Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 22 tháng 10, 2014

"Tứ hành xung" hẳn nào hai cụ này choảng nhau một mất một còn!

Về lá số tử vi của Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch

Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông. Ảnh TL
Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông. Ảnh TL
Mao Trạch Đông vượt Đại Biệt Sơn, đưa hơn một triệu quân áp sát mặt trận bắc Trường Giang - lúc ấy Tưởng Giới Thạch đang mở tiệc mừng thọ lục tuần (60 tuổi - 1947) tại thành phố Nam Kinh…
Nam Kinh là một trong sáu cố đô Trung Quốc, nằm cách cửa sông Trường Giang (trổ ra biển) khoảng 300km, với gần 2.500 năm tạo lập (kể từ Việt Câu Tiễn dùng mỹ nhân kế đưa người đẹp Tây Thi phụng hiến Ngô Phù Sai để diệt nước Ngô - khoảng năm 472 trước công nguyên). Có đến 8 vương triều kiến lập kinh đô ở đó, bởi địa hình phong thủy:
Có núi Chung Sơn án ngữ phía Bắc (theo thế “long bàn” rồng cuộn). Có vách đá màu đỏ đậm dựng đứng, trấn phía Tây (theo thế “hổ cứ” cọp ngồi). Có thủy tụ, địa cát, minh đường. Đến thế kỷ 20, Tưởng Giới Thạch đóng thủ đô của Trung Hoa Quốc dân đảng, lập Phủ tổng thống. Nhưng thất thời, phải rút. Cộng sản tiếp quản. Cục diện đó can hệ gì đến “lá số tử vi” của Mao và Tưởng không ? Sa-môn Huệ Thiện đối chiếu:
Mao Trạch Đông sinh 19.11 Quý Tỵ (thứ ba 26.12.1893) tại một thôn nhỏ nằm dưới chân núi Thiều Sơn (tỉnh Hồ Nam) trong gia đình trung lưu, làm nghề nông.
Tưởng Giới Thạch sinh rằm tháng 9 Đinh Hợi (thứ hai 31.10.1887) tại vùng Phụng Hóa (tỉnh Triết Giang) trong gia đình khá giả, làm nghề buôn muối.
Và luận: “Mao Trạch Đông tuổi Tỵ, Tưởng Giới Thạch tuổi Hợi - hai tuổi này “Tỵ và Hợi” rơi vào 6 cặp đối đầu tương khắc theo ngũ hành: Tỵ - hợi (và: Tý - ngọ, Sửu - mùi, Dần - thân, Thìn - tuất, Mẹo - dậu) gọi là “lục xung”. Khác với “lục hợp” vui vẻ chan hòa gồm: Tý - sửu, Dần - hợi, Mẹo - tuất, Thìn - dậu, Tỵ - thân và Ngọ - mùi”.
Sa-môn tiếp: “Tưởng Giới Thạch tuổi Đinh Hợi, là con heo cang cường vượt núi (quá sơn), ôm mạng Thổ (đất) thuộc Ốc thượng thổ tựa như đất do các con tò vò chuyển lên xây tổ (trên cành cây cao), hoặc đất đã nung thành ngói (trên mái nhà). Còn Mao Trạch Đông tuổi Quý Tỵ, là con rắn cuộn tròn trên cỏ xanh, ôm mạng Thủy (nước) cuồn cuộn sông dài (trường lưu thủy). Hẳn nhiên “đất” của Tưởng gặp phải “nước” trường giang của Mao, phải rã rời, tan loãng. Nhưng - Mao không tin “số mệnh”, không tin Bồ tát Văn Thù từng cứu thoát Mao bằng cỏ linh chi và ánh sáng hồng hoàng phát ra từ quả lưu ly.  Vì Mao là giáo chủ của vô thần. Tưởng cũng vậy, không tin có Bồ tát Quán Thế Âm đã che chở để Tưởng đặt chân đến Đài Loan an toàn (với sự bảo vệ của tổng thống Mỹ Truman) - vì Tưởng theo đạo Thiên Chúa. Mao chết năm 1976. Tưởng chết năm 1975. Thử hỏi giờ này linh hồn họ ở đâu? Đã đầu thai, hoặc đang bị giam tại Phủ diêm đài ?”. Sa-môn Huệ Thiện không giải rõ, đọc hai câu:
“Bát lộ hồng mao thủy
“Thiên hóa thạch huyền môn.
Rồi cười, không nói gì thêm.
Nhắc chuyện hai người - Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch - quyết liệt giành giật Trung Nguyên dịp “lục thập hoa giáp” của Tưởng.
Để chúc mừng, tỉnh trưởng tỉnh Triết Giang gởi đến bức chân dung Tưởng thêu bằng những sợi chỉ vàng. Khi đại quân Lưu Bá Thừa - Đặng Tiểu Bình tiến chiếm Phủ tổng thống của Tưởng, bức ấy vẫn còn treo giữa sảnh đường.
Theo Nhiếp Nguyệt Nham - sđd. ở Kỳ 28, tr. 128, chân dung “cao 3 mét, rộng 2 mét bằng các sợi chỉ vàng thật; đầu, mắt và ngực Tưởng Giới Thạch cứ lấp lánh ánh vàng. Một chiến sĩ bèn dùng lưỡi lê đâm mấy nhát vào đó. Bức gấm này là một tác phẩm nghệ thuật, do tỉnh trưởng Triết Giang mời một nghệ nhân thêu mấy tháng trời mới xong. Nghe tin đó, Đặng Tiểu Bình rất giận dữ: “Làm sao cậu ta lại hành động ngu xuẩn như vậy? Ai lại dùng tình cảm thay thế kỷ luật và chính sách như vậy? Hãy lập tức thông báo cho toàn quân phải bảo vệ nguyên vẹn các di tích và văn vật, coi đó là nhiệm vụ quan trọng trong việc tiếp quản Nam Kinh”. Đặng Tiểu Bình giải thích:
- “Tưởng Giới Thạch là Tưởng Giới Thạch, còn chân dung ông ta là chuyện khác. Tưởng Giới Thạch là kẻ thù của nhân dân, còn bức gấm thêu chân dung ông ta là một tác phẩm nghệ thuật quý giá, do trí tuệ và công sức của nhân dân lao động tạo nên, tại sao lại đang tay hủy hoại nó ?”.
Có thể thấy, tư lệnh Lưu Bá Thừa và chính ủy Đặng Tiểu Bình có “tố chất văn hóa”  ngược hoàn toàn với hiệu triệu của Mao - Lâm Bưu và Giang Thanh: “hãy xóa bỏ bốn điều cũ (tứ cựu): tư tưởng cũ, văn  hóa cũ, tập quán cũ, phong tục cũ” - dẫn đến cái chết thê thảm của hơn 20.000.000 người. Đàng sau tất cả tang thương ấy, không thể quên một linh hồn bơ vơ ngã xuống sau “mệnh lệnh số 1”: nguyên soái Hạ Long !. (còn nữa).
Giao Hưởng
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nói lạ, không nuôi được thì bỏ hay sao?

