĐThi định đưa Duật lên làm Phó tổng biên tập, nhưng Hồ phản đối. Bên Tác phẩm văn học, Bùi Bình Thi cũng có thể lên phó tổng biên tập nữa.
Cảm tưởng của tôi về xã hội, về văn học: một cái gì  yếu ớt, nhạt nhẽo, mà bên ngoài dơ dáy, nhếch nhác.
Người nói lên tiếng nói cộng đồng trong lúc này là ai? Là Nguyễn Huy Thiệp, một thứ con hoang, dị dạng. Nhưng còn là chính lão Đỗ Văn Khang, bạ cái gì cũng dở giọng bàn góp lý sự cùn, nói lấy được. Văn học là ông Khải muốn thay đổi mà lại muốn giữ nguyên các giá trị như ngày hôm qua. Là ông Lê Lựu viết những quyển sách rất hay, bằng thứ văn rất dở, như cho người ta ăn thứ cơm tám thơm đầy sạn, mà bát đũa thì nhơ nhớp.
12/8
Tôi đọc một vài bài tiểu luận về tình hình văn học gần đây, và thử hình dung ra khuôn mặt một số người.
-  Vũ Tú Nam, một thứ chủ nghĩa bảo thủ dịu dàng, chừng mực, nhưng bảo thủ tận trong xương tủy. Ta đã XHCN sẵn rồi, chỉ cần thêm XHCN  chút nữa mà thôi. Ta kết hợp cả hôm qua và hôm nay. Ta có nhân dân, có đất nước. Làm như ông, chỉ đẻ ra một nền văn chương nhạt nhẽo.
- Ngô Văn Phú với bài Sự nghiệp văn chương trên báo Nhân Dân rõ ra vẻ một ông nông dân, luôn luôn tự hào, ta chẳng đổi thay gì, xưa nay, ta vẫn là ta, chớ có suy nghĩ gì, làm là được. Chúng tôi là những người lao động, tôi nắm chân lý. Một thứ hãnh tiến của một đầu óc cấp huyện!
-  Nguyễn Kiên, có vẻ nhìn xa hơn một chút và hiểu rằng , có những cái mới, nhưng cũng không đủ sức thay đổi.
- Ma Văn Kháng, trải đời rồi, hết hy vọng rồi, chỉ còn tin vào chính mình. Và một câu thầm reo trong lòng rồi hoàn cảnh nào, ta cũng sống được.
Hà Nội cuối 1989
16/10
 Chuẩn bị đại hội. Còn có việc gì quan trọng hơn thế nữa , lúc này?
LN Ân không biết lấy ở đâu ra một danh sách.
Những người không nên đưa vào ban thư ký (Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khoa Điềm);
         những người không nên đưa vào ban chấp hành mới (Nguyễn Kiên, Giang Nam....);
        những người nên đưa vào, họ lại đều là Ban chấp hành cũ ( PCĐệ, Xuân Trường.,..)
Trần Đăng Khoa, từ lúc ở Moskva, đã kể với tôi về 3 loại người không được đưa vào Ban chấp hành: loại phủ nhận, loại công nhận có 2 thứ bá quyền, loại gây mất đoàn kết.
 Ai đã đưa ra những tin đồn này? Có khi là cấp trên không biết chừng.
17/10
Thay đổi lớn nhất ở Hà Nội mà ở Moskva tôi không biết —  đã có một Nghị quyết mới về Văn nghệ lật ngược tình thế. Gọi là Nghị quyết 7.
Chiến tuyến  tập trung cả  ở báo Văn Nghệ.
Báo đăng bài tường thuật cuộc họp mặt ở Sài Gòn trước đây ít ngày, nhằm tuyên truyền cho Đại Hội theo hướng BCH hiện nay. Bàì viết đơn giản hơn nhiều so với thực tế. Nghe nói Triều Dương được giao sứ mệnh vào tổ chức.
Nguyễn Duy là chi nhánh trưởng của báo ở Sài Gòn, nhưng không được biết gì cả. Bọn Nguyễn Quang Sáng, Lý Văn Sâm, Vũ Hạnh, Sơn Nam không dự (được giới thiệu là bận công tác không đến được).
         Nghe Trần Hữu Tá viết thư ra cho Ng Đ Mạnh nói rằng người ta, -- những người đứng đắn ở trong đó, dân Sài Gòn cũ, - cũng thấy kinh hãi về các trí thức xã hội chủ nghĩa, M Liên, Tr Th Đạm v.v..
       Lê Trí Viễn gọi đó là văn chương chỉ điểm. “ Đội hành quyết” thì  gồm có Anh Đức, Phạm Tường Hạnh v.v..
Lúc đó Nguyễn Khải đang ở Sài Gòn. Trong buổi họp đó, Khải dự nửa chừng rồi bỏ về.
Nhưng báo Văn nghệ số 40, đăng một bài phát biểu của Nguyễn Khải, có mấy ý quan trọng:
--mọi tội là của lãnh đạo (Nh: ý nói ông Trần Độ).
--Văn học không thể làm mất lòng tin của con người. Đổi mới phải từ từ.
-- Nhà văn không ai bị thiệt trong đổi mới, nên có ai bảo thủ đâu... Không nên chê các bậc đàn anh. Các anh ấy đã rất vất vả trong việc xây dựng Hội. Có ai được hưởng quyền lợi gì lắm. Cho nên đừng có tấn công họ.
Ai có thể tưởng tượng đến lúc này, Nguyễn Khải còn nói như vậy.
Hôm nay thấy Nguyễn Khải đang đi xe đạp trên đường Lý Nam Đế, dáng béo phị, khệnh khạng, tôi cúi mặt không dám chào ông nữa. Có cảm tưởng là mất thật rồi, cái con người mà mình xưa nay kính trọng, yêu mến, đôi khi thần tượng hóa nữa. Nay thì tình yêu đó đã hết, tôi chẳng còn gì để nói với Nguyễn Khải nữa, ngoài sự chán ngán mà tôi phải giấu kín không thể hiện.
 Võ Văn Trực sang nhà tôi chơi, kể chuyện. Chán báo Văn Nghệ lắm. Bọn Duật thao túng tờ báo, số nào Duật cũng có bài. Vì Duật lại phụ trách phần lý luận và thời sự, tức là điểm mũi nhọn của báo (ở Moskva, Nguyễn Kiên kể rằng bây giờ, bị người ta ghét nhất, có lẽ là Phạm Tiến Duật).
Một lần Duật làm một trò rất nhọ. Họp công tác viên, để “quán triệt Nghị quyết 7”. Mời đâu 30, mà chỉ có 13 người đi; toà soạn phải huy động ngồi vào đấy cho đủ chỗ. Lần sau, mời 20, đi có 4, rồi xuống nhà thấy có 2 người nữa là 6.
Chả mấy ai nói chuyện gì tử tế cả.
Nhưng cũng có người như Phong Lê, rất căng. Các anh đừng có áp đặt chúng tôi về người nọ người kia...
 Nguyễn Đăng Mạnh bảo vào tai tôi, Phong Lê còn đang múa máy đấy thôi. Nhưng trên cho người của nó đến, nó bảo mấy câu là lại co vòi ngay.
 Có một bài viết giọng chỉ đạo ký Tr P Lộc .Tôi hỏi Võ Văn Trực,  Tr PLộc là ai ? Trực bảo không biết. Cả báo Văn nghệ chỉ có ba người biết là Hữu Thỉnh, Hoàng Minh Châu và Duật. Và 3 người đó giữ được bí mật.
Trực kêu không hiểu sao ông Thi ông ấy lại đi dùng những Duật, Bùi Bình Thi.
Ân nói về bài Khải (Văn nghệ số 41), không hiểu sao, Khải bây giờ còn cần gì nữa, mà vẫn muốn lấy lòng bọn Nguyễn Đình Thi. Tôi nghĩ Khải là vậy, phù thịnh, ai lên thì theo. Vì biết rằng phe của Thi sẽ toàn thắng, nên chịu thua ngay từ bây giờ là xong.
Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét về Thi.
-- Về học vấn, kiến thức, có thể chê điều nọ điều kia. Chứ về ứng xử trong chính trị thì tuyệt. Với văn nghệ, đó là một đao phủ thủ có bàn tay nhung.
Đại hội nhà báo, bầu ra một ban thư ký mới, trong đó có Kim Hạnh. Cô Hà thư viện bảo, Hội nhà văn nghe tin này chẳng thú vị gì. Đến cả ông Phạm Hổ cũng khó chịu.
22/10
 Hình như thực chất của Đại hội là cấp trên thì muốn xiết văn nghệ lại và ở dưới thì  bên cạnh một bọn hoan hô việc riết lại đó để kiếm chác, một bọn muốn tiếp tục giẫy ra như năm ngoái năm kia.
Nhưng cấp trên là ai ?
Nghe dân Văn nghệ quân đội  kể, trong cuộc họp về Nghị quyết 7, ông Nguyễn Nam Khánh chửi bới Nguyễn Khắc Viện ghê gớm. Đó là con một viên thượng thư từng đàn áp Xô viết Nghệ Tĩnh đã sang học bên Pháp, nay lại trở về, dạy không chúng ta về Xã hội chủ nghĩa.
(Nói chung, các nhà lãnh đạo cỡ này, giọng lưỡi có khác nhau mấy tý).
Nhưng ông Nam Khánh chẳng qua nói lại lời ông Linh.
Lại nhớ cái lần ông Khải bảo chúng ta có một ông Tổng bí thư tuyệt với, một Tổng bí thư không nói chuyện cao siêu mà toàn bàn chuyện cụ thể.
Lại nhớ cái lần Ân viết ngay trong thư riêng (tức là những ý nghĩ tự nguyện của Ân) Văn nghệ đang đi ngược lại tinh thần Nghị quyết Đại hội VI...
Chúng ta chưa hiểu cấp trên, cái đó một phần. Nhưng đáng sợ là cấp trên hay thay đổi.
Nguyễn Đăng Mạnh diễn tả khá hay về chuyện này:
- Lúc đầu mình tưởng bản chất của chủ nghĩa xã hội là dân chủ, và làm như vừa rồi là sai, nên mới đề nghị thay đổi. Còn nay, thì đã hiểu. Bản chất của chủ nghĩa xã hội là mất dân chủ rồi, còn gì phải nói nữa.
Nhưng bên chính trị cũng có những chuyện phức tạp của nó. Có một nhân vật mới nổi là Trần Xuân Bách. Trước kia chửi NVL (Đổi mới là gì, là NVL cộng với mười nhà báo), nay lại cười giễu việc Việt Nam lo lắng về Ba Lan. Và cho rằng chủ nghĩa xã hội chỉ có 2 khả năng, một là mở rộng dân chủ như Đông Âu, hai là đàn áp như Trung Quốc. Nghe nói bên trên có một cánh muốn đi với Mỹ, một cánh muốn kiên trì kiểu cũ, hai bên xung đột với nhau.
Thế thì còn biết đằng mù nào mà lần!
Trở lại chuyện Đại hội. Phe Nguyễn Đình Thi làm việc ráo riết. Mai Liên ở Sài Gòn ra bảo đã chuẩn bị rồi, loại như Ngô Thảo mà lên diễn đàn, thì sẽ có ai đáp lại.
Ân đưa tin là không biết chừng, Xuân Trường lại muốn làm Tổng thư ký hội, và trên lại sẵn sàng giới thiệu (cũng như Hồng Chương cuối đời về làm báo. H X Trường đã 66 rồi, còn việc gì sang trọng hơn về nắm Hội nữa).
