Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 10 tháng 12, 2014

Độc tài và văn nghệ sỹ

Stalin từng quyết tâm tạo ra 'nhạc công nông' để phục vụ sự nghiệp cách mạng

Tuần qua ở London có câu chuyện Bảo tàng Anh Quốc (British Museum) quyết định cho nước Nga mượn một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp để trưng bày tại St Petersburg.
Hy Lạp đã ngay lập tức lên tiếng phản đối từ cấp cao nhất.
Thủ tướng Antonis Samaris đòi Anh không chỉ ngưng ngay việc này mà cần trả lại tác phẩm đá hoa cương Parthenon mà một nhà quý tộc Anh đem về 200 năm trước từ vùng đất Hy Lạp lúc còn bị đế quốc Ottoman thống trị.

Xem tượng sẽ được cảm hóa?

Nhưng Giám đốc British Museum, ông Neil MacGregor còn bị phê phán vì giải thích rằng cho nước Nga thời Vladimir Putin mượn để chiêm ngưỡng một tác phẩm như vậy là giúp họ lại gần với châu Âu hơn.
Quan điểm này đã bị một số cây bút nổi tiếng ở Anh phê bình thẳng thừng.
Nhà bình luận Dominic Lawson viết trên trang The Sunday Times hôm 7/12 rằng thật là ngây ngô khi tin là chỉ nhờ đến Hermitage xem tượng cổ Hy Lạp mà ông Putin hay các lãnh đạo Nga khác bỗng ‘văn minh hóa’ theo kiểu châu Âu.
Không chỉ có vậy, ông Lawson còn nói về các nhân vật khủng khiếp trong lịch sử từng ‘yêu nghệ thuật’ hơn người bình thường mà vẫn rất tàn bạo.

Nhạc của Richard Wagner (1813-1883) từng được Adolf Hitler say mê

Adolf Hitler say mê nhạc của Richard Wagner, Hans Frank còn chơi nhạc Chopin rất tuyệt diệu nhưng cũng thẳng tay giết người Ba Lan và Do Thái tại các vùng Đức chiếm đóng hồi Thế Chiến.
Herman Goering, thống chế Đức cũng là tay sưu tầm đồ cổ, tranh ảnh rất có tiếng và về phía Liên Xô, Joseph Stalin cũng là nhà bảo trợ lớn cho thể loại âm nhạc và hội họa ‘hiện thực xã hội chủ nghĩa’ với nhiều thành viên có tên tuổi từ Dimitry Shostakovich đến Sergey Rachmaninoff.
Quả vậy, quan hệ giữa các nhân vật chính trị độc đoán, những nhà độc tài với cái đẹp, nghệ thuật và với văn nghệ sỹ luôn là điều khiến người ta băn khoăn.
Có hai lý do theo tôi khiến đây là mối quan hệ gần gũi và phức tạp.
Một là điểm chung của nhà chính trị và văn nghệ sỹ.
Cả chính trị và văn nghệ điểm đến hướng tới tính tuyệt đối: cầm quyền rồi thì người ta muốn thêm quyền lực, muốn giữ chức vĩnh cửu, đi vào lịch sử...tức là toàn những nhu cầu vượt lên hạn chế thời gian, không gian.
Còn nghệ thuật không chỉ tự thân nó đề cập đến các chiều kích cao hơn một cá nhân, một xã hội qua tính tổng hợp, nâng cao, biến tầm thường thành trừu tượng, siêu việt mà còn để lại dấu ấn vượt thời gian và hiển nhiên là có sức lan tỏa rộng trong không gian.
Tính siêu việt của nghệ thuật tạo ra lý do thứ hai khiến quan hệ này có tương quan phức tạp: nhà cầm quyền dễ có xu hướng muốn dùng văn nghệ sỹ giúp mình tạo chỗ đứng trong bảng vàng lịch sử.

Ngợi ca lãnh đạo

Văn nghệ sỹ thường được giao nhiệm vụ ca ngợi cá nhân nhà lãnh đạo hoặc chế độ, tạo thêm vinh quang và tính chính danh cho hệ thống quyền lực.
Đây là điều đã xảy ra từ ngàn xưa, ở cả châu Âu lẫn châu Á và ở nhiều nơi, các nhà cầm quyền đã thành công.
Vấn đề chỉ xảy đến khi văn nghệ sỹ vì tài năng ‘cố hữu’ không thể nào viết và vẽ như lãnh đạo muốn.