'Không dân nào đóng thuế nuôi nổi bộ máy này'

Cẩm Quyên - Phạm Hải
VNN - 40 ngàn tỷ đồng để cải cách tiền lương theo đúng lộ trình không tìm đâu ra được. Muốn có nguồn tăng lương cho cán bộ cần làm 2 việc: Tinh giản biên chế và tiết kiệm chi tiêu.

Không tìm ra 40 ngàn tỷ cải cách lương

ĐB Nguyễn Văn Minh cho rằng việc tăng lương bị trì hoãn là vấn đề lặp lại nhiều, cần xem xét lại, cần thiết phải tăng lương tối thiểu theo lộ trình để đảm bảo đời sống của cán bộ, công chức.

Muốn làm được như vậy, ông Minh đề nghị phải tiết kiệm chi tiêu: “Nhiều công trình mất hàng ngàn tỷ để xây dựng nhưng xây xong không sử dụng hoặc công trình không cần thiết, rất lãng phí”.

Tiết kiệm chi tiêu còn phải đi kèm với tinh giản biên chế. Hiện nay đội ngũ hưởng lương rất lớn nhưng người làm việc chuyên môn ít, bộ máy tổ chức cồng kềnh. Bộ Nội vụ từng triển khai việc tự đánh giá công việc của cán bộ, công chức nhưng làm xong thì không có đơn vị nào xin giảm biên chế mà đều xin tăng!

Còn ĐB Trần Du Lịch nhấn mạnh “nếu cứ duy trì bộ máy chính quyền địa phương 3 cấp với tất cả ban bệ hệ thống như hiện nay thì không dân nào đóng thuế nuôi nổi bộ máy này. Nếu không giải quyết được vấn đề này, không thể nghĩ đến việc tăng lương, nâng cao phúc lợi cho người dân”.

Trong khi đó, ĐB Đỗ Văn Đương đánh giá con số 1/3 cán bộ công chức “cắp ô” đã được chỉ ra nhưng có giảm được ai đâu? Theo ông, cần giảm hẳn biên chế và phải quy về từng cơ quan.

“1/3 công chức 'cắp ô' với cơ quan hành chính là đúng đấy, tôi làm nhiều cơ quan rồi, tôi thấy thừa sức giảm 1/3 số này - số chỉ 'ăn theo nói leo' không giải quyết được gì, lãnh đạo cũng chỉ chỉ tay 5 ngón không làm được việc gì, tuyển nhiều nguy hiểm quá” - ông Đương nói.
Lương công chức ra trường phải 10 triệu đồng/tháng?

Theo ông Trần Du Lịch, chỉ tăng lương thêm 100.000 đồng thì không giải quyết được gì, không chống được tham nhũng, không tuyển được người giỏi và thu hút được đội ngũ tinh hoa vào bộ máy nhà nước.

ĐB Nguyễn Thị Quyết Tâm đồng tình cho rằng cần nâng mức lương cơ bản. Lương tối thiểu công chức mới ra trường phải là 10 triệu đồng thì mới có thể lập gia đình, mua nhà cửa ... Muốn làm được việc này cần tính toán lại bộ máy chính quyền, phân cấp chức năng nhiệm vụ mỗi cấp.

“Tại sao nhiều người bỏ ra vài trăm triệu để “chạy” vào công chức, dù lương thấp như thế?” - bà Tâm đặt câu hỏi.

Theo bà Tâm, nguyên nhân là vì môi trường làm việc hiện nay thả nổi, dễ tạo điều kiện cho tiêu cực phát sinh.
Vì thế, việc tăng lương phải đi kèm với giám sát chặt chẽ, khi cán bộ sợ mất việc sẽ không có tiêu cực. Công chức không tích cực khiến người dân mất niềm tin.
***

'Cỗ xe nợ công đang quá tải'

ĐB Trần Hoàng Ngân cho biết nợ công đang ở mức rất là cao, dù nằm dưới mức pháp định là 65% GDP nhưng ông không cho rằng đó là mức an toàn.