Rồi Ân kể rằng nghe tin này, Ma Văn Kháng bảo không thể thế được, phải xáp vô.
 28/10
Chuẩn bị Đại hội Nhà văn, ngày 23 và 24 học Nghị quyết.
Ngày 25 và nửa ngày 26 nghe ông Hai Tân nói chuyện. Thấy mừng vì Trưởng ban mới không ra mặt áp đặt lắm. Ông kể là ta không muốn mà phải rút quân Campuchia. Vậy Đảng ta sẽ chấp nhận mọi diễn biến thực tế.
Bắt đầu có những ý kiến đề xuất việc này việc nọ. Cao Tiến Lê đề nghị Ban chấp hành có kiểm điểm. Trần Mạnh Hảo than thở, thân phận văn nghệ bị nghi ngờ quá. Thùy Mai đọc thư đề nghị xét lại trường hợp Bùi Minh Quốc.
Ngày 26, thảo luận quy chế đại hội, bầu chủ tịch đoàn. Tô Hoài lai rai, đòi ở chủ tịch đoàn bị Phan Hồng Giang tố cáo là sắp đi Le Caire, đừng có đòi chủ tịch  đoàn nữa.
 Gạt được Tô Hoài, Phan Tứ đưa được Lê Minh, Ý Nhi, Cao Tiến Lê vào (một chỗ của Lê Giang).
Bắt đầu những chất vấn ở đại hội. Phạm Tường Hạnh chất vấn Sông Hương, Tô Nhuận Vỹ trả lời v.v..
Thái Bá Lợi chất vấn báo Văn Nghệ Trần Phú Lộc là ai, là Trần Trọng Tân hay sao v.v..
Ngày 27, bắt đầu đề cử người vào chấp hành. Sau đó cãi nhau tiếp. Nhiều người bênh Bùi Minh Quốc.
Sự kiện quan trọng buổi chiều 27: đọc thư của Trần Độ, đánh giá công tác của ban Văn hoá văn nghệ tham gia vừa qua.
 Đại ý sau Đại hội 6, tôi (Trần Độ ) đã mang suy nghĩ nhiều về Văn hoá, thấy văn hoá là quan trọng đã suy nghĩ về trí thức, chắc rõ ta có trí thức tốt, phải giúp họ phát huy sức mạnh giúp Đảng đưa xã hội tiến lên.Thấy rõ ngoài phần chung của Đảng, của nhà nước, có phần riêng của mỗi người. Lãnh đạo chỉ nên định hướng rộng, và để nhân dân tự do chọn món ăn.
Trần Độ tự nhận mình là nông dân là tiểu trí thức nông thôn, phải học hỏi thêm. Trong thái độ với trí thức, mình có lúc có thô bạo, nhưng tấm lòng thì vẫn là kính trọng.
... Lá thư 21 trang của Trần Độ được Nguyễn Văn Hạnh đọc rất đĩnh đạc. Nhiều đoạn vỗ tay. Và sau cùng, vỗ tay kéo dài. Tôi nói với Nguyễn Đăng Mạnh, ông Độ có tư tưởng độc lập, tuy vẫn là người cộng sản chân thành.
(Trần Độ có nói “những ý tưởng của tôi còn đang là thiểu số nhưng ta sẽ chiến thắng”).
Mạnh bảo ông Độ chịu đọc lắm nên đáng trọng lắm.
Sau khi đọc lá thư, Nguyễn Văn Hạnh bốc lên, nói rằng mình chia sẻ với mọi tư tưởng của Trần Độ. Rằng những ý tưởng của Trần Độ cần được suy nghĩ. Nguyễn Văn  Hạnh tỏ ý tin tưởng ở đổi mới, ở đại hội nhà văn lần này. Ông còn nói qua mấy ngày chuẩn bị đại hội, thấy rất đáng mừng. Đây là sự thức tỉnh của lương tri dân tộc.
Gặp nhau sáng 26, 27,  nhiều người đã rất mừng, rõ ràng đại hội kỳ này dân chủ phe cấp tiến thăng phe bảo thủ.Thanh Thảo bảo quân ta đã đến Phan Rang rồi. Phải cẩn thận, nhưng nghe đâu, phe địch đã được lệnh tuỳ nghi di tản.
Tối 26, có buổi nói chuyện về Nguyễn Huy Thiệp ở Thư viện Hà Nội. Phe cấp tiến nhiều nhà văn tới dự. Ý Nhi loan báo đại hội rất đáng mừng, rằng chúng tôi sẽ tính lại chuyện anh Nguyên Ngọc, chuyện Bùi Minh Quốc v.v..
...Nhưng đến sáng 28/10, đúng ngày Đại Hội khai mạc thì tình hình lại ra chiều ngược lại.
 Đầu tiên là nghe nói đêm hôm trước có buổi hợp Ban bí thư với các đảng viên trong chủ tịch đoàn + các đảng viên trong Ban chấp hành khoá cũ.
Đến trưa thì nghe Hữu Thỉnh nói là sẽ có Hội nghị Đảng viên vào ngày
29/10.
[4/11]
Thì ra tình hình thế này:
Từ mấy hôm trước, bọn Duật, Đỗ Chu, Đào Vũ... đã lên trên kêu là Đại hội hỏng rồi.
Ban bí thư gặp Ban chấp hành và Chủ tịch Đoàn (chỉ ai là Đảng viên), ở đó mẹ Tú và mẹ Thường kêu la đủ chuyện.
Thậm chí ông Tân (đúng không?) phê phán Nguyễn Khoa Điềm. Tại sao ở Hội nghị Ban chấp hành đã đồng ý theo thể thức Đại hội bầu ban chấp hành, rồi chấp hành bầu Tổng thư ký, đến Đại hội này lại theo ý kiến anh em,bầu Tổng thư ký trực tiếp.
Nguyễn Văn Bổng, Nguyên Ngọc phải bênh, không, ra hội nghị thấy anh em nói có lý, nên mới làm như vậy.
 Nhưng điều quan trọng nhất, là lá thư ông Độ đã truyền bá một quan niệm khác quan niệm của Nghị quyết 7, cho nên các ông rất không bằng lòng.
Trong số những người đến dự khai mạc, có ông Sáu Thọ. Nghe nói ông quát hỏi Nguyễn Văn Hạnh.
 “Tại sao anh đọc thư Trần Độ”
 “ Có nhiều người đề nghị......”
“Tại sao lại bầu Tổng thư ký trực tiếp”
 “ Anh nên tin ở anh em”.
Hội nghị đảng viên sáng 29/10 là để đối phó lại với lá thư ông Trần Độ là chính. Ông ĐDTùng phân tích là lá thư đó đã hình thành ra sao, ông Độ chỗ nào được, chỗ nào chưa được v.v..
Giá kể hồi trước, có cáo già Tố Hữu thì tình hình đã quay ngoắt lại ngay. Nhưng nay là các ông chính trị chay, nên họ cũng e dè hơn. Họ chỉ sợ giới  nhà văn nghe ông Độ hơn nghe các đại diện chính thức của Đảng.
Trên nói ra miệng là không áp đặt gì. Những người thuộc giới văn nghệ phát biểu cũng không muốn trên áp đặt.
Huy Phương nói rằng mất đoàn kết là ở Ban chấp hành cũ. Là do bộ máy lãnh đạo cũ tha hoá, trở thành trung gian không đáng tin cậy.
 Phong Lê – người xưa nay vốn rất cứng  -- lại lên tiếng tố cáo bài viết của Anh Đức trên báo Nhân Dân và một số bài của những người khác, trên báo Văn Nghệ, là có ác ý, báo động giả.
        Nông Quốc Chấn thì cho là...không bình thường và hình như Đại hội được tiến hành để tấn công Ban Chấp hành cũ.
 Nguyễn Đình Thi muốn đẩy quả bóng lên trên, xin Ban Bí thư có gợi ý. Ông bảo nói như anh Hạnh là không được, phải nói toàn diện, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thức tỉnh.
Ông Bổng xin lên phát biểu cuối cùng. Ông bảo Đảng có thể yên tâm vì đây là anh em chiến đấu về cả. Đảng hay nói anh em là tốt, nhưng đừng bao giờ để anh em lại hiểu rằng nói vậy thôi, còn bên trong, Đảng vẫn nghĩ khác.
Không, anh em tốt thật, nếu anh em có chút băn khoăn về Chủ nghĩa xã hội băn khoăn về Đảng, thì đấy cũng là chuyện bình thường.
Hình như các đồng chí quá lo về chuyện bầu Tổng thư ký. Nhưng Tổng thư ký bầu ra có sai nữa, thì còn có chi bộ Hội nhà văn, còn có Đảng bộ, còn có khối Tư Tưởng Văn hóa, còn có Thành uỷ, còn có Ban chấp hành TW… Có gì mà các đồng chí phải ngại.
Ông Bổng nói rất hay và anh em hoan nghênh.
Sau đó, Đại hội lại diễn ra bình thường.
Kể từ ngày trù bị, cho tới ngày Đại hội, có thể chia làm 2 phái. Phái diều hâu, mà hàng đầu là Anh Đức, Phạm Tường Hạnh, MQLiên, và số đông anh em VNQĐ, được Nguyễn Đình Thi ủng hộ. Lập luận của họ là vừa rồi ta đã sai, đã làm bậy nhiều. Phải trở về với Nghị quyết 7 ngay lập tức. “Đấy là cái đang cần cho chúng ta”.
Phạm Tường Hạnh chửi Trần Độ, tố cáo Sông Hương (bảo là Sông Hương không có bài về Sinh nhật HCT, về Chế Lan Viên...)
Một chi tiết bất ngờ. Người ta nói rằng nhờ có Phạm Tường Hạnh khiêu khích thế mà bức thư ông Độ mới được công bố.
Mai Ngữ hiện ra thật kinh khủng. Ông ta vào chuyện: Người ta nói tới chuyện vụ án. Tôi biết có những vụ án kinh khủng hơn.
 Năm 76, Hội đang hoạt động bình thường tự nhiên lập ra Đảng Đoàn, với ông bí thư hách dịch chỉ thích đi nước ngoài. Từ đó, Tổng thư ký cũ chỉ còn là cái bóng thui thủi...
Rồi đến vụ báo Văn Nghệ, vẫn con ngựa ấy với người đánh xe ấy. (Trần Độ và Nguyên Ngọc).
Rồi những ngày vừa rồi. Ban Văn hóa văn nghệ tập hợp tuy - ô của mình, đi gặp đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Ban văn hoá văn nghệ  đưa ra Ban trù bị, định vô hiệu hoá Ban chấp hành cũ.
Nhưng tất cả lại đầy tội lỗi, lại tan nát.
Nghe anh em nói, lúc Mai Ngữ đọc, đã có nhiều tiếng ở dưới hội trường vọng lên: Đồ chỉ điểm...Đồ chống Đảng. Đọc xong ông ta đờ đẫn đứng bên cạnh mi - crô, không biết đi về đâu. Nghe tiếng hét của mọi người, mặt mũi ông ta xám ngoét đi. Ai đó nói rằng bấy giờ ông ta giống như một tên chiêu hồi, sau khi khai báo xong, tự nhiên sinh ra sợ hãi thất thần.
Nguyễn Văn Bổng bình luận: Ai nói những điều xấu xa thì tự người đó xấu thôi.
Sự phản công lại của phái nghịch cũng không lấy gì làm đẹp lắm. Thu Bồn, Nguyễn Duy nói dông dài không vào vấn đề. Dương Thu Hương quá cảm động (hay bản chất Hương là vậy), nên nói không hay. Và chẳng những vậy, vấn đề Hương bàn cũng quá rộng không thích hợp với không khí đang giằng co nhau.