Dimitry Shostakovich cố gắng mãi cũng không tạo ra được thứ 'âm nhạc vô sản'

Stalin sau một thời gian thúc đẩy hoạt động của Hội Nhạc sĩ Vô sản Liên Xô đã phải thất vọng vì nhạc của Rachmaninoff và Shostakovich (trong hình) ‘vẫn mang màu sắc tư sản’.
Thậm chí nhạc của họ ‘lúc thì ủy mị, buồn đau, u ám về nhân thế, lúc lại bông lơn, nghịch ngợm’.
Bây giờ, những cụm từ đó hóa ra lại là tiêu chuẩn về thiên tài của hai nhà soạn nhạc lớn.
Như thế, lịch sử của nước Đức thời Hitler và Liên Xô thời Stalin đem lại hai kết luận.
Thứ nhất là trái với niềm tin một thời của nhiều nhà nghiên cứu lãng mạn chủ nghĩa, tình yêu nghệ thuật, thói quen hưởng thụ nghệ thuật cao cấp không làm tăng nhân tính của những kẻ độc tài tàn ác.
Nói kiểu thời nay ở Việt Nam thì thi Hoa hậu nhiều cũng không làm cho các quan chức hiền hậu hơn hay văn minh hơn.
Chưa kể nghệ thuật đôi khi còn là cây cảnh để những kẻ xấu làm đẹp cho họ.
Hai là mọi nỗ lực của nhà cầm quyền muốn uốn nắn nghệ thuật không thành công khi gặp phải văn nghệ sỹ có tài thực.
Một khi tài năng đã lớn hơn chính cá nhân con người họ thì tác phẩm của văn sỹ, nhà thơ, nhạc sỹ, họa sỹ và các cây viết nói chung sẽ khó bị quyền lực bóp méo.
Vì thế, cách tốt nhất là hai bên để cho nhau yên trong một xã hội bình thường.
Bài của Nguyễn Giang đã đăng trên trang Facebook cá nhân.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Lời khai của ông Nguyễn Quang Lập với cơ quan An ninh điều tra Ngày 10/12/2014, Cơ quan An ninh điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh đã làm việc với ông Nguyễn Quang Lập: Ông Lập khẳng định khi bị bắt đến nay, tình hình sức khỏe và sinh hoạt bình thường. Ông Lập khai nhận hành vi vi phạm pháp luật của mình và xin được hưởng khoan hồng, sớm được tại ngoại. Ông Lập cam kết từ bỏ hoạt động vi phạm pháp luật để tập trung vào lĩnh vực văn học nghệ thuật, phục vụ xã hội./. (Phòng PV11 CATP)