Lý do là vì nghĩa vụ trả nợ trên tổng thu ngân sách hàng năm ngày càng tăng, số đảo nợ ngày một lớn, con số nợ công hiện nay vẫn chưa được tính toán đầy đủ do chưa đưa một số khoản khác vào.

Theo lý giải của ĐB Trần Hoàng Ngân, nợ công tăng nhanh và đã đạt xấp xỉ mức trần nợ công Quốc hội cho phép là 65% GDP là do trái phiếu (hiện đang để ngoài ngân sách) và bội chi. Bội chi đầu nhiệm kỳ đề ra mục tiêu về dưới 4,5% vào 2015. Năm 2011, bội chi 4,4%, nhưng đến 2012 bội chi là 5,4%, năm 2013 là 5,5%, năm 2014 là 5,3% và dự kiến 2015 là 5%.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nói mãi chưa xong về một con thác, ghi lại làm tư liệu:

Giao Blg

Câu chuyện thác Bác Giốc - 4 (bài Trương Nhân Tuấn)

Theo chính lời tác giả, từ năm 2000, tức là từ 14 năm về trước, ông bắt đầu tìm tài liệu liên quan tại Pháp. Và bài đầu tiên công bố là năm 2003.

Cứ có cảm giác bị nhầm lẫn giữa bài của Mai Thái Lĩnh và Trương Nhân Tuấn. Nhưng cả hai ông thì rõ là chưa từng đến thác Bản Giốc (đến thời điểm công bố bài).

Cũng hiện chưa rõ niên đại chính xác của bài viết (lên blog là năm 2013).

Bài lấy về từ blog của Trương Nhân Tuấn.

---



Trương Nhân Tuấn


vendredi 25 octobre 2013

http://nhantuantruong.blogspot.jp/2013/10/au-la-su-that-cua-thac-ban-gioc.html

Đâu là sự thật của thác Bản Giốc ?


Từ những năm đầu thập niên 2000, tác giả đã vào Trung tâm Văn khố Hải ngoại của Pháp tại Aix-en-Provence (CAOM) để nghiên cứu vấn đề biên giới hai nước Việt-Trung. Năm 2003 có bài biên khảo công bố các dữ kiện địa lý, lịch sử và pháp lý liên quan đến chủ quyền thác Bản Giốc. Bài biên khảo này có lẽ vẫn còn đâu đó trong không gian internet. Thời gian tác giả dành cho việc tìm kiếm tài liệu, riêng cho thác Bản Giốc, tính ra gần một năm, với không biết bao nhiêu trang tài liệu, sách và bản đồ phải tham khảo. Nếu đây chỉ là một công tác « thuần túy nghiên cứu khoa học », thì mọi việc sẽ diễn ra hết sức dễ dàng. Người làm nghiên cứu tìm thấy được điều gì thì ghi nhận điều đó, hiểu tới đâu nói tới đó, sau đó tổng hợp lại các dữ kiện và đưa ra kết luận. Nhưng vấn đề tranh chấp biên giới Việt-Trung là một trường hợp hết sức tế nhị và phức tạp. Vấn đề tranh chấp đã tồn đọng từ hàng trăm năm trước, khi VN mới vào vòng lệ thuộc Pháp. Trong khi đó, nhiều tài liệu phát tán từ trong nước tố cáo các lãnh đạo CSVN « bán đất nhượng biển » cho TQ, sau khi hai bên VN-TQ ký kết lại hiệp ước biên giới trên đất liền năm 1999. 

Người làm nghiên cứu về biên giới Việt-Trung vô hình chung cùng lúc bị áp lực từ ba phía : 1/ thiên kiến do tình cảm cá nhân, muốn VN được lợi trong việc phân định biên giới, 2/ do lòng yêu chuộng học thuật, muốn thiết lập một sự thật khách quan và khoa học về vấn đề biên giới Việt-Trung và 3/ do sức ép chính trị từ các phía. 


Vấn đề rắc rối hơn từ khi tài liệu chính thức từ Chính phủ VN (Bị Vong Lục 1979), khẳng định rằng thác Bản Giốc thuộc về VN, được công bố tại hải ngoại. 


Tài liệu này viết như sau :


« Tại khu vực cột mốc 53 (xã Ðàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Qui Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó. Ngày 29 tháng 2 năm 1976, phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày dặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên cồn Pò-Thoong và ngang nhiên nhận cồn nầy là của Trung Quốc


Năm 1955-1956, Việt Nam đã nhờ Trung Quốc in lại bản đồ nước Việt Nam tỉ lệ 1/100.000. Lợi dụng lòng tin của Việt Nam, họ đã sửa ký hiệu một số đoạn đường biên giới dịch về phía Việt Nam, biến vùng đất của Việt Nam thành của Trung Quốc. Thí dụ : họ đã sửa ký hiệu ở khu vực thác Bản Giốc (mốc 53) thuộc tỉnh Cao Bằng, nơi họ định chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong. »


Tài liệu « Bị Vong Lục 1979 » của nhà nước VN là một tài liệu được đúc kết từ các dữ kiện lịch sử và pháp lý giữa hai nước Việt-Trung, đưa ra quốc tế nhằm tố cáo phía TQ lấn đất của VN. Tài liệu này có giá trị pháp lý. 


Vì có giá trị pháp lý, nó phải « đúng ».