Có nhiều sự ngẫu nhiên. Hoàng Quốc Hải nói gãy gọn về một số yêu cầu pháp luật. Mã A Lềnh đề nghị biểu quyết về quyết nghị của Ban chấp hành cũ.
Có lúc tôi nghĩ thật tự hào về anh em mình.
Nhưng đấy là những khi nghe phát biểu.
Đến lúc đi vào công tác tổ chức thì các lực lượng cấp tiến rời rã thất bại.
Nghị quyết cũ về Báo Văn nghệ không bị bác, người ta đã mệt không ai muốn tranh cãi nữa.
 Bầu cử.
Ngay từ đầu, Hữu Thỉnh đã trúng số phiếu cao (dù rất nhiều ý kiến phê phán báo Văn nghệ và Thỉnh ngậm miệng ăn tiền, nhất định không thò ra nhận lỗi).
 Ông Chính Hữu bảo rút không rút.
Nhất là Nguyễn Khải lì lợm, đợi đến vòng 2 cũng đợi, không chịu rút. Ai đó bảo mồm Nguyễn Khải bây giờ như đít vịt ấy mà...
Sở dĩ vậy, vì Nguyễn Khải mấy lần nói với chung quanh là nhất định phen này lão sẽ rút.
Cuộc đời có gì phiền muộn hơn mình nghĩ. Cuộc đời có gì thật vớ vẩn. Mà cũng đúng thôi! Lúc đổi mới là như vậy.
Rút cục, ai muốn cái gì được cái ấy.
Phe cũ được quyền lực.  
 Phe mới được nói.
Sau đại hội, nhiều người vẫn có thể ngẩng mặt lên mà chửi bọn cơ hội, thế là được lắm rồi. Họ đâu biết rằng ngày mai sẽ khác.
11/11
Đến cơ quan, nghe được một vài mẩu chuyện người ta nói chung quanh Đại Hội mà mình không biết.
 Vũ Bảo nhớ lại Đại hội 1983 thật là mất dân chủ. Chúng tôi muốn họp đại hội toàn thể. Anh Hoàng Tùng mắng chúng tôi nhà văn không thể nói ngược. Tôi đáp lại không, chúng tôi nói xuôi, viết xuôi. Chúng tôi không phải là người ca Liên Xô rồi chửi Liên Xô, ca Trung Quốc rồi lại chửi Trung Quốc...May mà Đại hội này đã khác.
Cuộc đổi mới, bắt đầu từ lúc bầu Chủ tịch Đoàn. Cao Tiến Lê bảo nếu có thời gian có thể viết được quyển sách 200 trang về Chủ tịch Đoàn. Mụ Lê Minh và mụ Ý Nhi cái gì cũng có ý kiến, cái gì không thích thì bỏ ra, nghe được thằng nào xui mấy câu, lại vào lại đòi. Lê Minh dám gọi mấy ông Trung Ương là thằng, còn sợ ai nữa.
Ý Nhi kể, lúc bàn để thông qua Nghị quyết về việc mỗi ứng viên ban chấp hành chỉ được 2 khoá, Nguyễn Đình Thi bảo:
-- Nhỡ có những nhà văn làm vinh dự  cho uy tín dân tộc
Ý Nhi :
-- Không, hãy ra cái đã. Bây giờ chưa có nhà văn loại đó đâu, mà chỉ có những nhà văn làm ô nhục cho uy tín dân tộc thôi.
Ông Thi im.
Lại như khi bàn về bản tuyên bố cuối cùng của Đại hội, trong đó có việc đánh giá Bản báo cáo của Ban chấp hành. Lê Minh nói rằng bản báo cáo là không chính xác, và Ý Nhi bảo là không trung thực. Nguyễn Đình Thi đỏ mặt lên vì làm vậy là xúc phạm đến ông ta, xúc phạm tài năng của một người có tiếng là viết báo cáo giỏi từ xưa tới nay.
Ông Trần Bạch Đằng có lần ra mặt đàn anh. Anh Thi phải bình tĩnh mới được. Anh có thể ra ngoài 5 phút để nghĩ. Mỗi người trong chủ tịch đoàn có thể đề nghị một phương án của mình nên có một tuyên bố như thế nào.
 Rõ ra Trần Bạch Đằng tỏ ý xoa đầu Nguyễn Đình Thi.
Đỗ Chu đi khắp nơi xin phiếu. Anh cho em một phiếu. Này, nhớ thêm cho thằng này một phiếu nhé. Chu lại còn đi viết hộ các cụ và cứ thế, để lại tên mình, tất nhiên.
Đỗ Chu lúc nào cũng tất bật xông ra với mọi người, muốn hô hoán một điều gì đó với mọi người.
Năm ngoái, Chu từ Bắc Ninh ra ở ngay trong cơ quan Văn nghệ quân đội, đi tham gia vào vụ đánh dẹp Nguyên Ngọc, nói Nguyên Ngọc không ra gì.
Năm nay, sau khi Đại hội bầu ra Ban chấp hành mới, cùng với việc Triều Dương đến chúc mừng Nguyên Ngọc, lại thấy Đỗ Chu mời Nguyên Ngọc uống bia.
Nghe người ta kể trước lúc ra họp, Anh Đức đã chuẩn bị làm Tổng thư ký. Đã có diễn văn nhậm chức. Trong khi  Trần Mạnh Hảo chuẩn bị quần áo để đi tù (vì quyển Ly thân), thì Anh Đức chuẩn bị quần áo để nhậm chức Tổng thư ký và sẽ ở lại Hà Nội sắp xếp công việc.
Trước khi ra Bắc họp Anh Đức mở tiệc khao quân ở nhà mình. Trên máy bay, Anh Đức còn hỏi Nguyễn Khải:
-- Ông thấy tôi nên chọn ai làm phó, Vũ Tú Nam hay Bằng Việt?
Xuân Tùng cung cấp một chi tiết: Trong thời gian họp, Anh Đức viết cho Ngọc Tú (trong Ban Tổ chức Đại hội) mảnh giấy, chị sắp xếp cho tôi, anh Bảo Định Giang, anh Phạm Tường Hạnh, Mai  Liên chúng tôi phải ngồi cạnh nhau để tiện sắp xếp công việc.
Rồi Anh Đức thực hiện đúng như vậy. Cánh Anh Đức luôn tách ra, ngay khi cả vào nhà ăn. Nhưng anh em họ cũng cho đám thầy trò này những vố khá đau. Có trưa, thấy mâm Anh Đức còn thiếu người,  anh em họ vẫn lảng, họ không đến gần. Nhà ăn khá đông, vậy mà thày trò cứ ngồi trơ ra đấy, chờ người cho đủ mâm. Mấy bữa sau, một người trong bọn phải báo cháo.
Ai đó kể, Anh Đức với mấy người cùng đám lên gặp ông Linh. Ông Linh (hay bọn giúp việc) không cho gặp. Anh Đức cằn nhằn rằng ở Sài Gòn tôi muốn gặp ai, muốn lúc nào cũng được.
Lại lên gặp ông Phạm Văn Đồng. Nhưng đang đi bộ trong trong vườn, thấy bọn Anh Đức từ xa, ông Đồng đã xua,ý bảo về mà giải quyết việc với nhau.
Có bao giờ những điều trong hậu trường này được viết ra?
Dạo này anh em hay kể về nhật ký Nguyễn Huy Tưởng. Ở một Đại hội nào đó, ông Tưởng đã ghi “Cụ Hồ đến, Công an nhan nhản” “ Cụ Hồ lại đọc một bài thơ nhạt thếch! “
Trong Đại hội lần này, anh em kể dưới gầm bàn chủ tịch đoàn có đặt máy thu. Phòng họp chủ tịch đoàn cũng có máy thu, Chủ tịch Đoàn nói gì thu vào đấy hết.
Vậy mà có nhiều chuyện rất liều. Cao Tiến Lê kể Ý Nhi  dám cãi nhau tay đôi với Lê Đức Thọ. Ông kia bảo ”Tại sao lại bầu Tổng Thư ký. Như thế là không được ?“.”Nhưng anh em thấy được bác ạ!” Ông Thọ chịu.
Ngô Thế Oanh kể, văn phòng ông Thọ gửi thư đến, bảo Đại hội nên mời Lê Đức Thọ nói chuyện. Chủ tịch đoàn có bàn chuyện này. Nguyễn Đình Thi không có mặt hay sao đó. Và Trần Bạch Đằng gợi ý trả lời:
1/ Có nói thì cũng không làm đảo lộn chương trình nghị sự, vì chương trình đã bố trí chặt.
2/ Chỉ nói trong 10 phút.
Ông Đằng cay vì chuyện chính trị nên chơi ngang vậy (với Nguyễn Đình Thì, Trần Bạch Đằng căm từ hồi lâu, năm 1974 Nguyễn Đình Thì vào R, Trần Bạch Đằng không tiếp mà đẩy đi mặt trận ngay).
          Sau việc này, không thấy văn phòng Lê Đức Thọ nói gì nữa.
2/12
 Đại hội nhà văn qua đi. Được cái gì ? Hình như không được cái gì. Tôi thấy hụt hẫng.
Tại sao những Hữu Thỉnh Ngọc Tú Hữu Mai lại được bầu vào Ban Chấp hành. Tại vì họ đã được ông Thi chọn. Nghĩa là được bộ máy chọn. Bộ máy ấy đã làm việc để nâng cao uy tín của chính những người đứng máy. Chỉ có tiêu chuẩn cánh vế chính trị chứ không có tiêu chuẩn chuyên môn chất lượng sáng tác.
Một lý do sâu sắc nữa - ấy là sự ngớ ngẩn của đám đông - cái đám đông mà tôi đã miêu tả - họ chẳng khác những con cừu.
Những điều này có liên quan đến sự định hướng hoạt động của tôi thời gian tới.
Nói chung, cách đi ẩn giữa đời vẫn là sự lựa chọn tốt nhất.
Dương Thu Hương lên tiếng bảo những Trần Đại Nghĩa, Kim Ngọc từng kêu gọi Đảng phải biết ơn nhân dân chứ không phải chỉ có nhân dân biết ơn đảng. Đọc vào tôi đã thầm nghĩ, thật  ngây thơ quá, nói những sự đơn giản ấy làm gì. Nhưng cùng lúc tôi lại nghĩ, dẫu sao Dương Thu Hương cũng tốt hơn mình, dũng cảm hơn mình, không có những run rẩy sợ hãi, khi nói về chuyện đó. Lúc nghe cũng vừa sướng vừa sợ. Tôi ấy!
Lại như khi thấy bọn Lý luận phê bình bây giờ tranh luận. Trần Hữu Tá lấy nghị quyết 5 ra chống lại Nghị quyết trung ương 7, Phạm Tường Hạnh lấy cớ nghị quyết 7 ra sau để cãi lại v.v.
Tôi muốn nói một câu đơn giản trước tiên không được chơi trò này nữa.
21/12
 Trên Bản tin tham khảo có một bài phân tích Các hội chứng của Chủ nghĩa xã hội hành chính ở Đức:
- Tập trung quyền lực trong một nhà độc tài kiêu ngạo. Điều khiển kinh tế thông qua một trung tâm chỉ huy thiếu hiểu biết.
- Quy chế hoá và tập trung hoá quan liêu nền văn hoá. Khoa học và giáo dục đều đã xua đuổi nhiều bộ óc có tính chất phê phán ra khỏi đất nước.
- Áp chế chính trị với công dân, buộc tội người khác chính kiến.
Biến cảnh quan thông tin đại chúng thành một sa mạc thông tin ảm đạm, thành một hệ thống đưa tin cung đình ghê sợ.