Anh Cu Bịp của Nguyễn Quang Lập – NGUYỄN TRẦN SÂM

NGUYEN QUANG LAP 02Trong các truyện ngắn của Nguyễn Quang Lập, Anh Cu Bịp là truyện khá đặc biệt. Rất khó gọi tên tính chất đặc biệt của nó, nhưng đại loại là thế này. Vẫn là phong cách và chất liệu ngôn ngữ Bọ Lập, vẫn đậm chất trào lộng, với những nhân vật có những hành vi kỳ quặc, và ẩn sau đó vẫn là những suy tư, day dứt, nhưng ở đây tính chất gây cười có vẻ ít hơn, còn những suy tư, day dứt, thậm chí nỗi đau, thì nhiều hơn hẳn so với những truyện khác.
Sự tồn tại của anh cu Bịp trong truyện và những anh cu bịp ngoài đời, trong đó có cả những anh cu bịp đã “thành thánh”, than ôi, là một thực tế vô cùng đau xót ở xã hội ta!
*
Có thể chia truyện ngắn Anh Cu Bịp thành hai phần. Phần đầu nói về những trò lừa đảo thông thường, những tiểu xảo của anh cu này để kiếm ăn. Chiêu lừa thường dùng của anh ta được Lập tả như sau:
“…đến làng nào cũng nghe một trường hợp bị lừa như nhà mình. Anh cu Bịp tung tin ai đó bị chết rồi giả đò đóng vai người cùng đơn vị với người đó về gia đình báo cho gia đình biết người đó còn sống. Thế là chuột sa chĩnh gạo, anh được ăn uống đãi đằng và ôm một mớ tiền đóng quà của người nhà gửi cho người đó rồi biến thẳng. Chẳng ai biết anh ở đâu tên gì, người ta gọi đại là thằng cu Bịp.”
Sau một thời gian (như Lập nói là 10 năm), Lập gặp lại Bịp và chứng kiến một chiêu lừa khác. Và chính vì định vạch mặt Bịp mà Lập bị rơi vào thế bất lợi, bị người chung quanh khinh bỉ. Nhưng lúc đó Bịp vẫn còn là kẻ lừa đảo hạng tầm thường.
Trong phần hai của truyện, Bịp đã trở thành “bậc thánh nhân”!
Lại vẫn 10 năm sau (“khỉ thế!”), Lập đến một nơi “bậc thánh nhân” ấy đang “cứu độ chúng sinh” bằng cách “chữa bệnh” cho mọi người. Lập tả:
“Mình tới đình làng sửng sốt thấy cả mấy trăm người, không, có khi cả ngàn người, ngồi chật kín sân đình, trong khi phía ngoài mọi người đang lũ lượt kéo tới … Thánh là thiên sứ nhà trời chỉ về đây đúng một ngày đêm… Nhác trông mọi người ai nấy mặt mày nghiêm trọng, thành kính ngồi thành hàng lối chờ đến lượt thánh gọi vào, tuyệt không ai gọi to nói lớn, hết thảy đều thầm thầm thì thì, rất kinh…
…Phải ngồi đây chờ khi thánh gọi mới được vào, dù anh là gì đi nữa nếu thánh không gọi cũng không được vào.”
Nhân lúc có người ra vào, Lập ghé mắt nhìn và phát hiện ra Thánh chính là anh cu Bịp!
“…Mình liều nhảy đại vào, nói này anh cu Bịp, anh còn dám bịp cả mấy trò này à? Tưởng anh cu Bịp giật mình nhảy tót ra khỏi hậu cung. Ai dè anh vẫn mắt nhắm nghiền, tay cầm nén nhang, miệng lẩm nhẩm khấn như không hề có chuyện gì xảy ra.”
Kế đó, Lập bị hai ông già lôi ra, mặc dù cố giải thích mình đang cần vạch mặt kẻ lừa đảo.
“Bỗng có người nói thánh gọi thánh gọi, ngoảnh lại thấy anh cu Bịp đang tươi cười vẫy vẫy, nói vào đây con vào đây con. Mình đi tới, hai ông già ấn mình quì xuống, đặt vào tay mình bát nước lạnh, nói ngửa mặt nhắm mắt nghe thánh truyền. Mình cũng ngửa mặt nhắm mắt xem anh cu Bịp giở trò gì. Chẳng biết anh nói gì, làm gì, khoảng một phút sau anh ghé tai mình rít lên khe khẽ, nói cút cha mày đi cho tau làm ăn, không tao bảo dân xé xác mày ra. Mình mở mắt, anh cu Bịp đang cầm nhang tay khua miệng  khấn, dáng điệu uy nghi như thánh nhập trần.
Ngay sau đó mình bị tống cổ ra khỏi hậu cung…”
Cao trào của câu chuyện có lẽ nằm ở câu: “Không, tao bảo dân xé xác mày ra.” Và cô đọng hơn nữa là ở ba chữ: “Tao bảo dân”.