Ngoài giá trị pháp lý do nhà nước CSVN bảo kê, tài liệu này còn có giá trị của « hồn thiêng sông núi ». Nó đã động viên ý chí, thúc đẩy nhiều thế hệ thanh niên VN hy sinh tính mạng để bảo vệ vùng lãnh thổ này.


Vì vậy, người làm nghiên cứu bị dồn vào cái thế chẳng đặng đừng : mọi cách phải chứng minh cho được thác Bản Giốc thuộc VN. 


Nguyên văn bài viết năm 2003 (xem bên dưới) tác giả trình bày cái logic về chủ quyền của VN tại thác Bản Giốc như sau : 


1/ Chứng minh sông Qui Xuân (Qui Thuận), bằng các tài liệu lịch sử chính thức của TQ, có chảy sang VN.


2/ Chứng minh sông này vẫn có đoạn chảy sang VN, sau khi phân định lại biên giới 1887.


3/ Chứng minh thác Bản Giốc nằm trên đoạn sông thuộc VN bằng văn bản phân định biên giới Pháp-Thanh 1887.

4/ Dẫn tài liệu chứng minh thác Bản Giốc cách đường biên giới 2km.


5/ Dẫn tài liệu tài liệu chứng minh nhà nước thuộc địa Pháp đã quản lý thác Bản Giốc.

Với những tài liệu lịch sử có giá trị pháp lý này, nếu với một đội ngũ thương thuyết tài giỏi, thác Bản Giốc và cồn Pò-Thong sẽ thuộc VN, chứ không phải chia với TQ mà VN chỉ được một phần rất nhỏ như hiện nay. 

Trong khi sự thật của thác Bản Giốc, với những tài liệu thu thập được, tác giả không hề có việc « ngộ nhận » nào. Những dữ kiện mà tác giả đã công bố trong bài biên khảo đó, độc giả nào tinh ý đã có thể biết vị trí của thác Bản Giốc ở đâu (trên sông Qui Xuân). Những dòng mở đầu, tác giả đã viết :


« Thác Bản Giốc ở hướng Ðông Bắc phủ Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, nằm trên sông Qui Xuân (hay Qui Thuận, Quây Sơn). Sông Qui Xuân bắt nguồn từ vùng núi phủ Trấn An (hay Thiên Bảo – Vân Nam), chảy vào Việt Nam - theo các biên bản phân giới Pháp Thanh 1894 - tại ải Lung (cột mốc 81), chảy lại sang Trung Quốc ở khoảng cột mốc số 50 đến 52. Từ cột mốc 50 cho đến cột mốc 52, biên giới hai nước Việt-Trung là đường trung tuyến sông Qui Xuân. Thác Bản Giốc là một loại thác nước bậc thềm. Theo tài liệu của Cdt Famin viết năm 1894, thác cao khoảng 40 thước. Theo bản báo cáo của Trung Úy Détrie, ủy viên phân giới 1894 (người phụ trách cắm mốc vùng Bản Giốc), thác cao khoảng 50m. Về vị trí thác Bản Giốc, báo cáo của ông Détrie cho biết thác nằm ở phía « hạ lưu » mốc 53. Điều này cho thấy thác Bản Giốc ở khoảng giữa hai cột mốc 52 và 53. »


Cùng lúc với bản đồ :
Bangioc GGI
Bản đồ SGI (Sở địa dư Dông Dương) khu vực Cao Bằng, tỉ lệ 1/100.000.


Như đã dẫn, từ bản báo cáo của người cắm mốc : “thác Bản Giốc ở khoảng giữa hai cột mốc 52 và 53 » ; nếu mọi người chú ý nhìn bản đồ thì sẽ thấy thác Bản Giốc nằm trên đường biên giới.


Và « plan B » của tác giả trong bài viết, nếu để ý, mọi người sẽ thấy hai điều : 


1/ Đường biên giới vẽ trên các bản đồ dành thác Bản Giốc và cồn Pò Thong cho VN.


2/ Từ sau khi phân định biên giới, thác Bản Giốc được quản lý bởi nhà cầm quyền thuộc địa. 


Vấn đề thứ nhất thực hiện dễ dàng vì các bản đồ thuộc SGI, hay các bản đồ liên quan khác, đều vẽ đường biên giới ở phía bên kia, để lại cồn Pò Thong và thác Bản Giốc cho VN. 


Vấn đề thứ hai khó khăn hơn. Tác giả phải mất nhiều thời giờ tìm kiếm mới tìm ra được. Đây là một yếu tố quan trọng thuộc về công pháp quốc tế (effectivité). Theo đó, trong một vùng lãnh thổ có tranh chấp chủ quyền, phía nào chứng minh được mình đã áp dụng một cách liên tục và hòa bình thẩm quyền quốc gia tại vùng lãnh thổ này, vùng lãnh thổ sẽ thuộc chủ quyền của quốc gia đó. Tài liệu cho thấy Pháp đã quản lý, cho quân lính đi tuần thường trực khu vực thác này


Nếu VN có một đội ngũ thương thuyết với TQ hiểu biết vấn đề hơn, VN sẽ dành phần lớn thác Bản Giốc và toàn bộ cồn Pò-Thong. (Nhưng không thể loại bỏ giả thuyết việc nhượng bộ thác Bản Giốc là do các lãnh đạo chóp bu đảng CSVN quyết định.)


Nguyên văn bài viết của tác giả năm 2003 như sau :


Tìm hiểu chủ quyền thác Bản Giốc.


