Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 2 tháng 2, 2015

Đọc và suy nghĩ kỹ bài của một đại tá viết về đại tướng LĐA sau nhiều đồn đãi Hội nghị Thành Đô:

Đại tướng Lê Đức Anh với vấn đề Trung Quốc và biển Đông

LTS: Có những bước ngoặt của cách mạng Việt Nam đã đặt lên vai một vị tướng một trọng trách lớn lao: Vừa tổ chức và chỉ huy quân sự, vừa phải thực thi sứ mệnh ngoại giao-một nhiệm vụ quan trọng và cơ mật; Phẩm chất, trí tuệ và bản lĩnh đã giúp ông hoàn thành xuất sắc. Cuộc sống cách mạng đã hun đúc ông trở thành một một vị tướng chiến lược tài đức vẹn toàn. Nhân dịp Kỷ niệm 85 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, báo VietNamNet xin trân trọng giới thiệu một bài viết về ông: Đại tướng Lê Đức Anh.Ba lần đi Trung Quốc – Một lần ấn tượng sâu
Năm 1954, ông Lê Đức Anh có mặt trong đội ngũ hàng vạn cán bộ Miền Nam tập kết ra miền Bắc theo “Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954”. Những ngày đầu, ông được giao làm Sư đoàn Trưởng Sư đoàn bộ binh 330, đóng quân ở Thanh Hóa; nhưng chỉ mấy tháng sau ông lại được điều động về Bộ tổng Tham mưu làm Phó cục trưởng Cục Tác chiến. Ông Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu Trưởng đa trực tiếp giao nhiệm vụ cho ông nghiên cứu kế hoạch phòng thủ bờ biển từ Quảng Ninh vào đến Quảng Bình.
Đại tướng, Lê Đức Anh, Đại tá Khuất Biên Hòa, Trung Quốc, Giang Trạch Dân, Biển Đông, Mao Trạch Đông
Đại tướng Lê Đức Anh trong một lần trao đổi với tác giả bài viết, đại tá Khuất Biên Hòa. 
 
Lần đầu tiên ông đặt chân tới đất nước Trung Quốc là thời điểm giữa năm 1955; lúc đó, Bộ tổng Tham mưu cử một đoàn cán bộ đi sang Trung Quốc nghiên cứu học tập về phòng thủ bờ biển. Trong đoàn có cán bộ của hai ngành Tác chiến và Công binh, ông Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu Trưởng cử ông Lê Đức Anh, Phó cục trưởng Cục Tác chiến làm Trưởng đoàn.

Lần thứ hai là vào khoảng gần cuối năm 1957, ông là thành viên trong đoàn cán bộ Bộ tổng Tham mưu do ông Văn Tiến Dũng dẫn đầu, đi sang Trung Quốc bàn về trang bị cho quân đội ta. Sang tới nơi, ông Dũng chủ động nói: “Ở miền Nam Việt Nam hôm nay, quân Mỹ-ngụy dùng xe bọc thép, máy bay trực thăng, tàu thủy, xả súng bắn giết đồng bào. Chúng tôi cần các đồng chí giúp đỡ - cho chúng tôi trung liên, đại liên và súng DKZ cho bộ đội và nhân dân chiến đấu đánh trả”. Nhưng trưởng đoàn phía Trung Quốc, tên là Thành, là Tổng tham mưu Trưởng ngồi mần thinh không nói gì. Và chuyến đi đó, họ chỉ cho ta toàn súng trường K44 bắn phát một, họ bảo để trang bị cho dân quân du kích phòng chống càn.

Phải đến lần thứ ba sang Trung quốc mới thật sự gây ấn tượng mạnh mẽ đối với ông.
Tháng 11 năm 1963, theo sự sắp xếp của tổ chức, ông Lê Đức Anh bí mật đi trên “Con tàu Không số” trở về chiến trường Nam Bộ, làm Tham mưu Trưởng Bộ chỉ huy Quân giải phóng miền Nam (lúc đó có mật danh là B2).
 
Đến cuối năm 1966, ông được Trung ương gọi ra miền Bắc báo cáo tình hình chiến trường. Ngay sau đó, hai ông Văn Tiến Dũng và Lê Đức Anh được Bí thư Thứ Nhất Lê Duẩn cử đi trong đoàn cán bộ do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang Trung Quốc.
Từ miền Nam ra Bắc và cả khi ông đi cùng đoàn sang Trung Quốc, đều đi bằng máy bay của Hoàng gia Cam-phu-chia; vì lúc đó miền Bắc đang bị máy bay của đế quốc Mỹ ném bom phá hoại, việc đi lại rất khó khăn. Máy bay của Hoàng gia Cam-phu-chia đưa đoàn cán bộ sang Quảng Châu, rồi từ Quảng Châu đi Tô Châu để gặp Chủ tịch Mao Trạch Đông.
Cuộc tiếp kiến này có đại diện Chính phủ, đại diện Bộ Quốc phòng và đại diện của Bộ Ngoại thương Trung Quốc là ông Lý Cường, Thứ trưởng; phía Bộ Ngoại thương Việt Nam là ông Lý Ban, Thứ trưởng.
Khi tiếp kiến, Chủ tịch Mao Trạch Đông hỏi không nhiều, rất ngắn gọn là đằng khác: “Quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam đông, tư tưởng của người dân và chiến sỹ Việt Nam thế nào?”. “Hiện nay, cách mạng ở miền Nam của các đồng chí có khó khăn gì?” Khi đó Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói: “Đồng chí Lê Đức Anh mới ở miền Nam ra, hãy trả lời Mao Chủ tịch”. Ông Lê Đức Anh liền trả lời thẳng vào hai câu hỏi của Chủ tịch Mao – “Thứ nhất về tư tưởng, Mỹ vào đông vậy chứ đông hơn nữa thì bộ đội và nhân dân miền Nam cũng quyết đánh. Hai là, về khó khăn, vừa qua và hiện tại tất cả là tự lực, súng đạn tự tạo và súng trường Bá đỏ K44 sản xuất theo kiểu mẫu trước Đại chiến thế giới lần thứ nhất, có gì đánh nấy. Nhưng hiện nay có khó khăn rất lớn là xe tăng và máy bay của Mỹ rất nhiều nhưng Việt Nam thiếu vũ khí chống tăng, súng bắn máy bay và đánh tàu thủy; thiếu đô-la để mua gạo, vì từ trước đến nay cách mạng ở miền Nam Việt Nam vẫn mua gạo từ Cam phu chia và Thái Lan là chủ yếu, mà mua bên đó phải mua bằng đồng đô-la”.
Nghe xong, Mao Chủ tịch liền chỉ tay vào các quan chức, những người dưới quyền ông đang có mặt: “Hãy giải quyết cho các đồng chí ở miền Nam Việt Nam súng đạn và tiền!” . Lúc đó, ông Lê Đức Anh thầm nghĩ – “ông chỉ tay và nói thế thôi, chứ cụ thể thì nếu có được thì chắc còn lâu”. Nào ngờ, xong việc, đoàn Việt Nam về liền, khi về đến Việt Nam thì cũng được tin Đảng cộng sản, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc đang tích cực thực hiện chỉ đạo của Mao Chủ tịch. Và sau đó không lâu, vũ khí được chở thẳng từ Trung Quốc sang cảng Xi-ha-núc-vin; từ Xi-ha-núc-vin đưa tới Kra-chia, Công-pông-chàm rồi chở về biên giới Việt Nam rất nhanh. Tiền Đô la thì được đưa theo một “tuyến đường đặc biệt”. Khi ông Lê Đức Anh trở về Miền Nam thì đã thấy có súng, đạn và gạo – Khối lượng vật chất này đã thật sự nâng nhanh sức mạnh chiến đấu cho bộ đội và nhân dân miền Nam.