Đó chính là bi kịch đau đớn nhất của xã hội ta: Kẻ lừa đảo, vốn không tài cán gì, chỉ có một chút trí khôn đủ để lừa những con người ngây thơ, cả tin, và chút trí khôn ấy được hắn sử dụng triệt để vào mục đích đó. Và đám quần chúng ngây thơ trở thành tay sai, thành công cụ của kẻ chuyên đi lừa, với những chiêu bây giờ có phần mang tính nghệ thuật, và thậm chí khoa học! Kẻ lừa đảo trở thành “thánh” trong mắt quần chúng. Quần chúng ngưỡng mộ hắn, trung thành tuyệt đối với hắn, sẵn sàng làm theo mọi mệnh lệnh của hắn, kể cả xé xác đồng loại. Anh là người hiểu biết, tỉnh táo ư? Anh muốn giúp quần chúng nhận ra bộ mặt thật của hắn ư? Hãy từ bỏ ngay ý định, nếu không muốn những người bà con của mình – vốn hiền lành – xé xác!
Khi đa số quần chúng bị thao túng bởi những thánh giả đó thì thánh thật có khi bị nhận diện là ma quỷ, là tội phạm.
Một câu hỏi lớn (và đau đớn): Vì sao? Vì sao kẻ gian tà không mấy thông minh hiểu biết có thể lừa được dân chúng một cách “ngoạn mục” như vậy?
Trước hết, đó là do sự ngây thơ cả tin của dân chúng. Nhưng không phải chỉ có vậy. Không ít những người khá thông minh, thậm chí cả một số người học rộng tài cao cũng bị cuốn vào vòng u mê đó.
Vậy phải có một cái gì đó làm người ta tin chứ?
Đúng vậy. Con người ta thường không nhận thức hết được khả năng của chính mình, và do đó khi gặp một điều may mắn thì thường cho rằng do ai đó đem lại cho mình. Sống trong những chế độ lạc hậu, người ta có thể phải làm cật lực mà vẫn không đủ ăn trong nhiều năm: thiên tai, địch họa có thể cướp đi hết sạch. Và nếu bỗng nhiên có những năm tháng đủ ăn, kèm theo việc tầng lớp thống trị có vài động thái nới lỏng chút ít sự cai trị hà khắc, người dân sẽ cho rằng miếng ăn của họ là do ơn trên ban xuống. Cho nên mới có chuyện mọi thứ đều là của vua ban, hay mọi thứ đều do một nhóm người nào đó mang lại. Và một vài nhân vật trong nhóm người đó tự nhiên được dân phong thánh, đặc biệt khi lại biết nói những lời mị dân!
Trong trường hợp “thánh” chữa bệnh bằng “nước thánh” (hoặc những thứ tương tự), trên thực tế là có một số, thậm chí không ít, những người bỗng nhiên khỏi bệnh. Họ khỏi không phải vì “ngấm” các loại thuốc đã uống trước khi gặp được “thánh”. Nguyên nhân chính của việc khỏi bệnh là yếu tố tâm lý. Người ta không biết được rằng chỉ một niềm tin là mình sẽ khỏi bệnh trong nhiều trường hợp sẽ làm người ta khỏi bệnh thật sự. Đây là một hiện tượng vô cùng bí ẩn, khó lý giải, nhưng hoàn toàn có thật, mà đa số không hề biết đến. (Việc những người theo các môn phái tu hành thường vô bệnh tật chính là dựa vào niềm tin như vậy. Tất nhiên, không thể dùng niềm tin để chữa ung thư giai đoạn cuối; mà cũng không ai khi đó còn có niềm tin như vậy.) Do không biết điều đó, và do tâm lý thích dựa bóng, người ta coi điều may mắn vừa có được chính là do kẻ đang lớn tiếng hô hoán về việc làm ơn kia mang lại.
Nói như vậy thì thánh giả cũng có công theo một nghĩa nào đó. Đó là cái công tạo niềm tin. Chỉ có điều cái tội lại nhiều hơn, bởi nó hướng niềm tin của mọi người không phải vào khả năng tự nhiên của họ, mà hướng vào chính hắn, để được mọi người trả ơn.
Nhưng tôi tin rằng, tất cả những thánh giả đó đến lúc nào đó sẽ hết vận đỏ, và khi đó thì sẽ bị phạt thê thảm!
*
Trở lại với Anh Cu Bịp của Nguyễn Quang Lập. Tôi sẽ không ca ngợi cái tài của Bọ. Chỉ xin nói: mặc dù đã nghĩ ngợi nhiều về những điều tôi đã trình bày ở trên, từ khi đọc Anh Cu Bịp, tôi gần như bị “ám” bởi hình tượng anh cu Bịp đó. Ngày nào cũng nhớ đến hình ảnh “thánh” ghé tai Lập “rít lên khe khẽ, nói cút cha mày đi cho tau làm ăn, không TAO BẢO DÂN xé xác mày ra.”
NGUYỄN TRẦN SÂM
Nguồn: Quê Choa 14.01.2014