- Gạt bỏ cơ sở Đảng ra khỏi mọi quá trình bàn bạc...
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Mấy trăm tỉ đồng để quảng bá cho văn hóa Trung Quốc, nên không?

Chi 271 tỉ đồng xây Văn miếu hoành tráng 
thờ Khổng Tử?

Báo Tuổi trẻ
10/06/2015 06:00 GMT+7
 
 
TTO - Mấy ngày qua dư luận xôn xao bày tỏ sự băn khoăn trước con số 271 tỉ đồng dùng để xây Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc. Có cần thiết xây Văn miếu hoành tráng?

Nhà bái đường trong khu Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc với các cột làm bằng gỗ 
sơn son thếp vàng - Ảnh: V.V.Tuân

Bên cạnh đó, nhiều câu hỏi cũng đặt ra quanh chuyện có nên đưa bài vị Khổng Tử vào thờ trong Văn miếu hay không.

Theo tờ trình của Sở Kế hoạch - đầu tư, Sở Văn hóa - thể thao và du lịch (Sở VH-TT&DL) Vĩnh Phúc gửi UBND tỉnh Vĩnh Phúc tháng 10-2011 thì “Văn miếu là nơi thờ Khổng Tử, nhà tư tưởng và giáo dục lớn thời cổ đại. Các nước theo Nho giáo trước đây như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam đều xây dựng Văn miếu”.