Tháo ngòi nổ xung đột biên giới Việt – Trung; Từ phát kiến ý tưởng đến thực thi kế sách đưa Việt Nam thoát ra khỏi vòng xoáy xung đột của các nước lớn
Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ Sáu, từ ngày 15 đến 18/12/1986. Đại hội VI là mốc son lịch sử trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của Đảng ta. Tại Đại hội này, Đảng đã đề ra Đường lối Đổi mới và quyết định khởi xướng sự nghiệp Đổi mới đất nước. Đại hội đã bầu ông Nguyễn Văn Linh làm Tổng bí thư. Đoàn đại biểu Quân đội có ba tướng: Lê Đức Anh, Nguyễn Quyết và Đoàn Khuê được bầu vào Bộ Chính trị. Sau Đại hội, Trung ương Đảng và Quốc hội đã quyết định bổ nhiệm ông Lê Đức Anh làm Bộ trưởng Quốc phòng, ông Đoàn Khuê làm Tổng tham mưu Trưởng, ông Nguyễn Quyết làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Lúc này, cuộc xung đột quân sự vẫn đang diễn ra trên biên giới Việt-Trung vô cùng căng thẳng.
Ngay sau đại hội, đầu năm 1987, có cuộc họp "Bộ Chính trị hẹp" tại Nhà Con rồng-Bộ Quốc phòng. Tại đây, sau hai chuyến đi thị sát trực tiếp toàn tuyến biên giới phía Bắc trở về, tướng Lê Đức Anh đã báo cáo toàn bộ tình hình biên giới phía Bắc, báo cáo những suy nghĩ của ông về Mỹ, Trung Quốc, về các nước ASEAN, liền sau đó, ông giải trình những đề xuất của mình. Ông nói: “Trên biên giới, phía bên kia họ bắc loa chửi ta và kể công, nếu bộ đội ta cứ chửi lại, bắn lại thì không làm được công tác tư tưởng. Thà rằng họ đánh sâu vào nội địa ta như Pôn Pốt đánh ta ở biên giới Tây Nam thì ta nói họ là xâm lược và ta kêu gọi chống xâm lược thì dễ. Đằng này qua thăm dò, khảo sát trực tiếp, qua tin tức và phân tích tình hình nhiều mặt, tôi thấy rằng họ không có ý đồ xâm lược, mà họ gây xung đột biên giới với ta nhằm một mục đích khác, ngoài ý đồ xâm lược. Còn Mỹ, sau thất bại chiến tranh Việt Nam, Mỹ câu kết với phản động quốc tế, dùng Pôn Pốt ở Cam-phu-chia đánh ta để trả thù, làm cho ta suy yếu và ngăn chặn sự ảnh hưởng của Việt Nam với khu vực, nhưng đến bây giờ ý đồ này cũng đã thất bại. Trong khi Mỹ chưa có chính sách gì mới đối với Việt Nam là thời cơ ta có thể tiến hành phá bao vây cấm vận. Các nước ASEAN gần đây cũng đã có sự phân hoá và thay đổi. Trước đây Lý Quang Diệu nói ta rất dữ, gần đây đã khác. Thái Lan cũng đã thay đổi, nhất là từ khi Xạt-xai Xu-ha-vẳn lên làm Thủ tướng. Có khá nhiều ban lãnh đạo của các nước ASEAN lệ thuộc Mỹ và Trung Quốc. Bây giờ ta tìm cách gia nhập vào ASEAN để nâng tinh thần độc lập tự chủ của họ lên, họ sẽ dần cảm thấy không bị lệ thuộc vào Trung Quốc và Mỹ nữa”.
Nghe ông nói, mọi người rất hào hứng và tán thành, tuy nhiên cũng có ý kiến còn băn khoăn: - Liệu vào ASEAN ta có lôi kéo được họ không hay lại bị họ lôi kéo? Với lại, nếu xét ở khía cạnh kinh tế thì hiện các nước trong ASEAN đang giàu và mạnh hơn ta nhiều lần, liệu họ có chịu không? Chưa chắc họ chịu mình đâu.
Tướng Lê Đức Anh nói: “Nếu chỉ vì mục đích kinh tế thì khó, vì ta đang nghèo về kinh tế. Nhưng ta có hai cái "giàu" là giàu về chính trị và về địa lý, giàu về tiềm năng con người. Ban đầu về kinh tế có thể ta chưa có thế và chưa có lợi gì; nhưng về chính trị thì ta có thế của một nước độc lập có chủ quyền, mà nền độc lập của ta không phải nói suông, cả dân tộc ta đã đổ bao nhiêu mồ hôi, xương máu và trí tuệ mới có được. Lòng tự trọng, tự tôn dân tộc thì anh nào cũng có. Ta vào thì họ sẽ có chỗ dựa về chính trị để họ vươn lên vì từ trước đến nay họ thường xuyên bị nước lớn chi phối. Họ cần ở ta là cần về chính trị trước tiên, mà ta lại có "vốn lớn" về chính trị. Trong khối ASEAN tuy có một số nước trước đây rất "căng" với ta, nhưng gần đây đã có những dấu hiệu thay đổi. Và cũng có những nước sẽ ủng hộ ta vào, những nước này từ lâu vẫn có thiện cảm với Việt Nam, từng đồng tình và ủng hộ Việt Nam chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc, như Indonesia chẳng hạn. Ta sẽ đặt chân vào ASEAN từ cánh cửa của những nước như vậy. Nhưng những bước đi đầu tiên phải hết sức bí mật và thận trọng. Nếu ta không vào thì Mỹ và một số nước lớn sẽ tiếp tục phá ta, thậm chí tiếp tục dùng một số nước ASEAN để phá ta. Còn nếu ta vào được thì họ không phá được ta mà ngược lại, ta sẽ là chỗ dựa về chính trị để các nước ASEAN vươn lên”.
Khi họp bàn, các thành viên của Bộ Chính trị đều nói: "Thế thì được!" Không có ai nói khác. Có người còn hứng khởi: "Như vậy có tư tưởng rồi, hệ thống rồi, được lắm!" Lúc đó ông Phạm Văn Đồng nói: "Việc này bên Ngoại giao làm là đúng chức năng rồi, mà Bộ Quốc phòng phải phối hợp; nhưng việc lớn này cả Đảng và Nhà nước cùng làm mới xong". Ông Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng Ngoại giao cũng nói rất hăng hái: "Bây giờ các anh cứ quyết, tôi xin làm ngay!" Ông Trường Chinh bảo: "Bộ Ngoại giao làm là tất nhiên rồi. Nhưng trước hết đề nghị anh Lê Đức Anh suy nghĩ cách làm, biện pháp cụ thể, và đề nghị giao cho anh Đức Anh làm cái đoạn "mở đầu"". Mọi người nhất trí. Tướng Lê Đức Anh nói: “Tôi xin làm "mở đầu" với Trung Quốc!”; và ông nói vui: “Có chết thì tôi xin chết trước!…”.
Trong suy nghĩ, tướng Lê Đức Anh dự kiến mình sẽ mở "hai luồng thăm dò": Một là thăm dò qua cộng đồng người Hoa kiều ở khu vực Chợ Lớn thành phố Hồ Chí Minh, vì từ xưa đến nay, nói chung cộng đồng người Hoa kiều ở các nước trên thế giới, họ có truyền thống đoàn kết bao bọc nhau rất hay, có tổ chức chặt chẽ và có sự quan hệ mật thiết với chính phủ của Trung Hoa lục địa. Bởi vậy gặp gỡ, tiếp xúc, thăm dò từ khối Hoa kiều này thì có thể "bắt mạch" được tư tưởng của Chính phủ nước họ. Hai là thăm dò qua đường Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội.
Khoảng mươi ngày sau, tướng Lê Đức Anh vào gặp Thành ủy TP Hồ Chí Minh. Ông Võ Trần Chí, Bí thư Thành ủy nói với Ban Hoa vận của Thành ủy tiến hành mời và gặp gỡ một số người đại diện và có uy tín trong cộng đồng bà con người Hoa của khu vực Chợ Lớn. Cuộc gặp giữa tướng Lê Đức Anh với đại diện bà con Hoa kiều đã diễn ra tại trụ sở của Thành ủy trong không khí thân tình và thẳng thắn. Có 8 Hoa kiều, cùng dự có một đồng chí đại diện Thành ủy.
Mở đầu, tướng Lê Đức Anh điểm lại quá trình quan hệ hữu nghị của Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước Trung Quốc-Việt Nam. Ông cũng nói có những đồng chí người gốc Việt Nam nhưng đã tham gia Giải phóng quân Trung Quốc, trở thành Đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc. Cũng có khá nhiều người gốc Trung Quốc là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Rồi ông nói về Cộng đồng người Hoa suốt mấy chục năm qua định cư, làm ăn sinh sống tại Việt Nam đã tham gia, đóng góp vào hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, chính ông đã trực tiếp chứng kiến có những bà mẹ người Hoa đã nuôi dấu và cứu chữa thương binh là bộ đội Giải phóng ngay tại nhà mình, bất chấp nguy hiểm, đó là những nghĩa cử cao đẹp của bà con Hoa kiều tại khu vực Chợ Lớn này…” Người Việt và người Hoa, Trung Quốc và Việt Nam, hai nước bấy lâu vẫn đoàn kết, hữu nghị là chuyện bình thường. Vừa rồi xảy ra chuyện Trung Quốc và Việt Nam lại xung khắc nhau là chuyện không bình thường. Vậy thì yêu cầu bà con người Hoa hãy góp sức mình để hàn gắn lại tình hữu nghị, để xoá bỏ cái không bình thường này đi. Tình hữu nghị Trung-Việt là truyền thống tốt đẹp và bền lâu, chúng ta cần làm cho nó bền vững và phát triển”.
Khi nói lên những điều này, ông thấy họ nghe và nét mặt họ rạng rỡ, phấn chấn lắm. Nói xong, khi ông đề nghị họ phát biểu, họ nói rằng: "Từ lâu rồi chúng tôi cũng muốn như thế. Việt Nam và Trung Quốc cứ tốt như hồi xưa với nhau, giúp nhau như anh em trong nhà thì chúng tôi sung sướng lắm. Sống trên đất Việt Nam, chúng tôi cũng muốn chăm lo xây dựng gia đình và góp công xây dựng đất nước Việt Nam, quê hương thứ hai của mình …"
 
Dịp này, Ban Đối ngoại Trung ương có chỉ đạo bộ đội ta ở một số chốt giáp đường biên đưa thuốc lá, thuốc lào sang mời bộ đội bên Trung Quốc. Họ rất phấn khởi. Khi anh em mình hỏi vì sao cứ bắn pháo sang Việt Nam thì họ chỉ lên trời, ý nói tại trên ra lệnh thì họ phải làm chứ trong lòng họ không muốn hai bên bắn nhau. Qua đó ta hiểu được phần nào của họ.
 