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chiêm Bao - thơ Bùi Giáng - Hồng Vân diễn ngâm (HQ)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bài thơ hay " Câu lục bát đánh rơi" Tác giả thơ Nguyễn ĐÌnh Vinh 1

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trúc-Ty Mơ ngày

mùa này gió biển thổi điên lên lục địa
Thanh Tâm Tuyền

A đến với tôi và đặt một câu hỏi, đại loại: Có ai sống, mà không phải quan tâm chuyện đực cái không?
Ngoài sông gió đang thổi lạnh. Tôi nhồi thuốc vào tẩu, châm lửa. Và tan vào sương mù, với những vệt khói vẽ vòng.
B lắc lắc vai tôi: Tối nay có buổi chiếu phim. Có đi xem cùng không?
Một ý tưởng đến với tôi, nhẹ như mây. Tôi đang ngồi lơ đãng trên chiếc thuyền tre, và nó tự trôi đến một khúc sông. Hai bờ trắng xoá. Mùa xuân, hoa thanh trà nở. Thơm, và rất ư dễ chịu...
C nói, giọng thật mơ hồ: Đất và vườn ngày càng hẹp lại. Ngày càng đắt. Dù giá máu lại khá rẻ. Bọn cò đất và lũ chấy rận no phè.
Một giọng khác, xa xăm hơn, lại cuốn tôi đi: Lò cừ nung nấu sự đời... [*]
D đến, dáng vẻ vội vã, giọng trầm trọng, kéo tôi về: Âu bị bệnh máu trắng. Thua rồi...
Tôi rảo bước trong đêm, ngắm những ngọn đèn le lói trong thôn xóm, xa xa phía nam con sông. Văng vẳng tiếng chó sủa, trong cơn gió se se... Tôi nhớ cách đây không lâu, mùa xuân trước, cầm đèn dạo đêm với người con gái bây giờ vẫn là bạn đời tôi.
...
L, người bạn thân thiết, nguyền rủa tôi, như vọng lên từ địa ngục: Đụ mạ mi... thằng cha mi chết rồi, cha tau gửi cho mấy đứa con mi đống cứt, nhớ đem về ăn hí, ngon đáo để...
P tạm biệt tôi: Tui về lại đỉnh Mạ ơi nghe. Nhớ đến chơi. Tui chờ...
Tôi đi với một cái bóng. Qua đồi cát. Những cụm thuỳ dương lắc lư xào xạc trước những đợt gió từ biển thổi vào. Lạnh. Cái bóng dừng trước một ngôi mộ. Đầu quấn dải khăn trắng. Miệng lẩm bẩm: Những phát súng từ đồng bằng, những phát súng trên cao nguyên... những phát súng từ đồng bằng... những phát súng trên cao nguyên...
...
X, Y rồi Z đến, nhìn tôi như kiểu đang xem một thước phim về một gã lang bang, lơ mơ, một tên cà chớn với vẻ mặt thay đổi liên tục. Sầu khổ. Hài hước. Bi ai...
Cuối cùng, không nhịn được, cả bọn la ầm lên: Dậy, dậy, dậy đi, đủ tay rồi nè..
Làm chi rứa...À, chiều rồi. Tôi đang mơ...


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Ba, 9 tháng 12, 2014

Vài suy nghĩ về vụ nhà văn Nguyễn Quang Lập bị bắt





GS. Nguyễn Đăng Hưng: VÀI SUY NGHĨ VỀ VỤ NHÀ VĂN N.Q. LẬP BỊ BẮT
 
Nhà văn Nguyễn Quang Lập (bìa trái) và bạn bè, độc giả, người hâm mộ
***
Mấy ngày nay, từ khi nghe tin nhà văn Nguyễn Quang Lập, người chủ trương chiếu rượu nổi tiếng QUÊ CHOA bị bắt, tôi thấy cuộc sống tại Việt Nam của chính tôi có điều gì bất ổn.  Sau một vụ kiện phi lý, một vụ bôi nhọ vô cớ dài gần năm tháng, tôi đã có chút mệt mỏi.
 
Nay hay tin Bọ Lập, một nhà văn mà tôi ngưỡng mộ bị bắt, tôi lại càng cảm thấy bị hụt hẫng vì không hiểu được nguyên do… 
 
Tôi chưa hề gặp gỡ nhà văn Nguyễn Quang Lập, chưa hề giao lưu với ông. Chỉ biết ông là thuộc dòng chủ lưu trong giới văn nghệ học thuật Việt nam, đã từng đi bộ đội và là hội viên của Hội Nhà văn Việt NamHội Nghệ sĩ Sân khấu Việt NamHội Điện ảnh Việt Nam và Hội Nhà báo Việt Nam.
 