Tuy nhiên, trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Trần Mạnh Định, giám đốc Sở VH-TT&DL tỉnh Vĩnh Phúc, cho biết hiện vẫn còn nhiều ý kiến tranh luận về việc có nên đưa bài vị Khổng Tử vào Văn miếu hay không. Vì thế tỉnh sẽ tổ chức hội thảo, tham khảo ý kiến các nhà khoa học, nhà nghiên cứu văn hóa, sau đó báo cáo UBND tỉnh đưa ra quyết định cuối cùng.

Văn miếu không thể không thờ Khổng tử?

Tiến sĩ (TS) Nguyễn Hữu Mùi, phó viện trưởng Viện Hán - Nôm, người trực tiếp tư vấn về lịch sử cho dự án Văn miếu Vĩnh Phúc, cho biết “nói Văn miếu chỉ thờ Khổng Tử là không đúng”.

TS Nguyễn Hữu Mùi phân tích: Về mặt khách quan, khoa học mà nói thì Văn miếu không thể không thờ Khổng Tử, nhưng Khổng Tử chỉ là một phần, phần chủ yếu là thờ những danh nhân của Việt Nam.

Cũng theo TS Nguyễn Hữu Mùi, ông cùng với nhiều nhà nghiên cứu khác chỉ tư vấn về mặt lịch sử cho công trình này chứ không tham gia việc quyết định độ lớn hay mức đầu tư của nó.

Tuy nhiên, TS Nguyễn Hữu Mùi cho rằng ngày xưa Văn miếu nhỏ hơn bây giờ nhiều.

Đồng tình với ý kiến này, nhà nghiên cứu lịch sử Lê Kim Thuyên nhận định ngày xưa chỉ có Văn miếu ở Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên là tương đối rộng lớn, còn Văn miếu Vĩnh Phúc có quy mô nhỏ và mới chỉ bài trí văn bia chứ chưa thờ một ông tiến sĩ nào cả.

Có cần thiết xây Văn miếu hoành tráng?

Bày tỏ quan điểm về con số 271 tỉ đồng chi cho việc xây dựng Văn miếu Vĩnh Phúc, nhà nghiên cứu Lê Kim Thuyên nói thẳng: "Như vậy là quá lãng phí !".

“Đầu tư việc học hành cho con cháu quan trọng hơn. Tất nhiên là chúng ta phải có một cái Văn miếu nhưng quy mô và số tiền đầu tư nhỏ thôi là được”, nhà nghiên cứu Lê Kim Thuyên chia sẻ.

“Nếu làm với mục đích khuyến học là chính thì có thể xây một Văn miếu nhỏ với bàn thờ Khổng Tử, bàn thờ những tiến sĩ Nho học của nước ta và của tỉnh Vĩnh Phúc là đủ rồi. Làm với quy mô to quá, theo tôi, là không cần thiết”, nhà nghiên cứu Lê Kim Thuyên nói thêm.

Về vấn đề này, TS Nguyễn Quốc Tuấn, viện trưởng Viện Nghiên cứu tôn giáo (Viện hàn lâm Khoa học xã hội VN) cho rằng công trình này “thiếu cơ sở để xây dựng”.
Mấy trăm tỉ đồng để quảng bá cho văn hóa Trung Quốc, nên không?
Đó là câu hỏi mà nhiều bạn đọc đã đặt ra. Bạn đọc Thanh Mai thẳng thắn:Bỏ ra mấy trăm tỉ đồng để quảng bá cho cả văn hóa Trung Quốc thì có nên không?

Bạn đọc Lãng Tử phân tích: Hiện nay Trung Quốc đang ra sức đầu tư tiền của xây dựng các học viện Khổng Tử trên thế giới, tuy nhiên mục đích và cách thức hoạt động của các học viện này đã bị nhiều nước đặt câu hỏi.

“Nước ta có rất nhiều nhà giáo dục lỗi lạc về nhân cách lẫn tài năng: Chu Văn An, Lương Đắc Bằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm... sao lại phải đi thờ một người ngoại quốc?” - bạn đọc đặt câu hỏi.

Bạn đọc Phúc Anh viết: "Để thể hiện sự hiếu học, truyền thống tôn sư trọng đạo thì cần xây trường học, đầu tư cho giáo dục chứ sao lại xây Văn miếu lớn. Thờ Khổng Tử không thể hiện những điều trên đâu".

Theo hầu hết bạn đọc, số tiền 271 tỉ đồng chi ra để xây dựng Văn miếu là quá lớn, trong khi kinh tế khó khăn, rất nhiều trường học, bệnh viện, đường sá đang mỏi mòn khát vốn.

"271 tỉ đồng có thể xây nhiều ngôi trường, tặng nhiều suất học bổng cho những em học trò giỏi, khó khăn. Tiền thuế đóng góp của dân, mong Nhà nước sử dụng đúng để chính con em mình được hưởng phúc lợi xã hội ..." - một bạn đọc góp ý.
VÕ HƯƠNG - VŨ VIẾT TUÂN - TRÀ MY

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Ba, 9 tháng 6, 2015

Ý kiến người dân:


Ý kiến của bác Toro.


---


Thứ Hai, ngày 08 tháng 6 năm 2015
Nên đổi thành Văn hiến từ, thờ danh nhân đất Việt

Công trình Văn Miếu tỉnh Vĩnh Phúc đang gây tranh cãi về việc thiết kế, bài trí thờ tự bài vị Khổng Tử. Chúng tôi cho rằng, nên đổi công trình này thành “Văn Hiến Từ” thờ các nhà khoa bảng Việt Nam có công lao đối với đất nước.

Có nên thờ Khổng Tử không?

Hiện nay Trung Quốc khởi xướng cơn sốt đọc lại Luận ngữ và mở hàng loạt Viện Khổng Tử nhằm lan tỏa quyền lực mềm, đẩy mạnh chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Do đó, ngay tại Trung Quốc cũng có nhiều ý kiến phản đối. Giáo sư Đại học Bắc Kinh, Lý Linh, xuất bản cuốn sách có tên “Chó nhà tang – Tôi đọc Luận ngữ”, NXB Nhân dân Sơn Tây, Trung Quốc, 2007,  trong đó kết luận: “Sau khi đọc Luận ngữ, tôi thấy tốt nhất không nên đặt Khổng Tử lên bệ thờ, cũng không nên dìm ông xuống bùn, mà chỉ nên nói rằng ông rất giống Don Quixote.”

Lúc sống không được trọng dụng nhưng các triều đại sau lại ra sức lợi dụng Khổng Tử để củng cố quyền lực của họ, khiến cho hình ảnh thật sự của người trí thức cổ đại Khổng Khâu khác hẳn với “Đại thành chí thánh Văn Tuyên Vương” sau này. Đổng Trọng Thư (175-105 trước CN) đã sửa đổi học thuyết của Khổng Tử, biến những đế chế vốn dĩ được thiết lập dựa trên bạo lực trở thành biểu hiện của đạo trời. Nguyên lý của Đổng Trọng Thư, ghi trong cuốn Lịch sử Tiền Hán, cho rằng “trời không đổi gì thì không gì phải đổi” (“thiên bất biến đạo diệc bất biến”) là căn cứ để khẳng định tính hợp pháp của triều đại, rằng sự trường tồn của các triều đại là việc đã được vũ trụ an bài.

Ngay ở Trung Quốc cũng có những tiếng nói phản đối như vậy. Do đó, lập mới miếu thờ Khổng Tử vốn đã có rất nhiều ở Việt Nam là việc không cần thiết, không nên làm và không phù hợp với thực tế hiện nay.

Nên thờ danh nhân Việt Nam

Văn Miếu tỉnh Vĩnh Phúc là công trình mới hoàn toàn, do đó nên đổi thành “Văn Hiến Từ” nghĩa là Đền Văn hiến, và thay vì thờ Khổng Tử  với các học trò của ông ta, nơi đây là nơi thờ các vị khoa bảng Việt Nam có công lao to lớn với đất nước.

Hai chữ “ Văn hiến” lấy từ “Đại cáo bình Ngô” của Ức Trai Nguyễn Trãi (1380-1442). Ngay sau khi đại thắng quân Minh, giành lại đất nước, nhưng mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập này, Nguyễn Trãi không nói đến võ công hiển hách mà khẳng định “Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu/ Núi sông, bờ cõi đã chia/ Phong tục Bắc Nam cũng khác”. Sự khác biệt về văn hiến thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ của dân tộc ta. Trải qua 6 thế kỷ, nhận định về vai trò của văn hiến, văn hóa đó của Nguyễn Trãi vẫn có giá trị thời sự và trường tồn.

Ngôi đến thờ có thể chọn thờ các vị khoa bảng tiêu biểu nhất. như Lê Văn Thịnh, Chu Văn An (12921370), Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn (1726 - 1784), và Nguyễn Bỉnh Khiêm (14911585). Phối thờ tại “Văn Hiến Từ” là các vị đỗ đại khoa và trung khoa của Vĩnh Phúc.