Tiếp xúc với bà con Hoa kiều xong, tướng Lê Đức Anh liền trở ra Hà Nội. Khoảng nửa tháng sau, ông chỉ đạo cho Thiếu tướng Vũ Xuân Vinh, Cục trưởng cục Đối ngoại quân sự đi mời Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy đến dùng cơm với ông tại nhà khách Bộ Quốc phòng, ở số 28 phố Cửa Đông. Khi hai người, chủ và khách bắt tay nhau thì đồng chí Cục trưởng ý tứ khép cửa lại và bước ra phòng ngoài. Cuộc gặp tuy bí mật nhưng không khí thoải mái và không ai cảm thấy có gì căng thẳng. Hai người vừa ăn cơm vừa nói chuyện. Tướng Lê Đức Anh điểm lại quá trình quan hệ hữu nghị giữa hai nước và nói rằng Trung Quốc giúp Việt Nam về cách mạng nói chung, về quân sự nói riêng là rất quan trọng. Từ chiến dịch Biên Giới năm 1950, Hồ Chủ tịch lên tận nơi để chỉ đạo, Mao Chủ tịch đã cho hai đồng chí Trần Canh, Vi Quốc Thanh cùng Đoàn cố vấn Trung Quốc sang giúp đỡ bộ đội Việt Nam về cách đánh chiến dịch như thế nào. Ở Điện Biên Phủ, nếu không có lựu pháo, vũ khí đạn dược và quân trang quân dụng của Trung Quốc giúp thì Việt Nam khó giành được thắng lợi. Rồi những năm đánh Mỹ, có những đoàn cán bộ, những đoàn học sinh miền Nam được gửi ra Bắc rồi đưa sang Trung Quốc học tập. Rồi chuyện Quân đội Việt Nam hành quân vượt Thập Vạn Đại Sơn theo điện yêu cầu của đồng chí Chu Ân Lai sang đánh dẹp quân Tưởng, giải phóng vùng đất Ung-Long-Khâm để đón đại quân Nam Hạ của Giải phóng quân Trung Quốc v.v…
Rồi ông khẳng định: “Đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, công lao của Việt Nam là chính nhưng là công chung của hai Đảng, hai nước. Vậy mà bây giờ tại sao lại xung đột với nhau. Việc này không phải do dân và bộ đội gây ra, mà do lãnh đạo của hai nước gây ra. Đề nghị đồng chí Đại sứ báo cáo với lãnh đạo của Trung Quốc. Tôi mới nhận chức nhưng cũng sẽ báo cáo với lãnh đạo của Việt Nam; để lãnh đạo hai nước gặp nhau giải quyết việc này”. Ông cũng kể lại với Đại sứ Trương chuyến đi với Thủ tướng Phạm Văn Đồng sang Tô Châu gặp Mao Chủ tịch. Khi Mao Chủ tịch hỏi có khó khăn và cần gì, ông nói rằng cần súng đạn và tiền để mua gạo, thì một tháng sau chiến trường Nam Bộ đã nhận được vũ khí và tiền … Khi nghe nói vậy thì ông thấy Đại sứ Trương mừng lắm, nét mặt phấn khởi nói rằng: "Thế thì tôi phải về nhanh để báo cáo với lãnh đạo bên tôi…"

Đến đây, sứ mệnh "mở luồng" và "thăm dò" mà Bộ Chính trị tin cậy giao cho Tướng Lê Đức Anh, được xem như đã hoàn tất. Quả nhiên sau đó, trong chuyến đi thăm Singapore (tháng 7/1990), Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng đã "đánh tiếng" là "Sẵn sàng bình thường hoá quan hệ với Việt Nam". Thời điểm này ta cũng đã hoàn tất việc rút toàn bộ Đoàn chuyên gia và Quân tình nguyện Việt Nam ở Camphuchia về nước. Thực chất Mỹ đã thua ta tại "Ván bài Camphuchia" nhưng ở thời điểm này Mỹ không tỏ ra cay cú mà ngược lại, có phần cám ơn Việt Nam vì hai lẽ, một là đã làm tan rã chế độ diệt chủng Pôn-Pốt mà cả loài người nguyền rủa, hai là việc rút toàn bộ quân Việt Nam về nước đã có tác động tích cực trong việc Liên Xô rút quân ra khỏi Apghanistan, điều mà Mỹ rất mong muốn.
  
Tuy nhiên những sự kiện trên là những dấu hiệu rất cơ bản để tiến tới việc bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, nhưng đó là sự kiện diễn ra ở cấp lãnh đạo cao nhất của hai Đảng và hai Nhà nước (Tổng Bí thư và Thủ tướng Chính phủ), là những cuộc gặp hẹp và bí mật. Bởi vậy cán bộ ở cấp dưới, nhất là ở cơ sở và bộ đội hai bên đường biên không thể biết, do đó hàng ngày trên tuyến biên giới vẫn chưa có sự thay đổi lớn theo xu hướng hoà bình hữu nghị mà vẫn duy trì không khí xung đột căng thẳng; tuy lúc này phía bên kia không còn cho quân tiến công sang, nhưng bộ đội của họ vẫn bắc các dàn loa phóng thanh chửi rủa với những lời lẽ rất tệ hại nặng nề và vẫn bắn pháo sang bên đất của ta. Nhất là ở Quảng Ninh, họ chửi và bắn pháo rất nhiều. Anh em mình nghe rát tai, tức quá thì cũng chửi lại và nạp đạn pháo bắn lại.
Khi lên thị sát biên giới, tướng Lê Đức Anh nhắc nhở thì anh em thôi, không bắn, không chửi lại nữa. Ông nói với anh em: “Chừ họ chửi một, các đồng chí chửi lại mười; họ bắn một, các đồng chí bắn lại mười, cứ như thế này thì không làm được công tác tư tưởng, không giải quyết dứt điểm được tình hình”. Anh em cán bộ hỏi: "Vậy thưa Thủ trưởng, giờ ta làm gì để giải quyết được tình hình?". Ông bảo, họ bắc loa chửi ta thì ta nhắc lại truyền thống và quá trình đoàn kết hữu nghị giữa hai nước; họ bắn sang ta bằng đạn pháo, thì ta "bắn lại" bằng tình hữu nghị! Nhất định phải làm mọi cách để nối lại tình hữu nghị, đoàn kết giữa hai đất nước, hai dân tộc Việt-Trung. ở cao điểm Vị Xuyên, bộ đội hai bên nhìn rất rõ nhau vì chỉ cách nhau mấy chục thước. Ông bảo anh em mang thuốc hút và diêm quẹt sang mời họ. Bên họ cũng nhiều anh em nghiện thuốc nên họ phấn khởi lắm. Bộ đội hai bên nói chuyện với nhau và cũng thôi không chửi, không bắn nhau nữa.

Tại một số điểm chốt, ông bảo anh em hãy lui về phía sau một quãng. Cán bộ, chiến sỹ đều nói rằng “Nếu mình lui mà bên kia họ lên thì lo lắm!”. Ông bảo “Cứ rút đi!”. Tiếp đó, ông cho rút từng phần các đơn vị chủ lực về phía sau, về tuyến hai để đưa dân quân, bộ đội địa phương và bộ đội biên phòng lên tuyến một. Lúc đó tâm lý chung của các "Tư lệnh chiến trường" và cán bộ chỉ huy các cấp là lo sợ, không anh nào dám cho chủ lực và các đơn vị dưới quyền mình lui xuống.
 
Một hôm ông đến sở chỉ huy của Sư đoàn 316 thuộc Quân khu 2 ở phía dưới Phố Lu; khi tướng Vũ Lập, Tư lệnh Quân khu kéo đồng chí An là Chỉ huy trưởng Sư đoàn 316 lại gặp riêng ông và hỏi: "Báo cáo Bộ trưởng, đêm qua đồng chí An này đã báo cáo tôi cho đơn vị của đồng chí này lui xuống?!" Ông liền trả lời: “Đúng thế!”, thì tướng Vũ Lập tỏ vẻ sửng sốt, bất ngờ mà nói rằng "Vậy thì xin anh cho văn bản!" Tướng Anh liền bảo đồng chí Phi Long, Cục phó cục Tác chiến: “Viết lệnh để tôi ký liền!”. Thấy thái độ kiên quyết của ông, ông Vũ Lập liền nói vẻ xoa dịu: "Anh lệnh thì chúng tôi chấp hành, dù mệnh lệnh bằng giấy hay bằng miệng cũng chấp hành. Nhưng anh cho giấy để cơ quan còn lưu trữ."
 
Thực chất lúc này, đối với ý định của ông, chưa phải là điều chỉnh bố trí chiến lược, mà ông chỉ thực hiện điều chỉnh sơ bộ, vừa để cho thế phòng thủ biên giới của bộ đội ta có chiều sâu, có thế vững chắc hơn, vừa để thăm dò phía bên kia. Khi trở về Hà Nội, ông đã báo cáo hết tình hình với Bộ Chính trị.