1/ Tài liệu dẫn từ Ðại Thanh Hội Ðiển Ðồ và Ðại Thanh Nhứt Thống Chí : 


Tiểu Thiên An có sông Qui Thuận ; sông nầy bắt nguồn ở phía Bắc huyện Qui Thuận, chảy vào huyện nầy ở vùng Tây-Nam, sau đó chảy về hướng Ðông (ÐTHÐÐ, quyển số 125, tờ 4).


Sông Bác Lai Thủy (Poh-lai chouei 駮來水) chảy ở phía Ðông sông Qui Thuận, bắt nguồn trên vùng núi Tây Bắc châu Qui Thuận, chảy theo hướng Tây Nam và chảy vào phía Ðông phủ Thái Bình (sđd, nt).



Sông Long Ðàm Thủy (Long-t’an chouei 龍潭水), chảy cách huyện Qui Thuận 1 dặm về hướng Tây Bắc. Sông này có nguồn từ chân núi, chảy qua vùng Nam châu Qui Thuận, sau đó vào tỉnh Cao Bằng. Sông nầy thuyền bè không lưu thông được (ÐTNTC, quyển số 366, tờ 6). Theo bản đồ của các nhà truyền giáo Jésuites thì Long Ðàm Thủy là một tên khác của sông Qui Thuận Sông nầy cắt xéo ngang phần phía Bắc tỉnh Cao Bằng, chảy vào Việt Nam qua ải Nga Tào (Ngo-tsao 峨漕) và vào lại Trung Hoa qua Ải Canh Biền (Keng-ping 更駢). 


Thai Binh Phu - Dai thanh hoi dien do
Bản đồ Thái bình phủ, Đại Thanh hội điển đồ.

Như thế tài liệu này cho chúng ta một khái niệm về sông Qui Thuận (trong đoạn đi vào lãnh thổ Việt Nam. Sông này chảy vào Việt Nam qua ải Nga Tào và chảy ra qua ải Canh Biền.


2/ Tài liệu biên bản phân định biên giới số 3, ký ngày 29-3-1887.

….

«Từ điểm A của bản đồ thứ 3 đến điểm B của bản đồ thứ 3, gần làng An Nam Luong-Bak-Trai ( ?), đường biên giới theo đường trung tuyến Sông sông Qui Xuân. 


Từ điểm B của bản-đồ thứ 3 cho đến điểm C của bản đồ thứ 3, gần làngBảo Khê ê thuộc VN, đường biên-giới vẽ một vòng cung mà phần lồi hướng về phía Ðông, để lại cho Trung Hoa công sự Ban-Thao-Kha ( ?), xuyên qua hẻm núi Ko-Ya-Ai, để lại cho Trung Hoa công sự Ko-Ya-Kha ( ?) và Kaing-Hane-Kha ( ?) v.v.., bên An Nam, đoạn sông Bắc Vong giữa hai điểm B và C, các làng Luong-Bak-Trai ( ?), Loung-Bo-Xa ( ?) và Pham-Khé ( ?) v.v.. » 


So sánh với tài liệu ở phần 1, điểm B tương ứng với ải Canh Biền (更 駢) và điểm C tương ứng với ải Nga Tào (峨漕). Xem hình chụp dưới đây, từ điểm A đến điểm B, sông Qui Xuân là đường biên-giới. Từ điểm B đến điểm C, sông Qui Xuân thuộc Việt Nam. 

Thác Bản Giốc ở trên đoạn sông AB hay BC ?


Nếu thác ở trên đoạn AB thì thác ở trên đường biên giới. Việc phân chia thác này sẽ chiếu theo nội dung biên-bản : « đường biên giới là trung tuyến » của dòng sông. Thác phải chia làm hai. Những cù lao hay cồn trên sông sẽ thuộc về nước có bờ gần cồn nhất.

Nhưng nếu thác Bản Giốc ở trên đoạn BC thì thác này hoàn toàn thuộc về Việt Nam.

Hình chụp phía dưới là đồ tuyến biên giới đính kèm biên bản phân định biên giới 1887. Ta thấy đây là bản đồ gốc vì có chữ ký của hai phái đoàn Pháp và Thanh, có chữ ký của ông Dillon, Chủ Tịch Ủy Ban Pháp và các ủy viên Bouinais và bác sĩ Néïs. Bản đồ này là bản đồ số 3.
Bien ban phan dinh 1887-2


Bien ban phan dinh 1887
Bản đồ đính kèm biên bản phân giới 1887 

3/ Tài liệu biên bản phân giới ký tại Long Châu ngày 19 tháng 6 năm 1894 giữa Ðại Tá Galliéni và Commandant Famin, đại diện chính-phủ Pháp với ông Thái Hy Bân, Tri Phủ Long Châu, đại diện nhà Thanh.


Hai trang cuối ghi sau: « Các cột mốc biên giới, như vừa thấy, đều mang một con số, từ 1 đến 67 cho đoạn một và từ số 1 cho đến số 140 cho đoạn hai, đã được cắm tại các địa điểm được chỉ định ở trên, với sự hiện diện một ủy viên Pháp và một viên quan Tàu. Không một cột mốc nào được dời đi kể từ bây giờ mà không có sự ưng thuận hỗ tương giữa hai nước. »


Cột mốc số 53, thuộc đoạn thứ hai, được định nghĩa như sau : tên Pan-Ngô (Bách-Nga Khẩu百峨口), cắm tại « bên lề một con đường ở phía Tây-Nam và trên phần nối dài của một khu rừng nhỏ », « au bord du chemin et au SO et sur le prolongement d’un petit bois ». 