Ông chính là con đẻ của thời đại xã hội chủ nghĩa, là người sống và lớn lên trong lòng chế độ.  Đọc những cuốn sách gần đây của ông như  “Ký ức vụn (2009, Bạn văn (2011), tôi thấy ông có cách viết hóm hỉnh, chân chất hồn nhiên và mới lạ, một hiện tượng đặc biệt trên văn đàn Việt Nam ngày nay.
 
Trên trang blog Quê Choa, nhà văn này đã sớm tỏ rõ ông chính là một trí thức thứ thiệt, có cái nhìn sắt bén về thế thái nhân tình, về hiện tình xã hội – chính trị Việt Nam. Ông không ngần ngại đăng tải những bài khá nhạy cảm, những lập trường phản biện khá dứt khoát có thể làm cho cơ quan chức năng khó chịu.
 Thái độ của ông chính là thái độ của một nhà văn chân chính, một kẻ sỹ có tinh thần trách nhiệm với xã hội mình đang sống, tuy bị tai nạn ngặt nghèo vẫn hết mình  cống hiến. Khác với Nguyễn Khải, phải chờ đợi đến cuối đời mới đi tìm cái tôi đã mất, Nguyễn Quang Lập nhìn lại chính mình, chính cái lò sản sinh ra mình ngay trong giai đoạn sung mãn nhất của cuộc đời một nhà văn.
 
Trong một khung cảnh một xã hội đang có những xáo trộn trầm trọng, kinh tế, giáo dục trên đà khủng hoảng, trong giai đoạn nhà cầm quyền hằng khuyến khích trí thức phản biện, hiến kế để vươn lên và hoà nhập cùng thế giới phát triển, sự có mặt của những người như Nguyễn Quang Lập sẽ tạo lòng tin, sẽ là cơ may cho dân tộc…
 
Thế mà chợt một ngày đầu đông, có tin ông đã bị “bắt quả tang đang tải bài vở đăng những nội dung được cho là xuyên tạc, chống nhà nước”.
 
Tôi thật sự hụt hẫng và không thể không viết ra vài lời gọi là giải toả những bức xúc triền miên xâm chiến hồn tôi trong mấy ngày nay. 
 
Lập trường tôi về  điều luật 258 đã được tỏ rõ qua bài :Vài suy nghĩ về vụ xét xử nhà báo Trương Duy Nhất”  đăng tải vào đầu tháng ba năm nay. 
Tôi cho rằng điều luật này đã phương hại đến uy tín của nhà nước Việt Nam trên trường quốc tế vì nó phủ nhận quyền căn bản của công dân Việt Nam đã được ghi trong hiến pháp, đã vi phạm bản Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền, điều khoản về quyền tự do tư tưởng, tự do thu nhận, quảng bá tin tức và truyền đạt ý kiến mà Việt Nam đã ký kết.
 
Nhưng tác hại của nó không chỉ có thế. Nó có thể đem lại những hậu quả ngược lại với những gì nhà cầm quyền mong mỏi. Nó làm tắt lịm những tiếng nói chân thật của những công dân tốt, của những trí thức tâm huyết với hướng đi lên của dân tộc. Nó tạo điều kiện cho sự bất cập, trầm trọng hoá những mâu thuẫn, ngăn cản sự đồng thuận xã hội, đẩy lùi những giải pháp ôn hoà có lợi cho sự phát triền hài hoà của xã hội theo hướng tích cực.
 
Bà Hồ Thị Hồng, vợ blogger Bọ Lập đã cho bạn bè hay lời cuối cùng của ông ngày bị bắt: “Anh Nguyễn Quang Lập dặn, yên tâm, nếu sau 9 ngày không thấy về thì chắc khoảng 3 năm”.
 
Một trí thức có khí phách như vậy sẽ không dễ nhận những tội mà mình không hề vi phạm.
 
Mong thay nhà văn Nguyễn Quang Lập bảo tồn được sức khoẻ, sớm trở về với gia đình và bè bạn.
 