Tiếp đó, cuối tháng 7/1991, tướng Lê Đức Anh được Bộ Chính trị cử làm phái viên của Bộ Chính trị sang Trung Quốc (thực chất là “đi tiền trạm”) bàn bạc những vấn đề cụ thể việc bình thường hoá quan hệ hai nước. Cùng đi có đồng chí Hồng Hà, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương. Sáng ngày 28 bắt đầu khởi hành. Trên đường đi Bắc Kinh, các ông dừng chân ở Nam Ninh, thủ phủ Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây. Ông Triệu Phú Lâm, Bí thư Khu ủy Khu tự trị Quảng Tây và ba cán bộ của Văn phòng Khu ủy; ông Chu Thiện Khanh, Phó trưởng Ban Đối ngoại và ba cán bộ, phiên dịch của Ban Đối ngoại Trung ương Trung Quốc ra đón các ông ở sân bay Nam Ninh. Đây là lần thứ tư trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, ông Lê Đưc Anh sang đất nước Trung Quốc. Dùng cơm trưa ở Quảng Tây xong, các ông đã bay luôn lên Bắc Kinh.
Sáng hôm sau, 29/7, từ 9 giờ đến 12 giờ, ông Kiều Thạch, ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Đảng cộng sản Trung Quốc làm việc với hai ông tại Đại lễ đường. Cùng dự về phía Trung Quốc còn có các ông: Chu Lương và Chu Thiện Khanh, Trưởng và Phó trưởng ban Đối ngoại Trung ương; Chu Sỹ Cầm, Trịnh Quốc Tài là Cục trưởng và Phó cục trưởng Cục 2 Châu á Ban Đối ngoại; Trương Đức Duy, Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam; Từ Đôn Tín, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Cuộc họp này để chuẩn bị cho cuộc hội đàm chính thức với Tổng Bí thư Giang Trạch Dân sau đó. Làm việc họp hành xong, đến 12 giờ 30 thì ông Kiều Thạch và các ông kể trên dự bữa cơm thân mật với hai ông tại phòng Tân Cương của Đại lễ đường.
 
Cuộc hội đàm chính thức diễn ra tại Trung Nam Hải vào buổi chiều ngày 31/7/1991. Phía Trung Quốc do Tổng bí thư Giang Trạch Dân làm Trưởng đoàn. Trước khi hội đàm, có ít phút gặp riêng giữa Tổng bí thư Giang và tướng Lê Đức Anh, có hai phiên dịch của hai Ban Đối ngoại Trung ương Việt Nam và Trung Quốc. Ông Giang Trạch Dân liền nêu một vấn đề khá "hóc búa": "Tới đây lãnh đạo cấp cao hai nước gặp nhau sẽ mở lại trang sử tốt đẹp quan hệ Trung-Việt. Nhưng có một vấn đề quan trọng phải bàn riêng, vì ra họp chung khó nói. Tôi ở địa phương mới lên làm Tổng Bí thư. Trước chưa biết, nhưng nay nghiên cứu lịch sử mới biết là Nam Sa tức Trường Sa là của Trung Quốc". Nghe vậy, tướng Lê Đức Anh liền nói: “Tôi cũng như đồng chí, tôi ở chiến trường mới về Trung ương; khi về có dịp nghiên cứu về lịch sử, địa lý và pháp lý thì thấy Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc lãnh thổ Việt Nam. Bây giờ chúng ta nên cử các cơ quan chức năng nghiên cứu và xác định cụ thể”. Nghe vậy, ông Giang không nói gì nữa; ông cười rồi ông bảo: "Tới giờ rồi, mời đồng chí ra hội đàm!.."
 
Theo Tướng Lê Đức Anh, nhìn chung cuộc hội đàm đạt kết quả tốt; mọi vấn đề đặt ra đều được hai bên thoả thuận, nhất trí, kể cả việc giải quyết vấn đề Campuchia. Có một điểm tốt, khác với cuộc gặp hai bên vào năm trước ở Thành Đô là phía Trung Quốc không còn lấy việc giải quyết vấn đề Campuchia làm điều kiện tiên quyết cho việc bình thường hoá quan hệ Trung-Việt nữa. Lúc đó Khơ-me đỏ đã tan, Trung Quốc cần ta đồng tình việc đưa Quốc vương Xi-ha-núc trở về Campuchia, mà thời điểm đó Xi-ha-núc đang ở Bắc Kinh. Trung Quốc cũng thấy rằng quan hệ hữu nghị với Việt Nam để phát triển là một nhu cầu của cải cách, mở cửa của họ. Khi họ gặp thái độ của ta rất phải chăng thì họ tiếp thu ngay. Họ đang có nhu cầu phát triển, ta cũng có nhu cầu bình thường hoá quan hệ để ổn định và phát triển, hơn nữa bối cảnh Quốc tế lúc này Liên Xô đã tan rã, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũng sụp đổ, do đó hai nước láng giềng xã hội chủ nghĩa Trung-Việt đã gặp nhau như một tất yếu lịch sử.(1)
 
Tiếp đó là những cuộc tiếp xúc trao đổi giữa hai Ban Đối ngoại Trung ương của hai Đảng, giữa Bộ Ngoại giao hai nước và giữa Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm với Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy.
 
Đến tháng 11/1991, nhận lời mời của Tổng bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân và Thủ tướng Quốc vụ Viện Trung Quốc Lý Bằng, đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam do Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt dẫn đầu sang thăm chính thức Trung Quốc từ ngày 5 đến ngày 10. Sau lễ đón và hội đàm, hai bên ra Thông cáo chung và ký kết Hiệp định chính thức quan hệ bình thường giữa hai nước Trung-Việt trên cơ sở 5 nguyên tắc hoà bình, đồng thời ký kết cả quan hệ bình thường giữa hai Đảng, khép lại 15 năm đối đầu căng thẳng.
Lịch sử nhân loại ở những thập niên cuối thế kỷ 20 có ba “cuộc lui quân vĩ đại”. Thứ nhất là quân đội Liên Xô rút khỏi Apghanistan; tuy không có sự xua đuổi nhưng không được người dân “đưa tiễn thắm tình”. Thứ hai là cuộc rút quân về nước trước thời hạn của Quân tình nguyện và đoàn chuyên gia Việt Nam. Cả đất nước Chùa tháp rực rỡ cổng chào, cờ hoa cùng các tầng lớp nhân dân Campuchia lưu luyến đưa tiễn. Trước Hoàng cung, Quốc trưởng Nô-rô-đôm Xi-ha-núc và Vua Sãi Tếp Vông trịnh trọng quàng vòng Nguyệt quế lên cổ Đại tướng, Tổng chỉ huy Quân tình nguyện và Đoàn chuyên gia Việt Nam Lê Đức Anh rồi thống thiết nói lời cảm ơn Đảng, Nhân dân và Quân tình nguyên Việt Nam đã chịu gian khổ, hy sinh, không tiếc máu xương, sức lực, trí tuệ và của cải để cứu Dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng và hồi sinh Đất nước Chùa tháp từ tiêu điều xơ xác trở nên xanh tươi bền vững. Thứ ba là cuộc lui quân, chấm dứt việc đấu súng, đấu trí của hai Quân đội, hai Nhà nước, khôi phục đường biên giới hữu nghị, lập lại quan hệ bình thường giữa hai Quốc gia Việt Nam - Trung Quốc. Có thể nói, trong ba cuộc lui quân vĩ đại này, thì hai cuộc sau đều là “cuộc lui quân Đẹp!”, lui quân vô cùng ngoạn mục, mà người được giao trọng trách lớn lao, vừa thiết kế vừa tổ chức thực hiện nó, chính là Đại tướng Lê Đức Anh!
Đại tá Khuất Biên Hòa
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Canhsat4sao2: KẾT LUẬN ĐIỀU TRA CỦA PHƯƠNG AN,MINH VŨ,NAM TRUNG ...

Canhsat4sao2: KẾT LUẬN ĐIỀU TRA CỦA PHƯƠNG AN,MINH VŨ,NAM TRUNG ...: Ngày 10.2 tới đây, Toà án Nhân dân tỉnh Đồng Nai sẽ đưa Lê Thị Phương Anh, Phạm Minh Vũ và Đỗ Nam Trung theo Điều 258 Bộ luật Hình sự (“Lợi ... Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chủ Nhật, 1 tháng 2, 2015