Cột 51, tên Khau Pang (Canh Bàng Ải 更旁隘), cắm tại : Bên bờ trái sông Qui Xuân (bờ bên TQ, ghi chú của tác giả) ở hạ lưu một cái cái thác và cách 150m. « Sur la berge du Sung Quei Cheun (rive gauche) à 130 pas en aval d’une cascade ».


Cột 52, tên Khau Canh Ai (Khẩu Canh Ải 口更隘), cắm bên bờ sông và cách một trạm canh (ải, tức cửa biên giới tên Khẩu Canh) 5 bước. « Sur la berge et à 5 pas en avant du poste ».


Ta thấy phần mô tả vị trí cột mốc 51 có đề cập đến một cái thác và thác này ở phía hạ lưu cột 51. Thác này nhỏ, chỉ cao khoảng 1m, không phải thác Bản Giốc. Sông Qui Xuân, như mô tả phần trên, có nhiều ghềnh thác, thuyền bè không lưu thông được. 


Cột 51 mang tên Canh Bàng Ải 更旁隘. Xem lại phần 2 ở trên, điểm B tương ứng với Canh Biền Ải 更駢隘. Rất có thể Canh Biền Ải chính là Canh Bàng Ải vì trùng hợp ở chữ Canh 更 và cách phát âm của hai chữ Biền và Bàng. Hơn nữa, hai tên chỉ định cho hai nơi rất gần nhau. Nếu giả thuyết này đúng thì đường trung tuyến sông Qui Xuân chỉ là biên giới hai nước từ cột 50 đến cột 51. 


Như thế thác Bản Giốc ở phía thượng lưu, nằm trong đoạn BC, nên hoàn toàn thuộc về Việt Nam. 


Xem hình chụp 2 trang biên bản phân giới ở dưới có ghi các cột mốc liên quan, một tiếng Hán và một tiếng Pháp.


Về các cột mốc, tùy theo vùng, được làm bằng đá đẻo, bằng xi-măng đúc hay bằng đá tảng tự nhiên có sẵn trên thực địa. Cột mốc vùng Quảng Tây được ghi nhận như hình dưới đây. Ta thấy trên mốc có khắc một số chữ. Hàng dọc bên phải ghi là « Trung Quốc Quảng Tây Giới 中國廣西界 ». Phía phải, ở trên, ghi chữ Pháp « Frontière Sino-Annamite ». Ở giữa ghi số cột mốc và phía phải, hàng dưới, ghi tên cột mốc.


Cot moc Quang Tay
Hình của Dr Péthellaz, đăng trong « Au Tonkin et sur la Frontière du Quang-Si » của Commandant Famin.

Bien ban phan gioi 1894 - 2

Biên bản ghi bằng tiếng Hán. Cột 53 tên Bách Nga Khẩu.

Bien ban phan gioi 1894 - 1

Biên bản tiếng Pháp. 



4/ Tài Liệu Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-si, Par le Commandant Famin, Vice-Président de la Commission d’Abornement des Frontières Sino-Annamites en 1894. Paris, Auguste Challamel, Editeur, Librairie Coloniale, 1895 (Trang 12-13; 142,143).


Tonkin và trên vùng biên giới Quảng Tây, của Cdt Famin, Phó Chủ Tịch Ủy Ban Phân-Giới năm 1884. Ông này đảm trách việc phân giới dưới quyền Ðại Tá Galliéni, kết thúc việc phân giới vùng Quảng Tây trong chiến-dịch 1893-1894 mà nhiều chiến dịch khác từ những năm trước do các ông Servière, Flandin... đã không thành công.

Trang 12-13: Xác nhận thác Bản Giốc thuộc Việt Nam :

« Trên vùng phía Bắc (vùng II Quân-Sự), sông Qui Thuận chảy qua Trùng Khánh Phủ. Ðây là một phụ lưu của sông Tây Giang (Si-Kiang). Có chiều rộng khoảng 60 thước, chảy vào Tonkin qua cửa Ải Lung và chảy vào lại TQ ở gần công sự (của TQ) tên Nam-Ton, sau khi đã tưới một thung lũng rộng lớn và trù mật. Hai cây số trước khi rời khỏi đất Tonkin, sông này chảy xuống một bậc đá và tạo thành một cái thác tuyệt đẹp cao khoảng 40 thước. Từng cột nước khổng-lồ, trước hết rơi xuống vang rền trên một trũng nước, sau đó dội ngược lên thành những chùm tua đầy bọt nước, chảy trên những bậc thềm đá bóng láng. Vào mùa mưa, thác nầy mang một hình thái tuyệt trần, tiếng động của nó âm vang ra thật xa, dội vào vách núi đá nghe như là sấm động, trong lúc những đám mây hơi nước được tạo thành ở các bên bờ tan ra tạo thành một đám mưa lâm râm thật sự. »

5/ Tài liệu: Nhật Ký của Trung Úy Détrie về đoạn biên giới từ Lũng Ban đến Ðèo Lương, nhân dịp đảm nhận việc cắm mốc. (28 tháng 6 năm 1894) : 

Tài liệu này xác định vị trí của cột mốc 53 và thác Bản Giốc : 