Nếu “Văn Hiến Từ” được thực hiện, đây sẽ là ngôi đền độc đáo, khác biệt nhằm phát huy truyền thống hiếu học, truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc, của người Vĩnh Phúc…

http://toronpk.blogspot.jp/2015/06/nen-oi-thanh-van-hien-tu-tho-danh-nhan.html
  1. Giữa thời Xuân Thu xã hội Trung Hoa hỗn loạn , nên Khổng Tử đưa học thuyết của ông đi truyền bá khắp nơi , nhằm lập lại kỷ cương . Một số nước theo , còn cũng có nhiều nước tẩy chay ông
    Phải thừa nhận học thuyết của ông có sức lan toả rất sâu rộng . Mãi đến đời nhà Lý ( 1070 ) mới du nhập vào nước Việt . Như vậy đã gần 1000 nãm tồn tại ở Việt Nam
    Khi một nền văn hoá này , xâm nhập vào một nền văn hoá khác với một thời gian dài như vậy , thì muốn chối bỏ hay thoát ra là một đièu cực kỳ khó , không muốn nói đó là điều không tưởng
    Tháng 11/2014 hai trường đại học ở Mỹ : Đại học chicago và Đại học Pennsylvania đã tuyên bố đóng cửa viện ngyên cứu Khổng Tử tại đây . Ban điều hành hệ thống trường học ở thành phố Toronto cũng ra một quyết định tương tự . Điều đáng nói ở đây là : Họ có một nền văn hoá mạnh như vậy , khoa học kỹ thuật siêu như vây , mà họ còn lo sợ " Quyền lực mềm " của văn hoá Tàu , Salam cũng như bao người Việt khác lo sợ bộ phim " Đạo mộ bút ký " sẽ làm lớp trẻ có một góc nhìn lệch lạc với lịch sử nước nhà
    Với một nền văn hoá mong manh như chúng ta , việc phá bỏ hay thay đổi Văn hiến từ chưa nói nói lên được điều gì một khi người Việt còn mang tư tưởng " Sùng Trung " . Hãy tư xây dựng một nền văn hoá đủ mạnh trước đã . Thế hệ trẻ sẽ miễn nhiễm dần dần , đó mới là điều đáng bàn ở đây !
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thật nực cười. Thời buổi công nghệ cao này người dân thường các nước còn biết những gì đang xảy ra trên biển đông, huống chi những nhà lãnh đạo của họ. Báo với chả chí, coi thường người đọc, với người TQ bị bưng tai bịt mắt thì được, với thế giới thì chỉ vô ích và thật đáng khinh!

Thời báo Hoàn Cầu khinh lãnh đạo G7: Biển Đông ở đâu còn không biết


Hoàn Cầu ngày 9/6 hả hê bình luận: “Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe lôi kéo G-7, điên cuồng bình luận về Biển Đông, nhưng rất nhiều người đến Biển Đông ở đâu …
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe thúc đẩy mạnh mẽ vấn đề Trung Quốc leo thang ở Biển Đông, Hoa Đông tại hội nghị thượng đỉnh G-7. Ảnh: EPA.
Thời báo Hoàn Cầu ngày 9/6 hả hê bình luận: “Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe lôi kéo G-7, điên cuồng bình luận về Biển Đông, nhưng rất nhiều người đến Biển Đông ở đâu còn chả biết”?! Một trong những cơ quan ngôn luận hàng đầu của đảng Cộng sản Trung Quốc tỏ ra hả hê khoái trá khi thấy hội nghị thượng đỉnh G-7 kết thúc, ra tuyên bố chung mà không chỉ đích danh Trung Quốc leo thang ở Biển Đông.
Hoàn Cầu cho rằng: Dưới sự thúc đẩy của Nhật Bản, G-7 đã “bình luận xằng bậy về Biển Đông, Hoa Đông”, G-7 đã trở thành “công cụ địa chính trị” của Nhật Bản?! “Trong thế giới phương tây, hội nghị thượng đỉnh G-7 lần này người ta chủ yếu quan tâm đến khủng hoảng Ukraine, Hy Lạp vỡ nợ, vấn đề hạt nhân Iran, biến đổi khí hậu, chủ nghĩa cực đoan, còn Biển Đông xa tít tắp ở đâu trên bản đồ thậm chí còn không ít người chẳng rõ”?! Đa Chiều bôi bác.
Xung quanh hội nghị thượng đỉnh G-7, Kyodo News ngày 8/6 cũng ghi nhận Trung Quốc đã “thoát” khỏi việc bị G-7 lên án đích danh vì các hành động leo thang ở Biển Đông. Nhưng nhóm 7 nước công nghiệp phát triển đã ra tuyên bố chung phản đối mạnh mẽ các hoạt động bồi lấp, xây dựng quy mô lớn ở Biển Đông. Các nhà lãnh đạo G-7 lo ngại với diễn biến hiện nay trên Biển Đông và Hoa Đông, mặc dù không chỉ đích danh Trung Quốc.
Lãnh đạo G-7 khẳng định rằng Bắc Kinh nên làm rõ căn cứ yêu sách chủ quyền của họ ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế chứ không phải đe dọa sử dụng vũ lực hoặc dùng vũ lực, cưỡng chế.
Nguồn: 
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trần Băng Khuê - Một phát hiện thú vị

Không phải ngẫu nhiên mà tôi có cảm giác đó. Tôi phát hiện ra sự bất thường này trong một lần quyết định ngừng viết. Tôi vo giấy rồi ném thẳng vào sọt rác. Tôi quẳng đống bản thảo vào lửa. Tôi bẻ gãy chữ, thả vào nồi nước đang sôi sùng sục. Chữ tan ra. Hoá thành máu đỏ. Chữ sủi bọt và nổ tanh tách như củi lửa khô. Tôi chẳng hiểu tại sao mình lại thích trò chơi này? Những phức cảm hiền lành chỉ là thứ uỷ mị huyễn hoặc trong tâm hồn. Tôi ghét sự yếu đuối ở loài người. Yếu đuối trước bản ngã. Yếu đuối trong lúc vật lộn với bản năng.
Tôi ngừng viết. Tôi quyết định thế. Vì nhiều lần, tôi phát hiện ra những gì mình viết thật nhảm nhí. Chúng quẩn quanh đi ra đi vào, giới hạn là một cánh cửa. Chúng ỡm ờ như kẻ nửa vời kém sắc, kém tài. Tôi ngừng viết. Rõ ràng sẽ như vậy. Tôi không muốn nhìn vào những chiếc mặt nạ rồi buông lời có cánh ra, chỉ để trêu cợt mọi người. Tôi không muốn nhìn lên những đám mây giả dối đang cố tình lừa đảo kẻ ngây thơ bằng một bầu trời trong veo, thanh sạch như vừa qua một đêm mưa.

2.

Ngày mùa hè oi nồng. Những tia nắng đập thẳng ánh sáng vào mặt chúng tôi. Vỉa hè. Ngọn cây đã bị vặt trụi lá. Đám chim chóc hót câu dung tục, nửa đục nửa trong. Bầy bướm vàng chấp chới chao đảo, chui qua những ô cửa kính, lọt vào mấy khối nhà bê-tông và vẫy cánh khoe sự điên đảo của chúng cho tôi thấy. Tôi ngờ nghệch đưa tay ra đón bắt lấy chúng. Nhưng, chúng lại vẫy cánh biến mất. Lòng bàn tay tôi có cảm giác đau, sưng vù như vừa bị bọn ong hai màu chích lén. Tôi tìm bầy bướm để vợt. Một vài con nấp trên bàn thờ. Tôi không thể động vào chúng được. Rồi chúng vẫy cánh đậu lên đôi mắt của Đức Mẹ. Tôi chợt nghĩ nơi đó đã bao nhiêu lần chảy máu. Chúng vờn đuổi sang cây thánh giá của Chúa Jesus. Nơi ấy ngày xưa, và bây giờ liệu có còn cứu chuộc được những linh hồn lầm lạc. Chúng nhập nhoạng chuyển sang khung ảnh của bố tôi. Lặng im. Xếp cánh lại như một mặt phẳng nằm nghiêng, nghỉ ngơi.
Đêm nay, tôi không viết. Những ám ảnh co giãn trong hình thù của giọt nước mắt mà tôi đang thử nhìn xuyên qua. Cơn đau quằn lên trong bụng tôi. Đau đớn từng nhịp. Chạy theo các mạch máu, những sợi dây thần kinh lên tới đỉnh đầu. Chúng lăn tăn dậy sóng và gây ra những thanh âm như ong vỡ tổ trong não tôi lúc này. Chúng gào thét như cơn giông mùa hè bất ngờ nhào xuống những ngọn cây, những cánh đồng, hoặc một vài kẻ không may nào đó. Kết cục của tất thảy mọi thứ đều là cái chết mấp mé bên bờ vực thẳm. Vậy mà, nhiều lần tôi làm ngơ, lạc quan về số mệnh, thờ ơ trước chúng. Mặc kệ chúng.