Tiết lộ về 50 chai rượu “bôi trơn” trong thương vụ TSB Liêu Ninh


Thế giới ) - (Đại lộ) -Tháng 1/1998, Xu Zengping cầm tất cả các tài liệu cần thiết, cùng hơn 50 chai rượu Erguotou lên máy bay tới Ukraine để đàm phán mua tàu sân bay Varyag (nay là Liêu Ninh).
tiet lo ve 50 chai ruou boi tron trong thuong vu tsb lieu ninh
Tờ Want Daily (Đài Loan) cho hay, Xu Zengping, một doanh nhân Hồng Kông, đồng thời là người đã mua tàu sân bay Varyag (sau này trở thành tàu sân bay Liêu Ninh của Trung Quốc) gần đây tiết lộ rằng:
Ông đã mang hơn hơn 50 chai rượu mạnh Erguotou (một nhãn hiệu rượu khá nổi tiếng ở Bắc Kinh) đến mời các quan chức Ukraine, trước khi mua được tàu Varyag với giá 20 triệu USD.
Con tàu này đã trở thành biểu tượng cho tham vọng hải quân của Trung Quốc sau khi được tân trang và đổi tên.
Trong một cuộc phỏng vấn với tờ SCMP (Hồng Kông), Xu cho biết vào tháng 6/1996, ông bắt đầu chuẩn bị cho kế hoạch mua từ Ukraine chiếc tàu sân bay thời Liên Xô đang bị bỏ xó.
Tàu sân bay Liêu Ninh - Ảnh: Reuters
Đầu tiên, Xu lập một công ty ở Kiev và thuê 12 kỹ sư tàu thủy Trung Quốc để tham gia nghiên cứu tại đó.
Từ tháng 1/1988 – 1999, Xu tiến hành đàm phán với các quan chức địa phương.
Theo bài viết, tháng 1/1998, Xu cầm tất cả các tài liệu cần thiết, cùng hơn 50 chai rượu Erguotou lên máy bay tới Ukraine để đàm phán mua tàu sân bay.
Sau khi “bôi trơn” các quan chức Ukraine, nhà máy tại đây đã đồng ý bán con tàu cùng với bản thiết kế.
Khi đó, chính phủ Ukraine ra điều kiện rằng con tàu không được sử dụng vào mục đích quân sự.
“Lúc đó, tôi nói với họ rằng tôi muốn xây một khách sạn và sòng bạc nổi lớn nhất thế giới” – Xu nói.
Tuy nhiên, theo Xu, ngay cả khi vào năm 2012, Liêu Ninh được đưa vào biên chế Hải quân Trung Quốc làm tàu huấn luyện thì điều này cũng không vi phạm hợp đồng.
Xu giải thích:
Theo hợp đồng, tôi không được cải tạo con tàu để phục vụ mục đích quân sự nhưng hợp đồng không đề cập tới việc tôi không thể chuyển nhượng con tàu cho một bên khác vì mục đích đó.
Tôi không phải là người dùng con tàu vào mục đích quân sự”.
xuzengping-ky-net-6530-1421729634.jpg
Ảnh chụp ông Xu Zengping vào năm 2012, khi tàu sân bay Liêu Ninh được chính thức bàn giao cho hải quân Trung Quốc. Ảnh: SCMP
Bên cạnh đó, Xu cho biết khi được kỹ sư trưởng đưa đến nhà máy để kiểm tra động cơ turbine của tàu, ông nhận thấy 4 động cơ đều còn mới, được bôi dầu mỡ cẩn thận, mỗi chiếc đều có giá ban đầu là 20 triệu USD.
Tuy nhiên, một nguồn tin nói với Thời báo Hoàn Cầu (Trung Quốc) rằng, khi ấy, chỉ có nồi hơi và hệ thống trục của tàu là còn nguyên vẹn.
Tất cả hệ thống điều khiển và mạng lưới đường ống dẫn trên tàu đều không hoạt động, giống như “một chiếc máy tính không có bất cứ phần mềm nào, nó chỉ là một đống sắt vụn”.
Theo nguồn tin này, Hải quân Trung Quốc đã phải bỏ ra rất nhiều công sức để khôi phục lại hệ thống của con tàu.
Về điểm này, Xu cũng thừa nhận, nhiệm vụ khôi phục lại chiếc tàu sân bay có rất nhiều việc cần làm.
“Bạn có biết tại sao số hiệu của Liêu Ninh lại là 16 không? Đó là bởi chúng tôi phải mất 16 năm mới hoàn tất việc khôi phục con tàu (từ khi Trung Quốc thực hiện thương vụ đến khi hoàn thành)” – Xu nói.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Huawei- “Con ngựa thành Troy” của Chính phủ Trung Quốc?

Ông Ren Zhengfei, người sáng lập tập đoàn cung cấp thiết bị viễn thông lớn nhất thế giới Huawei, từng là sĩ quan kỹ thuật của quân đội Trung Quốc.
Theo tờ Business Spectator, ông Ren là người rất kín tiếng và không thích được phỏng vấn. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông mới chỉ trả lời phỏng vấn báo giới có 5 lần và lần gần nhất là tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới Davos diễn ra vào tháng 1/2015 vừa qua.
Ông Ren Zhengfei người sáng lập tập đoàn Huawei (Ảnh Reuters)
Trong cuộc phỏng vấn đó, ông Ren, người từng là sĩ quan kỹ thuật của quân đội Trung Quốc, đã trả lời hàng loạt câu hỏi về bản thân, về tập đoàn Huawei cũng như mối liên kết giữa Huawei và quân đội Trung Quốc.
Nhiều câu trả lời của ông khiến giới chức Trung Quốc không khỏi “phật lòng”, trong đó có việc Huawei đã từng phạt hàng nghìn lao động vì gian dối cũng như việc Huawei từng hợp tác với cả quân Chính phủ và phe đối lập trong cuộc nội chiến tại Libya.
 Con ngựa thành Troy của Bắc Kinh?
Một câu hỏi lớn liên quan đến Huawei đó là liệu tập đoàn này có liên hệ gì với quân đội Trung Quốc hay không.
Tuy nhiên, cũng không khó để nhận ra rằng mối liên kết này là hoàn toàn có thể xảy ra trong bối cảnh Trung Quốc đang tiến hành các cuộc “chiến tranh mạng” nhằm vào nước Mỹ và cựu nhân viên tình báo Mỹ Edward Snowden cũng đã tiết lộ rằng Bắc Kinh đã cố đánh cắp bản thiết kết chiếc máy bay chiến đấu hiện đại nhất của Mỹ. Với sự hỗ trợ của Huawei, điều này sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.
Thực tế rằng ông Ren đã phục vụ quân đội Trung Quốc cũng dễ khiến người ta nghi ngờ về “mối quan hệ mờ ám” giữa Huawei và Chính phủ Trung Quốc.
Dù tại Davos, ông Ren đã giải thích về việc mình “tình cờ” trở thành binh sĩ như thế nào.
Theo lời ông Ren, trong những năm 60 và 70 của thế kỷ trước, Trung Quốc thiếu rất nhiều vải và các mặt hàng khác. Chính vì thế Chính phủ Trung Quốc đã nhập máy móc từ Đức về và xây dựng nhiều nhà máy tại các tỉnh vùng xa của nước này.
Do không có các thợ cơ khí lành nghề tại đó, Chính phủ Trung Quốc đã yêu cầu quân đội hỗ trợ việc lắp đặt máy móc và ông Ren đã gia nhập quân đội và trở thành một sĩ quan kỹ thuật điều hành các máy dệt vải nhập từ Đức về.
Sau đó, ông Ren giải ngũ vào những năm 80 của thế kỷ trước, khi Trung Quốc quyết định cắt giảm quân số để tập trung phát triển kinh tế.
Ông Ren cũng chưa bao giờ ngần ngại nói về việc mình luôn ủng hộ Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ông luôn nhắc đi nhắc lại rằng: “Chúng tôi là một doanh nghiệp Trung Quốc và hiển nhiên là chúng tôi phải ủng hộ Đảng, và chúng tôi yêu đất nước mình. Tuy nhiên, chúng tôi không làm tổn hại đến các nước khác và luôn tuân thủ các quy định và luật lệ toàn cầu”.
Người sáng lập Huawei còn giải thích về cấu trúc của tập đoàn này để gạt đi những hoài nghi về việc ai là chủ thực sự của tập đoàn này.
Theo ông Ren: “Chúng tôi có 80.000 cổ đông và họ đều làm việc cho Huawei. Tôi là cổ đông lớn nhất với 1,4% cổ phiếu của tập đoàn”.
“Tôi không nghĩ mình phải giải thích thêm gì về việc chúng tôi là ai. Danh tính thực sự của chúng tôi rồi sẽ được sáng tỏ. Chúng tôi không thể ngừng sản xuất, bán hàng và kiếm tiền. Nếu thế chúng tôi sẽ tồn tại ra sao?”, ông Ren nói.
Huawei đe dọa an ninh quốc gia Mỹ?
Huawei là một trong hai doanh nghiệp của Trung Quốc bị Mỹ đưa vào danh sách đe dọa an ninh quốc gia Mỹ (Ảnh AFP)
Cục tình báo Hạ viện Mỹ đã coi Huawei và ZTE (cũng của Trung Quốc) là mối đe dọa đối với an ninh quốc gia của nước này.
Thậm chị, ông Michael Hadey, một cựu quan chức tình báo Mỹ còn cáo buộc Huawei là gián điệp cho Trung Quốc.
Tuy nhiên, ông Ren, một ngươi rất thích dùng các ẩn dụ, đã so sánh vai trò của Huawei đối vơi mang lưới viễn thông toàn cầu như những chiếc ống nước.
“Nước nằm trong ống chính là Internet. Mọi hoạt động tìm kiếm trên mạng là đều dựa vào Internet”, ông Ren nói, “chúng tôi được trả tiền để làm những chiếc ống nước đó”.
Đối thủ lớn nhất của Huawei? 
Ông Ren đã trải qua mối quan hệ nhiều thăng trầm với Mỹ và ông là một người rất ngưỡng mộ các công nghệ cũng như phương pháp làm việc kiểu Mỹ.
Tuy nhiên, ông cũng đã phải “ngậm đắng nuốt cay” khi Washington quyết định đẩy Huawei ra khỏi thị trường viễn thông Mỹ, vốn được coi là thị trường màu mỡ nhất thế giới.
Ông Ren thừa nhận rằng Mỹ có thể duy trì vị thế hàng đầu về công nghệ của mình trong vài thập kỷ nữa và Huawei cũng không thể làm gì để thay đổi điều này.
Người sáng lập Huawei cũng tiết lộ rằng, tệ nạn tham nhũng lan tràn trong tập đoàn của ông. Theo đó, khoảng 4.000- 5.000 nhân viên của Huawei đã thú nhận việc họ ăn cắp vặt hoặc làm báo cáo giả.
Chính vì vậy, ông Ren cho rằng, đối thủ lớn nhất của Huawei chính là bản thân họ./.
Trần Khánh/VOV.VN

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đằng sau “tin đồn” Trung Quốc sẽ gây xung đột quân sự ở Biển Đông


Khi bình luận trên tờ The National hôm 15/1, Joshua Kurrlantzick, thành viên cấp cao phụ trách khu vực Đông Nam Á trong Hội đồng Quan hệ đối ngoại Mỹ cho rằng, đối đầu giữa Trung Quốc với các nước láng giềng có thể tạo ra chiến tranh ở châu Á...
 >> "Trung Quốc triển khai tên lửa hạt nhân nhằm vào Nhật"
 >> Kiện đường lưỡi bò: 2015 sẽ có bước ngoặt lớn?