« Après la porte de Dốc-Khánh la frontière est tracée à l’intérieur du massif rocheux, laissant au Tonkin de petit cirques peu importants débouchant dans Lung-Piac, près les deux cirques difficilement accessibles de Lung-Deng et Lung-Moi que traversent les chemins conduisant à Thin-Thang par Ai-Thin-Thap (56) et Lung-Moi (55) jusqu’à l’abornement, les habitants de Lung-Deng et Lung-Moi payaient l’impôt aux Chinois. La frontière regagne ensuite le pied des rochers en face du village de Ban-Mong (54) longe le pied de ces rochers et au pied du blockhaus chinois de Pia-Mu, suit la lisière d’un petit bois et coupe le chemin de Hang-Dong-Quan (53) pour atteindre la rivière qu’elle suivra jusqu’à Ly-Ban. Le chemin qui de la borne 53 conduit à Dốc-Khánh (57) à travers de très belles rizières devra être l’objet d’une surveillance constante. 
A partir de la belle cascade de 50m qui se trouve un peu en aval de la borne 53, le sông Qui-Xuân coule resserré entre des mamelons élevés ». 

Bắt đầu từ cái thác nước đẹp, cao 50 thước, ở phía hạ-lưu (aval) của cột mốc số 53, sông Qui Xuân chảy hẹp lại ở giữa những ngọn đồi cao. »

Ta thấy ông Détrie mô tả đường biên giới từ Tây sang Đông trong khi các cột mốc trong vùng này được cắm từ Đông sang Tây. Như biên bản phân giới mô tả, cột mốc 53 được cắm ở bên lề con đường.

Ta thấy ghi chú trong hình dưới, đoàn quân « tirailleurs tonkinois » qua sông (passage du gué) từ phía tả ngạn sang phía hữu ngạn. Đây là một yếu tố quan trọng cho thấy hai bờ con sông đều thuộc Việt Nam (hay do hành chánh thuộc địa Pháp quản lý). Đơn giản vì theo các công ước, quân đội hai bên không được đi qua lãnh thổ nước bạn. 

Bên kia thác ta không thấy con đường (đi Hang-Dong-Quan) có cắm mốc số 53 như Trung Úy Détrie mô tả. Hình thái núi non hiểm trở phía bên kia cũng như phía thượng lưu sông cho thấy không thể có con đường qua đây được. Nhưng rất có thể con đường đi dọc theo sông, đoàn quân trong hình theo con đường này, gần đến thác, qua sông. Riêng con đường, vì núi chận, phải đi vòng sau núi. Vì thế cột mốc 53 chỉ có thể ở phía hạ lưu thác Bản Giốc. 

Theo các lý luận này thác Bản Giốc hoàn toàn thuộc về Việt Nam.

Qua song Qui Xuan
Hình trên : đoàn quân qua sông, dưới thác Bản Giốc. 


6/ Tài liệu Bulletin du service Géologique de l’Indochine, Volume XI, Fascicule I, Etudes Géologiques sur le Nord-Est Du Tonkin, (Feuilles de Bảo Lạc, Cao Bằng, Hà Lang, Bắc Kạn, Thất Khê và Long Châu), Réné Bourrret; Hà Nội - Hải Phòng Imprimerie d’Extrême d’Orient – 1922. (trang 32-33-34).

Xác nhận thác Bản Giốc của Việt Nam:

« Sông Qui Xuân theo hướng Ðông-Bắc trong vùng núi nầy, chảy ở giữa hai tường đá rất cao. Bờ tả ngạn, có chung hình thái với Phong Nam, là sự nối dài từ bên TQ. Nhiều bằng chứng đá vôi, được chuốc thành đỉnh nhọn, cao thấp đủ cỡ, rải rác khắp nơi trong thung lũng. 

….

Vùng này con sông Qui Xuân chảy qua gần ở Chi-Choi ( ?). Sông này sau khi ra khỏi vùng đá vôi Phong Nam, mở rộng phía hạ lưu thung lũng. Tại đây dân bản xứ lấy nước bằng hệ thống tưới bằng ống tre. Con sông này mở một con đường ngoằn ngoèo ở vùng phía Ðông phủ Trùng-Khánh, chảy xuống hết ghềnh thác nầy qua ghềnh thác khác để đến biên giới đông bắc, kế cận Bản Giốc, trước khi chảy qua vùng đồi Bồng Sơn. Công sự Bản Giốc, hiện nay bỏ trống, cheo leo trên một núi đá cao khoảng 30 thước, nhìn xuống ghềnh thác của con sông và vùng đồng bằng đông đảo dân cư, với những tường cao bao quanh. Ðây là một trong những vùng đẹp nhất của Tonkin, nếu không vì xa xôi và vì khó khăn phương tiện lưu thông, nó rất xứng đáng để du khách đến thăm viếng với những hang động, những cây cầu hình chữ Z bắt lên những tảng đá để băng qua sông, và nhất là cái thác hùng vĩ, gọi là thác bậc thềm Tụ Tổng, được người Châu Âu biết nhiều qua tên Thác Bản Giốc ».
cau hinh chu Z

Hình trên : cầu chữ Z bắt qua sông Qui-Xuân, gần thác Bản-Giốc.


---
Những entry liên quan đã đi trên blog này:


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Phải nói cực kỳ nguy hiểm, đe dọa sự tồn vong của đất nước mới thực sự chính xác quý ngài ợ!

Tham nhũng ở Việt Nam không phải… “rất nghiêm trọng”!?