GS Nguyễn Đăng Hưng
 
Sài Gòn ngày 10/12/2014
 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai trên đường đến “thiên đàng“

  

Mao Trach Dong
Thủ tướng Chu Ân Lai - người Mao Trạch Đông vừa muốn "dùng" vừa muốn "diệt"
Biên bản buổi hội kiến tại Trung Nam Hải giữa Mao Trạch Đông với thủ tướng Australia: Gough Whitlam (11.1973) do chính Chu Ân Lai cầm bút chép, có ghi câu “tự bạch” của Mao: “Tôi đã có hẹn với Thượng đế rồi” ! …

Ý Mao muốn nói để thủ tướng Gough Whitlam rõ là Mao đã 80 tuổi, già yếu nhiều bệnh, sắp lên “thiên đàng” (?) gặp thượng đế.
Nhưng sau đó, người đến “gặp thượng đế” (sớm hơn) không phải là Mao, mà là… Chu Ân Lai !
Chính Mao trực tiếp sắp đặt để đẩy chuyến xe “lên thiên đàng” của Chu khởi hành nhanh hơn và sớm hơn Mao.
Sao Mao muốn “nhường” Chu đến thiên đàng trước?
Bởi lúc đó (cuối 1973), các tướng lĩnh kỳ cựu và công thần khai quốc cỡ Bành Đức Hoài, Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu, Đào Chú và hơn 80% đảng viên chính trực đều đã bị Mao hãm vào tử địa. “Bên đời quạnh hiu” của mình, Mao thấy còn sót hai nhân vật đáng ngại mà Mao vừa muốn “dùng”, lại vừa muốn “diệt”: Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình.
Hai người đó gắn bó nhau trong hơn nửa thế kỷ và lúc nào Đặng Tiểu Bình vẫn xem Chu Ân Lai như “một người anh” (hơn Đặng Tiểu Bình 6 tuổi). Cả khi Đặng nắm quyền cao nhất Trung Nam Hải, vẫn thường nhắc đến Chu Ân Lai là vị lãnh đạo “được các đồng chí và toàn dân tôn kính” (trả lời phỏng vấn của ký giả A. Farasi - hãng truyền thông Italia - 1980)Giữa hai người, Chu khôn khéo, mềm dẻo hơn Đặng, nhã nhặn và tận tụy “mỗi ngày làm việc hơn 12 giờ, có khi hơn 16 giờ, suốt đời như thế”. Đặng không giấu giếm:
“Đối với tôi mà nói, Chu Ân Lai trước sau là người anh cả, hai chúng tôi quen nhau rất sớm, từ hồi “cần công kiệm học” bên Pháp, đã ở bên nhau và gần như cùng lúc tham gia hoạt động cách mạng. Thời kỳ “đại cách mạng văn hóa” một số anh em chúng tôi bị “hạ bệ”, may sao Chu Ân Lai trụ lại được”.
“Trụ lại” Trung Nam Hải? Đồng nghĩa “thỏa hiệp” với Mao? Đặng thanh minh (cho Chu Ân Lai):
- “Thời kỳ đó, Chu Ân Lai ở vào tình thế vô cùng khó khăn nên cũng phải nói nhiều điều trái với lòng mình, làm nhiều việc trái với lòng mình. Nhưng nhân dân tha thứ cho ông. Bởi lẽ nếu ông không nói như thế, không làm như thế, thì sẽ không tự bảo vệ nổi mình, cũng chẳng thể phát huy tác dụng trung hòa - tác dụng giảm nhẹ tổn thất (nhờ vậy) Chu Ân Lai đã bảo vệ được khá nhiều người - trong đó có Đặng” (Nhiếp Nguyệt Nham - sđd Kỳ 28).
Nhờ vận động của Chu Ân Lai (cùng các lão thành cách mạng như Diệp Kiếm Anh, Vương Chấn), nên Đặng Tiểu Bình được phục hồi sau nhiều năm bị Mao đưa đi cải tạo lao động. Giây phút đáng nhớ của Đặng là lúc 19 giờ 30 phút 12.4.1973, Chu Ân Lai chủ trì bữa đại tiệc chào mừng Quốc vương Campuchia Norodom Shihnaouk tại sảnh yến hội trong Nhân dân đại hội đường Bắc Kinh, đã bố trí để Đặng có mặt: “khi các nhà lãnh đạo nối đuôi nhau đi vào phòng tiệc, họ kinh ngạc phát hiện một nhân vật quá quen thuộc. Là Đặng Tiểu Bình đấy ư?!. Nhiều người chưa tin vào mắt mình. Đúng là Đặng Tiểu Bình rồi! Ông đã được phục hồi chức vụ Phó thủ tướng, theo sự bố trí của Chu Ân Lai, lần đầu tiên ông được xuất hiện công khai” (Nhiếp Nguyệt Nham - sđd). Đó là cách Chu Ân Lai đưa Đặng Tiểu Bình tái xuất hiện trên chính trường Trung Quốc. Mao không rời mắt khỏi Đặng và Chu, đặc biệt với Chu - lãnh tụ đang được lòng dân.   