...Và khu vực quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam dù diện tích nhỏ bé, nhưng đang là trung tâm của một cuộc tranh chấp quốc tế và có thể dẫn đến một cuộc chiến tranh ở châu Á trong tương lai.
Cũng trong ngày 15/1, khi thăm Học viện đào tạo sĩ quan quân đội ở Fort Bliss, phía tây bang Texas, Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel đã yêu cầu quân đội Mỹ phải sẵn sàng cho những thách thức có thể đe dọa đến an ninh quốc gia. Ông chủ Lầu Năm Góc cảnh báo, thế giới đang bước vào giai đoạn định hình lại với những sự chia rẽ trật tự chưa từng diễn ra kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Tuyên bố kể trên của ông Chuck Hagel diễn ra trong bối cảnh Mỹ phải đóng cửa 15 căn cứ quân sự ở châu Âu vì ngân sách bị cắt giảm. Trước đó (8/1), trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Derek Chollet cho biết, 15 căn cứ quân sự của Mỹ ở châu Âu sẽ đóng cửa và việc này tiết kiệm cho Washington khoảng 500 triệu USD/năm. Quyết định đóng cửa căn cứ quân sự và điều chỉnh quân lực của Lầu Năm Góc được công bố sau khi Bộ Quốc phòng Mỹ đứng trước sức ép: Trong một thập niên tới, ngân sách quân sự của Mỹ sẽ giảm khoảng 1.000 tỉ USD.
Giới phân tích cho rằng, chính sách “xoay trục” của Mỹ bị nhiều nước châu Á coi là khẩu hiệu suông bởi tuy đưa ra những cam kết thúc thúc đẩy hỗ trợ cho khu vực này, nhưng theo báo cáo mới đây của Ủy ban Đối ngoại của Thượng viện Mỹ - Washington chỉ chi 4% tổng số tiền viện trợ nước ngoài của mình cho Đông Nam Á. Và mặc dù Mỹ hứa sẽ chuyển 60% số tàu chiến, máy bay đến Thái Bình Dương vào cuối thập niên này, nhưng một số quan chức Đông Nam Á lại cảm nhận rõ rệt về sự suy giảm di chuyển của hải quân Mỹ vào khu vực này.
Máy bay chiến đấu J-10B
Máy bay chiến đấu J-10B
Cùng ngày 15/1, tờ South China Morning Post dẫn lời học giả Trung Quốc Diêm Học Đông, Viện trưởng Viện Quan hệ quốc tế đương đại thuộc Trường đại học Thanh Hoa cho rằng, tầm nhìn của Tổng bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình về mô hình mới trong quan hệ nước lớn Trung - Mỹ đã được chứng minh là quá nhiều tham vọng và không thực tế.
Bởi lời kêu gọi của ông Tập Cận Bình cách đây gần 2 năm (tại Hội nghị thượng đỉnh với Tổng thống Barack Obama ở California, Mỹ tháng 6/2013) về việc cùng xây dựng quan hệ nước lớn kiểu mới dựa trên 3 nội dung: Không có xung đột hay đối đầu, tôn trọng lợi ích cốt lõi của nhau và thúc đẩy các mối quan tâm, hợp tác cùng có lợi, đều không được thực hiện.
Nhận định của ông Diêm Học Đông được nhà nghiên cứu độc lập đến từ Trung tâm Australia Benjamin Herscovitch tán đồng khi cho rằng, mô hình mới trong quan hệ nước lớn Trung - Mỹ không hoàn toàn khả thi và lỗi thuộc về 2 phía. Trong khi đó, Giáo sư về quan hệ quốc tế tại Trường đại học Deakin Chengxin Pan lại cho rằng, thuật ngữ "kiểu mới" mà Bắc Kinh đưa ra có thể là sai lầm vì nó ngụ ý rằng, quan hệ giữa Washington và Bắc Kinh phải trở nên khác hoàn toàn so với những gì đã diễn ra trong quá khứ.
Giới bình luận cho rằng, dưới thời lãnh đạo của ông Tập Cận Bình, lần đầu tiên kể từ thời Mao Trạch Đông, Bắc Kinh công khai tuyên bố muốn trở thành một thế lực thống trị châu Á và Trung Quốc đang theo đuổi yêu sách chủ quyền phi lý tại Biển Đông và biển Hoa Đông. Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe từng thừa nhận, mặc dù hợp tác kinh tế, thương mại Nhật - Trung vẫn tăng trưởng, nhưng 2 nước đang ở trong "tình huống tương tự" như Anh và Đức trước Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Ngày 13/1, trang mạng Sputnik (Nga) dẫn bình luận của Chủ nhiệm Trung tâm Nghiên cứu Nga Yevseyev về việc Thủ tướng Shinzo Abe muốn phát triển hệ thống vệ tinh thông tin quân sự: Nhật Bản không thể giám sát được tàu ngầm hạt nhân Trung Quốc từ vũ trụ, trong khi Bắc Kinh chế tạo vũ khí chống vệ tinh chỉ tạo cớ để Tokyo sử dụng chương trình hàng không vũ trụ cho mục đích quân sự.
Tàu chiến Trung Quốc tập trận bắn đạn thật
Tàu chiến Trung Quốc tập trận bắn đạn thật
Theo Tân Hoa xã, ngày 16/1 tại cảng Chu Sơn, tỉnh Chiết Giang, Hải quân Trung Quốc đã tiếp nhận tàu khu trục trang bị tên lửa dẫn đường mới Hoàng Cương với số hiệu 577. Đây là một trong những tàu chiến thế hệ mới của hải quân Trung Quốc với khả năng phát hiện mục tiêu từ xa, được trang bị các hệ thống phòng không và có thể độc lập tấn công tàu chiến và tàu ngầm.
Cùng ngày 16/1, Đài Truyền hình CCTV Trung Quốc đưa tin, tàu hộ vệ tên lửa kiểu mới Hoàng Cương được biên chế cho Hạm đội Đông Hải. Cũng trong ngày 16/1, Đài Phượng Hoàng (Hongkong) cho biết, tàu trinh sát điện tử của Trung Quốc xuất hiện khá thường xuyên tại một số khu vực nhạy cảm.
Vì được cho là tướng thuộc phe "diều hâu" tại Trung Quốc và thường xuyên có những phát ngôn "hiếu chiến" nên phát biểu vừa qua của Thiếu tướng quân đội đã nghỉ hưu La Viện bàn về vấn đề tham nhũng trong quân đội Trung Quốc (được tờ Thời báo Hoàn Cầu dẫn lời) lập tức thu hút sự quan tâm của dư luận bởi cho rằng: “Không mấy nước đánh thắng được Trung Quốc”. Giới quân sự nhận định, sau khi thực hiện 2 chủ trương trong nỗ lực lấn chiếm và thiết lập sự kiểm soát Biển Đông trong năm 2014, sang năm 2015, Trung Quốc sẽ nỗ lực kiểm soát trên thực tế tại khu vực này.
Ngày 17/1, tin tặc đã xâm nhập tài khoản mạng xã hội Twitter của tờ The New York Post và Hãng tin UPI và tung tin giả, theo đó tàu sân bay USS George Washington đã bị bắn hỏng trong khi hải quân Mỹ đang tác chiến chống lại các tàu thuyền của Trung Quốc ở Biển Đông và Thế chiến 3 vừa bắt đầu.
Tờ USA Today dẫn lời Thư ký báo chí Lầu Năm Góc John Kirby khẳng định, Hải quân Mỹ không nhận bất kỳ báo cáo nào về việc tàu USS George Washington bị bắn và hiện nó vẫn an toàn.
 
Theo Tuấn Quỳnh
Dân Trí
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Khoảng 1000 đảng viên chủ chốt của CPP đã tập trung tại Koh Pich để tham dự đại hội bất thường.