Bùi Hoàng Tám
(Dân Trí) - Với tư cách cử tri, mình cực lực phản đối đánh giá của Tổ chức Minh bạch thế giới về tham nhũng tại Việt Nam. Đây là kết luận không khách quan, thiếu trung thực, mang tính phiến diện, chưa nói đúng, nói đủ, nói rõ thực trạng tham nhũng ở nước ta…

Trong Báo cáo về công tác phòng chống tham nhũng năm 2014 gửi Quốc hội, Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh cho biết, phong vũ biểu tham nhũng toàn cầu của Tổ chức minh bạch thế giới vẫn đánh giá Việt Nam có mức độ tham nhũng trong khu vực công rất nghiêm trọng.

Với tư cách cử tri, mình cực lực phản đối đánh giá này. Đây là kết luận không khách quan, thiếu trung thực, mang tính phiến diện, chưa nói đúng, nói đủ, nói rõ thực trạng tham nhũng ở nước ta.

Lý do là cũng theo bản báo cáo trên cho biết, từ đầu năm đến nay đã có gần 8.000 cuộc thanh tra hành chính và 190.000 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành. Qua thanh tra đã phát hiện gần 32.000 tỷ đồng vi phạm, kiến nghị thu hồi ngân sách nhà nước 27.000 tỷ đồng, xuất toán, loại khỏi giá trị quyết toán 4.800 tỷ đồng… Thanh tra các cấp, ngành cũng kiến nghị xử lý trách nhiệm đối với khoảng 1.700 tập thể, gần 3.000 cá nhân…

Về phía công an, báo cáo cho biết, lực lượng cảnh sát điều tra các cấp đã thụ lý 415 vụ án với 1.031 bị can phạm tội về tham nhũng. Số thiệt hại được xác định trên 6.700 tỷ đồng, đã thu hồi nộp ngân sách nhà nước trên 1.500 tỷ đồng (đạt 22,3%, tăng 14,1% so với năm 2013). ..

Qua đây cho thấy có một sự nỗ lực rất lớn trong công tác thanh, kiểm tra, song thẳng thắn mà nói công cuộc phòng chống tham nhũng thực tế vẫn chưa đạt kết quả như trong bản báo cáo: “… nhận định về tình hình tham nhũng vẫn còn nguyên những nặng nề, lo lắng chưa chuyển biến”.

Mới đây, tại buổi tiếp xúc cử tri TP HCM (14/10), đánh giá về công tác phòng chống tham nhũng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cũng nói thẳng: “Yêu cầu đặt ra là phải ‘ngăn chặn và từng bước đẩy lùi’, câu đó chưa dám trả lời, thật sự tới giờ là chưa dám trả lời. Là vì nó chưa được ngăn chặn và đẩy lùi từng bước cho nên chưa đạt yêu cầu”. Chủ tịch còn chia sẻ: “Chống tham nhũng chưa đạt, dân bức xúc là đúng”.

Trở lại với báo cáo của Tổng Thanh tra Huỳnh Phong Tranh, nhìn vào những con số trên còn cho thấy sự… phát hoảng.

Phát hoảng bởi chỉ tính từ đầu năm đến nay (ngày 20/10) có đến những 198.000 cuộc thanh tra, kiểm tra hành chính và chuyên ngành. Tức là quãng 20.000 cuộc thanh, kiểm tra mỗi tháng và cũng tức là mỗi ngày có khoảng… 700 cuộc thanh, kiểm tra tính cả thứ bảy, chủ nhật và ngày nghỉ.

Sao thanh, kiểm tra lắm thế nhỉ? Chắc tham nhũng phải “đông như quân nguyên” và “nhiều như lá rừng” thì mới cần lắm thanh tra, kiểm tra đến thế chứ?

Rồi con số phát hiện 32.000 tỉ đồng vi phạm, theo dư luận thì phát hiện xưa nay thường chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm” nhưng cứ tính theo con số này đã thấy… ghê răng rồi. Bởi 32 ngàn tỉ đồng/10 tháng tức là mỗi tháng 3.000 tỉ và mỗi ngày là… 100 tỉ đồng vi phạm!

Từ vài con số trên, mình khẳng định đánh giá của Tổ chức minh bạch thế giới tham nhũng ở Việt Nam là chưa khách quan, thiếu trung thực, mang tính phiến diện, chưa nói đúng, nói đủ, nói rõ thực trạng tham nhũng ở nước ta bởi theo mình, tham nhũng ở Việt Nam đang… rất, rất và rất nghiêm trọng chứ không chỉ “rất nghiêm trọng” như họ biết!?. 


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Ba, 21 tháng 10, 2014

Gửi muôn nơi hay nói hộ cho ai một nõi lòng? Một bài thơ hay của nhạc sĩ Minh Thu:


GỬI MUÔN NƠI
Thôi
bàn tay ta thấy mỏi rồi 
Cầm ca một kiếp ....
đến thế thôi
Dư hương 
mặn lạt 
men lối nhỏ
Còn đọng lại chi 
cuối cuộc đời?
Này thơ
này nhạc 
này tiếng cười
Này chung trà, rượu
khói thuốc lơi
Này hương thắm sắc
lời bằng hữu
Tình ngãi nợ nhau 
như biển khơi...
Gói lại vầng dương 
..sau tường vôi
Cộng trừ mê mải cho ngày vãn
Ngoảnh lại sau lưng..
sự đã rồi
Gía như !...
ngàn vạn lời đen bạc
Hóa hết thành hoa 
cho thảnh thơi
Thôi bàn chân trần đã mỏi rồi
" Tầu hỏa nhập ma " 
thành ma vui..
Đếm nốt thời gian ...
vờn khói thuốc
Thả méo, tròn bay ...
gửi muôn nơi...

Phần nhận xét hiển thị trên trang