3.

Tôi ghét bệnh viện.
Những cái bóng trắng xoá có màu mắt xanh, màu son môi đỏ bầm, di chuyển qua lại khiến tôi nhức mắt.
Tôi nhìn theo ngón tay của người đàn ông mặc áo blouse. Anh ta di di cây bút chì trên tấm phim x-quang chụp cái sọ người một cách thản nhiên, không thèm nhìn vào mặt tôi, rồi nói: “Một con ong đang nằm chễm chệ trên vỏ não phải của cô. Nó đang chơi trò gặm nhấm. Như chuột. Khá thích thú.”
Tôi hờ hững, hỏi: “Vậy, liệu tôi có phải chết?”
Anh ta trả lời: “Không, cô sẽ không chết ngay.”
À, hoá ra, người ta muốn chết ngay cũng chẳng dễ dàng gì. Tôi sẽ chết từ từ.
Tay bác sĩ lầm bầm, vừa đủ tôi nghe: “Vỏ não, bộ phận quan trọng nhất của não, kiểm soát toàn bộ các hành động có ý thức cũng như các hoạt động tư duy và sáng tạo.”
Chết tiệt. Tôi biết. Tôi vừa tra google. Những ngày mùa hè. Những bầy bướm vàng lấp lánh, vẫy cánh. Những con ong bất ngờ đột kích vào nhà tôi. Và, bây giờ chúng đang nằm trên vỏ não của tôi. Chúng đang ăn mòn những mạch máu, những sợi dây thần kinh quan trọng. Tôi bất chợt nghĩ đến lời cầu nguyện tôi thường bỏ quên phía sau những quyển sách không bao giờ đọc. Đó là một cái phác đồ rất hấp dẫn. Bao giờ nó cũng đứng ở vị trí đầu tiên, chẳng hề sai, chẳng hề dịch chuyển. Vậy mà người ta cố tình bỏ rơi và quên lãng. Những lời cầu nguyện. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến. Tôi không thể nghĩ đến. Tôi cần sự mạnh mẽ của một con thú hoang. Nhưng, hình như tôi cũng cần một sự cứu rỗi ở đâu đó trong sâu thẳm của thứ thể thức gọi là tinh thần. Sự sống và sự chết cần được làm rõ ranh giới. Tôi không muốn phải sống mà như chết. Chết trong lúc đang sống. Thật thảm bại thay.

4.

Bọn bướm lại vẫy cánh qua giọt nước mắt của tôi. Bầy ve đang tung tăng ca hát trong óc não tôi. Và, một con ong nữa, một con ong đáng ghét đang đâm chích tôi đau đớn đến từng khoảnh khắc.
Tôi không thể viết được nữa ư? Tôi muốn quay trở về nhà ngay lập tức, chỉ để cuốn lại mớ giấy trắng vứt ngổn ngang trên bàn làm việc. Hốt đống tro than của những bản thảo tôi đã đốt, cho vào trong hũ sành. Vớt tất cả đám chữ đã bị tôi bẻ vụn và ném vào nồi nước sôi. Tôi sẽ gom chúng lại, sau đó trộn chung với đất sét, rồi nhào nặn thành một bức tượng. Cái phác đồ này sẽ không còn ở trên giấy nữa, chúng bắt buộc phải tiếp tục sống bằng tất cả sự tinh anh còn sót lại trong não tôi lúc này cho đến khi mọi thứ đều dừng hoạt động bởi con ong chết tiệt kia.
“Bác sĩ ạ, Tôi về được chưa?”

5.

Những cơn giông nổ ran bên tai. Vài kẻ liếc nhìn tôi. Vài kẻ lẩm bẩm. Vài kẻ hiếu kì chỉ trỏ. Tôi đã biết trước tình huống này rồi, thành ra không thèm bận lòng với sự hiển nhiên đang xảy ra đó nữa. Chuyện vặt ở xứ sở thiên đường. Tôi thích thú sờ tay lên chỗ lõm đó. Mường tượng ra một con ong đang nằm ngoan ngoãn ở bên trong. Cái đầu của tôi vừa bị cạo một mảng trắng hếu trọc lóc ngay chính giữa. Đợi chờ những mùa hè. Chỉ có lửa và máu.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không thể phân biệt được, đâu là con người và đâu là các vì sao

Ðể kỷ niệm 26 năm cuộc đàn áp tàn bạo phong trào sinh viên ở Thiên An Môn, chúng tôi giới thiệu đến quý độc giả bài viết “Thi sĩ Liệu Diệc Vũ — Những hồi ức về Cuộc Thảm Sát tại quảng trường Thiên An Môn” của nhà báo Bill Marx. Liệu Diệc Vũ là thi sĩ đã viết bài thơ “Thảm sát” được trích dịch dưới đây, bài thơ đã khiến nhà cầm quyền Trung Quốc bỏ tù ông, và sau đó là một đoạn đời kỳ dị của người nghệ sĩ can trường này. Những thể chế độc tài có thể đàn áp và giam tù, nhưng không thể nào triệt hạ được tinh thần khao khát tự do của con người.