(GDVN) - 
Chủ tịch danh dự CPP Heng Samrin trong phiên khai mạc đại hội bất thường.
Theo Phnom Penh Post ngày 31/1 đưa tin, đảng Nhân dân Campuchia cầm quyền CPP đã triệu tập đại hội bất thường, kỳ đại hội đầu tiên kể từ tháng 7/2013. Chủ tịch đảng Chea Sim đã không thể tham dự vì lý do sức khỏe. Ông đã từng nói với những người ủng hộ từ năm 2013, rằng cải cách là sự sống của CPP và cả dân tộc Khmer.
Khoảng 1000 đảng viên chủ chốt của CPP đã tập trung tại Koh Pich để tham dự đại hội bất thường nhằm đặt nền móng nhân sự chủ chốt của đảng cho cuộc bầu cử năm 2017 và 2018. Thủ tướng Campuchia Hun Sen đồng thời là Phó Chủ tịch CPP lần đầu tiên tuyên bố, Chủ tịch đảng Chea Sim sẽ vắng mặt tại đại hội bất thường vì lý do sức khỏe.
Tuy nhiên ông Hun Sen cũng lưu ý rằng, chứng nào Chea Sim còn sống thì ông vẫn là Chủ tịch đảng CPP. Chủ tịch danh dự CPP Heng Samrin cáo buộc chính đảng đối lập Cứu quốc Campuchia CNRP đã khiến CPP không triệu tập được đại hội trong gần 2 năm qua. "Bởi vì tình hình Campuchia sau cuộc bầu cử Quốc hội tháng 7/2013 đã bị kích động bởi đảng đối lập và những người ủng hộ, họ không bao giờ chấp nhận kết quả bầu cử".
"Ứng cử viên của họ được bầu đã không đến làm việc tại Quốc hội, họ còn kích động các cuộc biểu tình và bạo loạn, gây ra sự hỗn loạn bằng mọi cách để lật đổ chính phủ và đảng CPP cầm quyền", ông Heng Samrin tuyên bố, trong đó khẳng định CPP đã khoan dung với các cuộc biểu tình và cố gắng giải quyết các vấn đề bằng cải cách nhẹ nhàng và vững chắc.
Tuy nhiên ông Samrin cũng thừa nhận CPP hiện tại đang ở trong một bối cảnh chính trị mới. "Mặc dù chúng ta đã nhận được sự ủng hộ từ đa số người dân trong cả nước, chúng ta vẫn phải thừa nhận rằng đảng của chúng ta đã bị mất một số ghế trong Quốc hội, trong khi số ghế của phe đối lập tăng lên. Điều này khiến chúng ta phải nghiên cứu sâu sắc xem lý do tại sao, đánh giá điểm mạnh điểm yếu, rút ra bài học kinh nghiệm để có những cải cách sâu sắc và hiệu quả."
Vào tháng 9/2013 sau bầu cử Quốc hội, ông Hun Sen đã kêu gọi các thành viên CPP làm trong sạch chính mình và "chữa lành" căn bệnh của đảng. Trong kỳ đại hội bất thường cuối tuần này, CPP sẽ bổ sung thêm các thành viên trẻ vào Ban chấp hành Trung ương, tìm kiếm các thế hệ lãnh đạo tiếp theo chuẩn bị cho cuộc bầu cử quốc gia năm 2017, 2018.

TQ sẽ phát động chiến tranh ở Biển Đông, chứ không phải ở đảo Senkaku?


(GDVN) - Bài viết cho rằng, Mỹ đóng vai trò quan trọng trong quyết định phát động chiến tranh của Trung Quốc, các nước ven Biển Đông nhỏ yếu hơn, TQ đang chuẩn bị...