Dẫu nhuốm bệnh, trên đường đến cõi chết, Mao vẫn không cam tâm “đi trước” - nếu Chu còn chưa chịu “lên xe”. Trắng ra, nếu Mao chết mà Chu còn sống sẽ là “chướng ngại không thể vượt qua” của Giang Thanh. Dầu khoảng cách giữa vị trí của Giang Thanh đang đứng đến “ngai vàng” Trung Nam Hải chỉ còn một bước ngắn, nhưng nếu có Chu ngăn cản, Giang Thanh khó mà động thủ, tiếp quản - đơn giản: Giang không phải là đối thủ của Chu. Nên tốt hơn hết, Mao tìm cách để Chu “gặp thượng đế” trước mình.
Cơ hội đến: tháng 5.1972, Chu đột nhiên bị đau ở vùng lưng và bụng, uống thuốc nhưng không lành, phải nhập viện. Sau hội chẩn, các chuyên gia phát hiện Chu bị “ung thư tế bào thượng bì bàng quang giai đoạn đầu”. Chu có khả năng vượt qua cơn bệnh hiểm nghèo đó ở mức 80% trở lên nếu được “kịp thời chữa trị đúng phương pháp” - trước hết phải tiến hành phẫu thuật.
Mao được báo cáo bệnh án và phác đồ chữa trị đó, nhưng Mao không đốc thúc thực hiện, lại ngăn cản, truyền đạt để Uông Đông Hưng thay mặt Mao và trung ương đảng đưa ra quyết định trái hẳn với đề nghị của các chuyên gia ung bướu Trung Quốc:
1. Không được phẫu thuật (nuôi bệnh). 2. Không kiểm tra (để bệnh phát triển tự nhiên).
Sách báo xuất bản ở Trung Quốc những năm gần đây tiết lộ: “Các chuyên gia điều trị biết rằng bỏ lỡ thời cơ điều trị sớm chẳng khác nào để thủ tướng Chu Ân Lai chờ chết. Họ đề nghị trực tiếp gửi thư trình bày với Mao, nhưng Uông Đông Hưng ngăn lại: -Các ông phải nghe lời, phải theo luồng tư duy của chủ tịch. Người đang xem xét vấn đề toàn diện, có thể qua một thời gian tính sau”.
“Tính sau” là cách nói trì hoãn, để “giúp” tế bào ung thư mặc sức tấn công Chu suốt 9 tháng ròng buông lỏng (không phẫu thuật). Hậu quả: Chu tiểu tiện ra máu nhiều từ tháng 2.1973, Mao buộc lòng cho phép các bác sĩ điều trị theo phác đồ đã báo cáo trước đó rất lâu. Quá trễ, tế bào ung thư di căn mạnh vào tháng 5-1974. Tổ trưởng điều trị Ngô Giai Bình quyết định phẫu thuật, nhưng Trương Xuân Kiều (một trong tứ bang nhân) ngăn lại. Trương nói ý kiến của Mao chủ tịch không thể phẫu thuật vì “không ai có thể làm thay công việc của Chu thủ tướng” lúc đó. Đến giai đoạn gay go, các phẫu thuật được Mao cho phép chỉ có tính cách “đối phó”, chứ không điều trị thực chất, dẫn đến cái chết Chu Ân Lai lúc 9 giờ 57 phút ngày 8.1.1976.
Thay vì đại lễ truy điệu và vĩnh biệt phải tổ chức tại Nhà Quốc hội đúng với cương vị thủ tướng chính phủ của Chu Ân Lai, nhưng lại diễn ra tại Nhà tang lễ bệnh viện Bắc Kinh và sau đó hỏa thiêu.
Điều nữa: thay vì tro tàn thủ tướng Chu Ân Lai được đối xử trân trọng, đã bị đưa lên chiếc máy bay An-2 xộc xệch để mang tro đi rải. Đó là chiếc máy bay chuyên dùng… phun thuốc trừ sâu!(còn nữa).
GIAO HƯỞNG

Phần nhận xét hiển thị trên trang