THI SĨ LIỆU DIỆC VŨ
NHỮNG HỒI ỨC VỀ CUỘC THẢM SÁT TẠI QUẢNG TRƯỜNG THIÊN AN MÔN

Khi những chiếc xe tăng của chính quyền Trung Quốc lăn vào thủ đô Bắc Kinh trong đêm 3 tháng 6 năm 1989, và đàn áp dã man phong trào ủng hộ dân chủ của sinh viên, thì nhà thơ Liệu Diệc Vũ đang ở trong nhà tại tỉnh Tứ Xuyên. Tin này gây rúng động cả tâm can của ông. Suốt đêm đó, Liệu Diệc Vũ đã sáng tác một bài thơ dài, có nhan đề là “Thảm Sát,” với những hình ảnh ghê rợn, mô tả cảnh giết hại những sinh viên và cư dân vô tội, sinh động như hoạ sĩ Picasso đã mô tả cuộc thảm sát của phát-xít Đức ở thị trấn Guernica trong bức tranh nổi tiếng của ông.
Không có cơ hội để xuất bản bài thơ này ở Trung Quốc, Liệu Diệc Vũ thực hiện một cuốn băng ghi âm, trong đó ông tự đọc “Thảm Sát” với giọng ngâm tụng và kêu gào như trong các lễ cầu vong của Trung Quốc để gọi hồn người chết. Cuốn băng ghi âm này được lưu hành rộng rãi qua các kênh ngầm ở Trung Quốc. Trong một bài thơ khác viết vào thời điểm đó, ông đã mô tả tâm trạng phẫn uất của mình khi không thể phản kháng bạo quyền.
“Mi ra đời với linh hồn của kẻ ám sát,
nhưng đến lúc cần ra tay,
thì mi luống cuống, chẳng làm gì cả
Mi chẳng có lưỡi gươm nào để rút ra
Thân xác mi một vỏ gươm rỉ sét
Hai tay mi run bần bật,
Xương cốt mi mục rữa,
Đôi mắt cận thị của mi không thể bắn ra như họng súng.”
Cuốn băng ghi âm “Thảm Sát” cùng với một cuốn phim với nhan đề “Cầu Hồn” mà ông đã cùng với bạn bè thực hiện sau đó đã bị công an Trung Quốc chú ý. Tháng 2 năm 1990, khi ông đang bước lên một chuyến tàu để đi đến Bắc Kinh, thì công an đã vồ lấy ông. Sáu người bạn thơ văn, cùng người vợ đang mang thai của ông, cũng bị bắt giam cùng lúc vì họ đã tham gia trong dự án làm phim của ông. Vì vai trò đầu tàu, Liệu Diệc Vũ bị kết án 4 năm tù.
Bản án tù năm 1990 đã trở thành một chương khẳng định trong cuộc đời của Liệu Diệc Vũ. Bị cách ly và trải qua những cơn trầm cảm trong 4 năm tù ngục, ông đã nổi loạn chống lại nội quy nhà tù, để rồi lại bị hành hạ tồi tệ hơn: ông bị đánh bằng dùi cui điện, bị treo lên, bị còng tay và bị phơi nhiều giờ dưới ánh nắng hè gay gắt. Có lần, ông bị trói quặt hai tay ra sau lưng suốt 23 ngày trong buồng biệt giam cho đến khi ung nhọt phủ đầy cả hai nách của ông. Ông bị suy sụp tinh thần trầm trọng và đã cố gắng tự sát hai lần. Ông nổi tiếng là “gã điên nặng” trong đám tù nhân.
Năm 1994, nhờ áp lực quốc tế, Liệu Diệc Vũ được phóng thích 50 ngày trước khi hết hạn tù (chính quyền Trung Quốc tuyên bố rằng ông đã được tưởng thưởng cho hành vi tốt). Ông về nhà thì mới biết rằng vợ ông đã bỏ đi, mang theo đứa con. Hộ khẩu của ông trong thành phố đã bị hủy bỏ, khiến ông không thể tìm việc làm và có nguy cơ bị trục xuất về nông thôn. Bạn bè văn nghệ cũ xa lánh ông vì sợ hãi. Tài sản duy nhất còn lại của ông là một cây sáo mà ông đã tập thổi ở trong tù. Liệu Diệc Vũ lang thang trên các đường phố náo nhiệt ở Thành Đô, và bắt đầu sống như một nhạc sĩ vỉa hè.
Để mưu sinh, Liệu Diệc Vũ nhận làm những việc lặt vặt trong những quán ăn, nightclub, tiệm trà và nhà sách. Nhưng cuộc sống dưới đáy xã hội đã mở rộng tầm nhìn để ông viết cuốn sách về những người ngoài lề xã hội mà ông quen biết. Các cuộc trò chuyện với những bạn tù và những người trên đường phố đã giúp ông hoàn thành cuốn 中國底層訪談 Trung Quốc để tằng phỏng đàm lục (“Bản ghi lại những cuộc hỏi chuyện dưới đáy xã hội Tàu”).
Trong số 60 bài phỏng đàm được chọn cho cuốn sách của ông, có một kẻ khóc mướn chuyên nghiệp, một tay buôn người, một kẻ sát nhân, một người ăn xin, một thầy bói, một kẻ trộm, một người bất đồng chính kiến, một người đồng tính luyến ái, một tên ma cô, một cựu địa chủ, một giáo viên và một người theo Pháp Luân Công. Cũng như bản thân tác giả, tất cả những người này, hoặc bị ném xuống đáy xã hội trong các cuộc thanh trừng chính trị vào thời của Mao Trạch Đông, hoặc bị chèn kẹt trong những đổi thay hỗn loạn của xã hội Trung Quốc ngày nay.
Các bài phỏng đàm này vừa mang tính văn học vừa mang tính báo chí – được tái dựng hơn là chép lại đúng theo nguyên văn những lời đối thoại. Vì những cuộc phỏng đàm đòi hỏi sự nhạy cảm và kiên nhẫn tối đa, nên đôi khi ông gạt bỏ những công cụ thường dùng như chiếc máy thu âm hay cuốn sổ ghi chép. Dù ở trong tù hay trên đường phố, Liệu Diệc Vũ luôn luôn dành khá nhiều thì giờ cho các đối tượng của ông, cố gắng thu phục sự tin cậy của họ trước khi bắt đầu bất cứ một cuộc phỏng đàm nào. Mỗi câu chuyện có thể cần ba hay bốn lần đối thoại ở những dịp khác nhau. Chẳng hạn, ông đã phỏng đàm với một người đạo tì bảy lần và sau đó tích hợp tất cả những mẩu đối thoại lại thành một bài.
Năm 2001, Dương Tử Xuất Bản Cục công bố một văn bản đã bị “sát trùng” (kiểm duyệt) và rút ngắn của cuốn sách này và ngay lập tức nó đã trở thành best seller. Dư Kiệt, một nhà phê bình văn học độc lập nổi tiếng ở Bắc Kinh đã gọi cuốn sách là “một bản tường thuật điều tra xã hội học, có thể xem như là một biên bản mang tính lịch sử của Trung Quốc đương đại.”
Kể từ khi Cộng Sản nắm chính quyền vào năm 1949, Liệu Diệc Vũ là người đầu tiên đã giới thiệu chữ “để tằng” (tầng đáy của xã hội) cho cả nước biết. Ý nghĩa của chữ “để tằng” là phản đề đối với phong trào Cộng Sản của Mao Trạch Đông, một phong trào rêu rao nỗ lực tạo nên một xã hội bình đẳng, không có đĩ điếm, ăn mày, các băng đảng xã hội đen và những kẻ nghiện ma tuý.
Vào mùa hè năm 2004, ba cuộc phỏng đàm từ cuốn sách của Liệu Diệc Vũ — kẻ khóc mướn chuyên nghiệp, tay buôn người và kẻ quản lý nhà vệ sinh công cộng — đã xuất hiện lần đầu tiên bằng tiếng Anh trên tạp chí Paris Review, số báo đầu tiên dưới sự điều hành của chủ bút mới, Philip Gourevitch.
Sau số báo ra mắt của Paris Review, trong năm 2008 nhà xuất bản Pantheon chọn 27 câu chuyện và ấn hành dưới nhan đề The Corpse Walker, Real-Life Stories: China From the Bottom Up (“Xác chết biết đi, những câu chuyện có thật: Trung Quốc từ dưới đáy nhìn lên”).
Trong lúc đó, Liệu Diệc Vũ tiếp tục xuất bản các bài phỏng đàm, tiểu luận và thơ trên các trang mạng tiếng Hoa ở nước ngoài và tác phẩm của ông đã trở nên phổ biến trong giới độc giả trẻ tại Trung Quốc đại lục. Ông nói, “Tôi đang cố gắng vượt qua, dần dần từng chút một, nỗi sợ hãi đã ăn sâu trong tôi. Bằng cách đó, tôi cố gắng giữ gìn sự tỉnh táo và tự do nội tại của mình.”

_____
Trích dịch từ bài thơ
THẢM SÁT

Kính tặng những người đã bị thảm sát vào ngày 4 tháng 6 năm 1989

Một cuộc thảm sát đang xảy ra
Trên quốc gia không tưởng này
Nơi ông thủ tướng bị cảm lạnh
Thì dân chúng phải hắt hơi theo
Lệnh thiết quân luật được ban hành và thực thi
Bộ máy nhà nước rụng răng già nua đang cán nát
Những người dám chống lại và từ chối hắt hơi
Bị đánh gục bởi đạo quân hàng ngàn tên
                          là những người tay không tấc sắt
Bọn sát nhân có vũ trang đang bơi trong máu
Đốt rụi những ngôi nhà mà cửa sổ và cửa lớn đều bị khoá kín
Hãy đánh bóng những đôi giày lính của các ngươi bằng tà váy của một thiếu nữ bị giết
Chủ nhân của những đôi giày lính ấy không hề run tay
Những gã người máy không tim không hề run tay
Não của chúng được lập trình với một chỉ lệnh
Một lệnh điều khiển sai lầm
Nhân danh quốc gia để chặt què hiến pháp
Nhân danh hiến pháp để làm thịt công lý
Nhân danh các bà mẹ để bóp mũi con cái
Nhân danh con cái để chơi vào lỗ đít của những người cha
Nhân danh vợ để giết chồng
Nhân danh công dân để đánh bom thành phố
Nổ súng, nổ súng, nổ súng
Bắn phụ nữ, bắn sinh viên và trẻ em
Bắn thợ thuyền, giáo viên và những người bán rong
Ria đạn cho nát thân thể họ
Nhắm vào những gương mặt tức giận, những gương mặt kinh hoàng, những gương mặt méo mó, những gương mặt chán chường và những gương mặt thanh thản
Bắn xả láng
Vẻ đẹp phù du của những khuôn mặt đó tiến về phía các ngươi như những ngọn triều dâng
Vẻ đẹp vĩnh cửu của những gương mặt đó hướng tới thiên đàng và địa ngục
Vẻ đẹp của việc biến con người thành loài dã thú
Vẻ đẹp của sự dụ dỗ, cưỡng hiếp và chà đạp lên những công dân của các ngươi
Loại trừ cái đẹp
Xoá bỏ hoa, rừng, trường học, tình yêu, và không khí tinh khiết
Bắn, bắn và bắn...
Tôi khoan khoái ngây ngất
Bắn nát cái đầu đó
Đốt rụi tóc và da
Cho phọt óc
Cho linh hồn tuôn ra
Tung toé trên cầu, trên hàng rào và đường phố
Tung toé lên trời
Máu trở thành những ngôi sao và những ngôi sao đang tuôn chạy
Trời và đất đảo ngược
Những chiếc mũ đồng sáng loé như sao
Những binh đoàn đang chạy ra khỏi mặt trăng
Bắn, bắn, bắn
Con người và các vì sao đang rơi xuống và chạy tán loạn
Không thể phân biệt được, đâu là con người và đâu là các vì sao
Bọn lính đuổi theo họ vào trong mây, vào các vết nứt trên mặt đất...

Chúng tôi sống dưới ánh mặt trời rạng rỡ
Nhưng mắt chúng tôi đã mù
Chúng tôi bắt gặp chính mình trên một đường phố, quá rộng
Nhưng không ai có thể sải bước
Chúng tôi đứng trong một đám đông, lẽ ra rất huyên náo
Nhưng người ta mở miệng mà không thốt nên lời
Chúng tôi bị cái khát hành hạ
Nhưng mọi người đều khước từ nước uống.

Cuộc thảm sát chưa từng có này
Bọn sống sót là những thằng chó đẻ.


--------------
Bản Việt ngữ của bài thơ “Thảm sát” được dịch từ bản Anh ngữ của Wen Huang.
 
Nguyên tác bài viết của Bill Marx: World Books: Poet Liao Yiwu — Memories of the Tiananmen Square “Massacre”, đăng trên tạp chí The Arts Fuse.


Phần nhận xét hiển thị trên trang