Quân đội Trung Quốc tích cực tham gia tổ chức diễn tập với các thành viên SCO, nhất là chống khủng bố để ổn định phía tây bắc, rảnh tay cho bành trướng trên Biển Đông?
Mạng quân sự sina Trung Quốc ngày 23 tháng 1 dẫn mạng Quan sát quân sự Nga ngày 20 tháng 1 đưa tin, khả năng liên minh giữa Trung Quốc và Nga do báo chí đề cập là “to lớn”, hơn nữa còn có thể bổ sung thêm thực lực của các nước trung gian như Kazakhstan, Mông Cổ. Một khi có hậu phương chiến lược kể trên, Trung Quốc có thể trực tiếp bắt tay giải quyết vấn đề của mình ở Thái Bình Dương, hơn nữa sẽ không giới hạn ở đó.
25 năm qua, thực lực của Hải quân Trung Quốc được tăng cường rõ rệt. Đến nay đã có 26 tàu đổ bộ Type 072 (lượng giãn nước các chủng loại từ 4.100-4.800 tấn), 3 tàu đổ bộ Type 071 (lượng giãn nước trên 20.000 tấn). Đồng thời còn chế tạo các tàu khu trục Type 052B, Type 052C, Type 051C, Type 052D và tàu hộ vệ Type 054A, tàu hộ vệ hạng nhẹ Type 056 với tốc độ chưa từng có. Thực lực của lực lượng tàu ngầm cũng gây ấn tượng quan ngại sâu sắc.
Không nên quên sự chuẩn bị quân sự của Trung Quốc ở các đảo thuộc Biển Đông và biển Hoa Đông, hiện đang xây mới sân bay ở đó. Sau khi nhận thức được có thể không kịp thực hiện chương trình chế tạo tàu sân bay nội (chỉ cải tạo tàu sân bay Varyag của Ukraine đã mất hơn 10 năm), Trung Quốc quyết định biến các hòn đảo xa xôi thành tàu sân bay không chìm trên biển. Ngoài ra, thực lực của lực lượng hàng không bờ biển Quân đội Trung Quốc luôn mạnh hơn lực lượng hàng không trên tàu.
Căn cứ vào nhân tố tổng hợp có thể suy đoán, tiếp tục qua 10 năm, Trung Quốc sẽ có được ưu thế quân sự mang tính quyết định nhằm vào tất cả các nước trong khu vực, tiền đề là không tính tới sự hỗ trợ của Mỹ đối với các nước trong khu vực. Nhưng, Mỹ chắc chắn sẽ can dự trước vào cuộc chiến tranh. Một nguyên nhân khác tăng tốc khởi động cơ chế chiến tranh của Mỹ là ở chỗ đồng USD sụt giá, cùng với đồng nhân dân tệ sẽ trở thành đồng tiền dự trữ thế giới.
Ở cấp độ chính trị, Washington có nhu cầu xúi giục Bắc Kinh phát động các hành động quân sự quy mô lớn đối với một nước láng giềng nào đó, từ đó có cớ tuyên bố Trung Quốc là kẻ xâm lược.
Loại địa vị này sẽ trực tiếp làm cho Trung Quốc một khi thất bại về quân sự thì sẽ bị nước chiến thắng tùy ý chiếm lĩnh và chia cắt. Dù sao, ví dụ thực tế này hoàn toàn không xa vời, cảnh ngộ của đế chế Nhật Bản và đế chế Đức sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai và đế quốc Othman sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đều như vậy.
Năm 2014, Trung Quốc đã ra mặt xâm phạm trắng trợn và nghiêm trọng chủ quyền biển đảo Việt Nam bằng các chiến dịch to lớn, thậm chí đã đe dọa nghiêm trọng hòa bình, an ninh và ổn định khu vực. Việt Nam kiên quyết bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình và bảo vệ hòa bình, an ninh và ổn định khu vực.
Một khi Mỹ chiến thắng, tất cả khoản nợ của đồng minh NATO từ Trung Quốc đương nhiên sẽ bị xóa sổ, tài sản của Trung Quốc trên toàn thế giới sẽ bị niêm phong.
Báo TQ cho rằng: Đương nhiên, không được trông chờ tầng lớp tinh hoa Trung Quốc sẽ phản quốc đi theo địch, họ “chắc chắn kiên trì chiến đấu”. Nếu như nói các chuyên gia cách đây không lâu còn dự đoán, “còn tới 10 năm nữa mới nổ ra cuộc xung đột quy mô lớn, như vậy hiện nay, thời hạn này đã tới gần”.
Nếu như tình thế tranh chấp phát triển theo hình thức cực đoan, “để chuẩn bị ứng phó với chiến tranh có thể nổ ra, Trung Quốc ít nhất cần tới thời gian 3 năm để chuẩn bị”.
Trong tình hình không cực đoan, cần 10 - 20 năm để chuẩn bị. Bắc Kinh hiểu rất rõ, họ có thể “sẽ không còn có được môi trường phát triển tốt đẹp”, bởi vì “trò chơi đang tiến hành theo quy tắc của người khác”, vì vậy phải áp dụng biện pháp tương ứng, từng bước cải thiện quan  hệ với các quốc gia lục địa, có kế hoạch bảo vệ ổn định biên cương.
Đến nỗi Trung Quốc đã sớm bắt đầu “xây dựng các điểm tựa và căn cứ” trên phương hướng mà Lục quân, Không quân hoặc Hải quân Trung Quốc có thể phát động chiến dịch tiến công trong tương lai, điều này sớm đã không còn bí mật gì.
Vài năm trước, giới blog Ấn Độ còn nhiệt tình bàn bạc về các hình ảnh vệ tinh liên quan tới các công trình quân sự của Trung Quốc ở khu vực Aksai Chin, khu vực này do Trung Quốc đánh chiếm trong cuộc chiến tranh biên giới Trung-Ấn năm 1962.
Khoảng tháng 7 năm 2014, trên truyền thông đã xuất hiện thông tin Quân đội Trung Quốc xây dựng (bất hợp pháp) sân bay mới ở quần đảo Trường Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam). Trong khi đó, ở phía bắc Trung Quốc, khu vực cách biên giới Nga trên trăm km cũng có sân bay và căn cứ.
Tháng 12 năm 2014, Trung Quốc bắt đầu xây dựng căn cứ quân sự ở quần đảo Nam Kỷ trên biển Hoa Đông, nó cách đảo Senkaku (do Nhật Bản kiểm soát, Trung Quốc đòi chủ quyền) chỉ hơn 300 km. Không còn nghi ngờ gì nữa, hành động này là để nhanh chóng tiến quân tới khu vực tranh chấp giữa Trung-Nhật.
Năm 2014, cộng đồng quốc tế chứng kiến Trung Quốc có một loạt các hành động phá hoại DOC, ngăn cản tiến tới COC - đó là các hành động nguy hiểm của họ trên Biển Đông: hạ đặt giàn khoan nước sâu Hải Dương Thạch Du 981 ở vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam và xây dựng đảo nhân tạo ở các đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam v.v...
Nhưng, khó khăn của kế hoạch này ở chỗ, Ishigaki, đảo Iriomote và Yonaguni của Nhật Bản cách đảo Senkaku gần hơn, khoảng cách giữa chúng bằng khoảng một nửa khoảng cách giữa các đảo của Trung Quốc.
Nhật Bản có sân bay dân dụng ở Ishigaki và Yonaguni, có thể sử dụng để bảo vệ đảo Senkaku. Ngoài ra còn có kế hoạch xây dựng trạm radar và khu cảnh giới trên đảo Yonaguni trong 2 năm tới.
Nhật Bản có thể sẽ biến đá ngầm lớn nhất trong đảo Senkaku thành tàu khu trục không chìm, triển khai rất nhiều hệ thống phòng không và hệ thống tên lửa chống hạm bờ biển Type 88 tự chế. Hòn đảo này nham thạch chắc chắn, có thể xây dựng công sự phòng thủ mạnh, xây dựng hệ thống đường hầm dưới mặt đất.
Trong lịch sử, Nhật Bản có kinh nghiệm phong phú biến đảo nhỏ thành pháo đài. Kinh nghiệm đột kích đảo Iwo Jima của Quân đội Mỹ và tấn công chiếm giữ của Liên Xô trước đây chính là minh chứng trực quan. Từ lúc đó, công nghệ phát triển mạnh.
Mỹ còn cam kết, một khi Nhật Bản bị tấn công, sẽ cung cấp viện trợ quân sự cho Tokyo, nhưng Mỹ không có bất cứ đảm bảo nào để thực hiện cam kết. Thực tiễn chứng minh, khi đó tất cả đều sẽ tùy thuộc vào quyết định của chủ nhân Nhà Trắng. Viện trợ quân sự cho Nhật Bản có thể chỉ giới hạn ở cung ứng nguồn lực, trang bị quân sự và tình báo trinh sát.
Mặc dù Mỹ rất có thể quyết định tham chiến thực sự, đặc biệt là trong tình hình Trung Quốc một khi cả gan áp sát Okinawa, bởi vì Mỹ bố trí căn cứ quân sự khổng lồ ở đó, bao gồm căn cứ không quân Kadena và căn cứ thủy quân lục chiến Futenma, cùng với trạm bảo đảm kỹ thuật, kho xăng dầu. Mỹ đến lúc đó sẽ đối mặt với sự lựa chọn: Hoặc từ bỏ đồng minh, mất hết thể diện; hoặc tham chiến thực sự, hậu quả khó đoán.
Khả năng lớn nhất là, Nhà Trắng cuối cùng “sẽ quyết định tham chiến”, bởi vì một khi Okinawa bị chiếm đóng, Guam và quần đảo Bắc Mariana sẽ bị đe dọa.
Năm 2014, thế giới tiếp tục chứng kiến Trung Quốc dồn sức mạnh quân sự cho Biển Đông khi biên chế rất nhiều tàu chiến mới như tàu khu trục Type 052D (trong hình), tàu hộ vệ hạng nhẹ Type 056... Xu thế này sẽ còn tiếp diễn mạnh mẽ trong tương lai.
Rất rõ ràng, Nhật Bản sẽ tập trung dựa vào lực lượng hàng không trong chiến tranh trên biển tương lai. Hiện nay, chương trình đóng tàu chiến của Nhật Bản cơ bản chấm dứt. Trong tương lai gần, sẽ chỉ trang bị 2 tàu sân bay chở trực thăng săn ngầm lớp Izumo và 3 tàu ngầm lớp Soryu.
Nhưng kế hoạch đổi mới lực lượng hàng không tấn công của Nhật Bản tương đối khổng lồ, dự tính sẽ mua sắm F-35A thay thế cho 78 chiếc F-4 cũ. Hiện nay đã đặt mua 42 chiếc F-35A, ngoài ra 28 chiếc đã đưa vào ngân sách. Lô máy bay chiến đấu mới này sẽ triển khai ở liên đội hàng không số 83 tại Naha, Okinawa.
Nhưng, không có bất cứ lý do gì cho rằng Trung Quốc sẽ bắt đầu phát động tấn công từ đảo Senkaku trong tương lai, trừ phi động cơ ý thức hệ đã chiếm thượng phong, đã vượt động cơ kinh tế và địa-chính trị. “Logic hợp lý hơn là đánh chiếm quần đảo Trường Sa”, các đối thủ ở đó như Việt Nam, Philippines, Brunei và Malaysia “tương đối nhỏ yếu”, ít nhất yếu hơn một bậc, hơn nữa “giá trị chiến lược” lớn hơn.
Đương nhiên, khi đối phó với Philippines thì sự việc sẽ không đơn giản như vậy. Từ năm 1951 đến nay, Philippines đã ký kết Hiệp ước viện trợ quân sự lẫn nhau với Mỹ. Tháng 4 năm 2014, hai nước đã phê chuẩn điều ước mở rộng sự hiện diện quân sự của Mỹ, lần đầu tiên để cho quân đồn trú Mỹ trở thành lực lượng thường trú về thực chất.
Đây cũng chính là “điểm tựa” để Philippines dám thách thức Trung Quốc ở Biển Đông. Hai nước đã tranh đoạt quyết liệt 20 năm xung quanh đảo tranh chấp ở Biển Đông, Trung Quốc rõ ràng chiếm thế thượng phong. Vì vậy không loại trừ khả năng Mỹ sẽ buộc phải đoạt lấy Philippines lần thứ ba trong lịch sử.
Hiện nay, theo bài báo tuyên truyền của TQ, Philippines tạm thời chỉ thách thức Trung Quốc, ngoài ra còn đang tăng cường quan hệ với Quân đội Việt Nam, "ký kết liên minh chống Trung Quốc". Do bất cứ bên nào đều sẽ không sẵn sàng nhượng bộ hoặc thỏa hiệp, vì vậy sẽ chỉ làm trầm trọng hơn xung đột.
Năm 2014, thế giới chứng kiến hàng loạt những phát ngôn và hành động cực kỳ hiếu chiến cũng như tìm mọi cách đánh lừa dư luận của phía Trung Quốc liên quan đến tranh đoạt lãnh thổ ở khu vực xung quanh, nhất là từ đầu tháng 5 đến tháng 7 năm 2014
Vùng biển quần đảo Trường Sa có tài nguyên sinh vật và dầu mỏ phong phú. Ngoài ra, ở đây kiểm soát eo biển Malacca - nơi có ý nghĩa chiến lược quan trọng, 25% thương mại trên biển của thế giới đi qua nơi này, hàng năm có 50.000 tàu qua lại. Tàu chở dầu từ Trung Đông chạy tới Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan cũng đi qua đây, vì vậy chiến tranh khu vực rất có thể bùng nổ ở đây.
Giữa một số nước trong khu vực và Trung Quốc không có vấn đề nghiêm trọng, nhưng lập trường của họ đến nay không rõ ràng lắm. Đồng thời, họ cũng hoàn toàn không lệ thuộc quá mức vào Mỹ. Rất có thể sẽ khoanh tay đứng nhìn từ đầu đến cuối. Indonesia quan tâm hơn tới sự ổn định ở trong nước. Hoa kiều ở Singapore rất nhiều, hoàn toàn không lo ngại sự bành trướng của Trung Quốc. Campuchia và Thái Lan sẽ cố gắng duy trì trung lập hoàn toàn.
Ấn Độ rất có thể được cho là kẻ thù của Trung Quốc, chứ không phải là nước trung lập, nhưng Ấn Độ sẽ đứng ngoài trong giai đoạn đầu xung đột, cố gắng tận dụng cơ hội để thu lợi. Bangladesh, Sri Lanka và Bhutan - những quốc gia chịu ảnh hưởng khá lớn từ Ấn Độ cũng sẽ làm như vậy.
Trung Quốc tạm thời còn đang cân nhắc các loại con đường tiếp tế, ứng phó vói cục diện eo biển Malacca một khi bị địch phong tỏa. Ngoài tuyến đường Âu-Á nêu trên, còn gồm có xây dựng điểm cuối vận chuyển dầu khí mới ở Transbaikal tới Mãn Châu.
Trung Quốc cũng đã chọn Pakistan và Myanmar, có kế hoạch thông qua những cảng biển và lãnh thổ của các nước này, trực tiếp vận chuyển năng lượng về Trung Quốc.

Phần nhận xét hiển thị trên trang